Professional Documents
Culture Documents
II.Đồng vị:
Có 7 đồng vị ổn định của thủy ngân với Hg202 là phổ biến nhất (29,86%). Các
đồng vị phóng xạ bền nhất là Hg194 với chu kỳ bán rã 444 năm, và Hg203 với chu kỳ
bán rã 46,612 ngày. Phần lớn các đồng vị phóng xạ còn lại có chu kỳ bán rã nhỏ hơn
1 ngày.
• Clorua thủy ngân (I): calomen và đôi khi vẫn được sử dụng trong y học.
• Clorua thủy ngân (II): là một chất có tính ăn mòn mạnh, thăng hoa và là chất
độc cực mạnh.
• Fulminat thủy ngân: ngòi nổ sử dụng rộng rãi trong thuốc nổ.
• Sulfua thủy ngân (II): màu đỏ thần sa là chất màu chất lượng cao.
• Selenua thủy ngân (II): chất bán dẫn.
• Telurua thủy ngân (II): chất bán dẫn.
• Telurua cadmi thủy ngân: là những vật liệu dùng làm đầu dò tia hồng ngoại.
Các hợp chất hữu cơ của thủy ngân cũng là quan trọng. Các thí
nghiệm trong phòng thí nghiệm cho thấy sự phóng điện làm cho
các khí trơ kết hợp với hơi thủy ngân. Các hợp chất này được tạo
ra bởi các lực van der Waals và kết quả là các hợp chất như
HgNe, HgAr, HgKr và HgXe. Methyl thủy ngân là hợp chất rất
độc, là chất gây ô nhiễm thủy sinh vật.
. Sự tạo phức:
-Phức Kali tetraiođomecurat K2[HgI4] tan trong nước, có màu vàng nhạt.
HgI2 + 2KI = K2[HgI4]
-Phức Amoni tetratioxianotomecurat (NH4)2[Hg(SCN)4]
Hg(SCN)2 + 2NH4SCN = (NH4)2[Hg(SCN)4]
Được dùng để phát hiện còn Cu2+ và ion Co2+ khi có mặt Zn2+.
ỨNG DỤNG:
Thủy ngân được sử dụng chủ yếu trong sản xuất các hóa chất,trong kỹ thuật
điện và điện tử:
* Điểm ba trạng thái của thủy ngân, -38,8344 °C, là điểm cố định được sử dụng
như nhiệt độ tiêu chuẩn cho thang đo nhiệt độ quốc tế (ITS-90).
• Hơi thủy ngân được sử dụng trong đèn hơi thủy ngân và một số đèn kiểu "đèn
huỳnh quang" cho các mục đích quảng cáo. Màu sắc của các loại đèn này phụ
thuộc vào khí nạp vào bóng.
• Thủy ngân được sử dụng tách vàng và bạc trong các quặng sa khoáng.
• Thủy ngân vẫn còn được sử dụng trong một số nền văn
hóa cho các mục đích y học dân tộc và nghi lễ. Ngày
xưa, để chữa bệnh tắc ruột, người ta cho bệnh nhân uống
thủy ngân lỏng (100-200 g). Ở trạng thái kim loại không
phân tán, thủy ngân không độc và có tỷ trọng lớn nên sẽ
chảy trong hệ thống tiêu hóa và giúp thông ruột cho
bệnh nhân.
* Trong y tế:
Thủy ngân đã được sử dụng để chữa bệnh trong hàng thế kỷ. Clorua thủy
ngân (I) và clorua thủy ngân (II) là những hợp chất phổ biến nhất. Thủy ngân được
đưa vào điều trị giang mai sớm nhất vào thế kỷ 16, trước khi có các chất kháng sinh.
"Blue mass", viên thuốc nhỏ chứa thủy ngân, đã được kê đơn trong suốt thế kỷ 19
đối với hàng loạt các triệu chứng bệnh như táo bón, trầm cảm, sinh đẻ và đau răng.
Trong đầu thế kỷ 20, thủy ngân được cấp phát cho trẻ em hàng năm như là thuốc
nhuận tràng và tẩy giun. Nó là bột ngậm cho trẻ em và một số vacxin có chứa chất
bảo quản Thimerosal (một phần là etyl thủy ngân) kể từ những năm 1930. Clorua
thủy ngân (II) là chất tẩy trùng đối với các bác sĩ, bệnh nhân và thiết bị.
Thuốc và các thiết bị chứa thủy ngân tiềm ẩn nhiều nguy hiểm, mặc dù chúng
đã được sử dụng rộng rãi trong quá khứ. Nhiệt kế và huyết áp kế chứa thủy ngân đã
được phát minh trong thế kỷ 18 và 19, trong đầu thế kỷ 21, việc sử dụng chúng đã
giảm và bị cấm ở một số quốc gia, khu vực và trường đại học. Năm 2002, Thượng
viện Mỹ đã thông qua sắc luật cấm bán nhiệt kế thủy ngân không theo đơn thuốc.
Chuyển mạch điện bằng thủy ngân, điện phân với Catot thủy ngân để sản xuất
NaOH và clo, các điện cực trong một số dạng thiết bị điện tử, pin và chất xúc tác,
thuốc diệt cỏ, thuốc trừ sâu, hỗn hống nha khoa, pha chế thuốc và kính thiên văn
gương lỏng.
Tỷ lệ lắng đọng của thủy ngân trước thời kỳ công nghiệp từ khí quyển có thể
nằm trong khoảng 4 ng/L ở miền tây nước Mỹ. Mặc dù có thể coi nó như là mức
phơi nhiễm tự nhiên, nhưng nó có ảnh hưởng đáng kể. Sự phun trào núi lửa có thể
tăng nồng độ trong khí quyển từ 4–6 lần.
Thủy ngân đi vào môi trường như một chất gây ô nhiễm từ các ngành công
nghiệp khác nhau.
Thủy ngân cũng đi vào môi trường theo đường xử lý một số sản phẩm nào đó.
Các sản phẩm có chứa thủy ngân bao gồm: các bộ phận của ô tô, pin, đèn huỳnh
quang, các sản phẩm y tế, nhiệt kế và máy điều nhiệt.
Các hiệu ứng đối với sinh vật & môi trường:
Thủy ngân nguyên tố lỏng là ít độc, nhưng hơi, các hợp chất và muối của nó
là rất độc và là nguyên nhân gây ra các tổn thương não và gan khi con người tiếp
xúc, hít thở hay ăn phải. Nguy hiểm chính liên quan đến thủy ngân nguyên tố là ở
STP, thủy ngân có xu hướng bị ôxi hóa tạo ra Ôxít thủy ngân - khi bị rớt xuống hay
bị làm nhiễu loạn, thủy ngân sẽ tạo thành các hạt rất nhỏ, làm tăng diện tích tiếp xúc
bề mặt một cách khủng khiếp.
Thủy ngân là chất độc tích lũy sinh học rất dễ dàng hấp thụ qua da, các cơ
quan hô hấp và tiêu hóa. Các hợp chất vô cơ ít độc hơn so với hợp chất hữu cơ của
thủy ngân. Cho dù ít độc hơn so với các hợp chất của nó nhưng thủy ngân vẫn tạo ra
sự ô nhiễm đáng kể đối với môi trường vì nó tạo ra các hợp chất hữu cơ trong các cơ
thể sinh vật.
Một trong những hợp chất độc nhất của nó là đimêtyl thủy ngân, là độc đến
đến mức chỉ vài micrôlít rơi vào da có thể gây tử vong. Một trong những mục tiêu
chính của các chất độc này là enzym PDH.
Chứng bệnh Minamata là một dạng ngộ độc thủy ngân. Thủy ngân tấn công
hệ thần kinh trung ương và hệ nội tiết và ảnh hưởng tới miệng, các cơ quai hàm và
răng. Sự phơi nhiễm kéo dài gây ra các tổn thương não và gây tử vong. Nó có thể
gây ra các rủi ro hay khuyết tật đối với các thai nhi.
Các nguồn nước tích lũy thủy ngân thông qua quá trình xói mòn của các
khoáng chất hay trầm tích từ khí quyển. Thực vật hấp thụ thủy ngân khi ẩm ướt
nhưng có thể thải ra trong không khí khô. Thực vật và các trầm tích trong than có
các nồng độ thủy ngân dao động mạnh.
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
KHOA Y – DƯỢC
Tháng 6/2010