You are on page 1of 84

Bé KÕ ho¹ch vμ §Çu t−

Trung t©m th«ng tin vμ dù b¸o kinh tÕ – x· héi quèc gia


⎯⎯⎯⎯⎯⎯⎯⎯⎯⎯

Dù B¸O TRIÓN VäNG KINH TÕ


VÜ M¤ VIÖT NAM N¡M 2010

Hµ Néi - Th¸ng 01/2010


2 Dù b¸o triÓn väng kinh tÕ vÜ m« ViÖt Nam n¨m 2010
Dù b¸o triÓn väng kinh tÕ vÜ m« ViÖt Nam n¨m 2010 3

MôC LôC

Trang
• Danh mục bảng biểu và đồ thị .............................................5
• Danh mục từ viết tắt..............................................................7
• Lời nói đầu .............................................................................9

Phaàn I
Mét sè vÊn ®Ò chñ yÕu
cña kinh tÕ ViÖt Nam n¨m 2009
1. Suy giảm kinh tế được chặn đứng và dần hồi phục...........11
1.1. Hồi phục tăng trưởng GDP từ phía cầu.................... 12
1.2. Hồi phục tăng trưởng GDP từ phía cung.................. 17
1.3. Động lực chính hồi phục tăng trưởng GDP
năm 2009 .................................................................. 24
2. Tốc độ sụt giảm vốn đầu tư đã chậm lại........................... 26
2.1. Tỷ lệ vốn đầu tư trên GDP ....................................... 26
2.2. Tỷ lệ giải ngân ODA và FDI .................................... 28
2.3. Vốn gián tiếp ............................................................ 31
3. Xuất khẩu và nhập khẩu đều suy giảm, thâm hụt
thương mại tăng dần ......................................................... 31
3.1. Giá thế giới của các mặt hàng xuất nhập khâu
và nguyên liệu đầu vào quan trọng của nền
kinh tế giảm .............................................................. 32
3.2. Xuất nhập khẩu giảm sút .......................................... 33
3.3. Thị trường xuất nhập khẩu chủ yếu năm 2009......... 35
4 Dù b¸o triÓn väng kinh tÕ vÜ m« ViÖt Nam n¨m 2010

4. Lạm phát đã được kiểm soát ở mức phù hợp ................... 37


5. Thị trường chứng khoán có nhiều khởi sắc, thị
trường bất động sản đang dần hồi phục............................ 39
5.1. Thị trường chứng khoán có nhiều khởi sắc .............. 39
5.2. Thị trường bất động sản đang hồi phục.................... 41
6. Chính sách tài chính - tiền tệ ............................................ 41
7. Vấn đề lao động việc làm đã bớt căng thẳng, doanh
nghiệp triển khai hoạt động đầu tư và đẩy mạnh sản
xuất.................................................................................... 47
8. Tổng mức bán lẻ và tiêu dùng dân cư tăng khá................ 49
9. Mức độ hoàn thành các chỉ tiêu kế hoạch năm 2009 ....... 50

Phaàn II
Dù b¸o triÓn väng
kinh tÕ ViÖt Nam n¨m 2010
1. Tác động của phục hồi kinh tế thế giới đến Việt Nam........ 52
1.1. Dự báo khả năng phục hồi kinh tế Mỹ và một
số đối tác kinh tế chính của Việt Nam...................... 53
1.2. Dự báo khả năng hồi phục của luồng vốn FDI
toàn cầu..................................................................... 58
1.3. Dự báo khả năng hồi phục cầu thế giới .................... 60
2. Dự báo triển vọng kinh tế Việt Nam năm 2010 ............... 62
2.1. Tăng trưởng kinh tế và các cân đối vĩ mô ................ 62
2.2. Các kịch bản dự báo ................................................. 71

y Kết luật............................................................................. 79
y Tài liệu tham khảo .......................................................... 82
Dù b¸o triÓn väng kinh tÕ vÜ m« ViÖt Nam n¨m 2010 5

DANH MỤC BẢNG BIỂU VÀ ĐỒ THỊ


Danh mục bảng biểu:

Bảng 1: Vốn đầu tư các năm 2006-2009.............................. 15


Bảng 2: Tốc độ tăng trưởng GDP theo khu vực kinh tế......... 18
Bảng 3: Tốc độ tăng trưởng giá trị tăng thêm ngành
dịch vụ .................................................................... 23
Bảng 4: Đóng góp vào tăng trưởng GDP của các yếu
tố phía cầu............................................................... 24
Bảng 5: Cơ cấu GDP theo phía cầu (giá hiện hành, %) ......... 26
Bảng 6: Vốn ODA đăng ký và giải ngân ............................. 30
Bảng 7: Diễn biến giá một số mặt hàng xuất khẩu chủ
lực năm 2009 .......................................................... 32
Bảng 8: Các mặt hàng xuất khẩu chủ lực năm 2009............ 33
Bảng 9: Diễn biến xuất khẩu, nhập khẩu, nhập siêu
năm 2009 ................................................................ 34
Bảng 10: Xuất nhập khẩu năm 2009 tại một số thị
trường chính............................................................ 36
Bảng 11: Tốc độ tăng chỉ số giá tiêu dùng CPI so với
tháng12 năm trước (%)........................................... 38
Bảng 12: Mức độ hoàn thành các chỉ tiêu kế hoạch
năm 2009 ................................................................ 51
Bảng 13: Dự báo tăng trưởng kinh tế 2009 và 2010 của IMF ....... 53
Bảng 14: Luồng vốn FDI toàn cầu......................................... 59
Bảng 15: Dự báo tăng trưởng thương mại thế giới................ 60
Bảng 16: Tốc độ tăng trưởng GDP, các thành phần của
tổng cầu và chỉ số giá tiêu dùng CPI giai
đoạn 1995-2009, %................................................. 63
6 Dù b¸o triÓn väng kinh tÕ vÜ m« ViÖt Nam n¨m 2010

Bảng 17: So sánh mức độ chênh lệch giữa tỉ lệ tiết


kiệm và đầu tư trên GDP giữa Việt Nam và
một số nước, % ....................................................... 67
Bảng 18: Cán cân vãng lai và cán cân thanh toán giai
đoạn 2005-2008 ...................................................... 68
Bảng 19: Các kịch bản tăng trưởng kinh tế năm 2010........... 77

Danh mục đồ thị:

Đồ thị 1: Tốc độ tăng trưởng GDP ...................................... 12


Đồ thị 2: Tốc độ tăng trưởng tổng mức bán lẻ hàng hoá ....... 13
Đồ thị 3: Tỷ lệ nhập siêu trên kim ngạch xuất khẩu............ 16
Đồ thị 4: Tốc độ tăng trưởng GTSXCN (so với cùng
kỳ năm trước) ....................................................... 21
Đồ thị 5: Vốn đầu tư toàn xã hội ......................................... 27
Đồ thị 6: Vốn FDI đăng ký và thực hiện ............................. 29
Đồ thị 7: Chỉ số giá tiêu dùng theo quý, giai đoạn
2005-2009............................................................. 39
Đồ thị 8: Tốc độ tăng trưởng tổng mức bán lẻ hàng
hoá và dịch vụ năm 2009...................................... 50
Đồ thị 9: Quan hệ giữa tăng trưởng cung tiền, tín
dụng và lạm phát, % ............................................. 65
Đồ thị 10: Tỉ lệ tiết kiệm và tích lũy vốn trên GDP
theo giá hiện hành và tốc độ tăng trưởng
GDP ...................................................................... 68
Đồ thị 11: Quan hệ giữa tăng trưởng sản xuất công
nghiệp với nhu cầu nhập khẩu.............................. 69
Dù b¸o triÓn väng kinh tÕ vÜ m« ViÖt Nam n¨m 2010 7

DANH MỤC TỪ VIỆT TẮT


AFTA Khu vực tự do thương mại ASEAN
ADB Ngân hàng Phát triển Châu Á
APEC Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương
ASEAN Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
CPI Chỉ số giá tiêu dùng
EU Liên minh Châu Âu
EVN Tổng Công ty Điện lực Việt Nam
FDI Đầu tư trực tiếp nước ngoài
FPI Đầu tư gián tiếp nước ngoài
FED Cục Dự trữ Liên bang Mỹ
GDP Tổng sản phẩm quốc nội
IMF Quỹ Tiền tệ Quốc tế
ICOR Hệ số gia tăng vốn đầu tư toàn xã hội
KT-XH Kinh tế - xã hội
KB Kịch bản
ODA Viện trợ phát triển chính thức
TH Thực hiện
TCTK Tổng cục Thống kê
VĐT Vốn đầu tư
WB Ngân hàng Thế giới
WTO Tổ chức Thương mại Thế giới
8 Dù b¸o triÓn väng kinh tÕ vÜ m« ViÖt Nam n¨m 2010
Dù b¸o triÓn väng kinh tÕ vÜ m« ViÖt Nam n¨m 2010 9

LỜI NÓI ĐẦU

N ước ta bước vào thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã


hội năm 2009 trong điều kiện rất khó khăn. Cuộc khủng
hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu diễn biến phức
tạp và tác động mạnh đến nền kinh tế trong nước. Các dòng
vốn đầu tư nước ngoài và kim ngạch xuất khẩu bị sụt giảm
nghiêm trọng. Hàng hoá tồn đọng, sản xuất trong nước gặp
nhiều khó khăn ở tiêu thụ đầu ra, lao động việc làm ngày càng
trở thành vấn đề gây áp lực lớn cho xã hội, …
Trước tình hình đó Chính phủ đã kịp thời triển khai thực
hiện các chính sách kích thích nền kinh tế nhằm ngăn chặn suy
giảm kinh tế, duy trì tăng trưởng hợp lý, ổn định kinh tế vĩ mô
và đảm bảo an sinh xã hội, …
Từ giữa năm 2009 suy thoái kinh tế thế giới đã chững lại và
ở nước ta nền kinh tế đã có dấu hiệu phục hồi. Tốc độ tăng
trưởng kinh tế cao dần theo các quý; tăng trưởng giá trị sản
xuất công nghiệp tuy còn thấp những đang trong xu thế tăng
cao hơn trong các tháng cuối năm; tăng trưởng ngành xây
dựng, tổng mức bán lẻ hàng hoá và tiêu dùng nội địa tăng
khá,... Xét về tổng thể nền kinh tế nước ta đang từng bước
chuyển biến theo chiều hướng tích cực mặc dù cũng còn rất
nhiều khó khăn.
Do nguyên nhân gây ra cuộc khủng hoảng tài chính và suy
thoái kinh tế toàn cầu không thể được khắc phục trong thời
gian ngắn, thương mại toàn cầu còn bị thu hẹp, vấn đề lao
động việc làm còn trầm trọng ở nhiều nước, việc tiếp cận các
nguồn vốn đầu tư còn nhiều khó khăn, ... nên kinh tế thế giới
chưa thể hồi phục được như thời kỳ trước khủng hoảng.
Tình hình đó kết hợp với những tác động của suy giảm kinh
tế nước ta năm 2009 và những yếu kém nội tại của nền kinh tế
10 Dù b¸o triÓn väng kinh tÕ vÜ m« ViÖt Nam n¨m 2010

chưa được khắc phục sẽ tiếp tục gây ảnh hưởng không thuận
cho phát triển kinh tế - xã hội nước ta năm 2010.
Chuyên đề “Dự báo triển vọng kinh tế Việt Nam năm
2010” đã được tổ chức nghiên cứu nhằm góp phần đánh giá
sâu hơn tình hình kinh tế, cung cấp tư liệu tham khảo trong
quá trình xem xét, điều hành nền kinh tế 2010 của Chính phủ.
Chuyên đề gồm 2 phần:
Phần I: Tình hình kinh tế Việt Nam năm 2009 sẽ đánh giá
và phân tích một cách khái quát một số vấn đề nổi bật của kinh
tế nước ta năm 2009. Phần này sẽ phân tích một số thành tựu
cũng như một số dấu hiệu chủ yếu thể hiện sự phục hồi của
nền kinh tế nước ta, đồng thời phân tích một số giải pháp quan
trọng đưa nước ta sớm thoát ra khỏi suy giảm kinh tế của
Chính phủ. Việc phân tích rút ra những động lực chính của
tăng trưởng kinh tế nước ta năm 2009 cho thấy chúng vẫn sẽ là
động lực chính cho tăng trưởng kinh tế nước ta năm 2010.
Phần II của Chuyên đề tập trung nghiên cứu dự báo triển
vọng kinh tế Việt Nam năm 2010. Phần này đề xuất hai kịch
bản dự báo được xây dựng dựa trên hai giả định quan trọng
là: (i) Khả năng phục hồi của kinh tế thế giới và (ii) Mức độ
huy động vốn đầu tư phát triển của nền kinh tế. Các kịch bản
được thiết kế dựa trên hai giả định như vậy là do xuất khẩu và
vốn đầu tư từ nhiều năm nay luôn là các động lực chủ yếu của
tăng trưởng kinh tế Việt Nam.
Xin tr©n träng giíi thiÖu.

Trung t©m Th«ng tin vμ dù b¸o


Kinh tÕ - x· héi Quèc gia
Dù b¸o triÓn väng kinh tÕ vÜ m« ViÖt Nam n¨m 2010 11

Phaàn I
Mét sè vÊn ®Ò chñ yÕu
cña kinh tÕ ViÖt Nam n¨m 2009

Cũng như nhiều quốc gia khác trên thế giới, năm 2009 là
năm nền kinh tế Việt Nam chịu nhiều tác động tiêu cực của
cuộc khủng hoảng tài chính và kinh tế toàn cầu, là năm nền
kinh tế diễn biến phức tạp và Chính phủ đã phải thực hiện
nhiều chính sách kinh tế, tiền tệ nhằm chống suy giảm kinh tế,
đảm bảo an sinh xã hội, ổn định kinh tế vĩ mô, khôi phục đà
tăng trưởng, ...
Trong khuôn khổ chuyên đề này không thể đánh giá đầy đủ
và toàn diện diễn biến của kinh tế Việt Nam và giải pháp chính
sách của Chính phủ trong việc điều hành, chỉ đạo nền kinh tế
trong năm 2009. Phần này của chuyên đề chỉ tập trung đánh
giá một số vấn đề chủ yếu nhất của kinh tế Việt Nam trong
năm nhằm làm tiền đề cho việc dự báo triển vọng kinh tế Việt
Nam năm 2010.
Đánh giá một cách tổng quát, có thể nói nền kinh tế Việt
Nam năm 2009 nổi lên một số vấn đề chủ yếu như sau:
1. Suy giảm kinh tế được chặn đứng và dần hồi phục
Theo đà giảm sút của năm 2008, quý I/2009, tăng trưởng
GDP chỉ đạt 3,1%, thấp nhất trong nhiều năm. Quý I được coi
là đáy của cuộc khủng hoảng, từ quý II nền kinh tế Việt Nam
có dấu hiệu hồi phục, tốc độ tăng trưởng quý sau cao hơn quý
trước (quý II tăng 4,5%; quý III tăng 6,04% và quý IV tăng
6,9%). Đồ thị 1 cho thấy, khủng hoảng kinh tế bắt đầu ảnh
hưởng tới kinh tế Việt Nam từ quý II/2008 và đạt mức đáy vào
quý I/2009. Từ quý II/2009, nền kinh tế có dấu hiệu phục hồi.
Tốc độ tăng trưởng quý III và quý IV/2009 cao hơn cùng kỳ
12 Dù b¸o triÓn väng kinh tÕ vÜ m« ViÖt Nam n¨m 2010

năm 2008 chứng tỏ nền kinh tế Việt Nam đã thực sự bước vào
giai đoạn phục hồi. Tốc độ tăng trưởng GDP năm 2009 của
Việt Nam là 5,32%; cao hơn mức kế hoạch đề ra là 5%.
Đồ thị 1: Tốc độ tăng trưởng GDP
8
6.9
7.38
7
5.98
6 5.89 6.04

5 5.85
4.46
4

3 3.14

0
2008q1 2008q2 2008q3 2008q4 2009q1 2009q2 2009q3 2009q4

Nguồn: Tổng cục Thống kê


Dưới đây sẽ phân tích quá trình hồi phục kinh tế ở nước ta trong
năm 2009.
1.1. Hồi phục tăng trưởng GDP từ phía cầu
a. Về tiêu dùng chính phủ
Khủng hoảng kinh tế toàn cầu xuất hiện từ cuối năm 2007
và bùng nổ vào quý III/2008 đã ảnh hưởng trực tiếp tới kinh tế
Việt Nam. Tháng 12/2008, Chính phủ đã đưa ra một số giải
pháp cấp bách nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy trì tăng
trưởng, bảo đảm an sinh xã hội như miễn và hoãn nộp thuế
(đặc biệt là thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập doanh nghiệp)
đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa; trợ cấp cho người nghèo
nhân dịp tết nguyên đán. Tháng 2/2009, Chính phủ đưa ra gói
Dù b¸o triÓn väng kinh tÕ vÜ m« ViÖt Nam n¨m 2010 13

kích thích kinh tế, trong đó bao gồm gói hỗ trợ lãi suất vay
ngắn hạn 4% trị giá 1 tỷ USD cho doanh nghiệp. Tổng quy mô
gói kích thích kinh tế là 143 nghìn tỷ, tương đương 8 tỷ USD,
chiếm 8,5% GDP. Trong đó, kinh phí liên quan tới ngân sách
nhà nước là 72,1 nghìn tỷ, chiếm 4,3% GDP. Theo đó, chi
ngân sách nhà nước tăng 7,8% so với năm 2008, đạt trên 533
nghìn tỷ đồng.
b. Về tiêu dùng tư nhân
Tiêu dùng tư nhân luôn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng tiêu
dùng cuối cùng và đóng góp quan trọng vào tăng trưởng GDP.
Năm 2008, tiêu dùng tư nhân có tỷ lệ đóng góp tới 98,26%
trong tăng trưởng GDP. Tới năm 2009, tiêu dùng tư nhân vẫn
giữ vai trò quan trọng. Tiêu dùng tư nhân thể hiện qua tổng
mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng.
Đồ thị 2: Tốc độ tăng trưởng tổng mức bán lẻ hàng hoá
12 10.8 11
10.2 10.1
10 9.3
8.4 8.8 8.3
8 7.4
6.5
6

0
3 4 5 6 7 8 9 10 11 12
tháng tháng tháng tháng tháng tháng tháng tháng tháng tháng

Tăng trưởng TMBLHH (loại trừ giá)

Nguồn: Tổng cục Thống kê


14 Dù b¸o triÓn väng kinh tÕ vÜ m« ViÖt Nam n¨m 2010

Tổng mức bán lẻ hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng tăng trưởng
khá, 9 tháng đầu năm đạt trên 845.400 tỷ đồng, bằng 73,1%
GDP của ba quý, cao hơn so với tỷ lệ 70,1% của cùng kỳ năm
trước. Ước tính cả năm 2009, tổng mức bán lẻ hàng hoá và
dịch vụ tiêu dùng tăng 18,6%, tăng trưởng về lượng là 11%.
Đây là mức tăng khá cao nếu so sánh với tốc độ tăng 6,5% về
lượng của năm 2008.
Tốc độ tăng trưởng tổng mức bán lẻ hàng hoá và dịch vụ
tiêu dùng (đã loại trừ yếu tố giá) có xu hướng tăng cao qua các
tháng (xem Đồ thị 2). Ngoài ra, tốc độ tăng trưởng về lượng
của tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
cao gấp đôi tốc độ tăng trưởng GDP (tăng 11% so với tăng
trường GDP 5,32%). Cộng với hiện tượng tốc độ tăng trưởng
kinh tế tăng dần qua các quý cho thấy tốc độ tăng tổng mức
bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng là động lực
quan trọng của tăng trưởng kinh tế nước ta năm 2009.
c. Vốn đầu tư toàn xã hội:
Vốn đầu tư toàn xã hội năm 2009 (giá hiện hành) ước đạt
704,2 nghìn tỷ đồng, tăng 15,3% so với năm 2008, cao hơn
mức tăng 14,8% của năm 2008.
Tổng vốn đầu tư xã hội gồm 3 thành phần chính: vốn đầu tư
của nhà nước, vốn đầu tư của khu vực ngoài nhà nước, vốn đầu
tư nước ngoài.
- Vốn đầu tư của khu vực nhà nước: Với gói kích cầu 8 tỷ
USD và 61% vốn thực hiện thông qua ngân sách nhà nước, vốn
đầu tư của khu vực nhà nước năm 2009 ước tăng 40,5%, rất
cao so với mức giảm 11,9% của năm 2008.
- Vốn đầu tư của khu vực ngoài nhà nước: Được hưởng lợi
từ chính sách kích thích kinh tế của Chính phủ mà trực tiếp
nhất là chính sách hỗ trợ vay lãi suất ngân hàng 4% và giảm
thuế thu nhập doanh nghiệp; ngoài ra mặt bằng lãi suất năm
Dù b¸o triÓn väng kinh tÕ vÜ m« ViÖt Nam n¨m 2010 15

2009 không còn cao như năm 2008 làm cho vốn đầu tư của
khu vực ngoài nhà nước tăng. Cả năm 2009, vốn đầu tư ngoài
nhà nước tăng 13,9% so với cùng kỳ năm trước.
- Vốn đầu tư nước ngoài: vốn FDI 2009 sụt giảm 5,8% so
với mức tăng kỷ lục 48,7% trong năm 2008 do vốn đăng ký và
vốn thực hiện giảm mạnh.
Như vậy, mặc dù vốn đâu tư nước ngoài giảm nhưng do thực
hiện chính sách kích thích kinh tế nên vốn đầu tư của khu vực
nhà nước và vốn đầu tư ngoài nhà nước tăng mạnh khiến vốn đầu
tư phát triển toàn xã hội năm 2009 tăng khá cao so với năm 2008.
Bảng 1: Vốn đầu tư các năm 2006-2009
2006 2007 2008 2009
Tổng đầu tư 424.3 517.1 610.2 704.2
Đầu tư công 204.3 209.4 223.8 245
- Đầu tư từ ngân sách Nhà nước 100.2 107.3 98.8 153.8
- Trái phiếu Chính phủ 7.6 7 20 50
- Tín dụng đầu tư theo kế hoạch 34.9 35.1 40 50
- Đầu tư DNNN 61.6 60 65 60
Đầu tư khu vực tư nhân và
dân cư 154 168.3 180 278
Đầu tư nước ngoài 65.6 129.4 192.4 181.2
Đầu tư khác 0.4 10 14 17.0
Nguồn: Tổng cục Thống kê; Nguyễn Quang Thái, Mấy vấn đề
dự báo kinh tế xã hội năm 2010 và sau đó, 1/12/2009,
TP Hồ Chí Minh.
Tuy nhiên trong vốn đầu tư của khu vực nhà nước thì Trái
phiếu Chính phủ và tiếp sau nó là vốn đầu tư từ ngân sách nhà
16 Dù b¸o triÓn väng kinh tÕ vÜ m« ViÖt Nam n¨m 2010

nước có tỷ lệ tăng cao nhất (vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước
tăng 55,7%). Bản chất của hai nguồn vốn này là vay của tương
lai để chi cho hiện tại, nó là một trong những nguyên nhân
chính của tình trạng bội chi ngân sách và tiềm ẩn nguy cơ tăng
trưởng không bền vững.
d. Xuất nhập khẩu
Kim ngạch xuất khẩu hàng hoá năm 2009 ước đạt 56,6 tỷ
USD, giảm 9,7% so với năm 2008; kim ngạch nhập khẩu hàng
hoá năm 2009 ước tính 68,8 tỷ USD, giảm 14,7%; ước nhập
siêu cả năm là 12,2 tỷ USD, bằng 21,6% kim ngạch xuất khẩu;
tỷ lệ nhập siêu/xuất khẩu của năm 2009 cũng chỉ bằng 60%
của năm 2008 (xem Đồ thị 3).
Đồ thị 3: Tỷ lệ nhập siêu trên kim ngạch xuất khẩu

Xuất khẩu
Nhập khẩu
100000 Nhập siêu 35
Tỷ lệ nhập siêu/xuất khẩu
80000 30

60000 25

40000 20

20000 15

0 10
2004 2005 2006 2007 2008 Ước
-20000 2009 5

-40000 0

Nguồn: Tổng cục Thống kê


Dù b¸o triÓn väng kinh tÕ vÜ m« ViÖt Nam n¨m 2010 17

Mặc dù kim ngạch xuất và nhập khẩu năm 2009 đều giảm so
với năm 2008, nhưng lượng hàng hoá xuất khẩu cũng như nhập
khẩu của đa số các mặt hàng đều tăng. Nguyên nhân chính của
tình trạng này là do giá thế giới của các mặt hàng đều thấp hơn
năm 2008 (cụ thể mục 3, phần I).
Kim ngạch xuất nhập khẩu tăng dần vào những tháng cuối
năm, nhất là việc tăng nhập khẩu máy móc thiết bị, nguyên vật
liệu phục vụ cho sản xuất.
Từ những phân tích ở trên có thể thấy rằng sự gia tăng vốn
đầu tư từ khu vực nhà nước và ngoài nhà nước do thực hiện
các chính sách kích thích kinh tế của Chính phủ và sự gia tăng
tiêu dùng nội địa là hai động lực chính của tăng trưởng kinh tế
Việt Nam năm 2009 và là những yếu tố quan trọng giúp nền
kinh tế nước ta phục hồi.
1.2. Hồi phục tăng trưởng GDP từ phía cung
Cả năm 2009, tổng sản phẩm trong nước tăng 5,32%, thể
hiện chính sách kích thích kinh tế của Chính phủ đã phát huy
hiệu quả, đặc biệt khi so sánh tốc độ tăng trưởng này với nhiều
quốc gia khác có mức tăng trưởng âm.
Năm 2008, tăng trưởng của khu vực nông-lâm-ngư nghiệp là
điểm sáng, góp phần làm giảm tốc độ sụt giảm GDP trong khi
hai khu vực còn lại chịu ảnh hưởng mạnh của suy thoái kinh tế
toàn cầu. Tuy nhiên, đến năm 2009, mức tăng trưởng giá trị
tăng thêm của khu vực nông-lâm-ngư nghiệp chỉ là 1,83%,
thấp hơn nhiều các năm trước, bằng 45% tốc độ tăng trưởng
của năm 2008 làm cho tỷ lệ đóng góp vào tăng trưởng GDP
của khu vực này giảm sút đáng kể. Nguyên nhân là hiệu quả
của gói kích thích kinh tế của Chính phủ tới khu vực nông-
lâm-ngư nghiệp không được như tới khu vực công nghiệp-xây
dựng hay dịch vụ.
18 Dù b¸o triÓn väng kinh tÕ vÜ m« ViÖt Nam n¨m 2010

Tiếp tục chịu ảnh hưởng nặng nề của khủng hoảng kinh tế,
hai khu vực công nghiệp-xây dựng và dịch vụ có mức tăng
trưởng thấp hơn năm 2008, nhưng có tỷ lệ đóng góp vào tăng
trưởng cao hơn năm 2008. Đặc biệt, khu vực dịch vụ với sự
tăng trưởng mạnh mẽ của ngành thương mại (thể hiện qua tổng
mức bán lẻ hàng hoá) có tỷ lệ đóng góp vào tăng trưởng GDP
cao nhất từ trước tới nay (50,81%).
Bảng 2: Tốc độ tăng trưởng GDP theo khu vực kinh tế
2006 2007 2008 2009
Tốc độ tăng trưởng (%)
GDP 8.23 8.46 6.18 5.32
Nông, lâm ngư nghiệp 3.69 3.76 4.07 1.83
Công nghiệp-xây dựng 10.38 10.22 6.11 5.52
Dịch vụ 8.29 8.85 7.18 6.63
Đóng góp vào tăng trưởng (điểm%)
GDP 8.23 8.46 6.18 5.32
Nông, lâm ngư nghiệp 0.72 0.70 0.73 0.32
Công nghiệp-xây dựng 4.17 4.19 2.54 2.30
Dịch vụ 3.34 3.57 2.90 2.70
Tỷ lệ đóng góp vào tăng trưởng (%)
GDP 100 100 100 100
Nông, lâm ngư nghiệp 8.76 8.33 11.81 6.02
Công nghiệp-xây dựng 50.68 49.50 41.16 43.17
Dịch vụ 40.55 42.17 47.03 50.81
Nguồn: Tổng cục Thống kê
Dù b¸o triÓn väng kinh tÕ vÜ m« ViÖt Nam n¨m 2010 19

Dưới đây là phân tích cụ thể cho từng khu vực.


a. Nông-lâm-ngư nghiệp
Năm 2008 là năm nền kinh tế nước ta gặp rất nhiều khó
khăn, trong khi tốc độ tăng trưởng ngành công nghiệp-xây
dựng và dịch vụ suy giảm thì tốc độ tăng trưởng của ngành
nông nghiệp vẫn tăng, đạt 4,07%; giá trị sản xuất của ngành
nông-lâm-ngư nghiệp tăng 6%, kim ngạch xuất khẩu của
ngành này đạt trên 16 tỷ USD, góp phần tăng trưởng xuất khẩu
và ngăn chặn đà suy giảm kinh tế trong bối cảnh kinh tế toàn
cầu suy thoái.
Ngành nông-lâm-ngư nghiệp vẫn là điểm sáng của nền kinh
tế trong 4 tháng đầu năm 2009. Kim ngạch và lượng hàng hoá
xuất khẩu của Ngành này đều tăng. Chỉ trong 4 tháng đầu năm
2009 các doanh nghiệp Việt Nam đã ký hợp đồng xuất khẩu
3,6 triệu tấn gạo, gần hết chỉ tiêu xuất khẩu của năm, sản lượng
thuỷ sản tháng 4 tăng hơn 4,8 % so với cùng kỳ, đạt khoảng
360 ngàn tấn, ... Cả năm 2009, giá trị sản xuất nông- lâm- ngư
nghiệp (theo giá so sánh 1994) ước đạt 219,87 nghìn tỷ đồng,
tăng 3% so với năm 2008; nông nghiệp tăng 2,2%; lâm nghiệp
tăng 3,8%; thuỷ sản tăng 5,4%.
Mặc dù chịu ảnh hưởng lớn của thiên tai, bão lũ cộng với
giá nhiều mặt hàng nông sản trên thị trường thế giới thấp hơn
năm 2008, giá một số mặt hàng nông sản chủ lực giảm từ 20-
50%, nhưng kim ngạch xuất khẩu lâm sản, thủy sản vẫn đạt
15300 triệu USD, bằng 27% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng
hoá với lượng xuất khẩu tăng hơn năm 2008.
Tuy nhiên tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất nông- lâm- ngư
nghiệp năm 2009 chỉ bằng gần 50% tốc độ tăng của năm 2008
(6%). Điều này chứng tỏ hiệu quả của gói kích thích kinh tế
20 Dù b¸o triÓn väng kinh tÕ vÜ m« ViÖt Nam n¨m 2010

với khu vực nông nghiệp, nông thôn còn hạn chế. Gói kích
thích kinh tế nhằm chủ động ngăn chặn suy giảm kinh tế
trong khu vực nông nghiệp, nông thôn được thực hiện qua đầu
tư xây dựng hạ tầng, hỗ trợ lãi suất cho nông dân mua máy
móc, phương tiện, vật tư phục vụ sản xuất. Thực tế, kết quả
đạt được rất hạn chế. Nguyên nhân là việc triển khai không
đồng bộ, thủ tục rườm rà, nguồn vốn cho vay bị hạn chế; địa
bàn rộng, khách hàng đông, món vay nhỏ, đối tượng đầu tư
vốn đa dạng, nhưng số lượng và mật độ phân bố các tổ chức
tín dụng ít. Ngoài ra, nông dân chỉ được hỗ trợ lãi suất vay
vốn khi mua các sản phẩm hàng hóa trong nước theo danh
mục, tuy nhiên, những sản phẩm này ít được nông dân chọn
lựa do thiếu tính cạnh tranh. Thêm vào đó, một số loại nông
cụ nông dân cần nhưng không có hàng sản xuất trong nước
(hàng nông cụ sản xuất trong nước chỉ chiếm khoảng 30% thị
trường)…
b. Công nghiệp-xây dựng
- Ngành công nghiệp:
Có thể nói, biểu hiện rõ nét nhất cho thấy nền kinh tế nước
ta đã vượt qua điểm đáy của khủng hoảng và phục hồi là giá
trị sản xuất công nghiệp. Đồ thị 4 cho thấy, quá trình hồi
phục của nền kinh tế gắn liền với quá trình tăng trưởng giá
trị tăng thêm của ngành công nghiệp-xây dựng. Tốc độ tăng
trưởng giá trị tăng thêm của ngành công nghiệp-xây dựng có
xu hướng tăng dần qua các quý. Cả năm 2009, giá trị sản
xuất công nghiệp ước đạt 696.577 tỷ đồng, tăng 7,6% so với
năm 2008.
Phân tích diễn biến sản xuất công nghiệp năm 2009 trong
Đồ thị 4, rút ra một số nhận xét như sau:
Dù b¸o triÓn väng kinh tÕ vÜ m« ViÖt Nam n¨m 2010 21

Đồ thị 4: Tốc độ tăng trưởng GTSXCN


(so với cùng kỳ năm trước)
25

20

15

10

0
2008m1 2008m4 2008m7 2008m10 2009m1 2009m4 2009m7 2009m10
-5

-10
Tốc độ tăng trưởng GTSXCN Khu vực DNNN
Khu vực ngoài nhà nước Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài

Nguồn: Tổng cục Thống kê

Thứ nhất, giá trị sản xuất công nghiệp đã suy giảm từ trong
năm 2008 và đạt điểm đáy vào tháng 1/2009. Tốc độ tăng
trưởng giá trị sản xuất công nghiệp tháng 2 tăng cao nhất, tăng
14,9% so với cùng kỳ năm trước. Từ tháng 3/2009, giá trị sản
xuất công nghiệp đã tăng dần qua các tháng. Dấu hiệu phục hồi
tăng trưởng giá trị sản xuất công nghiệp được thể hiện từ quý
2/2009, tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất công nghiệp tăng
liên tục. Đến tháng 11/2009, giá trị sản xuất công nghiệp đã
tăng 13% so với cùng kỳ năm 2008, tháng 12 tăng 13,4%, cả
năm tăng 7,6%.
Thứ hai, khu vực ngoài nhà nước có vai trò quan trọng trong
sự phục hồi sản xuất công nghiệp. Giá trị sản xuất công nghiệp
của khu vực này tăng mạnh từ tháng 8 và tiếp tục tăng trong
các tháng sau đó và cả năm tăng 9,9%. Khu vực có vốn đầu tư
nước ngoài cũng có mức tăng giá trị sản xuất công nghiệp khá
cao (8,1%). Trong khi đó khu vực nhà nước có mức tăng giá trị
22 Dù b¸o triÓn väng kinh tÕ vÜ m« ViÖt Nam n¨m 2010

sản xuất công nghiệp khá thấp khi so sánh với hai khu vực trên
(3,7%). Từ tháng 9/2009 tốc độ tăng trưởng của khu vực nhà
nước có xu hướng giảm.
Thứ ba, xét theo ngành, ngành công nghiệp chế biến chiếm
tỷ trọng trên 80% giá trị sản xuất toàn ngành công nghiệp
nhưng có tốc độ tăng trưởng thấp hơn công nghiệp khai thác và
ngành sản xuất điện, nước và gas do nhu cầu giảm.
- Ngành xây dựng:
Năm 2008, thị trường bất động sản trầm lắng vào nửa cuối
năm, lãi suất tăng cao với giá nguyên liệu đầu vào của ngành
xây dựng tăng vọt đã làm cho giá trị tăng thêm của ngành xây
dựng giảm mạnh từ mức 12,1% của năm 2007 xuống -0,4%.
Đây là lần đầu tiên ngành xây dựng có tăng trưởng âm kể từ
đầu cuộc khủng hoảng Đông Á năm 1997.
Sang năm 2009, do lãi suất ngân hàng đã thấp hơn nhiều so
với năm 2008 (Ngân hàng nhà nước đã thực hiện chính sách
duy trì lãi suất cơ bản ở mức 7% trong 10 tháng và chỉ tăng lãi
suất này lên mức 8% kể từ ngày 1/12/2009), do nhiều biện
pháp kích thích kinh tế của Chính phủ đã được triển khai trong
đó nhất là biện pháp hỗ trợ 4% lãi suất cho vay và do xu thế
giảm của giá thế giới, giá nguyên vật liệu đầu vào của ngành
xây dựng như xi măng, sắt thép giảm mạnh nên ngành xây
dựng đã phục hồi rất rõ rệt. Giá trị tăng thêm của ngành tăng
6,9% trong quý I/2009, 6 tháng tăng 8,74%, 9 tháng tăng
9,73%. Nhiều dự án bị dừng từ cuối năm 2008 được đưa vào
tiếp tục triển khai trong năm 2009. Đến cuối quý III/2009, tăng
trưởng ngành xây dựng đã được kỳ vọng tạo nên lực kéo đối
với toàn bộ nền kinh tế. Với mức tăng trưởng giá trị sản xuất
cả năm là 22,6%, tăng trưởng giá trị tăng thêm là 11,36%, có
thể nói trong năm 2009, ngành xây dựng đã đóng góp quan
trọng vào tăng trưởng kinh tế.
Dù b¸o triÓn väng kinh tÕ vÜ m« ViÖt Nam n¨m 2010 23

c. Dịch vụ
Theo đà sụt giảm của năm 2008, tốc độ tăng trưởng giá trị tăng
thêm ngành dịch vụ năm 2009 đạt thấp hơn năm 2008. Sau 9
tháng, tốc độ tăng giá trị tăng thêm ngành dịch vụ chỉ đạt 5,91%,
thấp hơn mức tăng 7,23% của cùng kỳ năm 2008. Tuy nhiên, tốc
độ tăng giá trị tăng thêm ngành dịch vụ đã tăng dần qua các quý.
Đáng chú ý là tốc độ tăng trưởng 9 tháng và cả năm 2009 của
ngành thương nghiệp (ngành có tỷ trọng lớn nhất trong khu vực
dịch vụ) thậm chí còn cao hơn cùng kỳ năm 2008. Đó là do nhu
cầu tiêu dùng nội địa (biểu hiện bằng chỉ số tổng mức bán lẻ
hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng) tuy chưa đạt mức trước
khủng hoảng nhưng đã tăng dần theo tháng.
Bảng 3: Tốc độ tăng trưởng giá trị tăng thêm ngành dịch vụ
2006 2007 2008 2009
Tổng số
3 tháng 7.4 7.8 8.05 5.4
6 tháng 7.7 8.41 7.6 5.5
9 tháng 8.03 8.54 7.23 5.91
Cả năm 8.29 8.68 7.2 6.63
Thương nghiệp
3 tháng 7.7 7.7 7.46 6.6
6 tháng 7.9 7.79 7.15 6.53
9 tháng 8.31 8.27 6.31 6.76
Cả năm 8.55 8.67 6.34 7.67
Khách sạn, nhà hàng
3 tháng 9.5 11.1 12.16 -1
6 tháng 11 12.74 10.85 -0.9
9 tháng 11.14 12.73 8.89 0.78
Cả năm 12.42 12.72 8.54 2.29
Nguồn: Tổng cục Thống kê
24 Dù b¸o triÓn väng kinh tÕ vÜ m« ViÖt Nam n¨m 2010

Tăng trưởng của các ngành dịch vụ như khách sạn, nhà
hàng, du lịch... đều sụt giảm so với tốc độ tăng năm 2008.
Giảm mạnh nhất là ngành khách sạn, nhà hàng. Hai quý đầu
năm, ngành này tăng trưởng âm, tốc độ tăng ba quý và cả năm
2009 là dương nhưng vẫn thấp xa so với cùng kỳ các năm
trước. Nguyên nhân do lượng khách quốc tế đến Việt Nam
giảm nhiều, tính chung 11 tháng lượng khách giảm 12,3% so
với cùng kỳ năm 2008.
1.3. Động lực chính hồi phục tăng trưởng GDP năm 2009
Năm 2007, với tốc độ tăng trưởng tổng tích luỹ tài sản là
24,19% so với năm 2006 đã làm cho tổng tích luỹ tài sản đóng
góp 9,11 điểm % vào tăng trưởng GDP và được coi là nhân tố
quan trọng tạo nên tốc độ tăng trưởng GDP của năm là 8,48%.
Đây cũng là năm duy nhất trong giai đoạn 2000-2008, tổng
tích luỹ tài sản đóng góp 119,4% vào tăng trưởng GDP. Từ
năm 2000 tới 2007, tiêu dùng cuối cùng thường chiếm tỷ trọng
khoảng 70% GDP và đóng góp từ 5,3 tới 6,8 điểm % vào tăng
trưởng GDP. Năm 2008, tốc độ tăng trưởng tích luỹ tài sản cố
định, tiêu dùng cuối cùng, xuất khẩu ròng giảm so với năm
2007. Tăng trưởng tích luỹ tài sản giảm tới 20,3 điểm% (từ
24,4% năm 2007 xuống 4,1% năm 2008). Tiêu dùng chính phủ
giảm từ 1,4 điểm % xuống còn 7,5%; tiêu dùng tư nhân cũng
giảm 2,7 điểm %. Xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ chỉ tăng 5,6%.
Bảng 4: Đóng góp vào tăng trưởng GDP
của các yếu tố phía cầu
Đóng góp vào tăng trưởng GDP (điểm %)
2004 2005 2006 2007 2008
TỔNG SỐ 7.79 8.44 8.23 8.46 6.18
Tiêu dùng cuối cùng 5.18 5.29 5.96 7.58 6.56
Tiêu dùng chính phủ 0.51 0.54 0.55 0.58 0.49
Dù b¸o triÓn väng kinh tÕ vÜ m« ViÖt Nam n¨m 2010 25

2004 2005 2006 2007 2008


Tiêu dùng tư nhân 4.67 4.75 5.40 7.00 6.07
Tổng tích luỹ tài sản 3.66 3.97 4.31 10.10 2.77
Tổng tài sản cố định 3.41 3.26 3.35 8.31 1.51
Thay đổi tồn kho 0.25 0.70 0.96 1.79 1.25
Chênh lệch xuất khẩu HH
và DV 0.39 1.57 -1.56 -13.23 -3.24
Tỷ lệ đóng góp vào tăng trưởng GDP (%)
2004 2005 2006 2007 2008
TỔNG SỐ 100 100 100 100 100
Tiêu dùng cuối cùng 66.53 62.64 72.40 89.67 106.25
Tiêu dùng chính phủ 6.52 6.35 6.73 6.88 7.99
Tiêu dùng tư nhân 60.00 56.29 65.67 82.79 98.26
Tổng tích luỹ tài sản 46.93 46.98 52.43 119.39 44.78
Tổng tài sản cố định 43.79 38.66 40.76 98.27 24.48
Thay đổi tồn kho 3.15 8.32 11.66 21.12 20.30
Chênh lệch xuất khẩu HH
và DV 5.06 18.58 -18.90 -156.43 -52.52
Nguồn: Tổng cục Thống kê
Năm 2009, kim ngạch xuất khẩu hàng hoá ước giảm 9,7%,
xuất khẩu dịch vụ giảm 18,1% so với năm 2008, nhập khẩu
hàng hoá cũng giảm tới 16,5%, nhập khẩu dịch vụ giảm 14,1%
nên đóng góp của xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ ròng vào
GDP tiếp tục giảm. Vốn đầu tư toàn xã hội tuy có tăng 15,3%
(giá hiện hành) nhưng cũng không còn có vai trò quan trọng
như năm 2007 trở về trước. Nhân tố quan trọng tạo nên tốc độ
tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội của năm 2009 là tiêu dùng
cuối cùng, mà chủ yếu là tiêu dùng tư nhân.
26 Dù b¸o triÓn väng kinh tÕ vÜ m« ViÖt Nam n¨m 2010

Bảng 5: Cơ cấu GDP theo phía cầu (giá hiện hành, %)


Ước
2006 2007 2008 2009
Tổng mức bán lẻ hàng hoá và dịch
vụ (TMBLHH/GDP) 61.2 65.2 66.6 72.8
Chi ngân sách/GDP 31.6 34.9 33.5 31.7
Vốn đầu tư phát triển/GDP 41.5 46.5 41.3 42.8
Xuất khẩu hàng hoá và dịch
vụ/GDP 73.6 76.9 78.3 65.4
Nguồn: Tổng cục Thống kê
Bảng 5 cho thấy, từ năm 2006, vốn đầu tư phát triển luôn
chiếm trên 40% GDP. Năm 2009 tỷ lệ này ước tính đạt 42,8%.
Tỷ lệ này đạt cao chủ yếu là do Chính phủ thực hiện các chính
sách kích thích kinh tế. Trong khi vốn đầu tư nước ngoài giảm thì
Vốn đầu tư từ khu vực dân cư, ngoài nhà nước và đầu tư công
tăng rất cao. Có thể nói chính sách kích thích nền kinh tế là một
trong những động lực chính của tăng trưởng kinh tế năm 2009.
Mặt khác, nếu không tính đến tỷ lệ xuất nhập khẩu hàng
hoá và dịch vụ so với GDP thì tỷ lệ giữa tổng mức bán lẻ hàng
hoá và dịch vụ trên GDP là cao nhất trong các tỷ lệ trên GDP
được nêu trong Bảng 5. Tổng mức bán lẻ hàng hoá và dịch vụ
so với GDP liên tục tăng, năm 2009 ước đạt mức 72,8% của
GDP. Tỷ lệ cao đó cho thấy vai trò quan trọng của tiêu dùng
nội địa đối với tăng trưởng kinh tế nước ta năm 2009.

2. Tốc độ sụt giảm vốn đầu tư đã chậm lại


2.1. Tỷ lệ vốn đầu tư trên GDP
Theo báo cáo của Chính phủ, tổng vốn đầu tư toàn xã hội
năm 2009 ước đạt 704,2 nghìn tỷ đồng, tăng 15,3% so với năm
2008, cao hơn tốc độ 14,8% của năm 2008.
Dù b¸o triÓn väng kinh tÕ vÜ m« ViÖt Nam n¨m 2010 27

Đồ thị 5: Vốn đầu tư toàn xã hội


46.5
800 41.3 42.8
50

40
600 41.5
39.0 40.7 40.9
37.4
34.2 35.4 30
400
20

200
10

0 0
2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 Sơ bộ
2009

Vốn ĐTPT (nghìn tỷ đồng) Vốn ĐTPT/GDP (%)

Nguồn: Tổng cục Thống kê


Tỷ lệ vốn đầu tư toàn xã hội trên GDP là 42,8%, tăng so với
năm 2008 là 41,3%. Với tốc độ tăng trưởng GDP năm 2009
ước đạt 5,32% thì chỉ số ICOR, một thước đo thô về hiệu quả
đầu tư, sẽ tăng rất cao, ước khoảng 8,05, tăng 20,7% so với
năm 2008. Tuy nhiên nếu chỉ nhìn kết quả hệ số ICOR để kết
luận về hiệu quả đầu tư của năm 2009 thì chưa thật chính xác
bởi lẽ nguồn vốn đầu tư năm 2009 được ưu tiên tập trung cho
phát triển cơ sở hạ tầng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu sản
xuất và thay đổi công nghệ,... Những khoản mục đầu tư này
nói chung chỉ có thể phát huy tác dụng và đóng góp vào tài sản
vốn sau một vài năm không phải ngay trong năm 2009.
Triển khai thực hiện các gói kích thích kinh tế đã có tác
dụng khiến nền kinh tế không bị suy giảm sâu; công nghiệp,
xây dựng đã có mức tăng trưởng khá; tình trạng phá sản doanh
28 Dù b¸o triÓn väng kinh tÕ vÜ m« ViÖt Nam n¨m 2010

nghiệp, tỷ lệ thất nghiệp đã không trầm trọng như dự báo…


Tuy nhiên, bội chi ngân sách đã lên tới 6,9% GDP (chưa bao
gồm số chi từ nguồn vay trái phiếu Chính phủ, các khoản
Chính phủ vay nước ngoài và cho doanh nghiệp nhà nước vay
lại); nợ Chính phủ tăng mạnh, tiến dần tới ngưỡng mất an toàn
(ước khoảng 40% GDP; năm 2008 là 36,5% GDP; năm 2010
dự kiến lên tới 44% GDP). Tăng trưởng tín dụng nhanh (tín
dụng tăng 37,73% trong năm 2009), vượt ngưỡng 30% như
Ngân hàng nhà nước quy định. Theo đó, nguy cơ tái lạm phát
trong năm 2010 là rất lớn.
2.2. Tỷ lệ giải ngân ODA và FDI
a. Đầu tư từ ngân sách nhà nước
Tuy đạt tỷ lệ tăng trưởng khá cao so với năm 2008 nhưng
việc giải ngân còn thấp so với yêu cầu đặt ra, trong đó đặc biệt
là nguồn vốn trái phiếu Chính phủ. Vốn đầu tư trái phiếu
Chính phủ ước thực hiện cả năm 2009 là 50 nghìn tỷ đồng,
trong đó vốn trái phiếu chính phủ thực hiện trong kế hoạch là
46 nghìn tỷ đồng, chỉ đạt 82,1% so với kế hoạch (kế hoạch là
64 nghìn tỷ đồng).
Tình trạng các dự án đầu tư chậm tiến độ còn phổ biến. Chín
tháng đầu năm, trong 19.808 dự án được kiểm tra, có tới 4.076
trường hợp bị chậm tiến độ. Theo ước tính, tỷ lệ dự án chậm
tiến độ năm 2009 khoảng 12,7% (năm 2008 là 18,2%; năm
2007 là 14,8%; năm 2006 là 13,1%). Trên 4.000 dự án triển
khai chậm phải điều chỉnh lại tổng mức đầu tư. Hàng trăm dự
án đầu tư không đúng quy hoạch, chất lượng xây dựng thấp, có
lãng phí và đấu thầu không đúng quy định, ...
b. Vốn FDI
Trong những tháng đầu năm 2009, khi nền kinh tế thế giới
chưa vượt khỏi đáy khủng hoảng, dự báo vốn FDI vào Việt
Nam rất thấp so với năm 2008. Trong bối cảnh khủng hoảng tài
Dù b¸o triÓn väng kinh tÕ vÜ m« ViÖt Nam n¨m 2010 29

chính và suy giảm kinh tế toàn cầu, khi sản xuất ở nước ta còn
gặp nhiều khó khăn, tồn kho sản xuất công nghiệp lớn… thì kết
quả thu hút và giải ngân vốn FDI năm 2009 là điểm sáng trong
bức tranh kinh tế chung. Từ quý II/2009, khi nền kinh tế bắt đầu
có dấu hiệu phục hồi thì kết quả thu hút vốn FDI cũng có nhiều
dấu hiệu khả quan. Ước tính cả năm 2009 vốn FDI đăng ký mới
và tăng vốn đạt 21,4 tỷ USD, tương đương số vốn đăng ký và
tăng thêm của năm 2007 là năm trước khủng hoảng.
Đồ thị 6: Vốn FDI đăng ký và thực hiện
80000 100
85.0 86.4
83.0
80
60000
62.7
78.0
48.4 60
46.6
40000 37.6
40
34.2
20000
20
16.0

0 0
2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 S ơ bộ
2009

Vốn đăng ký và tăng thêm (triệu USD)


Vốn thực hiện (triệu USD)
Tỷ lệ vốn thực hiện/vốn đăng ký (%)

Nguồn: Tổng cục Thống kê


Vốn FDI ước thực hiện năm 2009 là 10 tỷ USD, giảm so
với 11,5 tỷ USD của năm 2008, thấp hơn mức giảm vốn
đăng ký. Việc giải ngân vốn đầu tư vẫn còn chậm, đặc biệt là
ở các lĩnh vực bất động sản hoặc các dự án phải giải phóng
mặt bằng.
Dự báo trong năm 2010, với sự phục hồi của kinh tế thế
giới, lượng vốn FDI vào Việt Nam sẽ tiếp tục tăng. Vấn đề
30 Dù b¸o triÓn väng kinh tÕ vÜ m« ViÖt Nam n¨m 2010

được đặt ra là phải tháo gỡ các khó khăn vốn có từ lâu để nâng
cao tỷ lệ vốn giải ngân đã bị sụt giảm từ năm 2003.
c. Vốn ODA
Thu hút vốn ODA tiếp tục trong xu hướng tích cực, tổng vốn
ODA đã được ký kết thông qua các hiệp định với các nhà tài trợ
trong năm 2009 ước khoảng 5.850 triệu USD (xem Bảng 6).
Bảng 6: Vốn ODA đăng ký và giải ngân
2006 2007 2008 2009
Ký kết (triệu USD) 2824 3795 4058 5850
Giải ngân (triệu USD) 1785 2176 2200 3000
Tỷ lệ giải ngân (%) 63.2 57.3 54.2 51.3
Nguồn: Tổng cục Thống kê, Bộ Kế hoạch và Đầu tư

Vốn ODA giải ngân cả năm 2009 dự kiến khoảng 3 tỷ USD,


cao nhất từ trước đến nay, gấp đôi mức giải ngân năm 2001.
Tuy mức giải ngân đã được cải thiện từ cuối quý I/2009 song do
khối lượng ODA cam kết tăng nên tỷ lệ giải ngân vốn của các
nhà tài trợ vẫn thấp hơn năm 2008 (giảm nhẹ 1,9 điểm%).
Nguyên nhân được chỉ ra là: lạm phát cao năm 2008 làm thiếu
hụt vốn đối ứng cho công tác đền bù và tái định cư, quá trình
phê duyệt dự án và phê duyệt đấu thầu kéo dài, việc điều phối
giữa Trung ương và địa phương chưa tốt, công tác quản lý nhà
nước về ODA còn bất cập. Có thể thấy trong các nguyên nhân
giải ngân ODA chậm có những nguyên nhân tồn tại từ lâu tuy
đã được cải thiện nhưng chưa được giải quyết dứt điểm như
công tác quản lý nhà nước, việc phối hợp giữa các cơ quan chức
năng, công tác đền bù, giải phóng mặt bằng…. Với lượng vốn
cam kết trên 8 tỷ USD cho năm 2010, nếu các đơn vị và cơ quan
liên quan nỗ lực giải quyết các khó khăn nêu trên thì lượng vốn
ODA giải ngân năm 2010 sẽ cao hơn nhiều so với năm 2009.
Dù b¸o triÓn väng kinh tÕ vÜ m« ViÖt Nam n¨m 2010 31

2.3. Vốn gián tiếp


Từ cuối năm 2008 đến 3 tháng đầu năm 2009, khi thị trường
chứng khoán Việt Nam suy giảm mạnh, cũng là lúc các nhà
đầu tư gián tiếp nước ngoài đẩy mạnh việc thoái vốn khỏi thị
trường Việt Nam. Trên tổng quy mô vốn 8 tỷ USD, số vốn đầu
tư gián tiếp ra khỏi thị trường vào khoảng 700 USD, chủ yếu là
từ hoạt động đầu tư trái phiếu. Từ tháng 4/2009, luồng vốn đầu
tư gián tiép (FII) vào Việt Nam đã tăng trở lại, tuy vẫn còn khá
thấp (khoảng 3-5 triệu USD/ngày) nhưng là tín hiệu tốt nếu so
với cuối năm 2008. Điều đó cho thấy các nhà đầu tư đã có
niềm tin vào sự phục hồi của nền kinh tế và thị trường chứng
khoán Việt Nam. Nguồn vốn này có tác dụng tích cực đến cân
đối cung cầu ngoại tệ và cân đối cán cân thanh toán của nền
kinh tế.
Về kiều hối, dự báo cả năm 2009 đạt khoảng gần 6,8 tỷ
USD, cao hơn mức dự báo 5,8-6 tỷ USD hồi đầu năm, thấp
hơn mức 7,2 tỷ USD năm 2008. Kiều hối năm 2009 giảm so
với năm 2008 là do: (i) Kinh tế thế giới suy giảm, nhiều công
ty phá sản, thất nghiệp tăng cao, thu nhập người lao động Việt
Nam tại nước ngoài nói chung suy giảm; (ii) Lãi suất tiết kiệm
trong nước năm 2008 rất cao (có lúc tới 18-19%) nên người lao
động ở nước ngoài tăng cường gửi tiền về nước để hưởng lãi
suất. Năm 2009, lãi suất cơ bản duy trì ở mức 7% và cuối năm
là 8%, lãi suất tiết kiệm không còn là kênh đầu tư vốn hấp dẫn.
Tuy lượng tiền chuyển về nước giảm so với năm trước nhưng
trong bối cảnh khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn
cầu, nền kinh tế thế giới mới có dấu hiệu thoát ra khỏi giai
đoạn suy thoái thì con số 6,8 tỷ USD vốn FII là rất có ý nghĩa.

3. Xuất khẩu và nhập khẩu đều suy giảm, thâm hụt


thương mại tăng dần
Suy thoái kinh tế thế giới đã tác động mạnh đến xuất nhập
khẩu của nước ta trong năm 2009. Cụ thể:
32 Dù b¸o triÓn väng kinh tÕ vÜ m« ViÖt Nam n¨m 2010

3.1. Giá thế giới của các mặt hàng xuất nhập khẩu và
nguyên liệu đầu vào quan trọng của nền kinh tế giảm
Do khủng hoảng kinh tế thế giới, giá cả nhiều hàng hoá trên
thị trường thế giới, trong đó có các mặt hàng xuất khẩu chính
của nước ta, giảm mạnh trong năm 2009. Giá dầu thô (mặt hàng
chiếm gần 20% tổng kim ngạch xuất khẩu Việt Nam) đã giảm
mạnh từ mức đỉnh 147 USD/thùng tháng 7/2008 xuống còn
khoảng trên 30 USD/thùng tháng 3/2009. Từ tháng 4/2009 giá
đầu bắt đầu tăng lại và hiện tại (tháng 11/2009) dao động quanh
mức 70 USD/thùng. Tổ chức OPEC đã liên tiếp cắt giảm sản
lượng khai thác dầu hàng triệu thùng/ngày cũng không làm giá
dầu tăng mạnh. Giá dầu chỉ tăng khi có tín hiệu phục hồi kinh
tế, nhưng khả năng phục hồi kinh tế thế giới chưa vững chắc
nên giá dầu chưa tăng mạnh. Giá gạo, một mặt hàng xuất khẩu
chủ lực khác của nước ta, hiện dao động trong khoảng 300-400
USD/tấn, so với mức giá đỉnh 1200 USD/tấn năm 2008.
Giá bình quân năm 2009 của hầu hết các mặt hàng xuất khẩu
chủ lực khác của Việt Nam như dệt may, giày dép, thủy sản, đồ
gỗ, cao su, cà phê, đều giảm so với năm 2008 (xem Bảng 7).
Gần đây, giá một số sản phẩm có tăng lên song còn kém nhiều
so với mức giá năm 2008.
Bảng 7: Diễn biến giá một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực
năm 2009
Mặt hàng Giá bình quân năm 2009 so với năm 2008
Dầu thô - 38,4%
Cao su - 33,3%
Cà phê - 27,3%
Gạo - 27,2%
Than đá - 28%
Nguồn: Tổng hợp từ Tổng cục Thống kê.
Dù b¸o triÓn väng kinh tÕ vÜ m« ViÖt Nam n¨m 2010 33

3.2. Xuất nhập khẩu giảm sút chủ yếu do giá giảm
a) Xuất khẩu
Kim ngạch xuất khẩu năm 2009 ước đạt 56,6 tỷ USD, giảm
9,7% so với năm 2008. Nếu nhìn vào kết quả xuất khẩu của
các mặt hàng chủ lực năm 2009 có thể thấy giá của các hàng
xuất khẩu chủ lực hầu hết đều giảm mạnh trong khi lượng xuất
khẩu của các mặt hàng này tăng khá. Sự co hẹp của thị trường
xuất khẩu và những rào cản xuất khẩu trong năm nay cũng
khiến kim ngạch của hầu hết các mặt hàng xuất khẩu đều giảm.
Trong đó, giảm mạnh nhất về kim ngạch là dầu thô (giảm
40% so với năm 2008 (lượng giảm 2,4%); hầu hết các mặt
hàng khác đều có lượng xuất tăng khá nhưng đều giảm về kim
ngạch như cao su giảm 25,2% (lượng tăng 10,3%), cà phê
giảm 19% (lượng tăng 10,2%), xăng dầu giảm 11,6% (lượng
tăng 41,7%), gạo giảm 8% (lượng tăng 25,4%). Dệt may có
mức sụt giảm khá thấp (1,3%), các doanh nghiệp dệt may vẫn
duy trì được các đơn đặt hàng của các đối tác lớn.
Bảng 8: Các mặt hàng xuất khẩu chủ lực năm 2009
Kim ngạch xuất % thay đổi về % thay đổi về
Mặt
khẩu năm 2009 lượng (so kim ngạch (so
hàng
(tỷ USD) cùng kỳ 2008) cùng kỳ 2008)
Dầu thô 6,2 -2,4 -40
Gạo 2,7 25,4 -8
Cà phê 1,7 10,2 -19
Than đá 1,3 29,9 -4,5
Cao su 1,2 10,3 -25,2
Thủy sản 4,2 - -6,7
Dệt may 9 - -1,3
Giày dép 4 - -15,8
Nguồn: Tổng hợp từ báo cáo của Tổng cục Thống kê (ngày
31/12/2009).
34 Dù b¸o triÓn väng kinh tÕ vÜ m« ViÖt Nam n¨m 2010

Từ năm 1986 đến nay, đây là lần tăng trưởng xuất khẩu âm
đầu tiên của nước ta. Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của nước ta
dù bị sụt giảm trong khủng hoảng tài chính Châu Á 97-98 tuy
vậy vẫn duy trì ở mức dương. Nhưng xét trong bối cảnh hiện
nay, mức sụt giảm này vẫn là tương đối thấp so với mức sụt
giảm mạnh của nhiều nền kinh tế khác (6 tháng đầu năm 2009,
xuất khẩu của Trung Quốc giảm 22% so với cùng kỳ năm ngoái,
xuất khẩu của Thái Lan giảm 23% trong 5 tháng đầu năm).
b) Nhập khẩu
Kim ngạch nhập khẩu hàng hoá năm 2009 ước đạt 68,8 tỷ
USD, giảm 14,7% so với năm 2008, sự sụt giảm khá lớn. Cũng
cùng hiện tượng như các mặt hàng xuất khẩu, kim ngạch nhập
khẩu giảm chủ yếu do giá các mặt hàng nhập khẩu đều sụt giảm
mạnh trong khi lượng nhập vẫn tăng. Đặc biệt như xăng dầu (kim
ngạch giảm 43,8%), khí đốt hoá lỏng (giảm 24,9%), sắt thép
(giảm 22,9%), nguyên vật liệu dệt may, giày dép (giảm 17,8%)...
Bảng 9: Diễn biến xuất khẩu, nhập khẩu,
nhập siêu năm 2009
3 tháng đầu 6 tháng đầu 9 tháng đầu Ước năm
2009 2009 2009 2009
(so cùng kỳ (so cùng kỳ (so cùng kỳ (so với
2008) 2008) 2008) 2008)
13,5 tỷ USD 27,6 tỷ USD 41,8 tỷ USD 56,6 tỷ USD
XK
(+2,4%) (-10,1%) (-14,8%) (-9,7%)
11,8 tỷ USD 29,7 tỷ USD 48,3 tỷ USD 68,8 tỷ USD
NK
(-45%) (-34,1%) (-25,8%) (-14,7%)
Cán
- 6,5 tỷ - 12,2 tỷ
cân + 1,6 tỷ USD - 2,1 tỷ USD
USD USD
TM
Nguồn: Tổng hợp từ các báo cáo của Tổng cục Thống kê
(ngày 31/3/2009, 1/7/2009, 1/10/2009, 31/12/2009).
Dù b¸o triÓn väng kinh tÕ vÜ m« ViÖt Nam n¨m 2010 35

Khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (chiếm 50%
tổng sản phẩm công nghiệp và 50% tổng kim ngạch xuất khẩu
của nước ta) có mức nhập khẩu năm 2009 ước đạt 24,9 tỷ USD,
giảm 10,8% so với năm 2008. Khu vực kinh tế trong nước nhập
khẩu đạt 43,9 tỷ USD, giảm 16,8% so với năm 2008.
Có thể thấy sự sụt giảm nhập khẩu thể hiện sự đi xuống của
tình hình sản xuất trong nước. Việc tiêu thụ sản phẩm với mức
giá đầu ra giảm khiến nhiều doanh nghiệp đã co hẹp sản xuất.
c) Nhập siêu
Mặc dù cả xuất khẩu và nhập khẩu đều giảm, song nhập
khẩu giảm mạnh hơn nhiều, nên nhập siêu năm 2009 đã giảm
so với cùng kỳ năm 2008. Tuy nhiên, nhập siêu có xu hướng
tăng dần (xem bảng 9). Nhập siêu năm 2009 ước ở mức 12,2 tỷ
USD, giảm 32,1% so với năm 2008 và bằng 21,6% tổng kim
ngạch xuất khẩu.
Mức nhập siêu tăng dần chủ yếu là do nhập khẩu trong
những tháng cuối năm có xu hướng tăng nhanh, trong khi đó
xuất khẩu tăng không nhiều. Tuy mức nhập siêu cả năm 2009
dự kiến vẫn dưới mức của năm 2008 (là 17,5 tỷ USD), nhưng
điều này vẫn gây áp lực lên cân đối kinh tế vĩ mô. Đặc biệt
trong điều kiện năm nay, các nguồn cung ngoại tệ chủ yếu (từ
xuất khẩu, vốn FDI, kiều hối, xem thêm phần I, mục 2) đều
giảm so với năm 2008. Do đó nguồn ngoại tệ để thanh toán cho
nhập khẩu sẽ còn căng thẳng.
3.3. Thị trường xuất nhập khẩu chủ yếu năm 2009
a) Sự co lại của các thị trường xuất nhập khẩu chính
Do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế thế giới, hầu hết các nền
kinh tế là đối tác thương mại chính của Việt Nam như Mỹ, EU,
Nhật Bản, các NICs (Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông,
Xingapo) năm 2009 đều bị tăng trưởng âm. Do đó, nhu cầu
nhập khẩu của các nền kinh tế này đều giảm mạnh, dẫn đến
36 Dù b¸o triÓn väng kinh tÕ vÜ m« ViÖt Nam n¨m 2010

kim ngạch xuất khẩu hàng hoá Việt Nam trong năm 2009 sang
các thị trường chủ yếu đều giảm so với năm 2008. Kim ngạch
xuất khẩu của Việt Nam sụt giảm mạnh trên thị trường Nhật
Bản (giảm 27,7%) và ASEAN (giảm 16,4%)...(bảng 10).
Mối quan hệ với các đối tác nhập khẩu của Việt Nam cũng
gặp nhiều khó khăn. Nhu cầu nhập khẩu của Việt Nam sụt
giảm khá mạnh trên các thị trường nhập khẩu chính.
Bảng 10: Xuất nhập khẩu năm 2009
tại một số thị trường chính
Thị trường XK năm 2009 Thị trường NK năm 2009
xuất khẩu (so cùng kỳ nhập khẩu (so cùng kỳ
chính 2008) chính 2008)
1. Mỹ 11,2 tỷ USD 1. Trung Quốc 16,1 tỷ USD
(-5,5%) (2,7%)
2. EU 9,3 tỷ USD 2. ASEAN 13,4 tỷ USD
(-14,4%) (-31,3%)
3. ASEAN 8,5 tỷ USD 3. Nhật Bản 7,3 tỷ USD
(-16,4%) (-11,3%)
4. Nhật Bản 6,2 tỷ USD 4. Hàn Quốc 6,7 tỷ USD
(-27,7%) (-5,3%)
5. Đài Loan 6,2 tỷ USD
(-25,9%)
Nguồn: Tổng hợp từ báo cáo của Tổng cục Thống kê (ngày
31/12/2009).
b) Xu hướng bảo hộ mậu dịch gia tăng trong bối cảnh khủng
hoảng
Trong bối cảnh suy giảm kinh tế, nhiều quốc gia kêu gọi dân
chúng sử dụng hàng nội địa, đồng thời đưa ra các biện pháp kỹ
thuật hạn chế nhập khẩu và bảo vệ sản xuất trong nước. Một số
Dù b¸o triÓn väng kinh tÕ vÜ m« ViÖt Nam n¨m 2010 37

hàng rào kỹ thuật mới được dựng lên tại các thị trường xuất
khẩu lớn của Việt Nam như sau:
- Tháng 5/2009, Trung Quốc đã yêu cầu tất cả hàng nông
sản của Việt Nam xuất sang nước này phải có chứng nhận xuất
xứ từ ngày 1/7/2009.
- EU không gia hạn Quy chế GSP đối với hàng da giày xuất
khẩu của Việt Nam. Cũng tại EU, Hiệp định “Tăng cường thực
thi Luật Lâm nghiệp, quản trị rừng và buôn bán gỗ” yêu cầu
kiểm tra tính hợp pháp của các lô hàng thông qua các bằng
chứng gốc
- Đạo luật Nông nghiệp 2008 của Mỹ yêu cầu chứng nhận
quy trình sản xuất chế biến cá tra, ba sa... từ các nước xuất
khẩu. Đạo luật Lacey của Mỹ kiểm soát chặt hơn nguồn gốc
sản phẩm gỗ, …
Những biện pháp bảo hộ mậu dịch như vậy làm cho việc
thâm nhập thị trường của các doanh nghiệp xuất khẩu Việt
Nam ngày càng trở nên khó khăn hơn.

4. Lạm phát đã được kiểm soát và ở mức phù hợp


Khủng hoảng tài chính thế giới đã làm giá cả hàng hoá thế
giới giảm sâu, giá hàng hóa thị trường trong nước cũng hạ
nhiệt theo thị trường thế giới sau khoảng thời gian lạm phát
tăng cao kéo dài từ năm 2007 đến giữa năm 2008. Để đối phó
với khủng hoảng tài chính thế giới, năm 2009 Chính phủ đã
chủ động thực hiện chính sách tài chính tiền tệ linh hoạt, đồng
bộ và phù hợp với tình hình thực tế nhằm duy trì tốc độ tăng
trưởng kinh tế, ổn định kinh tế vĩ mô và kiềm chế lạm phát.
Các chính sách kích thích kinh tế của Chính phủ đã phát huy
tác dụng, tăng trưởng kinh tế hồi phục, GDP tăng 5,32%, giá
cả tương đối ổn định, chỉ số giá tiêu dùng năm 2009 so với
38 Dù b¸o triÓn väng kinh tÕ vÜ m« ViÖt Nam n¨m 2010

tháng 12 năm 2008 tăng 6,45%, tính trung bình cả năm 2009
so với 2008 CPI tăng 6,88%. Nhằm tiếp tục thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế, ổn định kinh tế vĩ mô và chuẩn bị đà cho phát
triển kinh tế ở những năm tiếp theo Chính phủ đã thực hiện
chương trình hỗ trợ vay lãi suất thấp theo đúng kế hoạch nhằm
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và đưa nền kinh tế vào phát triển
ổn định. Tuy nhiên vẫn còn tiềm ẩn một số bất ổn cho thấy lạm
phát cao năm 2010 có thể sẽ quay trở lại nếu không có các biện
pháp ngăn chặn kịp thời từ bây giờ.
Bảng 11: Tốc độ tăng chỉ số giá tiêu dùng CPI
so với tháng 12 năm trước (%)
2005 2006 2007 2008 2009
Quý 1 3,7 2,8 3 9,19 1,32
Quý 2 1,5 1,2 2,2 9,25 1,36
Quý 3 1,6 1,1 2,12 3,43 1,43
Quý 4 1,6 1,5 5,31 -1,98 2,34
Cả năm 8,4 6,6 12,63 19,89 6,45
Nguồn: Tổng cục Thống kê.
Những yếu tố tiềm ẩn bất ổn:
Thứ nhất, tình trạng bội chi ngân sách cao nhiều năm trở lại
đây (theo báo cáo của Ủy ban Kinh tế của Quốc hội, năm 2008
nợ chính phủ chiếm khoảng 36,5% GDP thì năm 2009 lên đến
40% và năm 2010 dự kiến khoảng 44%) nếu không có giải
pháp quyết liệt để giảm dần trong vài năm tới, nợ chính phủ sẽ
tiến dần và vượt qua mức giới hạn an toàn.
Thứ hai, dư nợ chính phủ hiện nay đang ở mức cao. Hiện
con số dư nợ chính phủ đã khoảng 44,6% GDP, chưa bao gồm
khoản vay của địa phương và các khoản tạm ứng ngân sách
Dù b¸o triÓn väng kinh tÕ vÜ m« ViÖt Nam n¨m 2010 39

luân chuyển qua các năm. Bên cạnh đó, tăng trưởng tín dụng
nhanh đã gây sức ép tăng lãi suất, dẫn đến hệ quả tăng chi phí
vốn, làm tăng giá thành sản xuất.
Thứ ba, cán cân thanh toán tổng thể thâm hụt 1,5 tỷ USD, dự
trữ ngoại hối giảm, thị trường ngoại hối có biểu hiện căng thẳng
về cung cầu ngoại tệ, gây sức ép lên tỷ giá. Một thực tế là lượng
tiền bơm vào nền kinh tế lớn nhưng tốc độ tăng trưởng kinh tế
chưa cao, chỉ số ICOR tăng lên rõ rệt (tăng lên trên 8 so với mức
6,6% năm 2008). Điều này cùng với chính sách “nới lỏng tài
khóa” và “nới lỏng tiền tệ” được áp dụng trong năm 2009 có thể
làm tăng nguy cơ lạm phát trong giai đoạn tới, dẫn đến những
khó khăn trong việc duy trì các cân đối vĩ mô.
Đồ thị 7: Chỉ số giá tiêu dùng theo quý, giai đoạn 2005-2009

Chỉ số CPI
18

13

-2 2005 2006 2007 2008 2009


Quí 1 Quí 2 Quí 3 Quí 4 Cả năm

5. Thị trường chứng khoán có nhiều khởi sắc, thị trường


bất động sản đang dần hồi phục
5.1. Thị trường chứng khoán có nhiều khởi sắc
Thị trường chứng khoán có dấu hiệu hồi phục từ quý
II/2009. Quý III/2009 thị trường này tiếp tục đà hồi phục và
40 Dù b¸o triÓn väng kinh tÕ vÜ m« ViÖt Nam n¨m 2010

luôn ở xu thế đi lên lành mạnh. Dòng tiền đổ vào thị trường
mạnh phản ánh sự hưng phấn của thị trường, sự hoài nghi về
dòng chảy từ nguồn vốn kích cầu không còn cơ sở, lòng tin
giới đầu tư dần được củng cố, các mã cổ phiếu đã tạo được mặt
bằng giá mới. Khác biệt của thị trường trong quý này này là sự
thay đổi danh mục đầu tư. Nhóm cổ phiếu tài chính không còn
chiếm ưu thế nữa mà được thay vào bằng sự lên ngôi của nhóm
cổ phiếu ngành xây dựng và bất động sản và việc bán ròng với
khối lượng và giá trị lớn của khối các nhà đầu tư nước ngoài.
Thị trường chứng khoán tiếp tục xu thế này ở những tháng đầu
quý 4/2009.
Từ cuối tháng 11/2009 khi Chính phủ quyết định không tiếp
tục kéo dài chương trình hỗ trợ lãi suất cho vay 4%, Ngân hàng
Nhà nước nâng lãi suất cơ bản lên mức 8%/năm và điều chỉnh
tỷ giá giữa VNĐ/USD cũng như thu hẹp biên độ tỷ giá thì Thị
trường chứng khoán có dấu hiệu chững lại. Chỉ số HOSE và
HNX được điều chỉnh giảm điểm khá mạnh và cuối tháng
12/2009 thì sư thay đổi của các chỉ số này luôn trong xu thế
được điều chỉnh nhẹ.
Đánh giá chung về Thị trường chứng khoán Việt Nam năm
2009: Thị trường đã phản ứng “nhạy bén” hơn với các thông
tin vĩ mô, thông tin hỗ trợ trực tiếp bằng kết quả giao dịch và
giá trị cổ phiếu trên sàn. Ở những thời điểm có ít thông tin kinh
tế vĩ mô, hoặc các thông tin kinh tế vĩ mô trong và ngoài nước
còn trái chiều nhau thì các nhà đầu tư thực hiện giao dịch chủ
yếu dựa vào thông tin về kết quả kinh doanh doanh nghiệp,
thông tin chia thưởng, trúng thầu dự án … và những diễn biến
trên thị trường chứng khoán thế giới.
Diễn biến của thị trường chứng khoán có thể cho những
nhận định lạc quan về sự phát triển trong năm 2010. Tuy rủi ro
ngắn hạn vẫn ở mức cao, nhưng thị trường sẽ tiếp tục được
củng cố có bước phát triển tốt hơn trong dài hạn.
Dù b¸o triÓn väng kinh tÕ vÜ m« ViÖt Nam n¨m 2010 41

5.2. Thị trường bất động sản đang hồi phục


Từ quý II/2009, thị trường bất động sản (BĐS) đã có dấu
hiệu khởi sắc, giá BĐS bật tăng mạnh. Đợt “sốt” mang tính cục
bộ suốt 3 tháng của quý II/2009 là do kết quả của một loạt các
chính sách kích thích kinh tế của Chính phủ. Tại thời điểm
tháng 6/2009, đã có những nhận định rất lạc quan rằng thị
trường BĐS hồi phục sau một thời gian dài bị tụt dốc. Nhưng
khi hiện tượng giao dịch trầm lắng, người bán nhiều, người
mua ít ngay cả khi giá giảm (tháng 8/2009) thì có thể thấy thị
trường BĐS vẫn còn giảm sút bất chấp nền kinh tế đang có dấu
hiệu phục hồi.
Diễn biến của thị trường bất động sản 2009 không theo quy
luật. Các chu kỳ “nóng” và “lạnh” của thị trường ngày một
ngắn. Giá cả BĐS tăng cao và tăng cao một cách không thể
lường trước. Lượng giao dịch bất động sản không nhiều. Giới
đầu tư ít quan tâm việc mua BĐS mà tập trung hơn vào các cổ
phiếu nhóm ngành này. Sự trỗi dậy của nhóm cổ phiếu BĐS
cuối tháng 9 và đầu tháng 10/2009 thu hút một lượng tiền đầu
tư lớn và rất có thể lại là dấu hiệu chu kỳ tăng trưởng mới, dài
hơi hơn của thị trường BĐS trong trung và dài hạn.
Sự hồi phục vững chắc của thị trường BĐS chỉ có thể đến
được từ sự phục hồi của cả nền kinh tế. Cuộc khủng hoảng tài
chính và suy thoái kinh tế toàn cầu đã đến hồi kết, kinh tế Việt
Nam đang hồi phục và ngành Xây dựng đang được hồi phục
mạnh mẽ là những yếu tố cho thấy Thị trường BĐS Việt Nam
năm 2010 sẽ được hồi phục và phát triển mạnh hơn.

6. Chính sách tài chính - tiền tệ


Kinh tế Việt Nam bước vào năm 2009 với nhiều áp lực.
Khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu ảnh hưởng
tiêu cực đến toàn bộ nền kinh tế, sản xuất trì trệ, luồng vốn ách
tắc,... Trước tình hình đó, Chính phủ đã thực hiện nhiều chính
42 Dù b¸o triÓn väng kinh tÕ vÜ m« ViÖt Nam n¨m 2010

sách điều hành vĩ mô nhằm cân bằng lại nền kinh tế, đưa sản
xuất trở lại hoạt động, thoát ra khỏi tình trạng trì trệ. Những
chính sách điều hành kinh tế quan trọng của Việt Nam 2009
thuộc về lĩnh vực tài chính - tiền tệ. Có thể thấy những chính
sách tài chính tiền tệ năm 2009 tập trung vào 2 đợt:
Đợt 1, tháng 2/2009, khi nền kinh tế Việt Nam chịu ảnh hưởng
tiêu cực mạnh nhất của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái
toàn cầu và có mức suy giảm kinh tế sâu nhất. Để chặn đứng được
đà suy giảm, đưa nền kinh tế hồi phục, Chính phủ đã tiến hành
thực hiện gói kích cầu nền kinh tế lên tới 143 nghìn tỷ đồng, chiếm
hơn 8% GDP bao gồm hỗ trợ lãi suất vay 4%, hỗ trợ tiêu dùng, hỗ
trợ đầu tư và đầu tư cho các công trình xây dựng cơ bản,...
Những chính sách tiền tệ quan trọng khác trong giai đoạn
này là: Cố định mức lãi suất cơ bản 7%, trong 10 tháng năm
2009 (từ tháng 2 đến 11) và ban hành hàng loạt những chính
sách về hỗ trợ lãi suất1. Duy trì tỷ giá bình quân trên thị trường
ngoại tệ liên ngân hàng từ đầu năm 2009 đến cuối tháng 11 ở
mức 16.989 đồng/USD và từ 24/3/2009 điều chỉnh rộng biên
độ tỷ giá từ mức +/- 3% lên mức +/-5%.
Đợt 2, cuối tháng 11/2009, là lúc nền kinh tế đã vượt qua
khỏi “đáy” của cuộc suy giảm kinh tế và đang trên đà hồi phục
nhưng lại xuất hiệu nhiều nguy cơ mới về tăng trưởng nóng và
lạm phát, tín dụng tăng cao, một số yêu cầu về cân đối vĩ mô
của nền kinh tế có nguy cơ không được đảm bảo, xuất khẩu
vẫn suy giảm, cán cân thương mại thâm hụt nghiêm trọng,
nguồn bổ sung ngoại tệ từ đầu tư nước ngoài và kiều hối giảm
sút,.... Ngân hàng nhà nước đã quyết định tăng lãi suất cơ bản
1
Quyết định số 131/TTg-CP ngày 23/01/2009 của Thủ tướng về việc hỗ trợ lãi suất cho các
tổ chức, cá nhân vay vốn ngân hàng đến sản xuất – kinh doanh; Quyết định 443/QĐ-TTg
ngày 4/4/2009 về việc hỗ trợ lãi suất cho các tổ chức, cá nhân, vay vốn trung và dài hạn
ngân hàng để thực hiện đầu tư mới để phát triển sản xuất – kinh doanh; Quyết định
497/QĐ-TTg về hỗ trợ vốn vay mua máy móc thiết bị, vật tư phục vụ sản xuất nông nghiệp
và vật liệu xây dựng nhà ở khu vực nông thôn; Quyết định số 579/QĐ-TTg về hỗ trợ lãi suất
đối với các khoản vay tại Ngân hàng Chính sách xã hội,...
Dù b¸o triÓn väng kinh tÕ vÜ m« ViÖt Nam n¨m 2010 43

và lãi suất tái cấp vốn từ 7% lên 8%/năm, lãi suất chiết khấu
tăng từ 5%/năm lên 6%/năm (bắt đầu từ ngày 1/12/2009).
Cùng với đó, tỷ giá bình quân liên ngân hàng được áp dụng ở
mức mới là 17.961 đồng/USD với biên độ tỷ giá cho giao dịch
mua bán giao ngay giữa USD và VND được điều chỉnh mới là
± 3%. Biện pháp này đã góp phần ổn định tiền đồng, giảm bớt
tình trạng khan hiếm đô la, kiểm soát tín dụng, …
Có thể thấy, chính sách tài chính - tiền tệ năm 2009 của Việt
Nam được nới lỏng, linh hoạt và nhất quán. Vào thời điểm đầu
năm, trước áp lực suy giảm kinh tế, chính sách “neo giá vốn” ở
mức độ phù hợp với sức chịu đựng của nền kinh tế trong thời
kỳ khủng hoảng đã được thực hành tương đối triệt để. Được hỗ
trợ bởi việc hỗ trợ lãi suất cho vay 4%/năm từ gói kích cầu,
mức lãi suất vay giảm thấp hẳn cho các doanh nghiệp, giúp
doanh nghiệp thoát khỏi ách tắc lưu thông vốn do gánh năng
nợ xấu2, hồi phục hệ thống sản xuất và dịch vụ, “kích hoạt”
được nền kinh tế thoát khỏi đà suy thoái. Mục tiêu "giải cứu"
nền kinh tế thoát khỏi khủng hoảng có thể coi là hoàn thành.
Điều này được thể hiện trên các mặt sau:
- Tăng trưởng, sản xuất và dịch vụ dần hồi phục. Tổng sản
phẩm nội địa (GDP) quý sau tăng cao hơn quý trước. Từ quý
II/2009, giá trị sản xuất công nghiệp đã tăng trở lại một cách
ổn định, tháng sau cao hơn tháng trước3. Giá trị tăng thêm của
ngành xây dựng từ âm 0,4% năm 2008 tăng lên 11,3% năm
2009. Giá trị tăng thêm của khu vực dịch vụ tăng khoảng 6,5%.
Vượt qua thiên tai, dịch bệnh, nông nghiệp phát triển khá ổn
định, giá trị sản xuất 9 tháng tăng 2,6%, dự kiến cả năm tăng
2,8% so với cùng kỳ năm trước,...
2
Trong 6 tháng, từ tháng 2-8/2009, kể từ khi thực hiện chính sách neo lãi suất có hỗ trợ
ngân hàng đã cho vay tổng cộng gần 400 ngàn tỉ đồng.
3
So với cùng kỳ năm trước, tháng 1 giảm (-) 4,4%, tháng 2 tăng 2,5%, tháng 4 tăng
5,6%, tháng 5 tăng 6,8%, tháng 6 tăng 8,2%; tháng 7 tăng 7,6%; tháng 8 tăng 10,6%,
tháng 9 tăng 13,8%.
44 Dù b¸o triÓn väng kinh tÕ vÜ m« ViÖt Nam n¨m 2010

- Lạm phát vẫn được đặt trong tầm khống chế. Tuy tăng
trưởng trở lại nhưng chỉ số giá tiêu dùng (CPI) ước trung bình
cả năm chỉ tăng khoảng 6,88%. Các mặt hàng xăng dầu, điện,
than được chuyển sang cơ chế giá thị trường theo lộ trình,
không gây xáo trộn lớn.
- Tạo động lực lớn thúc đẩy các thị trường. Sau khi gói kích
cầu thứ nhất có hiệu lực, các thị trường nhà đất, bất động sản,
chứng khoán đều có tín hiệu khởi sắc. Thị trường chứng khoán
tăng trưởng ổn định. Thị trường nhà đất, bất động sản có dấu
hiệu phục hồi. Tình trạng “bong bóng” nhà đất được khống chế
vì các khoản cho vay dành cho khu vực địa ốc đã tăng chậm
hơn tốc độ tăng trưởng tín dụng.
Tuy nhiên, cũng còn thấy thị trường tài chính tiền tệ 2009
cũng còn nhiều bất cập, công tác điều hành còn gây nhiều tranh
luận. Cụ thể:
Thứ nhất, thị trường ngoại hối không ổn định ảnh hưởng
tiêu cực đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
và đời sống người dân. Tình trạng khan hiếm ngoại tệ diễn ra
trong hầu hết năm.Tỷ giá VNĐ/USD tiếp tục tăng cao kể cả
sau khi Ngân hàng Nhà nước thực hiện các chính sách điều
chỉnh tỷ giá và nới rộng (sau đó là thu hẹp) biên độ tỷ giá. Do
tình trạng cung cầu ngoại hối trên thị trường luôn ở trạng thái
căng thẳng, các ngân hàng thương mại luôn niêm yết tỷ giá
mua vào lẫn bán ra ở mức tỷ giá trần, tỷ giá mua bằng tỷ giá
bán và chuyển khoản. Trong khi đó các tổ chức tín dụng không
có ngoại tệ để bán cho doanh nghiệp và nếu có thì ở mức tỷ giá
cao hơn tỷ giá trần do Ngân hàng Nhà nước quy định.
Trên thị trường tự do tỷ giá VND/USD luôn cao hơn rất
nhiều so với thị trường chính thức. Tỷ giá được giao dịch ở
mức cao nhất trên thị trường tự do lên đến gần 20 nghìn
đồng/USD (cuối tháng 11 đầu tháng 12/2009), chênh lệch
nhiều so với mức niêm yết tại các Ngân hàng Thương mại.
Dù b¸o triÓn väng kinh tÕ vÜ m« ViÖt Nam n¨m 2010 45

Chênh lệch tỷ giá giữa ngân hàng và thị trường tự do gây nhiều
khó khăn cho các doanh nghiệp và người dân có ký kết hợp
đồng buôn bán với nước ngoài. Gây tâm lý không ổn định cho
các nhà nhập khẩu, hiện tượng đầu cơ ngoại tệ gia tăng.
Việc tăng tỷ giá VND/USD cũng đồng nghĩa với việc phá
giá đồng Việt Nam. Nếu tính giá trên thị trường tự do, trong
năm 2009, đồng Việt Nam đã mất giá đến 14% (từ mức 1 USD
đổi được 17,5 nghìn đồng đầu năm 2009 đến mức gần 20
nghìn đồng thời điểm cuối năm).
Việc tăng lãi suất cũng như mất giá Việt Nam đồng đã làm
cho các doanh nghiệp sẽ phải đối mặt với những thách thức
mới. Hàng hoá đã bị đẩy lên một mặt bằng giá mới và điều đó
đã gây ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống của đại bộ phận dân
cư và những người làm công ăn lương.
Thứ hai, quan hệ cung cầu vốn còn có nhiều bất cập. Điều
này thể hiện rõ trên thị trường. Khách hàng gửi tiền đã và đang
được các ngân hàng thương mại săn đón hết cỡ với nhiều chiêu
thức khuyến mãi hấp dẫn khác nhau, đặc biệt lãi suất huy động
mà các ngân hàng chấp nhận “mua” liên tục bị đẩy lên vượt
qua ngưỡng 10%/năm, sát với trần lãi suất cho vay. Trong khi
đó, khách hàng đi vay hiện phải đối mặt với khá nhiều trở ngại
do một số ngân hàng phải hạn chế tăng trưởng tín dụng theo
chỉ thị của Ngân hàng Nhà nước, ngoại trừ một số khách hàng
truyền thống có uy tín, còn lại nếu là khách hàng mới thì việc
vay vốn ngân hàng lại càng khó khăn hơn. Hệ thống bảo lãnh
cũng chủ yếu tập trung vào các doanh nghiệp nhà nước. Các
doanh nghiệp nhỏ và vừa thuộc khu vực ngoài quốc doanh
chiếm tỷ lệ vay còn thấp, trong khi hiệu quả sử dụng vốn của
khối này đạt cao hơn.
Quan hệ cung cầu vốn cũng không hẳn xuất phát từ nhu cầu
thực tế. Lãi suất thực dương khá lớn, hơn hẳn mức tăng CPI
(7%) và vẫn có xu thế tăng cho thấy áp lực tăng lãi suất phần
46 Dù b¸o triÓn väng kinh tÕ vÜ m« ViÖt Nam n¨m 2010

lớn xuất phát từ nhu cầu tín dụng gia tăng chứ chưa chắc đã do
quan hệ cung cầu vốn. Trong khi đó, hoạt động của hệ thống
ngân hàng thương mại Việt Nam hiện còn đang trong quá trình
hoàn thiện. Việc mở rộng ồ ạt mạng lưới và các loại dịch vụ
sinh lời ngắn hạn (sàn giao dịch vàng, chứng khoán …) không
thực sự tương xứng với năng lực vốn, khả năng quản trị rủi ro
và đầu tư công nghệ, đã làm phát sinh thêm nhiều biến động
phức tạp trên thị trường tiền tệ.
Thứ ba, tình trạng khan hiếm và khó tiếp cận nguồn vốn vẫn
tồn tại. Hiện tượng đảo nợ ở các doanh nghiệp là khó tránh
khỏi và không thể kiểm soát.
Nhu cầu tín dụng tăng mạnh, phản ánh đúng ý đồ tác
động của chính sách lãi suất của Chính phủ. Tuy nhiên,
cũng cần thấy nhu cầu này tăng do đánh trúng với tâm lý cơ
hội của người vay hơn là những nhu cầu thực sự cần thiết vì
mục tiêu phục vụ sản xuất kinh doanh. Trong điều kiện thị
trường nhà đất còn chưa ổn định, yếu tố đầu cơ còn nặng,
ảnh hưởng của thị trường chứng khoán và vàng gia tăng, tín
dụng tăng cao sẽ dẫn đến rủi ro về chu chuyển các dòng tiền
tệ, kích hoạt thị trường “tín dụng đen” cũng như khuyến
kích người mua tận dụng tối đa các kẽ hở có thể có trong cơ
chế tín dụng để đẩy nhanh vòng quay vốn sai mục đích mà
bản thân các ngân hàng và cơ quan quản lý không thể kiểm
soát được.
Cuối cùng, trong công tác điều hành tài chính - tiền tệ năm
2009, có những cam kết, tuyên bố không thực hiện được hay đi
ngược với điều hành như cam kết giữ mức tín dụng dưới 30%,
hay tuyên bố về việc giữ nguyên tỷ giá và lãi suất ít nhất hết
năm 2009. Theo biến động thực tế của nền kinh tế năm 2009,
mặc dù việc tăng trưởng tín dụng hay việc thay đổi tỷ giá, lãi
suất là bất khả kháng nhằm mục tiêu ổn định cân đối vĩ mô,
Dù b¸o triÓn väng kinh tÕ vÜ m« ViÖt Nam n¨m 2010 47

nhưng vẫn gây ra mất lòng tin trong dân cư, tạo tâm lý không
tốt cho thị trường tiền tệ có tính “nhạy cảm” cao và làm giảm
hiệu quả những chính sách tài chính - tiền tệ sau này.
Một cách tóm tắt có thể thấy rằng, chính sách tài chính
tiền tệ ở nước ta năm 2009 đã thực sự là công cụ quan trọng
để điều tiết vĩ mô của Nhà nước. Trong năm 2009, chính
sách này đã “vực dậy” nền kinh tế đang suy thoái do tác
động của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế
toàn cầu. Tuy nhiên, để tăng cường hiệu quả điều hành vĩ mô
trong thời gian tới, chính sách tài chính tiền tệ cần có sự cân
nhắc kỹ lưỡng hơn nữa để vửa đảm bảo được các cân đối vĩ
mô, vừa mang lại công bằng lợi ích cũng như lòng tin cho
cộng đồng dân cư.

7. Vấn đề lao động việc làm đã bớt căng thẳng, doanh


nghiệp triển khai hoạt động đầu tư và đẩy mạnh sản xuất
Theo Bộ Lao động, cả nước có hơn 44 triệu người trong độ
tuổi lao động. Trong số có việc làm thì trên 70% là không ổn
định, dễ bị tổn thương, dễ rơi vào nghèo đói. Lao động trong
nông nghiệp chiếm tỷ lệ lớn nhất, khoảng 52%.
Nếu những tháng đầu năm 2009 thị trường lao động tương
đối trầm lắng, tình trạng mất việc làm xảy ra phổ biến thì
những tháng cuối năm nhu cầu việc làm tăng cao so với những
tháng đầu năm và tăng cao dần theo sự phục hồi trở lại của nền
kinh tế trong nước và thế giới. Năm 2009 ước tạo ra viêc làm
cho hơn 1,5 triệu lao động (đạt 88,5% kế hoạch Quốc hội
giao), trong đó việc làm trong nước 1.430 nghìn người, xuất
khẩu lao động 75 nghìn người.
Tình trạng tăng đột biến nhu cầu nhân lực những tháng cuối
năm chủ yếu xuất phát từ những dấu hiệu phục hồi của kinh tế
48 Dù b¸o triÓn väng kinh tÕ vÜ m« ViÖt Nam n¨m 2010

trong nước và thế giới. Nhiều doanh nghiệp trong nước tìm
được đơn đặt hàng từ nước ngoài, dẩy mạnh việc khôi phục,
tăng tốc sản xuất nên cần số lượng lớn về lao động.
So với các năm trước, thị trường lao động cuối năm 2009 có
xu hướng chuyển biến mới, biểu hiện ở chỗ các công ty, doanh
nghiệp kết hợp tuyển “song hành” cả nhân sự quản lý và người
làm việc giản đơn. Cùng với nhu cầu nhân sự cao cấp, lao động
phổ thông, nghề sơ cấp cho các việc làm ổn định và thời vụ
cũng là nguồn nhân lực được nhiều nhà tuyển dụng tìm kiếm.
Việc làm tập trung ở các ngành nghề: bán hàng, dịch vụ, phục
vụ ăn uống, bán sản phẩm hàng hóa và các ngành gia công sản
xuất hàng dân dụng, chế biến thực phẩm, trang trí nội thất, sửa
chữa xây dựng nhỏ.
Sự cân bằng giữa tuyển dụng nhân sự cao cấp và lao động
giản đơn được đánh giá là dấu hiệu tích cực của thị trường lao
động cuối năm. Điều này cho thấy sự cân bằng trong cơ cấu
nguồn nhân lực, đảm bảo ổn định nguồn nhân lực và công ăn
việc làm cho năm 2010.
Theo khảo sát của nhà cung cấp các giải pháp tuyển dụng
nhân lực tại Việt Nam Navigos Group, thời điểm này, người
nước ngoài và Việt kiều có xu hướng về Việt Nam tìm việc
tăng, họ có kinh nghiệm và được đào tạo ở môi trường quốc tế.
Đây là cơ hội tốt cho các doanh nghiệp muốn tuyển dụng lao
động cao cấp từ nước ngoài với mức lương địa phương.
Tuy nhiên thị trường lao động hiện nay chưa thực sự là cầu
nối gắn người sử dụng lao động và người lao động. Bởi vì,
nhiều người lao động vẫn chưa có việc làm trong khi đó có
nhiều doanh nghiệp không tuyển được lao động; công tác quản
lý lao động còn nhiều yếu kém, đặc biệt là trong khâu theo dõi,
quản lý lao động mất việc làm do suy giảm kinh tế và lao động
là người nước ngoài làm việc tại Việt Nam.
Dù b¸o triÓn väng kinh tÕ vÜ m« ViÖt Nam n¨m 2010 49

8. Tổng mức bán lẻ và tiêu dùng dân cư tăng khá


Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
cả năm ước tính đạt 1.197,5 nghìn tỷ đồng, tăng 18,6% so với
năm 2008, nếu loại trừ yếu tố giá thì tăng 11%. Trong các
ngành kinh doanh và dịch vụ, kinh doanh thương nghiệp đạt
939,6 nghìn tỷ đồng, chiếm 78,7% tổng mức, tăng 18,6% so
với năm trước; khách sạn nhà hàng đạt 135 nghìn tỷ đồng,
chiếm 11,3% và tăng 18,4%; dịch vụ đạt 111,6 nghìn tỷ đồng,
chiếm 17,5% và tăng 20,3%; du lịch đạt 11,3 nghìn tỷ đồng,
chiếm 0,98% và tăng 1,9%. Có thể thấy càng về cuối năm tốc
độ tăng tổng mức bán lẻ của khu vực FDI tăng cao nhất, tiếp
đến là khu vực nhà nước, khu vực tư nhân và cá thể có mức
tăng chậm nhất, thậm chí tháng 12 tổng mức bán lẻ khu vực tư
nhân còn có dấu hiệu đi xuống (giảm 9,4%), điều đó có thể cho
thấy sản xuất của khu vực cá thể và tư nhân với quy mô nhỏ và
manh mún khó có thể cạnh tranh với các khu vực khác trong
thời kỳ này.
Đồ thị 8: Tốc độ tăng trưởng tổng mức bán lẻ hàng hóa
và dịch vụ năm 2009

Tốc độ tăng tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ


theo khu vực 2009
0.7

0.5

0.3

0.1

-0.1 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12

-0.3

-0.5

Nhà nước Tập thể Cá thể Tư nhân Khu vực FDI


50 Dù b¸o triÓn väng kinh tÕ vÜ m« ViÖt Nam n¨m 2010

Tuy từ tháng 3 trở lại đây, do tác động của các gói kích cầu
và các chương trình khuyến mại, giảm giá, tổng mức bán lẻ
dịch vụ và hàng hóa bắt đầu tăng trở lại. Nhưng việc tốc độ
tăng của tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu
dùng từ đầu năm đến nay chỉ dao động xung quanh ngưỡng
10%, tức là chưa bằng một nửa của những năm nền kinh tế
đang trên đà tăng tốc và cũng chỉ bằng hơn 1/3 tốc độ tăng của
năm lạm phát tăng phi mã 2008 cho thấy sau một khoảng thời
gian lạm phát phi mã quá dài, sức mua của một bộ phận không
nhỏ dân cư đã bị suy giảm và khi nền kinh tế bước vào giai
đoạn phát triển khó khăn, công ăn việc làm của bộ phận dân cư
này trở nên khó khăn hơn, thu nhập giảm khiến sức mua giảm,
thêm nữa, trong điều kiện tâm lý “thắt lưng buộc bụng” của
một bộ phận lớn dân cư sẽ mạnh hơn và điều này cũng khiến
sức mua xã hội giảm. Tuy nhiên với việc kéo dài hỗ trợ lãi suất
cho các doanh nghiệp, chúng ta vẫn có thể hy vọng sức mua
trong dân cư sẽ tăng lên, điều này sẽ cho thấy dấu hiệu phục
hồi kinh tế trước các biện pháp kích cầu của Chính phủ.

9. Mức độ hoàn thành các chỉ tiêu kế hoạch năm 2009


Căn cứ vào kết quả ước thực hiện kế hoạch năm 2009 và
đối chiếu với các chỉ tiêu kế hoạch của năm này, kết quả thực
hiện một số chỉ tiêu kinh tế chủ yếu và chỉ tiêu về lao động
việc làm, nghèo đói như sau:
Bảng 12: Mức độ hoàn thành các chỉ tiêu kế
hoạch năm 2009
Chỉ Ước
TT Chỉ tiêu Đơn vị tiêu TH
QH 2009
1 Tốc độ tăng trưởng GDP % 5,0 5,32
2 Tốc độ tăng tổng kim ngạch % 3,0 -9,7
xuất khẩu
Dù b¸o triÓn väng kinh tÕ vÜ m« ViÖt Nam n¨m 2010 51

Chỉ Ước
TT Chỉ tiêu Đơn vị tiêu TH
QH 2009
3 Tổng VĐT PTTXH/GDP % 39,5 42,8
4 Chỉ số giá tiêu dùng % <10% 6,88

5 Tổng thu cân đối ngân sách Ngh. tỷ 389,9 390,65


Nhà nước
6 Tổng chi ngân sách Nhà nước Ngh. tỷ 491,3 533
7 Bội chi ngân sách nhà nước % so <7 6,9
với
GDP
8 Tạo việc làm Tr. 1,7 1,51
người
9 Lao động đưa đi làm việc ở Vạn 9 7
nước ngoài người
10 Tỷ lệ hộ nghèo % 12 11
52 Dù b¸o triÓn väng kinh tÕ vÜ m« ViÖt Nam n¨m 2010

Phaàn II
Dù b¸o triÓn väng
kinh tÕ ViÖt Nam n¨m 2010

Để dự báo triển vọng kinh tế Việt Nam năm 2010, Phần này
sẽ phân tích và đánh giá nhanh khả năng hồi phục của kinh tế
thế giới, của một số nền kinh tế lớn và tác động của sự hồi
phục đó đến kinh tế Việt Nam. Phần này cũng sẽ đánh giá các
quan hệ nhân quả giữa tăng trưởng GDP với lạm phát, thâm
hụt cán cân thương mại và cán cân vãng lai của Việt Nam
trong giai đoạn 1990-2008. Kịch bản tăng trưởng kinh tế Việt
Nam năm 2010 đươc xây dựng dựa trên hai giả định về sự
phục hồi của nền kinh tế thế giới và khả năng huy động vốn
đầu tư phát triển toàn xã hội ở nước ta.

1. Tác động của phục hồi kinh tế thế giới đến Việt Nam
Việt Nam là nền kinh tế có độ mở cao, trong đó xuất khẩu là
một trong những động lực tăng trưởng kinh tế chính của nước
ta trong những năm qua. Sự phát triển kinh tế Việt Nam trong
một chừng mực nào đó cũng chịu ảnh hưởng của dòng vốn
FDI. Trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế thế giới, xuất khẩu
và vốn FDI cam kết vào Việt Nam năm 2009 đã bị suy giảm
mạnh so với năm 2008, gây ảnh hưởng nhiều đến tăng trưởng
kinh tế của nước ta.
Hai quý cuối năm đã xuất hiện một số tín hiệu phục hồi kinh
tế thế giới. Dưới đây là phân tích về khả năng phục hồi của một
số nền kinh tế là các đối tác chủ yếu của nước ta (Mỹ, EU, Nhật
Bản, Trung Quốc), khả năng phục hồi luồng vốn FDI và khả
năng phục hồi cầu thế giới, cũng như các tác động tới Việt Nam.
Dù b¸o triÓn väng kinh tÕ vÜ m« ViÖt Nam n¨m 2010 53

1.1. Dự báo khả năng phục hồi kinh tế Mỹ và một số đối


tác kinh tế chính của Việt Nam
Suy giảm kinh tế toàn cầu xuất phát từ khủng hoảng tài
chính Mỹ - nền kinh tế lớn nhất thế giới. Hầu hết các nền kinh
tế đều bị tác động tiêu cực, từ các nền kinh tế lớn (EU, Nhật
Bản, Trung Quốc) đến các nền kinh tế nhỏ hơn. IMF dự báo
tăng trưởng GDP 2009 của các nước đều giảm. Trong đó, Mỹ
là -2,5%, Nhật -5,3%, khu vực EURO -3,9%. Trung Quốc
và Ấn Độ tuy vẫn tăng trưởng dương song thấp hơn năm 2008.
Tổng thể, tăng trưởng toàn cầu năm 2009 là -0,8%.
Bảng 13: Dự báo tăng trưởng kinh tế 2009 và 2010
của IMF
Dự báo tăng trưởng Dự báo tăng trưởng
Nền kinh tế
2009 2010
Toàn cầu -0,8% 3,9%
Mỹ -2,5 2,7
Khu vực EURO -3,9 1,0
Trung Quốc 8,7 10,0
Nhật -5,3 1,7
Ấn Độ 5,6 7,7
Nguồn: World Economic Outlook, IMF, 10/2009
Để đối phó với các tác động của cuộc khủng hoảng được
xem là tồi tệ nhất kể từ Đại suy thoái kinh tế 1929-1933, chính
phủ nhiều nước đã thực hiện các biện pháp kích thích kinh tế
lớn nhằm thúc đẩy đầu tư, tăng tiêu dùng, tạo điều kiện cho sản
xuất kinh doanh, ngăn chặn suy thoái. Tổng cộng số tiền các
nước đã sử dụng để kích thích kinh tế là khoảng 10 nghìn tỷ
USD. Dưới tác động của các biện pháp kích thích đó, gần đây
đã xuất hiện một số tín hiệu lạc quan. Tốc độ suy giảm của một
54 Dù b¸o triÓn väng kinh tÕ vÜ m« ViÖt Nam n¨m 2010

số nền kinh tế đã chậm lại. Thị trường chứng khoán bắt đầu
phục hồi. Một số ngành sản xuất có dấu hiệu tăng.
IMF dự báo kinh tế toàn cầu năm 2010 sẽ tăng trưởng 3,9%,
cao hơn mức dự báo 3,1% đưa ra tháng 10/2009. Dự báo lạc
quan này được đưa ra dựa trên cơ sở số tiền lớn thế giới đã chi
ra để kích thích tăng trưởng và sự phục hồi nhu cầu tại các thị
trường châu Á.
Mỹ: Kinh tế Mỹ tăng trưởng mạnh hơn dự báo và dự báo sẽ
phục hồi ổn định vào giữa năm 2010. Chỉ số Dow Jones vượt
ngưỡng 10.000 điểm tháng 10/2009, lần đầu tiên từ khi xẩy ra
khủng hoảng. Tăng trưởng kinh tế quý II/2009 là -1% (tốt hơn
nhiều so với mức -6,4% của quý I) và quý III/2009 là 3,5%.
Mức dự báo tăng trưởng 1,5% IMF dành cho Mỹ năm 2010 cao
gần gấp đôi so với mức 0,8% đưa ra tháng 7/2009. Tuy nhiên,
tốc độ tăng trưởng kinh tế Mỹ sẽ phụ thuộc vào nhu cầu và sức
mua của nước ngoài đối với tài sản của Mỹ và hiệu quả của
chương trình cải cách thị trường tài chính. IMF đánh giá cao sự
hỗ trợ của Chính phủ Mỹ đối với hệ thống tài chính thông qua
các gói kích thích kinh tế, nhưng lưu ý Mỹ cần có chiến lược
thu hồi gói kích thích trên diện rộng để tránh nguy cơ thị trường
sụp đổ khi kinh tế bắt đầu thoát khỏi vòng suy thoái.
Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) khẳng định đã có tín hiệu
cho thấy khủng hoảng kinh tế Mỹ đang qua đi và kinh tế Mỹ sẽ
tăng trưởng 2% - 3% năm 2010 (IMF dự báo là 2,7%). FED nhận
định sự co lại của các hoạt động kinh tế đã bắt đầu giảm bớt, thị
trường tài chính đã mạnh hơn và niềm tin của các doanh nghiệp
đang tăng lên. Tuy nhiên, kinh tế Mỹ vẫn đối mặt không ít khó
khăn, đặc biệt là tỷ lệ thất nghiệp hiện gần 10%. Thị trường nhà
đất tiếp tục có biểu hiện xấu do số nhà bị tịch thu gán nợ tăng, giá
nhà giảm trong khi sức mua cũng giảm. Tổng mức bán lẻ tại Mỹ
tiếp tục giảm. Chừng nào tiêu dùng người dân còn giảm thì sự
hồi phục nền kinh tế còn bị kìm lại. Những tín hiệu trên cho thấy
nền kinh tế Mỹ chưa thể phục hồi nhanh chóng.
Dù b¸o triÓn väng kinh tÕ vÜ m« ViÖt Nam n¨m 2010 55

EU: IMF dành mức dự báo tăng GDP 2010 là 1% cho khu vực
đồng Euro. Ủy ban châu Âu (EC) cho biết kinh tế châu Âu sẽ
phục hồi sớm hơn so với các dự báo trước đó và nhấn mạnh nguy
cơ về một cuộc suy thoái trầm trọng, kéo dài đã giảm rất nhiều.
Sự lạc quan về kinh tế EU phần nào phản ánh triển vọng sáng sủa
ở các nền kinh tế khác trên thế giới, nhất là khu vực châu Á.
Nhưng triển vọng kinh tế EU năm 2010 còn chưa chắc chắn, do
thất nghiệp tăng đè nặng lên tiêu dùng, trong khi năng lực sản
xuất dư thừa và căng thẳng về tín dụng sẽ hạn chế đầu tư. Số liệu
mới nhất cho thấy, sau khi trải qua cuộc suy thoái kinh tế nghiêm
trọng nhất trong vòng mấy chục năm qua, toàn bộ khu vực này
vẫn chưa thể mở ra con đường phục hồi kinh tế toàn diện.
Dự báo 16 nước thuộc khu vực đồng Euro sẽ khôi phục tăng
trưởng nhẹ trong quý III/2009, cho thấy tình hình kinh tế đã đi
vào ổn định. Tuy nhiên cho đến nay, sự ổn định tình hình vẫn
phải dựa vào các biện pháp kích thích kinh tế. Những biện pháp
kích thích này sẽ dần chấm dứt trong một năm tới. Vẫn chưa rõ
đến lúc đó, chi tiêu hộ gia đình và các doanh nghiệp có còn
mạnh mẽ không. Các số liệu gần đây nhất chưa thể giải đáp câu
hỏi này. Tỷ lệ lạm phát của Anh giảm xuống mốc thấp trong 7
năm qua, do thị trường dự báo Ngân hàng trung ương Anh sẽ
vẫn duy trì lãi suất ở mức thấp hơn, tỷ giá đồng Bảng Anh từng
bước bị suy yếu. Chỉ số giá tiêu dùng Pháp trượt giảm, chứng tỏ
các doanh nghiệp vẫn thiếu quyền định giá. Chỉ số giá trị sản
xuất công nghiệp của Đức, Pháp, Ý (3 nền kinh tế lớn nhất khu
vực sử dụng đồng Euro) mới tăng trưởng nhẹ. Ngành chế tạo
suy yếu trong thời gian qua có thể khiến chỉ số này xuống thấp.
Nhật Bản: IMF dành mức dự báo tăng GDP 2010 là 1,7%
cho Nhật Bản. Nền kinh tế Nhật Bản có những dấu hiệu phục
hồi, các hoạt động xuất khẩu đã tăng trở lại. Kinh tế Nhật tăng
trưởng 0,9% trong quý II/2009 so với quý I, lần đầu tiên sau 4
quý giảm liên tiếp. Hai phần ba số doanh nghiệp lớn của Nhật
hy vọng nền kinh tế sẽ phục hồi vào giữa năm tới. Ngân hàng
56 Dù b¸o triÓn väng kinh tÕ vÜ m« ViÖt Nam n¨m 2010

Trung ương Nhật Bản (BOJ) cho rằng kinh tế Nhật Bản bắt đầu
phục hồi từ nửa cuối năm 2009 và tỏ ý sẽ sớm rút bỏ một số
biện pháp hỗ trợ khẩn cấp. BOJ quyết định giữ mức lãi suất cơ
bản 0,1%. BOJ cho rằng đồng Yên mạnh hơn trên thị trường sẽ
có ích cho nền kinh tế Nhật về lâu dài, tuy nó khiến cho hàng
xuất khẩu của Nhật trở nên đắt hơn trên thế giới. Đồng Yên đã
tăng 6,7% so với đô-la Mỹ kể từ tháng 6/2009 tới nay.
Trung Quốc được xem là quốc gia đi đầu đưa kinh tế thế
giới thoát khỏi suy thoái. IMF dự báo tăng trưởng GDP của
Trung Quốc là 10% năm 2010. Sự phục hồi của kinh tế Trung
Quốc là kết quả của gói kích thích kinh tế gần 600 tỷ USD của
Chính phủ, cộng thêm lượng vốn vay cấp mới lên tới con số kỷ
lục 1.270 tỷ USD từ đầu năm 2009 tới nay. GDP của Trung
Quốc đã tăng trưởng với tốc độ mạnh nhất trong vòng một năm
trở lại đây nhờ hoạt động kích cầu này và mức độ tăng trưởng
tín dụng kỷ lục.
Các hoạt động sản xuất công nghiệp và bán lẻ của Trung
Quốc tiếp tục tăng tốc. Doanh số thị trường ôtô tăng mạnh đã
giúp sản xuất công nghiệp tăng 13,9% so với cùng kỳ năm
trước. Doanh số thị trường bán lẻ Trung Quốc tháng 9/2009
đạt mức tăng ấn tượng 15,5%. Trong 9 tháng đầu năm 2009,
GDP của Trung Quốc tăng 7,7% so với cùng kỳ năm trước.
Việc đồng Nhân dân tệ ngừng lên giá so với USD từ tháng
7/2008 tới nay đã hỗ trợ cho các nhà xuất khẩu Trung Quốc.
Kim ngạch xuất khẩu giảm tháng thứ 11 liên tiếp, nhưng tốc độ
giảm đang dần hãm lại.
Những bước tiến của kinh tế Trung Quốc đang hỗ trợ tích
cực cho sự phục hồi kinh tế toàn cầu. Tuy nhiên, Trung Quốc
đang đứng trước nguy cơ hình thành các bong bóng tài sản.
Việc duy trì quá lâu các biện pháp kích cầu gây ra nhiều rủi ro.
Một lượng tiền lớn được đổ vào thị trường chứng khoán và nhà
đất, tác động tiêu cực tới chất lượng tài sản của các ngân hàng
và có thể châm ngòi cho lạm phát.
Dù b¸o triÓn väng kinh tÕ vÜ m« ViÖt Nam n¨m 2010 57

Xinhgapo có vẻ thoát khỏi khủng hoảng kinh tế tồi tệ nhất


từ trước tới nay sau khi kinh tế tăng ở mức trên 2% quý
II/2009, quý tăng trưởng đầu tiên trong vòng một năm qua. Bộ
Công thương Xinhgapo nói doanh số dược phẩm và các hoạt
động xây dựng đã thúc đẩy kinh tế phát triển. Chính phủ
Xinhgapo dự báo kinh tế sẽ suy giảm từ 4-6% trong cả năm
2009, thấp hơn mức từ 6-9% mà họ dự báo trước đây. Bất chấp
mức tăng trưởng kinh tế trong quý II, chính phủ vẫn thận trọng
vì sự hồi phục nền kinh tế toàn cầu còn mong manh.
Đánh giá chung về triển vọng phục hồi kinh tế toàn cầu
Mặc dù có một số dấu hiệu phục hồi trong một số nền kinh
tế, song các dấu hiệu đó chưa thật vững chắc. Sự phục hồi kinh
tế thế giới sẽ chậm chạp do các nguyên nhân chính sau:
- Tiêu dùng, động lực chính của sản xuất, vẫn chưa tăng
mạnh do niềm tin của người tiêu dùng vẫn còn thấp.
- Ngành ngân hàng thế giới phải chịu khoản thâm hụt hàng
nghìn tỷ USD.
- Tín dụng vẫn bị thắt chặt
- Tỷ lệ thất nghiệp tại nhiều nước vẫn rất cao.
- Số tiền khổng lồ các chính phủ đã chi để kích thích kinh
tế có thể sẽ gây ra mất cân đối vĩ mô và lạm phát tại nhiều
quốc gia.
Thách thức lớn của các nhà hoạch định chính sách trên thế
giới là xác định đúng thời điểm tăng lãi suất trở lại và thu hồi
lại những khoản vay khẩn cấp đã bơm cho các ngân hàng
trong thời gian khủng hoảng. Việc dừng quá sớm các biện
pháp hỗ trợ có thể tạo ra một mối đe dọa đối với sự phục hồi.
Song việc chậm trễ có thể dẫn tới sự hình thành của bong
bóng tài sản ở những nền kinh tế mới nổi có tốc độ tăng
trưởng cao hơn.
58 Dù b¸o triÓn väng kinh tÕ vÜ m« ViÖt Nam n¨m 2010

Dự báo tác động đến Việt Nam


Sự phục hồi của Việt Nam, một nền kinh tế có độ mở khá
lớn và mức độ hội nhập khá sâu rộng vào kinh tế thế giới, sẽ
phụ thuộc nhiều vào triển vọng phục hồi kinh tế toàn cầu. Với
dự báo kinh tế toàn cầu sẽ phục hồi trong năm 2010 dù tương
đối chậm, dự kiến kinh tế Việt Nam sẽ tăng trưởng cao hơn
vào năm 2010.
1.2. Dự báo khả năng hồi phục của luồng vốn FDI toàn
cầu
Theo đánh giá của UNCTAD (Hội nghị Thương mại và Phát
triển Liên hiệp quốc), khủng hoảng kinh tế toàn cầu đã ảnh
hưởng tồi tệ đến kế hoạch FDI năm 2009 của các công ty
xuyên quốc gia (TNC) - một nhân tố quan trọng trong FDI toàn
cầu. Cuộc khủng hoảng đã khiến FDI của các công ty này giảm
2/3 trong năm nay, do tín dụng bị siết chặt và lợi nhuận công ty
giảm. Trong bối cảnh nêu trên, các TNC lớn dự định giảm chi
phí FDI của họ trong năm 2009; 58% trong tổng số 241 TNC
được hỏi ý kiến nói rằng họ dự định giảm đầu tư nước ngoài
trong năm 2009 (World Investment Report 2009, UNCTAD).
Kết quả là quý I/2009, FDI toàn cầu giảm 54%. Tính chung
cả năm 2009, giới đầu tư toàn cầu dự kiến sẽ thu hẹp hoạt động
gần 30%. Do đó, FDI toàn cầu năm 2009 dự kiến sụt giảm chỉ
còn 1.200 tỷ USD so với mức kỷ lục trên 1.900 tỷ USD của
năm 2007 và 1.400 tỷ USD của năm 2008.
Tuy nhiên, UNCTAD dự báo FDI sẽ phục hồi chậm vào
năm 2010, sau đó sẽ tăng mạnh vào năm 2011, do các TNC sẽ
chỉ bắt đầu đầu tư trở lại vào năm 2010 và tăng mạnh đầu tư
vào năm 2011. Chiều hướng tiến tới quốc tế hóa nhờ các TNC
được đánh giá bằng sản xuất, việc làm, đầu tư và bán hàng ra
nước ngoài, sẽ tạo chất xúc tác cho sự phục hồi hoàn toàn FDI
vào năm 2011. 50% số TNC được hỏi ý kiến nói rằng chi phí
FDI của họ trong năm 2011 sẽ vượt mức năm 2008. Các ngành
Dù b¸o triÓn väng kinh tÕ vÜ m« ViÖt Nam n¨m 2010 59

công nghiệp ít có tác động đến chu kỳ kinh doanh và đang hoạt
động tại các thị trường có lượng tiêu thụ ổn định, chẳng hạn
như nông nghiệp, có thể trở thành động lực cho đợt bùng nổ
FDI tiếp theo.
Bảng 14: Luồng vốn FDI toàn cầu
Năm Luồng vốn FDI toàn cầu (tỷ USD)
2007 1.979
2008 1.697
2009 1.200
2010 (dự báo) 1.400
2011 (dự báo) 1.800
Nguồn: UNCTAD, World Investment Report 2009 (7/2009)
Việc phục hồi dòng vốn FDI sẽ diễn ra khá chậm chạp và có
thể sẽ chỉ đạt 1.400 tỷ USD trong năm 2010. Nhưng sự hổi
phục này sẽ mạnh hơn vào năm 2011, khi dòng vốn đầu tư ước
tinh sẽ đạt khoảng 1.800 tỷ USD, tương đương mức của năm
2008. UNCTAD nhận định Mỹ cùng Trung Quốc, Ấn Độ,
Brazil và Nga có khả năng sẽ dẫn đầu việc phục hồi vốn FDI
trong tương lai.
Dự báo tác động đến Việt Nam
Việt Nam rất coi trọng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Luồng vốn FDI những năm gần đây chiếm khoảng 20%-30%
tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Do đó, việc phục hồi dòng vốn
FDI trong năm 2010, tuy chưa thật mạnh mẽ, song sẽ có tác
động tích cực đến Việt Nam. Nước ta hiện đang là một trong
những địa điểm hấp dẫn thu hút FDI ở khu vực và trên thế giới,
do có tốc độ tăng trưởng kinh tế tương đối cao, ổn định chính
trị khá tốt và mức độ ưu đãi đầu tư khá lớn.
60 Dù b¸o triÓn väng kinh tÕ vÜ m« ViÖt Nam n¨m 2010

1.3. Dự báo khả năng hồi phục cầu thế giới


Trong xu thế toàn cầu hoá hiện nay, thương mại toàn cầu
được xem là một thước đo mức cầu thế giới. Khi kinh tế toàn
cầu tăng trưởng, nhu cầu tiêu dùng và sản xuất của các quốc
gia tăng cao, kéo theo thương mại toàn cầu phát triển. Ngược
lại, kinh tế toàn cầu suy thoái dẫn đến thương mại toàn cầu sụt
giảm do nhu cầu tiêu dùng và sản xuất đều giảm.
Tình hình năm 2009
Thực tế cho thấy một trong những lĩnh vực bị tác động mạnh
của khủng hoảng kinh tế hiện nay là thương mại quốc tế. IMF
dự báo thương mại toàn cầu năm 2009 sẽ giảm 11,9% so với
năm 2008 (xem Bảng 13). Ngân hàng Thế giới (WB) cũng đưa
ra dự báo tăng trưởng thương mại toàn cầu năm 2009 là -10%.
Bảng 15: Dự báo tăng trưởng thương mại thế giới
Dự báo năm Dự báo năm
Lĩnh vực
2009 (%) 2010 (%)
Tổng thương mại toàn cầu -11,9 2,5
Xuất khẩu
- Các nước phát triển -13,6 2,0
- Các nền kinh tế đang phát -7,2 3,6
triển và mới nổi
Nhập khẩu
- Các nước phát triển -13,7 1,2
- Các nền kinh tế đang phát -9,5 4,6
triển và mới nổi

Nguồn: IMF, World Economic Outlook, 10/2009


Trong đó, hoạt động thương mại của nhóm các nước công
nghiệp phát triển chịu tác động rất lớn của suy thoái kinh tế thế
Dù b¸o triÓn väng kinh tÕ vÜ m« ViÖt Nam n¨m 2010 61

giới. Xuất khẩu của nhóm nước này dự kiến sẽ giảm 13,6%
trong khi nhập khẩu sẽ giảm 13,7% trong năm 2009. Đối với
các nền kinh tế đang phát triển và mới nổi, ảnh hưởng tiêu cực
của suy thoái kinh tế toàn cầu tới thương mại tuy có nhẹ hơn,
song không phải là không đáng kể. Dự báo năm 2009, xuất
khẩu của nhóm nước này sẽ giảm 7,2%, trong khi nhập khẩu sẽ
giảm 9,5% so với năm 2008. Như vậy, nhu cầu nhập khẩu của
cả các nước công nghiệp phát triển và các nền kinh tế đang
phát triển và mới nổi đều giảm rất mạnh năm 2009.
Triển vọng năm 2010
Sang năm 2010, khi kinh tế toàn cầu có khả năng hồi phục,
với mức tăng trưởng được IMF dự báo là 3,1%, thương mại
toàn cầu cũng sẽ hồi phục chậm với mức tăng dự kiến là 2,5%.
Dự kiến xuất khẩu năm 2010 của các nền kinh tế đang phát
triển và mới nổi (trong đó có Việt Nam) sẽ tăng trưởng 3,6% ,
còn của các nước công nghiệp phát triển dự kiến tăng 2,0%.
Nhu cầu nhập khẩu toàn cầu năm 2010 cũng sẽ phục hồi nhẹ.
Dự kiến, nhu cầu nhập khẩu của các nước công nghiệp phát
triển sẽ tăng 1,2%, còn nhu cầu nhập khẩu của các nền kinh tế
đang phát triển và mới nổi sẽ tăng 4,6%.
Dự báo tác động đến Việt Nam
Việt Nam là nền kinh tế có độ mở cao. Năm 2008, tỷ lệ
xuất khẩu và nhập khẩu trên GDP tương ứng là 70% và 90%.
Xuất khẩu đã trở thành một trong những động lực tăng trưởng
chính của kinh tế nước ta. Do vậy, sự phục hồi dự kiến của
nhu cầu nhập khẩu toàn cầu sẽ có tác động tích cực đến hoạt
động xuất khẩu của Việt Nam năm 2010. Tuy nhiên, do mức
độ phục hồi cầu thế giới năm 2010 dự kiến sẽ không lớn, do
đó xuất khẩu 2010 của Việt Nam chưa có khả năng tăng mạnh
trở lại.
62 Dù b¸o triÓn väng kinh tÕ vÜ m« ViÖt Nam n¨m 2010

2. Dự báo triển vọng kinh tế Việt Nam năm 2010


Tăng trưởng kinh tế Việt Nam đã phục hồi rõ rệt, tốc độ tăng
trưởng năm 2009 đạt 5,32% bất chấp sự phục hồi của kinh tế thế
giới vẫn còn khá khiêm tốn và kim ngạch xuất khẩu của nước ta
hiện đang tăng trưởng âm. Thành quả này là do hai nguyên nhân
chính: Thứ nhất, các chính sách kích cầu đã được thực thi kịp
thời và có hiệu quả. Thứ hai, một số nền tảng cơ bản của kinh tế
nước ta thực sự vững mạnh mà biểu hiện rõ rệt nhất là tốc độ
tăng trưởng của nhu cầu trong nước chỉ suy giảm nhẹ trong giai
đoạn vừa qua. Chính vì vậy, cùng với xu thế phục hồi của kinh tế
thế giới hiện nay, khả năng tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong
năm 2010 đạt từ 6,0-7,0% là khả thi. Tuy nhiên, vấn đề quan
trọng nhất của kinh tế Việt Nam lại nằm ở các nguy cơ mất cân
đối vĩ mô.
Trong các phân tích dưới đây, báo cáo sẽ phân tích về 2 kịch
bản tăng trưởng của nền kinh tế. Kịch bản thứ nhất là khả năng
tăng trưởng kinh tế đạt thấp, khoảng 6,0-6,5% nhưng lạm phát
thấp, các cân đối vĩ mô được đảm bảo. Đây được xem là kịch
bản cơ sở, nhiều khả năng xảy ra nhất và được khuyến khích
lựa chọn. Kịch bản thứ hai, tốc độ tăng trưởng GDP năm 2010
đạt từ 7% trở lên; cho phép chỉ tiêu tăng trưởng GDP của kế
hoạch 2006-2010 đạt 7%. Nhưng trong kịch bản này, lạm phát
có nhiều khả năng ở mức 2 con số, thâm hụt cán cân thương
mại, cán cân vãng lai khá cao.
Để làm rõ các nội dung phân tích trong các kịch bản này,
trước hết báo cáo sẽ đánh giá các quan hệ nhân quả giữa tăng
trưởng GDP với lạm phát, thâm hụt cán cân thương mại và cán
cân vãng lai của Việt Nam trong giai đoạn 1990-2008.
2.1. Tăng trưởng kinh tế và các cân đối vĩ mô
2.1.1. Quan hệ giữa tăng trưởng và lạm phát
Quan hệ giữa tăng trưởng và lạm phát ở Việt Nam đã được
nhiều nhà kinh tế nghiên cứu do đây là hai biến số quan trọng
Dù b¸o triÓn väng kinh tÕ vÜ m« ViÖt Nam n¨m 2010 63

nhất của kinh tế vĩ mô. Các nghiên cứu và thực tế quá trình
phát triển vừa qua đã cho thấy lạm phát ở Việt Nam có nguyên
nhân từ phía cầu, nghĩa là nhu cầu tiêu dùng, nhu cầu sử dụng
nguyên nhiên vật liệu để phục vụ sản xuất tăng cao sẽ kéo theo
hiện tượng tăng giá, tức là xảy ra lạm phát.
Bảng 16: Tốc độ tăng trưởng GDP,
các thành phần của tổng cầu và chỉ số giá tiêu dùng CPI
giai đoạn 1995-2009, %
Tăng Tăng Tổng Tích Chỉ số CPI
trưởng trưởng tiêu lũy vốn so với tháng
GDP tổng dùng 12 năm
cầu trước
2000 6,8 5,2 10,1 3,2 -0,6
2001 6,9 6,5 10,8 4,7 0,8
2002 7,1 9,0 12,7 7,4 4,0
2003 7,3 9,2 11,9 7,9 3,0
2004 7,8 8,3 10,5 7,2 9,5
2005 8,4 8,6 11,2 7,3 8,4
2006 8,2 9,5 11,8 8,4 6,6
2007 8,5 16,2 26,8 10,6 12,6
2008 6,2 8,0 6,3 9,0 19,9
2009
Ước 5,3 4,2 4,2 4,3 6,52
Nguồn: Tính toán của các tác giả từ các Niên giám thống kê
1995, 2000, 2005, 2008 và ước thực hiện năm 2009
của Tổng Cục Thống kê.
Các nghiên cứu kinh tế lượng dựa trên lý thuyết về Đường
cong Phillips tuyến tính theo tần suất quý trong khuôn khổ Dự
64 Dù b¸o triÓn väng kinh tÕ vÜ m« ViÖt Nam n¨m 2010

án ETV2 - Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã cho thấy yếu tố "Cầu


kéo" là yếu tố tác động mạnh nhất đến lạm phát ở Việt Nam
giai đoạn 2000-2008. Các tác động của yếu tố cầu đối với lạm
phát có độ trễ từ 1 đến 3 quý. Việc ước lượng thành công mô
hình Đường cong Phillips này đã khẳng định tăng trưởng được
coi là một nguyên nhân của lạm phát ở Việt Nam. GS. Sang
Woo Nam - Viện Phát triển Hàn Quốc (KDI) đã ước lượng
thành công mô hình Đường cong Phillips theo số liệu năm cho
kinh tế Việt Nam giai đoạn 1990-2006. Kết quả cho thấy nếu
tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị giảm 1% sẽ khiến chỉ số
giảm phát tiêu dùng tư nhân tăng ở mức bền vững 1%; chỉ số
giảm phát công nghiệp tăng 2,7%; chỉ số giảm phát tích lũy tài
sản cố định tăng 2%. Tương tự, nếu tăng trưởng GDP tăng
thêm 1% sẽ làm chỉ số giảm phát GDP tăng 0,22%.
Quan hệ giữa tăng trưởng và lạm phát ở Việt Nam cũng
được xác nhận bằng các kiểm định quan hệ nhân quả Granger
giai đoạn 1990-2008. Kết quả kiểm định cũng cho thấy tồn tại
quan hệ nhân quả theo chiều từ tăng trưởng đến lạm phát.
Phân tích sâu hơn về quan hệ giữa các biến số tăng trưởng, lạm
phát và cung tiền ở Việt Nam cho thấy tăng trưởng kinh tế luôn đi
kèm với tăng trưởng cung tiền, tín dụng, điển hình là năm 2007.
Trong khi đó, tăng trưởng cung tiền, tín dụng cũng là
nguyên nhân quan trọng của hiện tượng lạm phát. Trong khuôn
khổ Dự án ETV2 - Bộ Kế hoạch và Đầu tư, quan hệ giữa tăng
trưởng tín dụng và lạm phát cũng được nhóm nghiên cứu khảo
sát bằng mô hình tiền tệ truyền thống dạng tuyến tính với số
liệu quý. Kết quả cho thấy tăng trưởng tín dụng tác động mạnh
đến lạm phát với độ trễ từ 2-3 quý.
Phân tích quan hệ nhân quả giữa tăng trưởng cung tiền, tín
dụng và lạm phát theo phương pháp Granger cho giai đoạn
1990-2008 đã cho thấy chiều từ tăng trưởng tiền tệ đến lạm
phát là rất mạnh.
Dù b¸o triÓn väng kinh tÕ vÜ m« ViÖt Nam n¨m 2010 65

Đồ thị 9: Quan hệ giữa tăng trưởng cung tiền,


tín dụng và lạm phát, %

Nguồn: Tính toán từ các tác giả.


Số liệu trong đồ thị 9 minh họa cho các phân tích ở trên.
Riêng các năm 1999-2000 và 2008 quan hệ giữa cung tiền và
lạm phát không theo quy luật này là do: (i) Giai đoạn 1999-
2000, kinh tế Việt Nam đã rơi vào tình trạng thiểu trì trệ cho
dù tốc độ tăng cung tiền giai đoạn này là khá cao; (ii) Năm
2008, tốc độ tăng trưởng cung tiền đã phải giảm mạnh nhằm
kìm chế lạm phát tăng cao kể từ quý IV năm 2007.
Năm 2009, theo số liệu thống kê sơ bộ của Ngân hàng Nhà
nước, tốc độ tăng trưởng cung tiền và tín dụng đạt gần 28,7%
và 37,7% so với cuối năm 2008, nghĩa là tương đương tốc độ
tăng trưởng tín dụng các năm 2007 và 2008. Trong khi đó, tốc
độ tăng trưởng GDP năm 2009 đạt 5,32%; tương đương 80%
tăng trưởng của năm 2008 và 60% tăng trưởng của năm 2007.
Như vậy, tăng trưởng cung tiền và tín dụng năm 2009 có thể
xem là rất cao. Hệ quả của việc tăng trưởng tín dụng cao này
66 Dù b¸o triÓn väng kinh tÕ vÜ m« ViÖt Nam n¨m 2010

đã phần nào tác động đến lạm phát. Theo công bố của Tổng
Cục Thống kê, chỉ số giá tiêu dùng CPI năm 2009 so với tháng
12 năm 2008 tăng 6,52%.
So sánh tốc độ tăng trưởng GDP và chỉ số giá tiêu dùng CPI
năm 2009 với các năm trước trong bảng 16, đặc biệt là các năm
có tốc độ tăng trưởng GDP tương đương cho phép nhận định
lạm phát năm 2009 là cao. Điều này là chưa tính đến việc chỉ số
giá tiêu dùng CPI những tháng đầu năm 2009 tăng rất thấp, trái
quy luật hàng năm là tăng cao trong dịp Tết Nguyên đán.
Như vậy, các chính sách thúc đẩy tăng trưởng kinh tế dựa
trên gia tăng cung tiền, tín dụng của Việt Nam hiện đang tiềm
ẩn nhiều nguy cơ lạm phát. Tăng trưởng kinh tế có thể dẫn đến
lạm phát tăng cao.
2.1.2. Quan hệ giữa tăng trưởng và thâm hụt cán cân
thương mại, cán cân vãng lai
Động lực thúc đẩy tăng trưởng quan trọng của kinh tế nước ta
là huy động vốn đầu tư phát triển. Nhưng tỷ lệ đầu tư hiện đã
cao hơn nhiều tỷ lệ tiết kiệm. So sánh chênh lệch giữa tỷ lệ tiết
kiệm và tích lũy vốn trên GDP của Việt Nam với các nước trong
khu vực và trên thế giới có thể thấy mức độ chênh lệch của Việt
Nam là quá lớn, tiềm ẩn nhiều bất ổn vĩ mô. Kinh nghiệm của
thế giới cho thấy mức độ chênh lệch giữa tỷ lệ tiết kiệm và tích
lũy vốn trên GDP chỉ nên trong khoảng 4-5% GDP.
Các tính toán của nhóm nghiên cứu cho thấy trong giai đoạn
nền kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng cao như các năm 1994-1996
và 2005-2007 thì mức chênh lệch tỷ lệ tiết kiệm và tích lũy vốn
trên GDP lại tăng cao hơn nữa. Riêng năm 2008, tăng trưởng
kinh tế chỉ đạt 6,2% nhưng chênh lệch tiết kiệm và đầu tư vẫn
tăng rất cao là do nhập khẩu đã tăng mạnh. Điều này khẳng
định phương thức tăng trưởng nhờ huy động đầu tư của Việt
Nam sẽ luôn đòi hỏi nhập khẩu lớn và gây ra các rủi ro mất cân
đối vĩ mô.
Dù b¸o triÓn väng kinh tÕ vÜ m« ViÖt Nam n¨m 2010 67

Bảng 17: So sánh mức độ chênh lệch giữa tỉ lệ tiết kiệm và


đầu tư trên GDP giữa Việt Nam và một số nước, %
1990 1995 2000 2005 2008
Việt Nam*) -11,46 -8,94 -2,49 -5.26 -14,54
Hồng Kông 8,64 -4,45 4,44 12,43 10,92
Hàn Quốc -0,20 -1,14 2,91 3,12 1,44
Xinhgapo 6,50 14,81 13,61 28,22 27,39
Đài Loan 4,85 1,61 2,19 4,23 7,46
Trung quốc -0,91 -2,34 2,88 4,02 4,39
Inđônêxia 1,54 -1,33 9,57 2,45 3,34
Malaixia 2,04 -3,93 19,21 22,83 20,26
Philippin -5,46 -7,92 -3,87 6,44 5,65
Thái Lan -7,32 -5,16 9,71 -0,38 7,10
Ấn Độ -3,86 -0,13 -0,66 -3,35 -3,95
Nguồn: Số liệu Việt Nam: Tính toán từ Niên giám thống kê
2000, 2005, 2008. Số liệu các nước: Tính toán từ dữ
liệu của Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) đến
năm 2008.
Do sự chênh lệch lớn và thường xuyên giữa tiết kiệm và
tích lũy vốn nên cán cân tài khoản vãng lai của Việt Nam luôn
bị thâm hụt. Trong giai đoạn 1995-2008, các dòng vốn bên
ngoài như kiều hối, tiền gửi của lao động làm thuê ở nước
ngoài, vốn vay ODA, vốn FDI và vốn FII đang bù đắp được
sự thâm hụt của cán cân vãng lai nên Việt Nam vẫn duy trì
được cân đối của cán cân thanh toán, ổn định được tỉ giá tiền
đồng so với USD.
68 Dù b¸o triÓn väng kinh tÕ vÜ m« ViÖt Nam n¨m 2010

Đồ thị 10: Tỉ lệ tiết kiệm và tích lũy vốn trên GDP theo giá
hiện hành và tốc độ tăng trưởng GDP

Nguồn: Tính toán từ các niên giám thống kê 2000, 2005, 2008.
Bảng 18: Cán cân vãng lai và cán cân thanh toán
giai đoạn 2005-2008

2008 2009
2005 2006 2007
Ước DB
Cán cân vãng lai -560 -164 -6.992 -9.238 -6.500
Cán cân vốn 3.087 3.088 17.540 9.175 7.300
Cán cân thanh toán 2.131 4.322 10.199 -162 -1.900
Nguồn: Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) và dự báo của Ngân hàng
Nhà nước.
Tuy nhiên, các báo cáo của Ngân hàng Nhà nước về tình
hình cán cân thanh toán năm 2009 cho thấy Việt Nam đang
phải nỗ lực đàm phán với các tổ chức tài chính quốc tế để bổ
Dù b¸o triÓn väng kinh tÕ vÜ m« ViÖt Nam n¨m 2010 69

sung nguồn ngoại tệ cho quốc gia như vay 500 triệu USD từ
Quỹ Hỗ trợ chống khủng hoảng theo chu kỳ (CFS) của ADB;
vay Chính phủ Nhật Bản 500 triệu USD và trong 3 năm tới sẽ
vay ưu đãi bình quân mỗi năm 1 tỷ USD. Tại Hội nghị thường
niên với Ngân hàng Thế giới và Quỹ Tiền tệ Quốc tế, Việt
Nam cũng đã được các tổ chức này đồng ý thu xếp nguồn vốn
vay 1 tỷ USD hỗ trợ khắc phục khủng hoảng, trong đó 500
triệu USD được giải ngân trong năm 2009.
Đồ thị 11: Quan hệ giữa tăng trưởng sản xuất công nghiệp
với nhu cầu nhập khẩu

Nguồn: Tính toán từ các tác giả.

Nguyên nhân cơ bản của tình trạng này vẫn là do Việt Nam
bị thâm hụt thương mại rất cao. Theo số liệu của Tổng Cục
Thống kê, năm 2009 thâm hụt cán cân thương mại của Việt
Nam ở mức gần 12,25 tỉ USD, tương đương hơn 21,6% kim
ngạch xuất khẩu (năm 2008 là 28,5). Tình trạng thâm hụt
thương mại cao không chỉ do xuất khẩu suy giảm mà chủ yếu
70 Dù b¸o triÓn väng kinh tÕ vÜ m« ViÖt Nam n¨m 2010

là nhập khẩu bắt đầu tăng trở lại song song với sự hồi phục của
nền kinh tế (biến số đại diện là giá trị sản xuất công nghiệp
theo giá cố định 1994 đã đạt tốc độ tăng trưởng dương). Để
minh họa cho phân tích này, báo cáo đã so sánh giữa tốc độ
tăng cùng kỳ năm trước của giá trị sản xuất công nghiệp tính
theo giá 94 lũy kế và tốc độ tăng cùng kỳ năm trước của kim
ngạch nhập khẩu lũy kế đã loại bỏ yếu tố giá giai đoạn từ
1/2008 đến tháng 10/2009.
Điểm cần nhấn mạnh ở đây là việc tỉ giá VND/USD tăng lên
- hậu quả của thâm hụt thương mại cao sẽ làm tăng chi phí đầu
vào cho các doanh nghiệp, dẫn đến tình trạng lạm phát do "chi
phí đẩy". Để đánh giá tác động của chính sách phá giá đồng nội
tệ đối với lạm phát, báo cáo vận dụng mô hình kinh tế lượng vĩ
mô được xây dựng trong khuôn khổ dự án hợp tác giữa Tổng
Cục Thống kê (GSO) - Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Viện Nghiên
cứu Kinh tế và Thống kê Cộng hòa Pháp (INSEE).
Mô phỏng giả định tỉ giá hối đoái VND và USD sẽ được phá
giá 1%. Khi đó, giá nhập khẩu cao hơn đã làm tăng chi phí đầu
vào cho sản xuất cũng như giá hàng tiêu dùng của nền kinh tế,
nền kinh tế sẽ chịu một cú sốc cung tiêu cực, giá cả sẽ tăng do
chi phí đẩy. Đồ thị trên cho thấy giá nhập khẩu tăng mạnh
trong ngắn hạn, đạt xấp xỉ 1%. Do nhiều nguyên liệu đầu vào
cho sản xuất ở nước ta được nhập khẩu nên giá sản xuất tăng
0,6%. Kết quả là chỉ số giá tiêu dùng tăng khoảng 0,65% do
giá nội địa và giá nhập khẩu đều tăng. Như vậy, tác động của
việc phá giá đồng nội tệ không chỉ làm giá nhập khẩu tăng mà
còn dẫn đến hầu hết các loại giá tăng xấp xỉ 1%, tức là gần
bằng mức phá giá đồng nội tệ (1%). Tốc độ tăng của các chỉ số
giá sẽ đạt mức tăng 1%, tương đương tốc độ phá giá
VND/USD sau 5 năm.
Tóm lại, bằng việc xem xét các quan hệ giữa tăng trưởng và
các cân đối vĩ mô, nhóm nghiên cứu nhận định rằng việc thúc
Dù b¸o triÓn väng kinh tÕ vÜ m« ViÖt Nam n¨m 2010 71

đẩy tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh kinh tế thế giới chưa
phục hồi rõ rệt và quan trọng hơn hết là trong năm 2010 Chính
phủ chưa thể điều chỉnh và khắc phục triệt để một số tồn tại
trong cơ cấu kinh tế có thể dẫn đến các mất cân đối vĩ mô, cụ
thể đó là lạm phát và thâm hụt cán cân thương mại, thâm hụt
cán cân vãng lai và có thể cả thâm hụt cán cân thanh toán.
2.2. Các kịch bản dự báo
Căn cứ vào các phân tích và dự báo về tình hình kinh tế thế
giới ở trên, nhóm nghiên cứu phác họa 02 kịch bản về triển
vọng tăng trưởng của kinh tế Việt Nam năm 2010. Các kịch
bản này dựa trên hai giả định quan trọng là: (i) Khả năng phục
hồi của kinh tế thế giới và (ii) Mức độ huy động vốn đầu tư
phát triển của nền kinh tế. Các kịch bản được thiết kế dựa trên
hai giả định như vậy là do xuất khẩu và vốn đầu tư đang là các
động lực chủ yếu của tăng trưởng kinh tế Việt Nam. Nội dung
của kịch bản được trình bày dưới đây.
2.2.1. Kịch bản cơ sở
a. Tăng trưởng và huy động vốn đầu tư phát triển
Theo số liệu của Tổng Cục Thống kê, tổng vốn đầu tư thực
hiện toàn xã hội năm 2009 đạt 704,2 nghìn tỷ đồng, tăng
15,3% so với năm 2008. Tỷ lệ đầu tư trên GDP của Việt Nam
năm 2009 ước đạt trên 42,8%. Tác động của gói kích cầu đã
làm gia tăng cả đầu tư của khu vực Nhà nước (40,5%) và khu
vực tư nhân (13,9%). Như vậy, kể từ năm 2004 đến nay, tỷ lệ
đầu tư trên GDP đã luôn đạt trên 40%, một tỷ lệ rất cao so với
nhiều nước trên thế giới. Trong năm 2010, tỷ lệ vốn đầu tư
phát triển trên GDP có thể được duy trì ở mức cao bởi ba lý do
chính sau:
- Giá dầu thô đang có xu hướng tăng trở lại do kinh tế thế
giới đang phục hồi. Một số tổ chức quốc tế dự báo giá dầu thô
có thể lên mức 80-90$/thùng vào cuối năm 2010. Khi đó,
72 Dù b¸o triÓn väng kinh tÕ vÜ m« ViÖt Nam n¨m 2010

nguồn thu ngân sách từ xuất khẩu dầu thô sẽ được cải thiện
đáng kể, tạo điều kiện cho Chính phủ tăng chi đầu tư công.
- Hiện nay, Chính phủ duy trì chính sách trợ cấp lãi suất vay
vốn trung và dài hạn để tiếp tục tạo ra một nguồn tín dụng rẻ
và dồi dào cho các doanh nghiệp, thúc đẩy đầu tư từ khu vực
này.
- Cục Đầu tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư dự báo
vốn FDI thực hiện năm 2010 có thể tăng 10% so với năm 2009.
Tuy nhiên, như báo cáo đã phân tích ở trên, việc duy trì tỷ
lệ đầu tư trên GDP quá cao trong một thời gian dài sẽ gây ra
các bất ổn kinh tế vĩ mô như lạm phát, thâm hụt cán cân vãng
lai. Do đó, với mục tiêu đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô nhằm
tạo tiền đề cho phát triển bền vững trong dài hạn, tỷ lệ đầu tư
trên GDP năm 2010 chỉ nên duy trì ở mức 40%. Như vậy,
tổng vốn đầu tư phát triển được dự báo tăng khoảng 8% so
với năm 2009.
Với tỷ lệ vốn đầu tư phát triển trên GDP đạt 40%, tốc độ
tăng trưởng GDP năm 2010 được dự báo đạt 6,0-6,5%. Như
vậy, hệ số ICOR năm 2010 sẽ vào khoảng 6,15; tuy vẫn cao
hơn ICOR của giai đoạn 2000-2007 nhưng đã giảm xuống
nhiều so với năm 2009, ước khoảng 8,12.
b. Xuất nhập khẩu và cán cân thương mại
* Dự báo kim ngạch xuất khẩu:
Tương tự như vốn đầu tư phát triển, xuất khẩu cũng là một
động lực quan trọng cho tăng trưởng kinh tế nước ta. Tốc độ
tăng của kim ngạch xuất khẩu năm 2009 là -9,7%. Nguyên
nhân cơ bản của sự suy giảm này là do kinh tế thế giới rơi vào
khủng hoảng, nhu cầu nhập khẩu của hầu hết các thị trường
xuất khẩu chính của nước ta giảm mạnh. Bên cạnh đó, giá
nhiều mặt hàng xuất khẩu cũng giảm mạnh, dẫn đến kim ngạch
xuất khẩu giảm.
Dù b¸o triÓn väng kinh tÕ vÜ m« ViÖt Nam n¨m 2010 73

Các dự báo về triển vọng kinh tế thế giới năm 2010 của các
tổ chức quốc tế cho thấy kinh tế thế giới đang hồi phục, đặc
biệt là khu vực Châu Á. Chính vì vậy, khả năng kim ngạch
xuất khẩu đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn năm 2009 - tăng
trưởng dương - là khả thi. Do không đủ các nguồn số liệu về
kim ngạch xuất khẩu theo thị trường và sản phẩm để dự báo
được kim ngạch xuất khẩu nên trong kịch bản này, báo cáo sử
dụng kết quả ước tính của Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Kết quả cho
thấy kim ngạch xuất khẩu năm 2010 được dự báo tăng 6%, đạt
60,0 tỉ USD.
* Dự báo kim ngạch nhập khẩu và thâm hụt cán cân thương
mại:
Như trên đã phân tích, chính sách thúc đẩy tăng trưởng dựa
vào huy động vốn đầu tư phát triển đã đưa đến tình trạng gia
tăng nhập khẩu, gây thâm hụt cán cân thương mại nặng nề. Do
đó, trong bối cảnh tăng trưởng của xuất khẩu vẫn còn khiêm
tốn như đã dự báo ở trên, việc duy trì tốc độ tăng trưởng
khoảng 6,5% và tỷ lệ đầu tư trên GDP ở mức 40% sẽ hạn chế
tình trạng nhập khẩu, giúp cán cân thương mại ổn định hơn.
GS. Sang Woo Nam - Viện Phát triển Hàn Quốc (KDI) đã
ước lượng quan hệ giữa tốc độ tăng trưởng GDP với tốc độ
tăng của kim ngạch nhập khẩu của kinh tế Việt Nam. Kết quả
cho thấy giữa tốc độ tăng trưởng GDP và tốc độ tăng đầu tư
với tốc độ tăng nhập khẩu có quan hệ tỷ lệ là 1:1,95 và 1:0,7.
Do đó, nếu tốc độ tăng trưởng GDP đạt 6,0-6,5% như đã phân
tích ở trên thì tốc độ tăng nhập khẩu sẽ khoảng 13%. Tổng kim
ngạch nhập khẩu năm 2010 sẽ đạt 77,8 tỉ đôla. Cán cân thương
mại sẽ thâm hụt khoảng 17,8 tỉ USD, tương đương gần 16,5%
GDP hoặc tương đương 30,0% kim ngạch xuất khẩu. Đây cũng
là mức thâm hụt thương mại cao.
Tuy nhiên, Việt Nam đang nhận được nhiều dòng vốn vào
như kiều hối (khoảng 7,0 tỉ USD), vốn vay ODA (khoảng 3,0 tỉ
74 Dù b¸o triÓn väng kinh tÕ vÜ m« ViÖt Nam n¨m 2010

USD) và vốn FDI (khoảng 8-10 tỉ USD) nên mức thâm hụt
thương mại dự báo ở trên có thể được bù đắp và không gây ra
thâm hụt cán cân thanh toán, hạn chế nguy cơ dẫn đến các bất
ổn vĩ mô như giảm giá đồng nội tệ, lạm phát. Tỉ giá hối đoái
VND/USD được dự báo khoảng 19.700 đồng, tương đương
mức mất giá từ 3-5%.
c. Chỉ số giá tiêu dùng CPI
Như trên đã phân tích, tăng trưởng kinh tế là một trong
những nguyên nhân đưa đến lạm phát ở Việt Nam trong giai
đoạn gần đây. Hơn nữa, Chính phủ đang thực thi các chính
sách kích cầu nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế đã thúc đẩy
tăng trưởng cung tiền và tín dụng đã ở mức cao (28,7% và
37,7%). Do tác động của tăng cung tiền, tín dụng đến lạm phát
thường có độ trễ từ 3-4 quý nên khả năng lạm phát tăng mạnh
trở lại trong năm 2010 cần được tính đến. Bên cạnh đó, một số
nhân tố có thể tác động tiêu cực đến lạm phát là: (i) Việc chấm
dứt chính sách trợ cấp lãi suất vay vốn sẽ làm tăng chi phí của
các doanh nghiệp, dẫn đến tăng giá thành sản phẩm, tác động
tiêu cực đến giá cả tiêu dùng; (ii) Sự phục hồi của kinh tế thế
giới có thể đưa đến tình trạng tăng giá một số nguyên nhiên vật
liệu và hàng hóa tiêu dùng như lo ngại của nhiều tổ chức quốc
tế; (iii) Mức lương tối thiểu dự kiến sẽ tăng khoảng 10-15%
trong năm 2010.
Sử dụng các mô hình kinh tế lượng với một số giả định khác
nhau về tốc độ tăng trưởng GDP, tốc độ tăng trưởng tín dụng,
tăng trưởng cung tiền M2 đã cho thấy chỉ số giá tiêu dùng
được dự báo là 8%.
Tóm lại, các kết quả dự báo năm 2010 của Kịch bản cơ sở
cho thấy việc duy trì tốc độ tăng trưởng 6,0-6,5% sẽ cho phép
hạn chế các nguy cơ mất cân đối vĩ mô, thâm hụt thương mại
gần 16,5% GDP và lạm phát dưới 2 con số, vào khoảng 8%.
Dù b¸o triÓn väng kinh tÕ vÜ m« ViÖt Nam n¨m 2010 75

2.2.2. Kịch bản tăng trưởng cao


Đây là kịch bản được thiết kế dựa trên quan điểm Chính phủ
sẽ thực thi các chính sách thúc đẩy tăng trưởng để tốc độ tăng
trưởng GDP bình quân giai đoạn 2006-2010 đạt 7%. Nhằm đạt
được mục tiêu này, tốc độ tăng trưởng năm 2010 - năm cuối
cùng của kỳ kế hoạch 2006-2010- cần phải đạt thấp nhất là 7%.
Như đã phân tích trong Kịch bản cơ sở, với các chính sách
kích cầu như trợ cấp lãi suất vay vốn và gia tăng đầu tư công,
Chính phủ có thể duy trì tỷ lệ vốn đầu tư phát triển trên GDP
năm 2010 đạt 42% trở lên, từ đó thúc đẩy tăng trưởng GDP đạt
7% hoặc hơn. Tổng vốn đầu tư phát triển theo kịch bản này
được dự báo tăng 20% so với năm 2009.
Tuy nhiên, nền kinh tế sẽ bị thâm hụt thương mại, thâm hụt
tài khoản vãng lai nặng nề và lạm phát ở mức 2 con số. Các lập
luận cụ thể được trình bày như sau:
a. Nguy cơ thâm hụt cán cân thương mại, tài khoản vãng lai
và cán cân thanh toán
Do sự phục hồi của kinh tế thế giới còn chậm chạp nên kim
ngạch xuất khẩu của Việt Nam năm 2010 đạt 60 tỉ USD như đã
được dự báo ở trên. Trong khi đó, tăng trưởng của nhập khẩu
có quan hệ chặt chẽ với tốc độ tăng trưởng GDP và tỷ lệ vốn
đầu tư phát triển trên GDP. Do đó, việc gia tăng huy động vốn
đầu tư phát triển nhằm thúc đẩy tăng trưởng tất yếu sẽ dẫn đến
gia tăng nhập khẩu và thâm hụt thương mại.
Các tính toán của nhóm nghiên cứu cho thấy nếu tốc độ tăng
trưởng GDP đạt 7% hoặc hơn và tỷ lệ vốn đầu tư phát triển
trên GDP đạt 42% trở lên thì tốc độ tăng kim ngạch nhập khẩu
năm 2010 được dự báo đạt 83 tỉ USD. Khi đó, thâm hụt thương
mại là 23 tỉ USD, tương đương 24% GDP hoặc tương đương
38,3% kim ngạch xuất khẩu. Đây là một mức thâm hụt thương
mại rất cao. Trong khi đó lượng kiều hối và tiền của người lao
76 Dù b¸o triÓn väng kinh tÕ vÜ m« ViÖt Nam n¨m 2010

động làm thuê ở nước ngoài gửi về Việt Nam năm 2010 sẽ
không thể đạt mức 8 tỉ USD như các năm trước do kinh tế thế
giới vẫn còn rất khó khăn (năm 2009, lượng kiều hối đạt 6,8 tỉ
USD). Ngoài ra, khoản mục thu nhập từ đầu tư trong tài khoản
vãng lai của Việt Nam thường có mức âm trên 2 tỉ USD do các
doanh nghiệp FDI đang chuyển lợi nhuận ra nước ngoài. Do
đó, tài khoản vãng lai được dự báo thâm hụt 18 tỉ USD, tương
đương 19% GDP.
Trong năm 2009, cân đối ngoại hối của Việt Nam đã hết sức
căng thẳng, Ngân hàng Nhà nước đã liên tiếp phải can thiệp
vào thị trường ngoại hối để ổn định thị trường nhưng tỉ giá hối
đoái VND/USD năm 2009 đã tăng 9,17% so với năm 2008. Dự
trữ ngoại hối cũng giảm mạnh từ khoảng mức 23 tỉ USD cuối
năm 2008 xuống khoảng 16 tỉ USD cuối năm 2009. Như vậy,
với mức thâm hụt của cán cân vãng lai năm 2010 như đã dự
báo trong kịch bản này thì khả năng cán cân thanh toán của
Việt Nam trong năm 2010 tiếp tục bị thâm hụt là hoàn toàn có
thể xảy ra. Mức độ của sự thâm hụt này phụ thuộc rất lớn vào
khả năng bù đắp của vốn FDI và ODA giải ngân.
Khi đó, thị trường ngoại hối sẽ tiếp tục gặp nhiều khó khăn
trong cân đối cung cầu ngoại tệ, tỉ giá hối đoái VND/USD sẽ
biến động mạnh. Tốc độ mất giá của VND sẽ khoảng 10-15%,
tương đương mức 21.520 VND đổi 1 USD.
b. Nguy cơ tái lạm phát
Như trên đã phân tích, lạm phát ở Việt Nam có nguyên nhân
từ tăng trưởng do các động lực thúc đẩy tăng trưởng mang tính
chất chiều rộng hơn là chiều sâu. Nguy cơ tái lạm phát trong
năm 2010 sẽ chủ yếu do các nguyên nhân sau:
- Tăng trưởng tín dụng ở mức cao: Chính sách hỗ trợ lãi suất
đang tạo ra một nguồn tín dụng rẻ, dồi dào cho các doanh
nghiệp, dẫn đến tăng trưởng tín dụng năm 2009 đạt trên 37,7%.
Dù b¸o triÓn väng kinh tÕ vÜ m« ViÖt Nam n¨m 2010 77

Tín dụng tăng mạnh trong năm 2009 sẽ tất yếu đưa đến gia
tăng lạm phát năm 2010.
- Theo kịch bản này, tốc độ tăng trưởng GDP đạt 7% trở lên
sẽ thúc nhu cầu nội địa tăng lên. Sự gia tăng từ phía cầu này sẽ
đưa đến lạm phát như đã chứng minh ở trên.
- Tỉ giá hối đoái tăng do nền kinh tế bị thâm hụt tài khoản
vãng lai, cán cân thanh toán sẽ góp phần làm tăng lạm phát do
Việt Nam đang phải nhập khẩu rất nhiều nguyên nhiên vật liệu
phục vụ cho sản xuất.
- Kinh tế thế giới dần phục hồi sẽ đưa đến tăng giá các mặt
hàng thiết yếu, điển hình là dầu thô. Giá dầu thô đã tăng mạnh
trở lại kể từ giữa năm 2009. Tác động của giá thế giới tăng sẽ
kéo theo giá cả trong nước.
Tóm lại, xem xét các nhân tố về tiền tệ, phía cung và phía
cầu đều cho thấy nguy cơ lạm phát năm 2010 là rất cao.
Để đưa ra con số dự báo cụ thể về mức lạm phát năm 2010
của kịch bản này, nhóm nghiên cứu đã sử dụng một vài tính
toán kinh tế lượng với một số giả thiết khác nhau về tốc độ
tăng trưởng GDP, tăng trưởng cung tiền M2, tăng trưởng tín
dụng, giá dầu thô, tỉ giá hối đoái VND/USD,... Kết quả cho
thấy chỉ số giá tiêu dùng CPI năm 2010 được dự báo từ 10-
12%.
Bảng 19: Các kịch bản tăng trưởng kinh tế năm 2010
Kịch bản Kịch bản
Chỉ tiêu Ước 2009
cơ sở cao
Tốc độ tăng trưởng GDP 5,32% 6,0-6,5% 7% trở lên
Tốc độ tăng vốn đầu tư 15,3% 8% 20%
toàn xã hội
Tỷ lệ vốn/GDP 42,8% 40% 42% trở lên
78 Dù b¸o triÓn väng kinh tÕ vÜ m« ViÖt Nam n¨m 2010

Kịch bản Kịch bản


Chỉ tiêu Ước 2009
cơ sở cao
ICOR 8,12 6,33 6,0-6,5
Kim ngạch xuất khẩu 56,6 tỷ USD 60 tỷ USD 60 tỷ USD
- Tốc độ tăng -9,7% 6% 6%
Kim ngạch nhập khẩu 68,8 tỷ USD 77,8 tỷ USD 83 tỷ USD
- Tốc độ tăng -14,7% 13,0% 20,6%

Thâm hụt cán cân thương 12,2 tỷ USD 17,8 tỷ USD 23 tỷ USD
mại
- Tỷ lệ trên KNXK 21,6% 30% 38,3%
- Tỷ lệ trên GDP 10,3% gần 16,5% gần 24%
Tỷ giá hối đoái 17.961 19.700 21.520
VND/USD đồng đồng đồng
Mức mất giá 3-5% 10-15%
CPI 6,52% 7-8% 10-12%

Nguồn: Tính toán của các tác giả và ước thực hiện 2009 của
Tổng cục Thống kê.
Dù b¸o triÓn väng kinh tÕ vÜ m« ViÖt Nam n¨m 2010 79

KÕt luËn

Tuy chịu tác động mạnh của cuộc khủng hoảng tài chính và
kinh tế toàn cầu, năm 2009, dòng vốn đầu tư nước ngoài và
xuất khẩu sụt giảm nghiêm trọng nhưng nền kinh tế nước ta
vẫn đạt tốc độ trưởng 5,32%. Có được thành tích ấy trước hết
là do Chính phủ thực hiện các chính sách kích thích kinh tế và
sau đó là do tiêu dùng nội địa vẫn tăng cao. Hai yếu tố này là
động lực chính của tăng trưởng kinh tế nước ta năm 2009 và có
thể cả năm 2010.
Tiêu dùng nội địa tăng cao không chỉ thể hiện sức cầu của
nền kinh tế mà còn thể hiện tâm lý lạc quan của cộng đồng
dân cư vào sự sớm hồi phục và phát triển kinh tế trong trung
và dài hạn.
Thực hiện các chính sách kích thích kinh tế chúng ta đã đạt
được mục tiêu ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy trì được tốc độ
tăng trưởng hợp lý và bền vững; các cân đối kinh tế vĩ mô cơ
bản được giữ vững và ổn định; an sinh xã hội được chú trọng,
đời sống nhân dân được đảm bảo nhất là đối với người nghèo,
đồng bào dân tộc ở vùng sâu, vùng xa, vùng kinh tế - xã hội
kém phát triển. Nhờ thực hiện chính sách kích thích kinh tế
chúng ta đã huy động được nhiều nguồn vốn đầu tư cho phát
triển nền kinh tế, trong đó đáng chú ý là các nguồn vốn đầu tư
từ khu vực ngoài nhà nước.
Tuy nhiên có thể thấy rằng năm 2009 nền kinh tế nước ta
cũng gặp nhiều hạn chế. Tăng trưởng công nghiệp ở mức thấp;
xuất khẩu giảm nhiều; dòng vốn đầu tư nước ngoài bị thu hẹp;
giá cả thị trường tuy ở mức thấp hơn nhiều so với năm 2008
nhưng đang trong xu hướng tăng cao, nguy cơ lạm phát trở lại
là khá cao; đời sống nhân dân còn gặp nhiều khó khăn, tỷ lệ
80 Dù b¸o triÓn väng kinh tÕ vÜ m« ViÖt Nam n¨m 2010

thất nghiệp thành thị cao; lao động việc làm vẫn là vấn đề xã
hội phức tạp, …
Kinh tế thế giới đang có dấu hiệu hồi phục, tuy quá trình hồi
phục đó chứa đựng nhiều rủi ro khó lường. Những vấn đề hậu
khủng hoảng như bảo hộ mậu dịch, biến động giá cả, lạm phát,
khan hiếm nguyên liệu, năng lượng, … sẽ tác động xấu đến
phát triển kinh tế ở nước ta.
Năm 2010, cầu thế giới có tăng lên so với năm 2009 nhưng
chưa mạnh và vững chắc. Thị trường xuất khẩu của nước ta
vẫn bị thu hẹp, kim ngạch nhập khẩu giảm và cân đối ngoại tệ
gặp nhiều khó khăn. Chính sách kích thích kinh tế được thực
hiện năm 2009 cũng tạo ra một số tác động không lợi như môi
trường cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp chưa được
đảm bảo; tâm lý ỷ lại vào Nhà nước của doanh nghiệp, …
Kịch bản tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm 2010 được
nhóm nghiên cứu đề xuất dựa trên hai giả định quan trọng là:
Khả năng phục hồi của kinh tế thế giới và Mức độ huy động
vốn đầu tư phát triển của nền kinh tế. Cụ thể là:
Kịch bản cơ sở: để thực hiện được mục tiêu đảm bảo ổn
định kinh tế vĩ mô và tạo tiền đề cho phát triển bền vững trong
dài hạn, tỷ lệ đầu tư trên GDP năm 2010 chỉ nên ở mức 40%,
tốc độ tăng trưởng GDP năm 2010 dự báo đạt 6,0-6,5%, kim
ngạch xuất khẩu năm 2010 được dự báo tăng 6%, đạt 60,0 tỉ
USD, kim ngạch nhập khẩu năm 2010 đạt 77,8 tỉ đô la. Cán
cân thương mại sẽ thâm hụt khoảng 17,8 tỉ USD, tương đương
gần 16,5% GDP hoặc tương đương 30,0% kim ngạch xuất
khẩu, và vẫn là mức thâm hụt thương mại cao. Tỉ giá hối đoái
VND/USD được dự báo khoảng 19.700 đồng, tương đương
mức mất giá từ 3-5%, lạm phát chỉ số giá tiêu dùng khoảng
8%. Theo Kịch bản cơ sở việc duy trì tốc độ tăng trưởng ở mức
6,0-6,5% sẽ cho phép hạn chế các nguy cơ mất cân đối vĩ mô.
Dù b¸o triÓn väng kinh tÕ vÜ m« ViÖt Nam n¨m 2010 81

Kịch bản tăng trưởng cao: là kịch bản được thiết kế dựa trên
quan điểm Chính phủ sẽ thực thi các chính sách thúc đẩy tăng
trưởng để tốc độ tăng trưởng GDP bình quân giai đoạn 2006-
2010 đạt 7%. Nhằm đạt được mục tiêu này, tốc độ tăng trưởng
năm 2010 - năm cuối cùng của kỳ kế hoạch 2006-2010 - cần
phải đạt thấp nhất là 7%. Theo kịch bản này, tỷ lệ vốn đầu tư
phát triển trên GDP năm 2010 phải đạt ở mức 42% trở lên. Khi
đó, tốc độ tăng trưởng GDP được dự báo đạt 7% hoặc hơn.
Tổng vốn đầu tư phát triển theo kịch bản này được dự báo tăng
20% so với năm 2009. Tuy nhiên, nền kinh tế sẽ đối mặt với
nguy cơ thâm hụt thương mại và tài khoản vãng lai nặng nề và
lạm phát ở mức 2 con số.
82 Dù b¸o triÓn väng kinh tÕ vÜ m« ViÖt Nam n¨m 2010

Tμi liÖu tham kh¶o

1. ADB (2009), “Báo cáo Triển vọng Phát triển Châu Á


2009”.
2. Bộ Kế hoạch và Đầu tư , Báo cáo "Tình hình kinh tế-xã hội
năm 2009 và Kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội năm
2010".
3. IMF (2009), “World Economic Outlook 2009”.
4. Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế, các số năm 2007 và 2008
5. Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế, các số năm 2008 và 2009
6. Tổng cục Thống kê, “Báo cáo kinh tế-xã hội hàng tháng-
năm 2002, 2003, 2004, 2005, 2006, 2007, 2008 và 2009”
7. Tổng cục Thống kê, “Niên giám thống kê năm 2004, 2005,
2006, 2007, 2008”
8. Tổng cục Thống kê, "Bảng Input-Output 2005"
9. Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế TW (CIEM), “Kinh tế
Việt Nam 2005, 2006, 2007, 2008”.
10. UNCTAD, World Investment Report 2009 (7/2009)
11. Sang Woo Nam và Lê Quốc Phương, Mô hình kinh tế vĩ
mô của Việt Nam – Những kết quả ban đầu, Hội thảo Quốc
tế về Công tác Dự báo (2007).
12. Đặng Huyền Linh và Nguyễn Lan Hương, Mô hình Đường
Phillips và thử nghiệm ứng dụng nghiên cứu lạm phát ở
Việt Nam, Hội thảo về một số mô hình dự báo lạm phát
cho Việt Nam (2009).
Dù b¸o triÓn väng kinh tÕ vÜ m« ViÖt Nam n¨m 2010 83

13. Hoàng Minh Hải, Đặng Huyền Linh và J.L. Brillet, Tác
động của việc gia nhập WTO đến kinh tế Việt Nam: Phân
tích bằng mô hình kinh tế lượng, Diễn đàn Việt - Pháp về
Kinh tế và Tài chính lần VII (2008).
14. Các trang tin điện tử của Chính phủ, Bộ Kế hoạch và Đầu
tư, Tổng Cục Thống kê, Ngân hàng Nhà nước, Bộ Tài
chính, Thời báo Kinh tế, UNCTAD, IMF, WB, ADB.
84 Dù b¸o triÓn väng kinh tÕ vÜ m« ViÖt Nam n¨m 2010

§Æc san chuyªn ®Ò phôc vô l∙nh ®¹o


ChÞu tr¸ch nhiÖm xuÊt b¶n: TS. Lª §×nh ¢n
GiÊy phÐp xuÊt b¶n sè 45/GP-XB§S cña Côc B¸o chÝ, Bé Th«ng tin vμ TruyÒn th«ng
cÊp ngμy 07/7/2008. In xong nép l−u chiÓu th¸ng 02/2010

You might also like