You are on page 1of 17

LỜI NÓI ĐẦU

Trong thời đại toàn cầu hoá, vấn đề xuất khẩu lao động từ nước dư thừa lao động
sang khan hiếm lao động đã trở thành hiện tượng khá phổ biến. Xuất khẩu lao động là
một hoạt động kinh tế - xã hội góp phần phát triển nguồn nhân lực, giải quyết việc làm,
tạo thu nhập và nâng cao trình độ tay nghề cho người lao động, tăng nguồn thu ngoại tệ
cho đất nước và tăng cường quan hệ hợp tác quốc tế giữa nước ta với các nước. Đó là
một chiến lược quan trọng, lâu dài, góp phần xây dựng đội ngũ lao động cho công cuộc
xây dựng đất nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa... Tuy nhiên, lao động
xuất khẩu ra nước ngoài lại gặp không ít khó khăn về trình độ, xung đột văn hóa, ngôn
ngữ và bị ngược đãi, gây tổn hại đến tinh thần và thể xác của người lao động xuất khẩu ra
nước ngoài.
Xuất khẩu lao động đang là vấn đề nóng bỏng hiện nay nhà nước và xã hội đang
quan tâm vì phải có những giải pháp như thế nào nhằm đảm bảo lao động xuất khẩu ra
nước ngoài đạt tiêu chuẩn về trình độ, tay nghề với đối tác cũng như đảm bảo người loa
động không bị xâm phạm đến thể xác và tinh thần, tạo điều kiện họ yên tâm làm việc.
Đây là nội dung nghiên cứu của đề tài của nhóm 4: “Xuất khẩu lao động Việt Nam: thực
trạng và giải pháp”.
Thực trạng và các giải pháp về xuất khẩu lao động ở Việt Nam
I. KHÁI QUÁT VỀ XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG
Theo Luật Xuất khẩu lao động, ta có khái quát về xuất khẩu lao động như sau:
1. Khái niệm xuất khẩu lao động
Xuất khẩu lao động là một trong những chính sách lớn của Nhà nước ta. Trong
những năm qua nhà nước luôn tạo điều kiện thuận lợi để công dân Việt Nam có đủ điều
kiện đi làm việc ở nước ngoài, bảo hộ quyền lợi ích hợp pháp của người lao động và của
các tổ chức sự nghiệp, của các doanh nghiệp đi làm việc ở nước ngoài.
Xuất khẩu lao động là một chính sách vừa mang tính kinh tế, vừa mang tính xã hội
giữ vai trò quan trọng không chỉ đối với người lao động, các doanh nghiệp mà còn đối
với nhà nước và xã hội.
Xuất khẩu lao động là một trong những thuật ngữ được tiếp cập dưới nhiều góc độ
khác nhau. Theo từ điển Tiếng Việt năm 1995 thì xuất khẩu được hiểu là việc “đưa hàng
hóa, tư bản ra nước ngoài”. Nếu hiểu theo nghĩa rộng, xuất khẩu lao động là việc đưa
người lao động sang làm việc tại nước ngoài.
Theo nghĩa hẹp thì pháp luật về xuất khẩu lao động là tổng hợp các quy phạm pháp
luật điều chỉnh quan hệ người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo các hình
thức do pháp luật quy định trong đó các bên tham gia quan hệ mang các quyền và nghĩa
vụ pháp lý nhất định.
2. Đặc điểm xuất khẩu lao động
- Chủ thể của hoạt động xuất khẩu lao động bao gồm các đối tượng sau:
+ Doanh nghiệp, tổ chức sự nghiệp đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài
theo hợp đồng.
+ Người lao động Việt Nam có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật Việt Nam
và pháp luật của nước tiếp nhận người lao động, đi làm việc ở nước ngoài.
+ Người bảo lãnh cho người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng.
+ Tổ chức cá nhân có liên quan đến việc người lao động đi làm việc ở nước ngoài.
+ Người sử dụng lao động ở nước ngoài có sử dụng lao động Việt Nam.
- Cơ sở phát sinh quan hệ xuất khẩu lao động là thông qua các hợp đồng xuất khẩu
lao động. Hợp đồng xuất khẩu lao động là sự thỏa thuận bằng văn bản giữa các bên trong
việc đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài.
- Mục đích của xuất khẩu lao động nhằm:
+ Giải quyết việc làm cho người lao động.

Trang 2
Thực trạng và các giải pháp về xuất khẩu lao động ở Việt Nam
+ Tạo ra lợi ích về mặt kinh tế cho những người đi làm việc ở nước ngoài.
+ Bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước.
+ Góp phần giải quyết các vấn đề xã hội.
+ Thúc đẩy quan hệ hợp tác giữa nước ta với các nước trên thế giới.
3. Vai trò xuất khẩu lao động trong phát triển kinh tế xã hội
Xuất khẩu lao động giữ vị trí và tầm quan trọng đối với sự nghiệp phát triển kinh tế
xã hội của nhà nước ta. Với ý nghĩa đó, trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 –
2010 Đảng ta đã xác định: “Giải quyết việc làm là yếu tố quyết định để phát huy nhân tố
con người, ổn định và phát triển kinh tế, làm lành mạnh hóa xã hội, đáp ứng nguyện
vọng chính đáng và yêu cầu bức xúc của nhân dân”… “Đẩy mạnh xuất khẩu lao động,
xây dựng và thực hiện đồng bộ, chặt chẽ cơ chế, chính sách về đào tạo nguồn lao động,
đưa lao động ra nước ngoài, bảo vệ quyền lợi và tăng uy tín của người lao động Việt
Nam ở nước ngoài”.
Xuất khẩu lao động được coi là hoạt động vừa mang tính kinh tế, vừa mang tính xã hội:
* Về kinh tế:
+ Xuất khẩu lao động góp phần đem lại nguồn thu nhập cho đất nước.
+ Xuất khẩu lao động góp phần tạo ra nguồn lợi nhuận đáng kể cho doanh nghiệp.
+ Xuất khẩu lao động tạo ra nguồn thu nhập cho người lao động, cho gia đình người
lao động.
+ Xuất khẩu lao động góp phần xóa đói giảm nghèo, thúc đẩy sự phát triển của đất nước.
* Về xã hội:
Xuất khẩu lao động là một chính sách của nhà nước ta góp phần giải quyết việc làm
cho người lao động, đào tạo nâng cao tay nghề cho người lao động, người lao động sẽ
được trang bị kỹ năng lao động công nghiệp, có nhiều kinh nghiệm trong lao động và sản
xuất. Những người lao động này sẽ là nguồn lực lượng lao động phục vụ hữu ích cho các
doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất tại Việt Nam.
Xuất khẩu lao động sẽ là kênh hạn chế các vấn đề xã hội có thể xảy ra. Đồng thời
xuất khẩu lao động cũng là sợi dây thắt chặt mối quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và các
nước trên thế giới thông qua thị trường hợp tác lao động.
4. Các hình thức xuất khẩu lao động:

Trang 3
Thực trạng và các giải pháp về xuất khẩu lao động ở Việt Nam
Hình thức xuất khẩu lao động là cách tiến hành, cách thể hiện hoạt động đưa người
lao động Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài theo quy định của pháp luật Việt
Nam. Hình thức xuất khẩu lao động có những đặc điểm sau:
+ Hình thức xuất khẩu lao động là hình thức do pháp luật quy định.
+ Hình thức xuất khẩu lao động được áp dụng cho các doanh nghiệp, các tổ chức,
các đơn vị và người lao động đủ điều kiện đi làm việc ở nước ngoài.
+ Hình thức xuất khẩu lao động là cơ sở để đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài.
Theo quy định tại Bộ luật lao động Luật người lao động Việt Nam đi làm việc ở
nước ngoài theo hợp đồng Quốc Hội thông qua ngày 29/11/2006 quy định các hình thức
đưa lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài thì người lao động đi làm việc ở nước
ngoài theo một trong các hình thức sau đây:
* Cung ứng lao động theo các hợp đồng ký với bên nước ngoài
Đây là trường hợp các tổ chức kinh tế Việt Nam được phép xuất khẩu lao động tuyển
lao động Việt Nam để đưa đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng cung ứng lao động.
Hình thức này tương đối phổ biến, được thực hiện rộng rãi trong những năm vừa qua và
những năm tới.
Hình thức này có các đặc điểm sau:
+ Chủ thể của hình thức này là các doanh nghiệp Việt Nam, các tổ chức kinh tế Việt
Nam được phép xuất khẩu lao động và người sử dụng lao động nước ngoài.
+ Đối tượng của hình thức này là người lao động Việt Nam phải đáp ứng đầy đủ các
tiêu chuẩn điều kiện của người sử dụng lao động nước ngoài đặt ra.
+ Pháp luật điều chỉnh: do hệ thống pháp luật của nước sở tại quy định.
- Hợp đồng đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài với doanh nghiệp hoạt
động dịch vụ đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài, tổ chức sự nghiệp được phép
hoạt động đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài1
Đưa người lao động đi làm việc theo hợp đồng nhận thầu, khoán công trình ở nước
ngoài. Đây là trường hợp doanh nghiệp tuyển lao động và chuyên gia Việt Nam đưa đi
làm việc ở nước ngoài để thực hiện hợp đồng kinh tế với bên nước ngoài; các doanh
nghiệp Việt Nam trúng thầu, nhận khoán công trình ở nước ngoài hoặc đầu tư dưới hình
thức liên doanh, liên kết chia sản phẩm hoặc các hình thức đầu tư khác ở nước ngoài.
Đặc điểm của hình thức này là: Việc tuyển người lao động là để thực hiện hợp đồng
của doanh nghiệp Việt Nam, các yêu cầu về tiêu chuẩn lao động, điều kiện lao động do

Trang 4
Thực trạng và các giải pháp về xuất khẩu lao động ở Việt Nam
doanh nghiệp Việt Nam đặt ra; doanh nghiệp Việt Nam sử dụng lao động có thể trực tiếp
tuyển lao động hoặc ủy quyền cho doanh nghiệp cung ứng lao động tuyển lao động,
doanh nghiệp Việt Nam đưa lao động đi nước ngoài, quản lý sử dụng lao động ở nước
ngoài, bảo đảm các quyền lợi cho người lao động làm việc ở nước ngoài.
Do đặc điểm của hình thức sử dụng lao động này nên quan hệ lao động giữa người
lao động và người sử dụng lao động tương đối ổn định; việc giải quyết những vấn đề phát
sinh trong quan hệ lao động của người lao động khi làm việc ở nước ngoài có nhiều thuận lợi.
Tuy nhiên, do hợp đồng được thực hiện ở nước ngoài nên ít nhiều có sự ảnh hưởng
của pháp luật, phong tục tập quán của nước ngoài. Ngoài việc tuân thủ pháp luật Việt
Nam, cả doanh nghiệp Việt Nam quản lý sử dụng lao động và người lao động Việt Nam
còn phải tuân thủ các quy định của pháp luật nước ngoài.
- Đưa người lao động đi làm việc theo các dự án đầu tư ở nước ngoài.
- Hợp đồng đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hình thức thực tập
nâng cao tay nghề với doanh nghiệp đưa người lao động đi làm việc dưới hình thức thực
tập nâng cao tay nghề.
- Theo hình thức hợp đồng cá nhân giữa người lao động Việt Nam với người sử dụng
lao động nước ngoài.
Hình thức này chưa thực sự phổ biến và thông dụng ở Việt Nam. Một số nhà đầu tư
nước ngoài hiện nay đã đến Việt Nam và đưa ra rất nhiều tiêu chuẩn, điều kiện để tuyển
chọn cho họ một lực lượng lao động có tay nghề cao, biết ngoại ngữ và có khả năng giao
tiếp với người nước ngoài. Với những tiêu chí trên thì người sử dụng lao động nước
ngoài sẽ tiến hành ký kết hợp đồng với người lao động Việt Nam.
Tuy nhiên, có thể nói lao động nước ta đa phần không thông thạo ngoại ngữ, trình độ
tay nghề còn thấp, tâm lý ngại tiếp xúc với người nước ngoài, việc hiểu biết phong tục tập
quán của nước ngoài còn hạn chế do đó hình thức này chưa được phổ biến trong thực tế.
Trong tương lai, đây là một hình thức có nhiều thuận lợi cho các bên, tạo ra sự chủ
động trong việc tuyển chọn và sử dụng lao động. Nhưng hình thức này cũng cần phải có
sự kiểm soát và quản lý của nhà nước Việt Nam tránh tình trạng các bên lợi dụng việc ký
kết hợp đồng này để trục lợi bất chính gây ảnh hưởng đến quyền lợi ích của các bên cũng
như mối quan hệ giữa nhà nước Việt Nam với các nước khác.
- Các hình thức khác theo quy định của pháp luật.

Trang 5
Thực trạng và các giải pháp về xuất khẩu lao động ở Việt Nam
Hình thức này cho phép bên doanh nghiệp, người lao động Việt Nam với bên tổ
chức, người sử dụng lao động nước ngoài lựa chọn để thực hiện hoạt động xuất khẩu lao
động nhưng phải đảm bảo việc tuân thủ pháp luật của nhà nước Việt Nam cũng như pháp
luật của nước ngoài.

II. THỰC TRẠNG TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG Ở VIỆT NAM
1. Đặc điểm các nước xuất khẩu lao động
Những nước cần nhập khẩu lao động có hai loại:
- Một là những nước dân số ít mà giàu tài nguyên như ở Trung Đông, ở đây thiếu lao
động trong các ngành xây dựng, dịch vụ, nhất là dịch vụ tại tư gia.
- Hai là những nước đã phát triển, kể cả những nước công nghiệp mới như Hàn
Quốc, Đài Loan, Singapore, Malaysia. Trong nhóm thứ hai, cơ cấu kinh tế chuyển dịch
nhanh sang những ngành dùng nhiều tư bản, công nghệ và lao động trí thức, và chuyển
sang nước ngoài (đầu tư trực tiếp, FDI) những ngành có hàm lượng lao động giản đơn
cao. Tuy nhiên, tại những nước công nghiệp mới, những ngành dùng nhiều lao động giản
đơn có quy mô khá lớn nên không thể chuyển hết ra nước ngoài. Thêm vào đó, trong
những ngành đang phát triển mạnh tại những nước này, nhiều công đoạn còn dùng lao
động giản đơn nên nhu cầu nhập khẩu lao động tăng. Tại những nước phát triển (Tây Âu,
Bắc Mỹ, Nhật), nhu cầu lao động tăng trong ngành xây dựng, ngành dịch vụ ẩm thực,
dịch vụ săn sóc người cao tuổi, một số nước cần lao động trong nông nghiệp.
Ở đây cần lưu ý một điểm là tại các nước đã phát triển không phải là không còn tồn
tại lao động giản đơn. Vẫn còn một bộ phận không nhỏ số người mới ở trình độ giáo dục
cưỡng bách. Tuy nhiên vì tiền lương nói chung đã tăng cao theo mức sống của xã hội, các
xí nghiệp có khuynh hướng thuê mướn lao động nước ngoài để giảm chi phí. Mặt khác,
lao động bản xứ có khuynh hướng tránh những loại công việc mà môi trường lao động
không tốt, dễ gặp tai nạn, như ở các công trình xây dựng.
Về phía các nước xuất khẩu lao động, nói chung đây là những nước kém phát triển,
hoặc phát triển với tốc độ chậm mà lại không ưu tiên đẩy mạnh các ngành dùng nhiều lao
động. Cho đến nay, những nước xuất khẩu lao động vừa nhiều về số lượng vừa có tỉ lệ
cao trong tổng dân số của nước đó là Lebanon, El Salvador, Columbia, Pakistan và
Philippin.

Trang 6
Thực trạng và các giải pháp về xuất khẩu lao động ở Việt Nam
Nhìn chung có thể thấy một số đặc điểm cơ bản liên quan đến lao động xuất khẩu và
những nước xuất khẩu nhiều lao động:
- Lao động giản đơn xuất khẩu sang các nước phát triển nhất là các nước công
nghiệp mới thông thường làm việc trong những môi trường khó khăn, quyền lợi của
người lao động dễ bị xâm phạm nếu việc xuất nhập khẩu lao động không được tổ chức
chu đáo, không có sự cam kết của xí nghiệp dùng lao động và sự giám sát của các cơ
quan của nước sở tại.
- Vì là lao động giản đơn, trình độ học vấn, trình độ văn hoá của người đi lao động
nước ngoài thấp nên khó thích nghi với điều kiện văn hoá, xã hội nước ngoài. Không ít
người thất vọng với hoàn cảnh sống và làm việc ở xứ người, và có nhiều trường hợp
phạm pháp xảy ra, gây ra hình ảnh xấu cho nước xuất khẩu lao động. Ngoài ra, cùng với
điểm thứ nhất, lao động có trình độ văn hoá thấp thường dễ bị bóc lột tại xứ người.
- Nước xuất khẩu lao động hầu hết là những nước không thành công trong các chiến
lược phát triển kinh tế. Với trình độ văn hoá thấp, người dân các nước nầy không khỏi
không lo âu khi rời xứ sở ra nước ngoài làm việc. Tại Á châu, ngay cả việc rời nông thôn
để ra thành thị đối với họ cũng không phải là sự chọn lựa dễ dàng. Thành ra, nếu trong
nước có công ăn việc làm, ít người muốn tham gia xuất khẩu lao động.
- Cho đến nay, trong những nước xuất khẩu lao động chưa thấy nước nào đưa vấn đề
này vào trong chiến lược phát triển kinh tế chung, trong đó lao động được đưa đi sẽ bảo
đảm rèn luyện được tay nghề khi trở về, ngoại hối thu được sẽ được dùng một cách hiệu
quả trong việc du nhập công nghệ, tư bản, v.v... và có kế hoạch chấm dứt xuất khẩu lao
động trong tương lai.
Việt Nam là nước xuất khẩu lao động nên cũng bao gồm những đặc điểm trên. Lực
lượng đi xuất khẩu lao động chủ yếu là công nhân có trình độ tay nghề không chuyên
sâu, nông dân thất nghiệp chưa được đào tạo nhiều, và chủ yếu là lao động giản đơn.
2. Tình hình xuất khẩu lao động ở Việt Nam
Theo thông tin Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, ta có số liệu về xuất khẩu lao
động ở các thị trường như sau:
- Năm 2006, cả nước đưa được hơn 78.000 lao động đi làm việc ở nước ngoài, vượt
chỉ tiêu đề ra, trong đó lớn nhất là Malaysia với 37.950 người, tiếp theo là Đài Loan
(Trung Quốc) với 14.120 lao động.

Trang 7
Thực trạng và các giải pháp về xuất khẩu lao động ở Việt Nam
- Năm 2007, cả nước đưa 85.000 lao động đi làm ở 30 thị trường nước ngoài, trong
đó, cao nhất Malaysia 26.704 người, Đài Loan: 23.640 người, Hàn Quốc: 12.187 người,
Nhật Bản: 5.517 người, Ca – ta : 4.685 người, Ma Cao: 2130 người…
- Năm 2008 xuất khẩu lao động 85.000, trong đó có bốn thị trường xuất khẩu lao
động trọng điểm của Việt Nam là: Đài Loan (33.000), Hàn Quốc (16.000), Malaysia
(7.800) và Nhật Bản (5.800).
Về xuất khẩu lao động, từ năm 2006 đến nay, bình quân mỗi năm Việt Nam đưa
được 83 nghìn lao động đi làm việc ở nước ngoài (chiếm 5% số lao động được giải quyết
việc làm của cả nước). Đến nay, có khoảng 500 nghìn lao động Việt Nam làm việc ở trên
40 nước và vùng lãnh thổ với 40 nhóm ngành nghề khác nhau, hàng năm gửi về nước
khoảng 1,6-2 tỷ USD (riêng từ thị trường Hàn Quốc với gần 50 nghìn lao động gửi về
khoảng 700 triệu USD/năm; Nhật Bản là hơn 300 triệu USD). Chất lượng lao động xuất
khẩu từng bước được cải thiện, số lao động có nghề tăng từ 35% năm 2003 lên 50% hiện
nay. Công tác quản lý lao động ở nước ngoài cũng như hoạt động xuất khẩu lao động
được tăng cường. Hoạt động của các doanh nghiệp xuất khẩu lao động ngày càng hiệu
quả; công tác thông tin, tuyên truyền được chú trọng. Tuy nhiên, yêu cầu về lao động
trong xu thế hội nhập không chỉ dừng lại ở chỗ mở rộng thị trường, phát triển số lượng
mà song song với việc đó, cần quan tâm đến chất lượng lao động đi xuất khẩu.
Việc xuất khẩu lao động ngày càng đòi hỏi khắt khe, về kỹ năng tay nghề, về chấp
hành kỷ luật và về trình độ ngoại ngữ, nhất là tại các thị trường thông dụng tiếng Anh.
hiện lao động của ta ra nước ngoài cơ bản đáp ứng yêu cầu doanh nghiệp sở tại.
Tuy nhiên, tại một số thị trường, lao động Việt Nam đã không còn được "ưa chuộng"
như trước đây nữa. Đặc biệt là thị trường Malaysia, nếu như trước đây các ông chủ doanh
nghiệp nước này đánh giá rất cao lao động Việt Nam vì họ thông minh, nhanh nhẹn, thì
bây giờ họ thường xuyên phản ánh về sự thiếu ý thức kỷ luật của các lao động nam.
Thậm chí, đã có khá nhiều doanh nghiệp từ chối nhận lao động nam Việt Nam.
Một trong những thị trường được xem có tiềm năng hiện nay là thị trường Trung
Đông. Hiện có khoảng trên 3.000 lao động Việt Nam làm việc tại Các Tiểu vương quốc
Ảrập thống nhất, 2.000 lao động tại Qatar.
Mặt khác, theo các nhà quản lý lao động, với bản tính cần cù, chịu khó, trong quá
trình làm việc tại nước ngoài, lao động nữ của Việt Nam luôn được đánh giá cao. Ngoài
ra, lao động nữ còn có ý thức tuân thủ các nguyên tắc cộng đồng tốt hơn so với lao động

Trang 8
Thực trạng và các giải pháp về xuất khẩu lao động ở Việt Nam
nam giới. Nhiều chị em, sau khi làm việc tại nước ngoài về, đã tích luỹ được một số vốn
khá hơn gấp nhiều lần so với lao động trong nước. Ngoài ra, nhiều lao động nữ khác còn
dùng số thu nhập tích luỹ đó mở các cơ sở kinh doanh nhỏ tạo thêm việc làm cho người
lao động. Nhờ vậy mà vai trò của người phụ nữ trong gia đình và xã hội ngày càng được
nâng cao.
Tuy nhiên, chương trình xuất khẩu lao động nữ cũng đã bộc lộ những hạn chế nhất
định, kể cả từ phía người lao động lẫn từ phía các nhà quản lý.
* Về phía người lao động: Do đa số lao động nữ đều xuất thân từ nông thôn, là lao
động phổ thông, nên còn có những hạn chế nhất định bên cạnh những hạn chế chung như:
ngoại ngữ kém, nhận thức chưa đúng hoặc thiếu nhận thức đầy đủ về quan hệ chủ - thợ,
về tác phong công nghiệp trong kinh doanh hay chưa hiểu rõ về phong tục tập quán của
nước nhập khẩu lao động. Lao động nữ trong chương trình xuất khẩu lao động còn có
những hạn chế đặc trưng như sau:
- Về đặc điểm thị trường, lao động nữ chỉ hạn chế ở những thị trường có công việc
phù hợp trong những lĩnh vực sản xuất và dịch vụ như: công nhân ngành may mặc, da
giày, dệt, công việc gia đình hay một số dịch vụ khác.
- Về tâm sinh lý của lao động nữ: phần lớn người lao động nữ Việt Nam đều có bản
tính nhút nhát, rụt rè, chưa quen tiếp xúc với người nước ngoài, môi trường làm việc và
sinh hoạt không phù hợp... Bên xuất khẩu lao động và tiếp nhận lao động thường rất e
ngại trong việc sử dụng lao động nữ, thường kèm theo một số các điều kiện nhạy cảm nh-
ư vấn đề thai sản, quản lý sinh hoạt khác... Bên cạnh đó, người phụ nữ còn mặc cảm về
một số nghề nghiệp như nghề giúp việc gia đình, phục vụ bán hàng, phục vụ ăn uống,
chăm sóc ăn uống... coi những công việc này là hèn kém. Hầu hết những phụ nữ đi xuất
khẩu đều chỉ muốn làm công nhân. Điều này dẫn đến tình trạng có quá nhiều người xin đi
thi tuyển làm công nhân, trong khi nhu cầu tuyển lao động nữ giúp việc và hộ gia đình
đều rất cao, nhưng không tuyển đủ số người cần thiết, hay không tuyển được.
- Những hạn chế trong gia đình và định kiến xã hội, đặc biệt là ở những vùng nông
thôn. Người phụ nữ trong gia đình thường được coi là người nội trợ, chăm sóc con cái,
bên cạnh đó, hầu hết những chị em có nhu cầu và phù hợp với các chương trình xuất
khẩu đều là những người đã lập gia đình ổn định và đã có con cái, nên việc tham gia
chương trình xuất khẩu lao động thường ít được gia đình hưởng ứng. Một số lao động nữ
đã phải về nước trước thời hạn do sức ép từ phía gia đình. Điều này vừa ảnh hưởng đến

Trang 9
Thực trạng và các giải pháp về xuất khẩu lao động ở Việt Nam
kinh tế của bản thân, gia đình, vừa tốn hao sức khoẻ, tâm trí, thời gian và thậm chí còn
gây ra dư luận không tốt về xuất khẩu lao động nữ.
* Về khía cạnh quản lý, vấn đề thường gặp là khâu tuyển chọn lao động. Một số lao
động nữ khi sang nước bạn làm việc không đáp ứng đủ tiêu chuẩn sức khoẻ, hình thức
hoặc bị mắc các chứng bệnh xã hội, bị mang thai, hay do ngoại ngữ yếu, không trung
thực, kỹ năng lao động yếu, lười biếng, hoặc do nhận thức không đúng về công việc tại
nước ngoài, nghĩ rằng ra nước ngoài làm việc là an nhàn, không chịu khó làm việc, bị trả
về nước trước thời hạn.
Tham gia vào công tác quản lý xuất khẩu lao động ở Việt Nam hiện nay gồm có các
cơ quan Nhà nước như Cục quản lý lao động ngoài nước, sự hỗ trợ của các Đại sứ quán ở
các nước tiếp nhận lao động,…, Hiệp hội xuất khẩu lao động Việt Nam Vamas (là tổ
chức đại diện cho quyền lợi của cộng động các doanh nghiệp tham gia hoạt động xuất
khẩu lao động, tính đến nay có 136 doanh nghiệp hội viên) và các doanh nghiệp.
3. Tình hình xuất khẩu lao động ở Việt Nam trong năm 2009
Từ cuộc khủng hoảng tài chính tại Mỹ, thế giới giờ đây đang rơi vào một giai đoạn
khó khăn chưa từng thấy khi các nền kinh tế với mức độ khác nhau đều suy thoái. Hiện
tượng đồng hành với suy thoái kinh tế là giảm khả năng đầu tư và nhu cầu tiêu dùng, kéo
theo là hàng loạt doanh nghiệp phá sản hoặc thu hẹp sản xuất kinh doanh. Hệ quả là tỷ lệ
thất nghiệp sẽ tăng lên.
Thị trường xuất khẩu lao động ra nước ngoài năm 2009 không những khó khăn mà
còn là một bức tranh ảm đạm do ảnh hưởng của nền kinh tế thế giới nói chung. Đại diện
một số doanh nghiệp hoạt động xuất khẩu lao động đã thừa nhận việc đó, rất nhiều đối
tác đã ký hợp đồng nhưng tìm cách hoãn lịch bay; có đối tác điều chỉnh về giá hoặc có
thêm những yêu cầu khác, đề nghị chúng ta thực hiện để kéo dài thời gian xuất cảnh của
người lao động sang bên họ... Theo Tổng giám đốc Tổ chức lao động quốc tế (ILO), trên
thế giới sẽ có khoảng 20 triệu người mất việc làm vào cuối năm tới. Các thị trường có lao
động Việt Nam bức tranh về kinh tế, việc làm cũng không thoát ra khỏi hoàn cảnh chung.
Một số đối tác Malaysia, Đài Loan, Hàn Quốc...đã dừng tiếp nhận lao động mặc dù
đã ký hợp đồng. Ngoài ra, họ còn tìm mọi lý do để cho lao động về nước trước thời hạn,
vì không đủ khả năng tài chính chi trả đến hết hợp đồng đã ký. Lao động tại thị trường
Nhật Bản cũng không khá hơn gì. Một số doanh nghiệp điện tử của Nhật đã hoãn tiếp
nhận tu nghiệp sinh Việt Nam, còn chuyên gia thì tại doanh nghiệp vừa thiếu việc làm

Trang 10
Thực trạng và các giải pháp về xuất khẩu lao động ở Việt Nam
vừa trong tư thế chuẩn bị làm thủ tục về nước trước thời hạn. Thị trường Qatar,
Singapore cũng lác đác có lao động về nước do chủ sử dụng lao động cắt giảm nhân
công.
Do đó, cơ hội tìm kiếm việc làm ở nước ngoài đối với lao động phổ thông năm 2009
là rất hiếm. Ngoài việc năm 2009, chúng ta chú trọng xuất khẩu lao động kỹ thuật và
chuyên gia thì đó cũng là xu hướng của các đối tác tìm lao động. Những thị trường
truyền thống như Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc cũng đòi hỏi lao động kỹ thuật nhiều
hơn lao động phổ thông. Chủ sử dụng lao động ở Trung đông vẫn có nhu cầu tiếp nhận số
lượng lớn lao động Việt Nam nhưng phải là lao động có tay nghề ở các lĩnh vực: xây
dựng, cơ khí, thợ hàn và giúp việc gia đình.
4. Định hướng và kế hoạch xuất khẩu lao động ở Việt Nam năm 2009
Bộ Lao động – Thương bình & Xã hội đề ra chỉ tiêu là 9 vạn lao động ra nước ngoài
làm việc trong năm 2009, trong đó có 60% lao động qua đào tạo nghề, 5-10% là lao động
ở các huyện có tỷ lệ hộ nghèo cao:
- Để khắc phục khó khăn, đảm bảo hoàn
thành chỉ tiêu năm 2009, các địa phương, các ngành cần nắm chắc nhu cầu việc làm.
Các ban quản lý lao động ở nước ngoài sẽ họp để nắm cho được tình hình lao động
có khả năng phải về nước; các ban quản lý cũng cần tìm hiểu chi tiết xem chính sách
của phía bạn có gì để hướng dẫn cho doanh nghiệp sao cho quyền lợi người lao động
được đảm bảo.
- Tập trung khai thác các thị trường tiềm
năng, ưu tiên cho lao động qua đào tạo nghề. Ví như tại Nhật Bản hiện mới có
khoảng 6.000 lao động Việt Nam, song thị trường này có thể tiếp nhận 10.000 lao
động/năm trở lên. Nên rút kinh nghiệm từ “bài học Qatar” vì đã xuất khẩu quá nhiều
lao động phổ thông.
- Cần gắn chặt dạy nghề, tạo việc làm, xuất
khẩu lao động với mục tiêu xóa đói giảm nghèo. Cả nước hiện có 61 huyện nghèo
trên cả nước, các huyện này sẽ được ưu tiên áp dụng chính sách ưu đãi tối đa để đào
tạo nghề cho thanh niên. Không chỉ miễn phí đào tạo mà tiến tới hỗ trợ cả kinh phí
ăn ở để họ chuyên tâm học nghề.
III. CÁC GIẢI PHÁP:

Trang 11
Thực trạng và các giải pháp về xuất khẩu lao động ở Việt Nam
Ngày 15/12/2008, tại Hà Nội, trong Hội nghị Việc làm và Xuất khẩu lao động do Bộ
Lao động – Thương binh và Xã hội tổ chức, Phó Thủ tướng Thường trực Nguyễn Sinh
Hùng đã chỉ đạo 6 giải pháp chính để đẩy mạnh tạo việc làm và xuất khẩu lao động trong
thời gian tới:
- Một là, tập trung nghiên cứu, hoạch định chiến lược về cung cầu trên thị trường lao
động; nâng cao năng lực dự báo, phân tích, thống kê về lao động – việc làm mang tầm
chiến lược.
- Hai là, đẩy mạnh đào tạo nghề gắn với nhu cầu của thị trường lao động là trọng tâm của
giải quyết việc làm và xuất khẩu lao động. Trong dạy nghề cho xuất khẩu lao động cần
làm tốt các yếu tố về ngoại ngữ, văn hóa, phong tục tập quán, luật pháp nước sở tại và kỹ
năng nghề cho người lao động. Cần quan tâm đào tạo nghề cho những đối tượng yếu thế
như người khuyết tật, người có hoàn cảnh đặc biệt...
- Ba là, tăng cường nguồn lực đầu tư cho giải quyết việc làm, xuất khẩu lao động và đào
tạo nghề để phát huy thế mạnh lao động trẻ của nước ta. Có chính sách khuyết khích tài
chính, tín dụng, đặc biệt là cho các đối tượng nghèo, yếu thế trong xã hội.
- Bốn là, tăng cường công tác quản lý Nhà nước, xử lý tốt mối quan hệ giữa Việt Nam và
các nước tiếp nhận và bảo vệ quyền lợi người lao động.
- Năm là, giải quyết tốt mối quan hệ giữa Trung ương, địa phương và doanh nghiệp trong
xuất khẩu lao động. Đây phải thực sự trở thành công việc của các cấp ủy, chính quyền địa
phương.
- Sáu là, mọi chính sách liên quan đến việc làm và xuất khẩu lao động phải gắn liền với
giảm nghèo và các đối tượng yếu thế; đặc biệt, có chính sách hỗ trợ đẩy mạnh xuất khẩu
lao động ở 61 huyện nghèo nhất cả nước, coi đây là giải pháp cơ bản và hiệu quả nhất để
xóa đói giảm nghèo.
Theo GS. TS kinh tế Trần Văn Thọ, đại học Waseda, Tokyo thì nhìn chung có thể
thấy một số đặc điểm cơ bản liên quan đến lao động xuất khẩu và liên quan đến những
nước xuất khẩu nhiều lao động :
- Thứ nhất, lao động giản đơn xuất khẩu sang các nước phát triển nhất là các nước
công nghiệp mới thông thường làm việc trong những môi trường khó khăn, quyền lợi
của người lao động dễ bị xâm phạm nếu việc xuất nhập khẩu lao động không được tổ
chức chu đáo, không có sự cam kết của xí nghiệp dùng lao động và sự giám sát của các
cơ quan của nước sở tại.

Trang 12
Thực trạng và các giải pháp về xuất khẩu lao động ở Việt Nam
- Thứ hai, vì là lao động giản đơn, trình độ học vấn, trình độ văn hoá của người đi
lao động nước ngoài thấp nên khó thích nghi với điều kiện văn hoá, xã hội nước ngoài.
Không ít người thất vọng với hoàn cảnh sống và làm việc ở xứ người, và có nhiều
trường hợp phạm pháp xảy ra, gây ra hình ảnh xấu cho nước xuất khẩu lao động. Ngoài
ra, cùng với điểm thứ nhất, lao động có trình độ văn hoá thấp thường dễ bị bóc lột tại
xứ người.
- Thứ ba, nước xuất khẩu lao động hầu hết là những nước không thành công trong
các chiến lược phát triển kinh tế. Với trình độ văn hoá thấp, người dân các nước nầy
không khỏi không lo âu khi rời xứ sở ra nước ngoài làm việc. Tại Á châu, ngay cả việc
rời nông thôn để ra thành thị đối với họ cũng không phải là sự chọn lựa dễ dàng. Thành
ra, nếu trong nước có công ăn việc làm, ít người muốn tham gia xuất khẩu lao động.
- Thứ tư, cho đến nay, trong những nước xuất khẩu lao động chưa thấy nước nào
đưa vấn đề nầy vào trong chiến lược phát triển kinh tế chung, trong đó lao động được
đưa đi sẽ bảo đảm rèn luyện được tay nghề khi trở về, ngoại hối thu được sẽ được dùng
một cách hiệu quả trong việc du nhập công nghệ, tư bản, v.v... và có kế hoạch chấm
dứt xuất khẩu lao động trong tương lai. Chỉ thấy có truờng hợp (như Malaysia đã làm
20 năm trước) tích cực đưa thực tập sinh sang tu nghiệp ngắn hạn tại các nước tiên tiến
để sau đó về làm việc với năng suât cao hơn tại các nhà máy hoặc các cơ sở kinh tế
khác, nhằm thực hiện thành công chiến lược phát triển chung. Nhưng thực tập sinh
khác về chất với vấn đề xuất khẩu lao động.
Do đó, theo GS. TS. Trần Văn Thọ thì các giải pháp đối với Việt Nam nên là:
- Thứ nhất, cần đưa vấn đề nầy vào trong một tổng thể của chiến lược phát triển
kinh tế, trong đó điểm mấu chốt là giải quyết công ăn việc làm cho mọi người có khả
năng lao động. Việc xây dựng cơ sở hạ tầng, việc thu hút FDI, việc dùng ngân sách để
yểm trợ các dự án phát triển công nghiệp phải hướng vào điểm mấu chốt đó. Việc
hoạch định chính sách theo hướng đó và công bố rộng rãi chính sách nầy sẽ làm người
dân tin tưởng vào tương lai đất nước, thấy an tâm là mình sẽ không bị bỏ rơi trong quá
trình phát triển và như vậy giảm được áp lực tham gia xuất khẩu lao động..
- Thứ hai, đặt kế hoạch đưa lao động đi thực tập và làm việc tại các nước phát
triển theo một chương trình chuẩn bị chu đáo để bảo đảm người lao động có thể học
tập qua công việc và quyền lợi lao động được bảo vệ. Những lao động được chọn đi
không nên là lao động quá giản đơn (unskilled) mà là lao động có một trình độ học vấn

Trang 13
Thực trạng và các giải pháp về xuất khẩu lao động ở Việt Nam
nhất định (semi-skilled) để dễ thích nghi với điều kiện văn hoá, xã hội ở nước ngoài và
nhất là để có thể lãnh hội tri thức mới qua công việc.
- Thứ ba, có lẽ trong vài năm trước mắt chưa thể chấm dứt ngay vấn đề xuất khẩu
lao động, do đó cần tổ chức tốt để hoạt động nầy có hiệu quả hơn, tránh tình trạng lao
động bị bóc lột như trong thời gian qua. Nói cụ thể hơn, cần thu thập, phân tích thông
tin liên quan đến thị trường lao động, tổ chức theo dõi, quản lý tại các nước và phổ
biến rộng rãi trong nước để người dân có đủ cơ sở chọn lựa tham gia xuất khẩu lao
động hay không.
Cũng theo GS. TS. Trần Văn Thọ thì: Một nước xuất khẩu nhiều lao động giản đơn
hầu hết, nếu không nói là tất cả, là những nước nghèo, và do đó hình ảnh của những nước
nầy không mấy sáng sủa trên vũ đài thế giới. Có kế hoạch chấm dứt tình trạng nầy trong
một thời gian càng ngắn càng tốt là trách nhiệm của những người lãnh đạo đất nước.
Tuy nhiên, vấn đề trước mắt hiện nay là sự suy thoái kinh tế toàn cầu có tác động
đến lao động Việt Nam ở nước ngoài. Các thị trường nhận nhiều lao động nước ngoài,
trong đó có lao động Việt Nam thời gian tới chắc chắn sẽ giảm nhu cầu về lao động. Hơn
nữa một bộ phận người lao động Việt Nam sẽ bị ảnh hưởng qua việc thu hẹp sản xuất
kinh doanh, thậm chí phá sản của các công ty nước ngoài. Sẽ có một số lượng lao động
mất việc làm và phải kết thúc hợp đồng lao động trước hạn để về nước.Theo bài viết “sự
suy thoái kinh tế toàn cầu và tác động đến lao động Việt Nam ở nước ngoài” đăng trên
báo điện tử http://www.vamas.com.vn thì sự thật trên đặt ra cho cơ quan nhà nước, Hiệp
hội xuất khẩu lao động Việt Nam Vamas và các doanh nghiệp cần phải suy tính và triển
khai thực hiên ngay từ bây giờ về các giải pháp :
Về phía doanh nghiệp:
- Cần liên hệ chặt chẽ với các đối tác nước ngoài để cùng nhau tính toán đưa ra
các dự báo về nhu cầu cung ứng lao động năm tới, trong đó phải tính kỹ tác động
của khủng hoảng kinh tế đến các ngành chủ chốt như sản xuất ô tô, hàng điện tử
cao cấp, xây dựng công trình… Đây là một số ngành mà theo tính toán của các
chuyên gia kinh tế sẽ bị tác động trước tiên từ khủng hoảng kinh tế. Từ đó xác
định sơ bộ kế hoạch tuyển và đào tạo nguồn cho phù hợp. Tránh việc tuyển và đào
tạo nguồn quá nhiều, làm cho người lao động chờ đợi lâu mà không đi được, dễ
phát sinh bức xúc trong tâm lý. Trước khi ký hợp đồng cần thẩm định kỹ tính lâu
bền, ổn định của công việc;

Trang 14
Thực trạng và các giải pháp về xuất khẩu lao động ở Việt Nam
- Nắm chắc các quy định của Luật pháp nước tiếp nhận lao động về chế độ bồi
thường đối với người lao động bị mất việc làm do doanh nghiệp thu hẹp sản xuất
hoặc phá sản, để kịp thời can thiệp bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao
động;
- Theo dõi chặt chẽ các biến động của các đơn vị lao động đang làm việc ở nước
ngoài. Hiện tượng có thể xảy ra là các doanh nghiệp nước ngoài gặp khó khăn về
đơn hàng nên người lao động không có giờ làm thêm, thậm chí phải nghỉ chờ việc
dẫn đến thu nhập thấp, phát sinh các phản ứng thái quá, vi phạm luật pháp dễ bị
doanh nghiệp nước ngoài mượn cớ để sa thải người lao động bằng hình thức kỷ
luật buộc thôi việc và người lao động không được hưởng quyền trợ cấp mất việc
do luật pháp nước sở tại quy định;.
- Cán bộ quản lý của doanh nghiệp ở nước ngoài cần theo dõi chặt chẽ tình hình
việc làm của các đơn vị lao động, nhất là việc thuyên chuyển người lao động sang
doanh nghiệp mới mà tính ổn định của công việc không đảm bảo, dẫn đến việc
người lao động vừa chuyển đến một thời gian ngắn đã thiếu việc làm hoặc bị đưa
về nước mà doanh nghiệp mới không chịu trách nhiệm về hợp đồng mà người lao
động đã ký với doanh nghiệp cũ. Kết cục là người lao động không được hưởng trợ
cấp mất việc và quyền lợi khác liên quan khi phải về nước trước hạn.
- Nghiên cứu các phương án thanh lý hợp đồng đối với người lao động về trước
hạn theo từng thị trường, tuỳ thuộc vào chi phí trước khi đi, thời gian đã làm việc,
mức thu nhập, khả năng đối tác môi giới hoàn lại một phần tiền môi giới hợp
đồng, trợ cấp mất việc của doanh nghiệp nước ngoài…từ đó cân nhắc mức hỗ trợ
thêm của bản thân công ty.
Về phía Hiệp hội và cơ quan nhà nước :
- Phối hợp với các cơ quan truyền thông có định hướng tuyên truyền sao cho dư
luận xã hội thấy được tác động của khủng hoảng tài chính và kinh tế toàn cầu tới
việc làm của người lao động, trong đó có người lao động đang làm việc ở nước
ngoài. Từ nguyên nhân bất khả kháng trên, một bộ phận người lao động ở nước
ngoài có thể bị mất việc và phải về nước trước hạn hợp đồng, thiệt hại đến lợi ích
của bản thân và gia đình họ. Nhà nước, doanh nghiệp và người lao động cùng chia
sẻ những rủi ro, thiệt hại này. Mức độ tuyên truyền sao cho không gây hoang
mang trong dư luận và gia đình hoặc bản thân người lao động, nhưng đủ độ để dư

Trang 15
Thực trạng và các giải pháp về xuất khẩu lao động ở Việt Nam
luận hiểu rõ các nguyên nhân khách quan gây nên tình trạng bất khả kháng đối với
các bên liên quan;
- Xác định việc nắm sát và hỗ trợ các doanh nghiệp giải quyết các vụ việc liên
quan đến người lao động mất việc làm do khủng hoảng kinh tế ở từng thị trường là
một trong những nhiệm vụ trọng tâm của các Ban quản lý lao động trong thời gian
tới;
- Tổ chức các cuộc giao ban thị trường với các doanh nghiệp để nắm sát tình
hình, trao đổi kinh nghiệm của các doanh nghiệp làm tốt khâu thanh lý hợp đồng
đối với người lao động, đặc biệt là về quy định pháp lý, quy trình thủ tục của từng
nước trong việc trợ cấp mất việc cho người lao động ; mức độ yêu cầu đối tác môi
giới hoàn lại một phần tiền môi giới; mức hỗ trợ của doanh nghiệp để người lao
động chấp nhận ký biên bản thanh lý hợp đồng.
Tổng hợp các giải pháp trên ta thấy rõ vai trò và chức năng của việc quản lý trong
xuất khẩu lao động. Vì chỉ với sự quản lý chặt chẽ, phối hợp và hiệu quả của các cơ quan
quản lý nhà nước, của Vamas, của các doanh nghiệp thì mới có thể kịp thời dự báo mọi
tình huống, kịp thời xử lý, chấn chỉnh các hiện tượng chệch hướng. Có sự quản lý tốt mới
có thể góp phần vào định hướng chung của kinh tế - xã hội của đất nước.

Trang 16
Thực trạng và các giải pháp về xuất khẩu lao động ở Việt Nam

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Website: http://www.molisa.gov.vn , Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội.


2. Website: http://www.vamas.com.vn , Hiệp hội xuất khẩu lao động Việt Nam.
3. Website: http://thongtinxuatkhaulaodong.com.
4. Website: http://www.vietnamforumcsr.net, Diễn đàn Trách nhiệm xã hội Việt
Nam, do Trung tâm Phát triển và Hội nhập quản trị quản lý, website:
http://www.cdivietnam.org.

Trang 17

You might also like