Professional Documents
Culture Documents
II. Nước ta đang trong thời kỳ thúc đẩy mạnh mẽ quá trình CNH, nhiều địa phương –
trong đó có BR-VT những năm qua đã đạt được những thành tựu to lớn trong phát triển kinh tế
với sự tăng trưởng cao và liên tục. Các chỉ số của tổng sản phẩm (GDP) trên địa bàn theo ngành
và cơ cấu kinh tế trong gần 10 năm qua (theo giá hiện hành - triệu đồng) như sau:
1
Nông nghiệp 745.154 23,48% 2.003.825 24,46%
Các chỉ số trên cho thấy gần 10 năm qua, trên địa bàn tỉnh BR-VT, cơ cấu kinh tế theo
ngành đã thể hiện rõ rệt mức độ CNH, trong đó tỷ trọng sản phẩm công nghiệp trong GDP tăng
từ 75,86% (năm 1997) lên 91,46% (năm 2005). Đặc biệt, tốc độ tăng trưởng cao của tất cả các
lĩnh vực trong tổng sản phẩm GDP của tỉnh, trong đó cao nhất là lĩnh vực công nghiệp đạt 6,25
lần, dịch vụ tăng 2 lần và nông nghiệp tăng 2,5 lần. Tuy nhiên, trong cơ cấu tổng sản phẩm do
địa phương quản lý ở khu vực nông nghiệp còn chiếm tỷ trọng lớn (23,48%) so với công nghiệp
(29,66%) vào năm 1997. Sau gần 10 năm phấn đấu, tỷ trọng này là 27,46% so với 34,72% (chưa
có thay đổi lớn) còn tỷ trọng dịch vụ lại có phần giảm khi năm 2005 chỉ số lĩnh vực này đạt được
chỉ là 40,8% so với 46,86% năm 1997.
Giá trị tăng trưởng và tỷ trọng (GDP) của khu vực công nghiệp tăng nhanh trên địa bàn
tỉnh trong thời gian qua chủ yếu thuộc thành phần công nghiệp quốc doanh của Trung ương và
đơn vị có vốn đầu tư nước ngoài. Nổi bật là các lĩnh vực khai thác dầu mỏ, khí đốt, sản xuất và
phân phối điện cũng như các đơn vị có vốn đầu tư nước ngoài thuộc các khu công nghiệp. Trong
đó thể hiện rõ vai trò của công nghiệ thiết bị tiên tiến, mức độ tự động hoá cao trong các dự án
đầu tư. Đối với địa phương, trong khoảng 10 năm qua, dù cơ cấu kinh tế có thay đổi mức độ,
tăng trưởng trong các lĩnh vực đều khá nhưng tăng chậm và sự dịch chuyển của cơ cấu kinh tế
chưa rõ rệt. Qua khảo sát ở một số ngành: nông nghiệp, chế biến thuỹ sản, cơ khí, da dày, vật
liệu xây dựng… Đánh giá một cách tổng thể là: Sự phát triển của các lĩnh vực này chưa gắn với
qui hoạch, còn mang tính tự phát cao. Trình độ công nghệ nói chung còn thấp. Điều này được
thể hiện ở 4 yếu tố: Con người, thiết bị, quản lý và thông tin. Ngoài ra, yếu tố thị trường cũng là
một hạn chế đối với các doanh nghiệp địa phương. Ở các xí nghiệp địa phương, trình độ của đội
ngũ lao động rất thấp, vấn đề chuyên môn, nghiệp vụ, nâng cao tay nghề chưa được coi trọng,
chế độ đãi ngộ chưa thoả đáng, không có chính sách thu hút lao động có tay nghề cao, chuyên
gia kinh tế, kỹ thuật và công nhân bậc cao về làm việc. Các doanh nghiệp dường như chưa biết
tận dụng lợi thế so sánh của địa phương để thu hút và khai thác nhân lực tạo ra sản phẩm có giá
trị cao. Trình độ quản lý và tổ chức sản xuất tại nhiều doanh nghiệp hạn chế, cung cách quản lý
nhỏ lẻ, chưa bắt kịp xu thế thời đại. đã có một số doanh nghiệp áp dụng hệ thống quản lý chất
lượng hiện đại (ISO - HACCP) nhưng khá nhiều doanh nghiệp còn làm theo phong trào, hình
thức.
Về công nghệ: Phần lớn công nghệ, thiết bị đang có ở các xí nghiệp địa phương còn lạc
hậu so với các nước phát triển, chỉ đạt mức trung bình so với khu vực và trong nước. Chưa có
doanh nghiệp nào mạnh dạn đầu tư công nghệ và thiết bị tiên tiến để tạo ra sản phẩm cạnh tranh
cao, bứt phá. Đặc biệt lĩnh vực cơ khí ở BR-VT trang thiết bị rất lạc hậu so với trình độ chung của
thế giới hiện nay. Về mặt thị trường, nói chung chưa xây dựng được thị trường ổn định cho sản
phẩm - chưa có kế hoạch và chiến lược cho sản phẩm chủ lực của từng đơn vị và của địa
phương.
Những nhận định trên đây đi đến kết luận là chúng ta phải phấn đầu rất nhiều để thay đổi
và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đặc biệt là khu vực do địa phương quản lý, theo hướng giảm khu
vực nông nghiệp, tăng mạnh khu vực dịch vụ và công nghiệp. Trong đó, đổi mới công nghệ phải
đóng vai trò chủ yếu trong sự dịch chuyển này.
Thực tế những năm gần đây, BR-VT đã có nhiều cố gằng trong đổi mới công nghệ để
tạo ra sự chuyển dịch của cơ cấu kinh tế. Tuy nhiên mức độ dịch chuyển còn chậm, công nghệ
được áo dụng ít, trình độ không cao, năng lực cạnh tranh cảu các doanh nghiệp còn thấy (chỉ số
này của Việt Nam bị tụt từ vị trí 50/102 năm 2003 xuống 80/116 năm 2005), trong khi đó Thái Lan
là 37 và Malaysia là 23, Indonesia là 59.
Nguyên nhân cơ bản tụt hạng của Việt Nam là do chỉ số ứng dụng công nghệ của Việt
Nam còn quá thấp. So sánh Việt Nam với 2 nước cạnh ta là Trung Quốc và Thái Lan ta đã thấy
có khoảng cách khá xa. Trong khi Việt Nam xếp thứ 92/104 nước thì Thái lan đứng thứ 43 và
Trung Quốc là hạng 62. Về đổi mới công nghệ và chuyển giao công nghệ nếu so với Thái Lan ta
thấy” Việt Nam là 79/104 nước thì Thái lan là 37. Từ các chỉ số so sánh trong phạm vi quốc gia
dễ dàng cho ta thấy nguyên nhân hạn chế tốc độ tăng trưởng và năng lực cạnh tranhcủa các
doanh nghiệp địa phương ở BR-VT. Hạn chế và yếu kém này xuất phát từ năng lực nội sinh và
điểm xuất phát thấp với 4 yếu tố cơ bản của công nghệ gồm: Nguồn nhân lực, trình độ quản lý,
thiết bị và thông tin công nghệ.
Để giải quyết những khó khăn trên đường nhằm mục tiêu tăng tốc trong phát triển kinh tế
- xã hội để BR-VT sớm hoàn thành giai đoạn CNH về cơ bãn vào năm 2010. Để làm được điều
2
này, chúng ta cần phải có hệ thống khảo sát nghiên cứu cụ thể và sâu sằc hơn và cần có sự
đóng góp, giúp đỡ của các chuyên gia kinh tế, KHCN và các nhà lãnh đạo.
Trong bài viết này, chúng tôi chỉ đề cập đến 2 vấn đề khá cơ bản là:
- Nâng cao năng lực nội sinh và đầy mạnh chuyển giao công nghệ:
Nâng cao năng lực nội sinh về công nghệ tức là chúng ta đã nâng cao năng lực để có khả năng
lực chọn công nghệ, tiếp nhận và sử dụng một cách hiệu quả trong sản xuất, dịch vụ, thích nghi
hoá công nghệ nhập sao cho phù hợp với điều kiện địa phương. Đểm đến có thể sáng tạo ra
công nghệ riêng của mình trên cơ sở nghiên cứu cơ bãn. Mỗi doanh nghiệp phải xây dựng lộ
trình đổi mới công nghệ, thiết bị tạo ra snả phẩm mới có tính cạnh tranh cao, cần chú ý đến lợi
ích lâu dài. Hạn chế của các doanh nghiệp vừa và nhỏ dẫn đến chậm đổi mới công nghệ là thiếu
thông tin về công nghệ, thiếu kiến thức, kinh nghiệm trong tìm kiếm, lựa chọn và mua bán công
nghệ phù hợp với sản xuất, kinh doanh để nâng cao năng lực cạnh tranh của mình. Vì vậy điểm
đầu tiên trong mỗi doanh nghiệp là nâng cao năng lực nội sinh và đầu tư tài chính cho đổi mới
công nghệ khoảng 15% doanh thu (các nước trên thế giới con số này là 30%).
- Về chuyển giao công nghệ: Để đổi mới công nghệ cần phải sáng tạo ra công nghệ hoặc
chuểyn giao công nghệ. Trong thời kỳ đầu cảu CNH, chuyển giao công nghệ được ưu tiên để
sớm có bước phát triển nhanh và tạo ra sản phẩm hàng hoá có khả năng cạnh tranh cao. Tuy
nhiên, chuyển giao công nghệ múôn có hiệu quả phải gắn liền với năng lực công nghệ của mỗi
doanh nghiệp, địa phương hay quốc gia có được vì thế việc đầu tư để nâng cao năng lực công
nghệ của địa phương và của mỗi doanh nghiệp sẽ là vấn đề sống còn trong quá trình phát triển
của chúng ta. Từ đó mới có khả năng tìm kiếm, tiếp nhận công nghệ và sáng tạo ra công nghệ
mới đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá.
TRƯƠNG THÀNH CÔNG