You are on page 1of 25

TRƯỜNG ĐH KINH TẾ TP.

HCM
KHOA LUẬT KINH TẾ

----- -----

Bài tiểu luận môn Luật Kinh Tế


Tên đề tài:

L u ậ t t r o n g s ự p h át
Vai trò của g
triển của thị trườn
CHỨNG KHOÁN

GVHD : Dương Mỹ An
SVTH : Hồ Hoàng Yến (MSSV: 106204349)
Huỳnh Duy Tân (MSSV: 106209033)
Đồng Văn Tiến (MSSV: 106208242)
Lớp : CK2 - Khóa 32
TP.HCM, tháng 6 năm 2008

Nhận xét của giáo viên:

………………………………………………………………
………………………………………………………………
………………………………………………………………
………………………………………………………………
………………………………………………………………
………………………………………………………………
………………………………………………………………
………………………………………………………………
………………………………………………………………
………………………………………………………………
………………………………………………………………
………………………………………………………………
………………………………………………………………
…………………………

2
Trang

CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ VAI TRÒ CỦA LUẬT ĐỐI

VỚI THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN....................................................1


I. Sự ra đời của Luật Chứng khoán................................................................1

1) Nguyên nhân.............................................................................................1
2) Sự ra đời....................................................................................................1
II. Vai trò của Luật đối với thị trường Chứng khoán.....................................3
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CỦA LUẬT CHỨNG KHOÁN
VIỆT NAM...................................................................................................4
I. Yêu cầu của nền kinh tế đối với Luật Chứng khoán.............................5
II. Những tác động của Luật Chứng khoán đến thị trường sau một
năm thực hiện...............................................................................................5
III. Một số thuận lợi và khó khăn trong việc áp dụng Luật Chứng khoán. .7
IV. Sự điều tiết của Chính phủ đối với thị trường Chứng khoán...................9
1) Các tiêu chí cơ bản nhằm đánh giá tính hiệu quả của Luật Chứng khoán 9
2) Quan điểm chỉ đạo trong việc xây dựng Luật Chứng khoán.....................16
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO
VAI TRÒ HIỆU QUẢ CỦA LUẬT ĐỐI VỚI THỊ TRƯỜNG
CHỨNG KHOÁN........................................................................................17
I. Một số thiếu sót..........................................................................................17
II. Dự thảo Luật.............................................................................................18

3
 CHƯƠNG I:

LÝ LUẬN CHUNG VỀ VAI TRÒ CỦA LUẬT


ĐỐI VỚI THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN

I. Sự ra đời của Luật Chứng Khoán:

1) Nguyên nhân:

Báo cáo của Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước cho biết, thị trường chứng
khoán Việt Nam hiện nay đã có hơn 28.000 tài khoản chứng khoán, tăng hơn
8 lần so với năm đầu mở cửa thị trường, trong đó có 246 nhà đầu tư có tổ
chức và 251 nhà đầu tư nước ngoài. Bên cạnh những yếu tố tích cực, hoạt
động thị trường chứng khoán cũng chứa đựng nhiều rủi ro. Nguyên nhân
chính là do các văn bản pháp luật hiện hành mới chỉ dừng lại ở Nghị định,
chưa điều chỉnh được toàn diện hoạt động của thị trường chứng khoán. Vì
vậy, nhất thiết phải có một văn bản pháp lý cao hơn để tạo cơ sở pháp lý cho
thị trường chứng khoán phát triển.

2) Sự ra đời:

Theo Chủ nhiệm Uỷ ban Kinh tế và Ngân sách của Quốc hội Nguyễn Đức
Kiên, mục đích ban hành Luật Chứng khoán để tạo kênh huy động vốn trung
và dài hạn quan trọng cho nền kinh tế, cùng với việc tạo khung pháp lý đầy đủ
về chứng khoán và thị trường chứng khoán. Tuy nhiên, cũng phải bảo đảm sự
đồng bộ, phù hợp với các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan, đặc
biệt là Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Luật Các tổ chức tín dụng, Luật Kinh
doanh bảo hiểm... Mặt khác, xây dựng Luật Chứng khoán sẽ tạo cơ sở cho thị
trường chứng khoán phát triển nhanh và ổn định, tạo tâm lý yên tâm cho các
tổ chức, cá nhân khi tham gia kinh doanh, đầu tư vào thị trường chứng khoán
và bảo đảm lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư; giúp công chúng dễ dàng hiểu
biết về chứng khoán, thị trường chứng khoán và có cơ sở pháp lý để công
chúng tham gia thị trường khi có điều kiện. Đồng thời, giúp việc phân định rõ
vai trò của từng thị trường vốn trung hạn, dài hạn và ngắn hạn trong cơ cấu thị
trường tài chính; bảo đảm và phát huy quyền tự chủ của doanh nghiệp huy
động vốn trên thị trường chứng khoán, giảm gánh nặng trong việc dùng vốn
ngắn hạn cho vay dài hạn của hệ thống ngân hàng hiện nay và góp phần tăng

4
cường tính công khai, minh bạch trong cộng đồng các doanh nghiệp và cả nền
kinh tế. Đáp ứng yêu cầu của các cam kết quốc tế trong quá trình hội nhập,
đặc biệt là các cam kết về hệ thống pháp luật phục vụ quá trình đàm phán gia
nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO).

Uỷ ban Kinh tế và ngân sách cho rằng, hoạt động chứng khoán là hoạt
động kinh doanh có điều kiện; do vậy trên cơ sở Luật Doanh nghiệp, Luật
Chứng khoán phải quy định cụ thể các điều kiện để được cấp phép hoạt động.
Các điều kiện cơ bản phải có gồm: cơ sở vật chất, kỹ thuật bảo đảm nghiệp vụ
kinh doanh chứng khoán; có vốn pháp định; người hoạt động kinh doanh
chứng khoán phải có chứng chỉ hành nghề. Về thủ tục thành lập mới, nội dung
giấy phép, nội dung điều lệ... cần dẫn chiếu Luật Doanh nghiệp, Luật Chứng
khoán chỉ nên quy định những đặc thù riêng của hoạt động chứng khoán. Các
cụm từ sử dụng trong dự thảo Luật Chứng khoán như: đăng ký, chấp thuận,
xin phép thành lập... cần thể hiện rõ ràng dưới hình thức là văn bản và đều
phải có thời hạn, quy định rõ thời hạn tối đa phải trả lời. Trường hợp kéo dài
thì cần quy định không quá một thời gian nhất định. Cần rà soát lại các quy
định này theo nguyên tắc; phải cải cách hành chính mạnh mẽ nhưng đối với
lĩnh vực mới, hoạt động kinh doanh có điều kiện như lĩnh vực chứng khoán
thì phải bảo đảm các yêu cầu kiểm soát của Nhà nước.

Để thị trường chứng khoán hoạt động nề nếp, quy cũ... nhất thiết phải xác
định cụ thể địa vị pháp lý của Uỷ ban Chứng khoán ngay trong Luật. Việc xác
định rõ mô hình tổ chức của Uỷ ban Chứng khoán là rất quan trọng, chi phối
nhiều quy định trong Luật. Có thể tóm gọn 3 loại mô hình cơ quan quản lý về
chứng khoán. Thứ nhất, Uỷ ban Chứng khoán là cơ quan của Chính phủ hay
tổ chức dưới dạng Hội đồng trực tiếp báo cáo lên Thủ tướng, hoàn toàn độc
lập trong chỉ đạo, điều hành hoạt động chứng khoán và thị trường chứng
khoán, có quyền thanh tra, giám sát thị trường, điều tra và xử lý các vi phạm.
Thứ hai, Uỷ ban Chứng khoán được tổ chức như một Hội đồng, có một số
thành viên gồm Bộ trưởng Bộ Tài chính, Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà
nước, Thứ trưởng Bộ Thương mại và một số chuyên gia kinh tế, tài chính...
Giúp việc cho Hội đồng này là một Văn phòng Uỷ ban Chứng khoán. Thứ ba,
Uỷ ban Chứng khoán trực thuộc Bộ Tài chính hoặc một Bộ nào đó. Nhìn từ
thực tiễn, mô hình tổ chức, hoạt động của Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước ở
Việt Nam chia làm 2 giai đoạn: từ 1997 đến tháng 3/2004, Uỷ ban chứng
khoán nhà nước là cơ quan thuộc Chính phủ; từ tháng 3/2004 đến nay, Uỷ ban
Chứng khoán Nhà nước vào Bộ Tài chính. Được sự hỗ trợ trực tiếp, thường
xuyên của Bộ Tài chính, cùng với việc kết hợp thực hiện chính sách cổ phần

5
hoá, kế toán, kiểm toán, chính sách thuế... nên từ năm 2005 trở lại đây, thị
trường chứng khoán có xu hướng phát triển mạnh hơn, tạo sự tin tưởng cho
các nhà đầu tư. Mặc dù trực thuộc Bộ Tài chính, những chức năng, nhiệm vụ
của Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước đã được quy định tương đối rõ ràng,
nhằm bảo đảm tính độc lập cần thiết trong việc thực thi công tác quản lý.
Theo Uỷ ban Kinh tế và Ngân sách, trước mắt, Uỷ ban Chứng khoán Nhà
nước vẫn là cơ quan trong Bộ Tài chính, nhưng trong Luật cần giao cho Uỷ
ban Chứng khoán Nhà nước một số chức năng và thẩm quyền, bảo đảm tính
độc lập cần thiết và thực quyền của Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước trong việc
xử lý các vấn đề nghiệp vụ chứng khoán. Về lâu dài, khi thị trường chứng
khoán đã phát triển ổn định sẽ sắp xếp lại cho phù hợp với yêu cầu của kinh tế
thị trường.

Tuy nhiên, trong hoạt động chứng khoán và thị trường chứng khoán cũng
cần loại bỏ các thủ tục hành chính, các loại giấy phép không cần thiết, nhưng
cũng phải bảo đảm yêu cầu quản lý của nhà nước để thị trường này phát triển
an toàn, ổn định. Các nội dung liên quan đến việc cấp các loại Giấy phép cần
phải được quy định rõ ràng, chi tiết, đặc biệt là quy định cụ thể về điều kiện,
thủ tục, thời hạn cấp giấy phép. Nói tóm lại, hoạt động chứng khoán là lĩnh
vực kinh doanh có điều kiện, còn mới, nhiều rủi ro. Vì vậy, áp dụng Luật
Chứng khoán ở Việt Nam làm sao phải phù hợp với điều kiện cũng như đặc
thù thể chế của Việt Nam, cần chọn bước đi cởi mở, nhưng thận trọng.

II. Vai trò của Luật đối với thị trường Chứng khoán:

1. Luật Chứng khoán ra đời góp phần hoàn chỉnh thể chế về kinh tế thị
trường ở nước ta, quán triệt tinh thần đổi mới của Đảng và Nhà
nước thể hiện trong Nghị quyết Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam
lần thứ IX và lần thứ X.

2. Luật Chứng khoán ra đời khắc phục những khiếm khuyết, bất cập trong
khuôn khổ pháp luật chứng khoán và thị trường chứng khoán (Nghị định 144),
đồng bộ hoá với Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư mà Quốc hội đã thông qua.
Điều này hết sức quan trọng vì tạo ra môi trường pháp luật ổn định cho các
nhà đầu tư.

3. Luật Chứng khoán ra đời tạo điều kiện hình thành khuôn khổ pháp luật
trong việc quản lý, giám sát thị trường, đảm bảo nguyên tắc hoạt động thị

6
trường: công khai, công bằng, minh bạch và bảo vệ lợi ích hợp pháp của các
nhà đầu tư.

4. Luật Chứng khoán ra đời tạo điều kiện cho thị trường chứng khoán
phát triển nhanh và bền vững; tăng cường khả năng huy động vốn của Chính
phủ, các doanh nghiệp trên thị trường chứng khoán cho đầu tư phát triển; tạo
cơ hội đầu tư cho công chúng nhằm tăng nhanh luồng luân chuẩn vốn đầu tư.
Thị trường chứng khoán phát triển sẽ làm cho các doanh nghiệp minh bạch.
Điều này góp phần làm cho nền kinh tế của chúng ta minh bạch.

5. Luật Chứng khoán tạo điều kiện thị trường chứng khoán Việt Nam hội
nhập với thị trường chứng khoán khu vực và quốc tế. Thông qua hoạt động
đầu tư gián tiếp có khả năng khơi thông nguồn vốn nước ngoài vào Việt Nam,
đồng thời tạo cơ hội để các nhà đầu tư Việt Nam đầu tư ra nước ngoài.

7
 CHƯƠNG II:

THỰC TRẠNG CỦA LUẬT CHỨNG KHOÁN


VIỆT NAM

Được Quốc hội ban hành ngày 29/6/2006 và có hiệu lực thi hành kể từ
ngày 01 tháng 01 năm 2007, Luật Chứng khoán đã tạo lập được khuôn
khổ pháp lý cao cho hoạt động của TTCK; tăng cường vai trò quản lý
nhà nước đối với TTCK; tạo cơ sở pháp luật để bảo đảm các doanh
nghiệp tham gia trên thị trường phải hoạt động công khai, minh bạch, từ
đó góp phần làm minh bạch hoá nền kinh tế; đồng thời tạo lập các quy
định phù hợp với luật pháp, thông lệ quốc tế nhằm tạo điều kiện cho
TTCK Việt Nam có khả năng hội nhập với các thị trường vốn quốc tế và
khu vực.
I. Yêu cầu của nền kinh tế đối với Luật Chứng khoán:

Kinh tế phát triển cao, nhu cầu huy động vốn cho đầu tư phát triển lớn, đòi
hỏi thị trường chứng khoán (TTCK) phải trở thành kênh huy động vốn quan
trọng cho nền kinh tế. Để đạt được mục tiêu phát triển quy mô TTCK từ 10
đến 15% GDP vào năm 2010, đồng thời tạo ra khuôn khổ pháp luật nhằm
quản lý thị trường hoạt động có hiệu quả và lành mạnh, đáp ứng với điều kiện
hội nhập, một yêu cầu đặt ra là cần phải hoàn chỉnh thể chế về chứng khoán
và TTCK. Trong đó quan trọng nhất là ban hành Luật Chứng khoán.

Sau 5 năm, kể từ khi Trung tâm giao dịch chứng khoán TP.HCM chính
thức khai trương, TTCK đã đạt được những kết quả bước đầu. Đến cuối năm
2005, tổng giá trị chứng khoán niêm yết và đăng ký giao dịch đạt 41.800 tỉ
đồng. TTCK đã thu hút được sự tham gia của công chúng đầu tư trong và
ngoài nước với số lượng trên 29.000 tài khoản.

Đến thời điểm này, TTCK đã trở nên khá sôi động, thu hút nhiều nhà đầu
tư trong và ngoài nước. Từ thực tế đó, việc ban hành Luật Chứng khoán trở
nên cần thiết vì sẽ tạo lập được khuôn khổ pháp lý cao cho hoạt dộng của
TTCK, loại bỏ những mâu thuẫn, xung đột với các văn bản pháp luật khác có
liên quan. Hơn nữa, việc ban hành Luật Chứng khoán cũng tăng cường vai trò
quản lý Nhà nước đối với TTCK, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
nhà đầu tư và các tổ chức tham gia thị trường, tạo cơ sở pháp luật để giám sát,

8
cưỡng chế thực thi, bảo đảm các DN tham gia trên thị trường phải hoạt động
công khai, minh bạch, từ đó góp phần làm minh bạch hoá nền kinh tế. Mặt
khác việc xây dựng Luật Chứng khoán và các văn bản hướng dẫn phù hợp với
luật pháp, thông lệ quốc tế nhằm tạo điều kiện cho TTCK Việt Nam có khả
năng hội nhập với các thị trường vốn quốc tế và khu vực, đặc biệt là đáp ứng
đươc lộ trình thực hiện các cam kết trong Hiệp định thương mại Việt -Mỹ và
gia nhập WTO.

II. Những tác động của Luật Chứng khoán đến thị trường sau
một năm thực hiện:

Qua một năm thi hành, Luật Chứng khoán và các văn bản hướng dẫn là
nhân tố quan trọng góp phần đạt được những kết quả của TTCK Việt Nam
thời gian qua:
- Thứ nhất: Luật Chứng khoán đã tạo cơ sở pháp lý cho việc chuyển đổi
Trung tâm GDCK Hồ Chí Minh thành công ty TNHH Nhà nước một thành
viên làm tăng tính chủ động trong hoạt động của Sở GDCK.

- Thứ hai: Luật Chứng khoán và các văn bản hướng dẫn đã thúc đẩy các
công ty niêm yết, nâng điều kiện niêm yết phù hợp với quy mô vốn và chất
lượng của các công ty niêm yết (CTNY) tương xứng với các TTCK khu vực
trong xu thế hội nhập. Cuối năm 2007, số lượng CTNY trên toàn thị trường là
250 CTNY (tăng 135,8% so với cuối năm 2006). Đồng thời, Luật Chứng
khoán và các văn bản hướng dẫn là cơ sở pháp lý trong việc xây dựng hệ
thống các tổ chức trung gian hoạt động trên TTCK bao gồm các công ty
chứng khoán, công ty quản lý quỹ, quỹ đầu tư chứng khoán, ngân hàng giám
sát.... tạo thuận lợi cho các hoạt động kinh doanh, giao dịch chứng khoán.
Trong năm 2007 đã có 103 CTCK và CTQLQ được cấp phép (tăng 41% so
với cuối năm 2006).
- Thứ ba: Luật chứng khoán và các văn bản hướng dẫn thi hành đã tạo cơ
sở pháp lý để quản lý các công ty đại chúng và hoạt động chào bán chứng

9
khoán ra công chúng. Tính đến hết năm 2007, đã có 849 công ty đăng ký là
công ty đại chúng theo quy định của Luật Chứng khoán.
- Thứ tư: Luật Chứng khoán và các văn bản hướng dẫn mở rộng hơn các
quy định về bảo vệ lợi ích của nhà đầu tư, đặc biệt được áp dụng chung cho
các tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài tham gia đầu tư và hoạt động
trên TTCK Việt Nam, không phân biệt đối xử giữa nhà đầu tư trong nước và
nước ngoài (trừ trường hợp điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên có
quy định khác với quy định của Luật này thì áp dụng điều ước quốc tế đó). Do
vậy, thị trường đã thu hút được đông đảo các nhà đầu tư tham gia đặc biệt là
nhà đầu tư có tổ chức và nhà đầu tư nước ngoài. Tổng số tài khoản năm 2007
là 311.713 tài khoản (trong đó tài khoản của nhà đầu tư nước ngoài là 8.149
tài khoản, chiếm 2,6%).

III. Một số thuận lợi và khó khăn trong việc áp dụng Luật Chứng
khoán:

- Thứ nhất, một cuộc chạy đua thành lập mới các công ty chứng khoán đã
diễn ra ngay sát thời điểm Luật có hiệu lực. Nguyên do là khi Luật đi vào
cuộc sống, các điều kiện về thành lập mới công ty chứng khoán sẽ được nâng
cao, mang tính chọn lọc hơn.

Cụ thể, các quy định về mức vốn tối thiểu đối với các nghiệp vụ kinh doanh
của công ty chứng khoán sẽ được nâng lên, như: để thực hiện nghiệp vụ môi
giới chứng khoán, vốn điều lệ tối tthiểu dự kiến sẽ nâng từ 2 tỷ lên 10 tỷ
đồng; với nghiệp vụ tự doanh là từ 12 lên 70 tỷ đồng; bảo lãnh phát hành từ
22 lên 120 tỷ đồng; đặc biệt là để thực hiện đầy đủ các nghiệp vụ thì mức vốn
tối thiểu dự kiến sẽ là 200 tỷ đồng thay vì quy định 43 tỷ đồng trước đó.

Những quy định dự kiến trên là một áp lực lớn đối với các đề án thành lập
công ty chứng khoán mới sau thời điểm 1/1/2007. Ngay với bản thân phần lớn
các công ty đã có thâm niên trên thị trường, đó cũng là một khó khăn khi mà
quy mô vốn hiện vẫn phổ biến dưới mức 200 tỷ đồng.

Và để tránh thời điểm Luật có hiệu lực, một loạt công ty chứng khoán mới đã
được thành lập vào cuối năm 2006. Hiện trên thị trường đã có gần 50 công ty
hoạt động, thay cho chưa đầy 15 công ty vào thời điểm đầu năm. Con số này

10
cũng liên tục thay đổi khi mà số giấy phép Ủy ban Chứng khoán liên tục cấp
trong những ngày cuối năm vừa qua (riêng trong hai ngày 28 và 29/12/2006,
có ít nhất 10 giấy phép được ký).

- Thứ hai, Luật có hiệu lực và các văn bản hướng dẫn sẽ đặt ra những điều
kiện cao hơn đối với doanh nghiệp được niêm yết. Dự thảo Nghị định hướng
dẫn Luật, đã được Ủy ban Chứng khoán lấy ý kiến các ban ngành liên quan và
trình Chính phủ duyệt, đưa ra một số quy định mới đã khiến thị trường xôn
xao.

Dự thảo đưa ra quy định: Để được niêm yết tại Trung tâm Giao dịch Chứng
khoán Tp.HCM, doanh nghiệp phải có mức vốn điều lệ tối thiểu là 80 tỷ đồng,
cao gấp 8 lần so với quy định trước đó; còn tại sàn Hà Nội là mức vốn tối
thiểu 10 tỷ đồng thay cho mức 5 tỷ đồng.

Với quy định dự kiến này, thị trường và nhiều doanh nghiệp xôn xao về khả
năng những doanh nghiệp đang niêm yết tại sàn TP.HCM không đủ và không
tăng kịp vốn lên trên 80 tỷ có thể sẽ phải chuyển sang sàn Hà Nội. Hiện Ủy
ban Chứng khoán vẫn chưa có thông tin định hướng cụ thể về khả năng này vì
nghị định hướng dẫn vẫn chưa được ban hành.

- Thứ ba, Luật có quy định về tổ chức và hoạt động của Trung tâm Lưu ký
chứng khoán, giống như Sở và Trung tâm Giao dịch chứng khoán, là sẽ được
tổ chức theo mô hình công ty TNHH hoặc công ty cổ phần, có chức năng tổ
chức, quản lý và giám sát hoạt động đăng ký, lưu ký, bù trừ và thanh toán
chứng khoán.

Luật cũng quy định chứng khoán của các công ty đại chúng phải được đăng
ký, lưu ký tập trung tại Trung tâm Lưu ký chứng khoán. Ủy ban Chứng khoán
cho rằng quy định như vậy là phù hợp với thông lệ quốc tế về đăng ký và lưu
ký tập trung, khắc phục được tình trạng các nhà đầu tư nắm giữ trực tiếp
chứng chỉ chứng khoán. Điều này cũng sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc
theo dõi biến động sở hữu, cũng như thuận tiện cho việc giao dịch, thanh toán
và tiến tới thực hiện chính sách phi vật chất chứng khoán như một số nước đã
tiến hành.

- Thứ tư, Luật có hiệu lực sẽ là một cú hích quan trọng trong việc công
khai, minh bạch thông tin của các công ty đại chúng, nhằm đảm bảo tất cả các
doanh nghiệp có chứng khoán được công chúng sở hữu rộng rãi phải tuân thủ
nguyên tắc công khai, minh bạch, từ đó có thể bảo vệ được quyền và lợi ích
hợp pháp của nhà đầu tư.

11
Về hoạt động chào mua công khai, để bảo đảm tính công khai, minh bạch
trong việc chào mua thâu tóm doanh nghiệp, tránh việc các công ty đại chúng
bị thâu tóm một cách không công bằng, không công khai và bảo vệ các cổ
đông thiểu số trong doanh nghiệp bị thâu tóm, Luật cũng quy định việc chào
mua công khai phải báo cáo Uỷ ban Chứng khoán và chỉ được thực hiện sau
khi Ủy ban chấp thuận và đã được công bố trên các phương tiện thông tin đại
chúng trước thời điểm dự kiến thực hiện.

- Thứ năm, một trong những yêu cầu cấp thiết mà nhiều nhà đầu tư mong
Luật khi đi vào đời sống sẽ có sự điều chỉnh cần thiết, cho phép các nhà đầu
tư được mở thêm tài khoản giao dịch thay vì chỉ một tài khoản như hiện nay.

Nhiều nhà đầu tư cho rằng chỉ với một tài khoản, họ không có được nhiều
thuận lợi để nắm bắt những cơ hội trên thị trường khi việc đặt lệnh bị bó hẹp
tại một công ty chứng khoán, hoặc vì hạn chế về thời hạn 3 ngày tiền hoặc cổ
phiếu mới về tài khoản như quy trình hiện hành…

Tuy nhiên, việc một nhà đầu tư được mở nhiều tài khoản có thể sẽ gây ảnh
hưởng xấu đến các cổ phiếu, đến thị trường nếu nhà đầu tư lợi dụng thuận lợi
này để tạo những hoạt động mua – bán “ảo”, để làm giá theo mục đích của
mình. Vì vậy, khả năng nới rộng quy định về số lượng tài khoản được mở đối
với một nhà đầu tư vẫn đang phải xem xét.

- Thứ sáu, Luật chính thức có hiệu lực từ 1/1/2007, nhưng đến thời điểm
này vẫn chưa có một văn bản hướng dẫn nào ban hành. Ủy ban Chứng khoán
từng cho biết “dự kiến các Nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành
Luật Chứng khoán sẽ được hoàn chỉnh trình Chính phủ trong tháng 11/2006”.

Các nghị định trên bao gồm: Nghị định hướng dẫn chi tiết thi hành một số
điều của Luật Chứng khoán, Nghị định quy định về tổ chức, bộ máy quản lý,
điều hành của Uỷ ban Chứng khoán và Nghị đinh về xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán.

Ngoài ra còn có các văn bản hướng dẫn thuộc thẩm quyền Bộ Tài chính dưới
hình thức Thông tư hoặc Quyết định ban hành quy chế đối với những vấn đề
cụ thể để đảm bảo tính đồng bộ, tập trung các quy định về chứng khoán và thị
trường chứng khoán.

Hiện các doanh nghiệp, giới đầu tư và các ban ngành liên quan đang chờ đợi
sự ra đời của những văn bản trên để Luật được cụ thể hóa hơn, để có được
định hướng trong hoạt động.

12
Riêng về các quy định về mức vốn tối thiểu của công ty chứng khoán cũng
như vốn tối thiểu để niêm yết dự kiến sẽ có một lộ trình theo hướng tạo điều
kiện để các doanh nghiệp có thời gian chuẩn bị.

IV. Sự điều tiết của Chính phủ đối với Thị trường Chứng khoán:

1) Các tiêu chí cơ bản nhằm đánh giá tính hiệu quả của Luật
chứng khoán:

Trước khi có sự ra đời của học thuyết về phân tích kinh tế các quy định
luật pháp, việc đánh giá, đo lường tính hiệu quả của pháp luật trở nên rất khó
khăn, đặc biệt là việc đánh giá tính hiệu quả tác động của các quy định luật
pháp vào lĩnh vực kinh tế vốn rất tinh vi và phức tạp như thị trường chứng
khoán. Cho đến khi các nghiên cứu về kinh tế học pháp luật đem lại kết quả
khả quan thì việc đánh giá, đo lường tính hiệu quả của pháp luật nói chung và
pháp luật về chứng khoán nói riêng đã trở nên thuận lợi, dễ dàng hơn trước rất
nhiều. Dựa trên những thành tựu nghiên cứu của kinh tế học pháp luật, chúng
tôi cho rằng việc đo lường, đánh giá tính hiệu quả của Luật chứng khoán cần
được thực hiện bằng việc tiếp cận các tiêu chí cơ bản sau đây:

* Tính rõ ràng, minh bạch của các quy định trong Luật chứng khoán

Không thể phủ nhận rằng pháp luật vốn có vai trò và bổn phận dẫn dắt hành vi
xử sự của con người trong xã hội để hướng tới sự thoả mãn các nhu cầu riêng
của từng chủ thể pháp luật cũng như các lợi ích chung mang tính cộng đồng.
Nếu các quy định luật pháp về chứng khoán không được rõ ràng và minh bạch
thì các chủ thể pháp luật tham gia thị trường chứng khoán sẽ không có điều
kiện để lựa chọn được cách hành xử có lợi nhất cho mình. Điều đó sẽ làm
tăng chi phí giao dịch cho các bên tham gia thị trường do họ phải “bơi” trong
môi trường pháp lí kém chuẩn mực, ít công khai, thiếu tính định hướng chiến
lược và chưa sẵn sàng tương thích với môi trường giao thương quốc tế đương
đại.

Nói cách khác, “nếu pháp luật rõ ràng, dễ tiệm cận và có thể tin cậy được thì
chi phí để tìm hiểu, ra quyết định và thương thảo cũng như triển khai một
giao dịch kinh doanh sẽ giảm”.

Vậy, cần phải quan niệm như thế nào về tính rõ ràng, minh bạch của các quy
định trong Luật chứng khoán?

13
Trước hết, chúng tôi bày tỏ sự đồng thuận với quan điểm khoa học cho rằng
tính minh bạch của pháp luật cần phải được xem như là một thuộc tính của
nhà nước pháp quyền.Trong một xã hội dân sự, tính rõ ràng minh bạch của hệ
thống pháp luật làm cho mọi người dân hiểu luật tốt hơn, do đó họ sẽ chấp
hành pháp luật tốt hơn và hơn thế nữa, người dân có thể sử dụng pháp luật
như là công cụ hữu hiệu để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho chính mình và
kiểm soát, giám sát bộ máy chính quyền trong quá trình thực thi công vụ.

Xét về khía cạnh học thuật, khái niệm tính minh bạch của pháp luật tuy có thể
được quan niệm như là một thuật ngữ có nội hàm độc lập hoặc được đồng
nhất ở mức độ nào đó với phạm trù tính hiệu quả của pháp luật song về cơ
bản, nó phải thể hiện được khả năng tiếp cận và thực thi một cách dễ dàng,
thuận lợi đối với dân chúng, bất kể họ ở trình độ nhận thức pháp luật như thế
nào.

Có thể nói, ngoài việc đáp ứng các yêu cầu cơ bản vốn đã nhận được sự đồng
thuận của các nhà khoa học như tính đồng bộ và nhất quán; tính công khai và
khả năng tiếp cận dễ dàng đối với người dân; tính tin cậy và khả năng dự đoán
trước thì tính minh bạch của các quy định trong Luật chứng khoán còn phải
đảm bảo được những yêu cầu sau đây:

- Một là, các quy định trong Luật chứng khoán phải thể hiện một cách rõ ràng
các ý tưởng hợp lí của người làm luật. Nếu Luật chứng khoán không có khả
năng thể hiện một cách rõ ràng các ý tưởng, nhất là các ý tưởng hợp lí của
người làm luật thì đạo luật này rất khó được thi hành trong thực tế và không
được dân chúng chào đón, ủng hộ. Những ý tưởng hợp lí - tức là những ý
tưởng được xây dựng từ nền tảng thực tại xã hội, có thể được xem như là một
trong các yếu tố quan trọng làm nên tính hiệu quả của việc thực thi Luật
chứng khoán.

- Hai là, quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia thị trường chứng khoán cần
được thiết kế một cách đơn giản, rõ ràng và chắc chắn về mức độ an toàn
cũng như khả năng thực hiện.

Nếu người dân không có khả năng hiểu và tiếp cận được với các quy định
trong Luật chứng khoán, đặc biệt là những quyền và nghĩa vụ pháp lí cơ bản
thì cơ hội để họ tham gia thị trường là rất ít và nếu có tham gia thì các chi phí
giao dịch bỏ ra cho việc tiếp cận thị trường và phòng tránh rủi ro cũng là rất
lớn. Khi người đầu tư và các chủ thể khác có liên quan như tổ chức phát hành
chứng khoán, tổ chức kinh doanh chứng khoán, cá nhân hành nghề kinh

14
doanh chứng khoán hay các cơ quan quản lí, giám sát thị trường chứng khoán
không thể hình dung được một cách rõ ràng về nội dung và cơ chế thực hiện
những quyền, nghĩa vụ cơ bản của họ như thế nào thì việc tham gia thị trường
hay không sẽ là một quyết định rất khó khăn, mạo hiểm, chứa đựng nhiều rủi
ro và tốn nhiều chi phí. Rõ ràng, muốn đảm bảo tính minh bạch của các quy
định trong Luật chứng khoán, đòi hỏi nhà làm luật phải thiết kế một cách đầy
đủ, rõ ràng hệ thống quyền và nghĩa vụ hợp lí cho các chủ thể tham gia thị
trường để từ đó giúp họ có được những quyết định đúng đắn, nhanh chóng, an
toàn và hiệu quả. Việc thiết kế những quyền năng hay những nghĩa vụ không
hợp lí cho mỗi chủ thể tham gia thị trường, đặc biệt là quyền và nghĩa vụ của
tổ chức phát hành chứng khoán có thể gây ra sự hoang mang cho giới đầu tư
chứng khoán, nhất là các nhà đầu tư nước ngoài bởi lẽ khoảng cách về địa lí
cũng như sự khác biệt về hệ thống pháp luật không cho phép họ tiếp cận và
thẩm định một cách dễ dàng những thông tin được cung cấp về tổ chức phát
hành chứng khoán.

Ở Việt Nam, Luật chứng khoán được soạn thảo và ban hành trong bối cảnh cải
cách toàn diện hệ thống pháp lí để kịp thời gia nhập Tổ chức thương mại thế
giới (WTO) vào năm 2006. Vì lẽ đó, nhiều quy định của Luật chứng khoán đã
đáp ứng được yêu cầu chung về tính minh bạch theo thông lệ quốc tế (ví dụ:
Các quy định về chào bán chứng khoán ra công chúng; quy định về công ti đại
chúng; quy định về giao dịch chứng khoán trên thị trường tập trung; quy định
về đăng kí, lưu kí, bù trừ, thanh toán chứng khoán…). Tuy nhiên, do quy trình
soạn thảo luật ở Việt Nam lâu nay vẫn được thực hiện theo kiểu “cắt khúc,
chia đoạn”, nghĩa là luật điều chỉnh lĩnh vực nào thì giao cho cơ quan nhà
nước, tổ chức có chức năng quản lí trong lĩnh vực đó chủ trì soạn thảo nên
khó tránh khỏi tình trạng chồng chéo hoặc bỏ sót, thậm chí mâu thuẫn về nội
dung giữa các đạo luật. Không phải là ngoại lệ, Luật chứng khoán hiện hành
vẫn còn một số quy định chưa thực sự rõ ràng và minh bạch, khó áp dụng
trong thực tế, ví dụ: Quy định về chính sách phát triển thị trường chứng
khoán; quy định về các loại chứng khoán tại điểm b, khoản 1 Điều 6 Luật
chứng khoán; các quy định về một số loại chứng khoán đặc thù như quyền
mua cổ phần, chứng quyền, quyền chọn mua và quyền chọn bán, hợp đồng
tương lai…; các quy định về vấn đề thông tin bất cân xứng và những giao
dịch không công bằng trên thị trường chứng khoán; các quy định về quyền và
nghĩa vụ của nhà đầu tư và phương thức, cơ chế bảo đảm thực thi các quyền
năng đó…

* Khả năng làm giảm thiểu các chi phí tiếp cận thị trường và chi phí
giao dịch cho các bên tham gia thị trường chứng khoán

15
Tại sao việc giảm thiểu các chi phí gia nhập thị trường lại được xem là một
tiêu chí cơ bản để đo lường tính hiệu quả của Luật chứng khoán?

Câu trả lời sẽ trở nên rõ ràng khi ta giải đáp được câu hỏi: Nhà đầu tư và các
chủ thể khác như tổ chức phát hành chứng khoán, tổ chức kinh doanh chứng
khoán hướng tới mục đích gì khi họ quyết định tham gia vào thị trường chứng
khoán? Nếu câu trả lời đơn giản chỉ là mục đích thoả mãn các lợi ích kinh tế
của mỗi chủ thể tham gia thị trường thì rõ ràng Luật chứng khoán sẽ không
phải là quan trọng và không có ý nghĩa gì đối với họ - tức là không hiệu quả,
nếu các quy định của Luật chứng khoán có thể làm cho các chi phí giao dịch
của họ gia tăng, đến mức triệt tiêu luôn các lợi ích kinh tế đơn thuần mà họ
mong nhận được từ việc gia nhập thị trường.

Vì lẽ đó, có thể khẳng định rằng, để thị trường chứng khoán phát triển bình
thường theo đúng quy luật kinh tế thì hành lang pháp lí cho việc gia nhập thị
trường của các nhà đầu tư, các tổ chức phát hành hay các tổ chức kinh doanh
chứng khoán phải đảm bảo các yêu cầu về tính minh bạch, tính tự do, tính
nhanh chóng, thuận lợi, tính an toàn và giảm thiểu các chi phí giao dịch. Nếu
các quy định của Luật chứng khoán không rõ ràng, khó hiểu, quá phức tạp,
kém độ an toàn và không thể dễ dàng tiếp cận được đối với các chủ thể tham
gia thị trường chứng khoán, đặc biệt là đối với người dân thì chắc chắn các
quy định đó sẽ bị xem là không hiệu quả về mặt kinh tế, nghĩa là có thể làm
gia tăng các chi phí giao dịch cho các bên khi gia nhập thị trường.

Vậy, làm thế nào để cho Luật chứng khoán có khả năng giảm thiểu các chi phí
gia nhập thị trường chứng khoán? Đây là bài toán tương đối khó giải quyết
đối với các nhà làm luật về chứng khoán. Tuy nhiên, có thể hình dung các yêu
cầu cơ bản khi thiết kế ban hành và hoàn thiện Luật chứng khoán mà người
soạn luật cần đáp ứng, bao gồm:

- Thứ nhất, làm cho các quy định của Luật chứng khoán trở nên rõ ràng, minh
bạch, công khai, dễ tiếp cận đối với mỗi người dân, mỗi tổ chức hay mỗi công
chức chính quyền. Khi người ta có thể tìm hiểu và nghiên cứu pháp luật về
chứng khoán một cách dễ dàng, nhanh chóng và hiệu quả ở mọi nơi, bằng mọi
phương tiện thì hiển nhiên là chi phí cho việc tìm hiểu thị trường, gia nhập thị
trường và thực thi các giao dịch trên thị trường chứng khoán sẽ giảm đi đáng
kể. Dĩ nhiên, khi các chi phí cho việc gia nhập thị trường chứng khoán được
tiết giảm đáng kể, với một mức chi phí ngày càng rẻ hơn thì sẽ có tác dụng
khuyến khích nhà đầu tư, các tổ chức phát hành và các nhà kinh doanh chứng
khoán tham gia thị trường một cách tích cực và thiện chí.

16
- Thứ hai, làm cho các quy định của Luật chứng khoán ngày càng hợp lí và
được thực thi nghiêm túc trong bất kì hoàn cảnh nào. Yêu cầu này liên quan
đến quan niệm về tính hợp lí của các quy định luật pháp. Tuy còn nhiều ý kiến
tranh luận về vấn đề này nhưng ở mức khái quát, có thể hiểu tính hợp lí của
các quy định pháp luật, trong đó bao gồm các quy định của Luật chứng khoán,
chính là sự phù hợp hay tương thích của các quy định đó với tình trạng xã hội
hiện tại, bao gồm cả sự phù hợp với trình độ phát triển của nền kinh tế và yêu
cầu hội nhập quốc tế. Mặt khác, muốn cho các quy định của Luật chứng
khoán có thể được thực thi nghiêm túc thì ngoài việc đảm bảo tính hợp lí cho
các quy định đó, Luật chứng khoán cần thể hiện được tính nghiêm khắc trong
việc áp dụng các chế tài xử lí đối với những hành vi vi phạm pháp luật về
chứng khoán, bất luận người vi phạm là ai. Kinh nghiệm thực tiễn còn cho
thấy, nếu người dân không được tiếp cận đầy đủ với hệ thống pháp luật và họ
không được khuyến khích hành xử theo tinh thần thượng tôn pháp luật, không
được trang bị những khả năng và phương tiện pháp lí để kiên quyết đấu tranh
với những hành vi vi phạm pháp luật thì hiệu quả trong việc thi hành pháp
luật nói chung và Luật chứng khoán nói riêng sẽ là không đáng kể. Trong
trường hợp như vậy, đương nhiên các quy định của Luật chứng khoán có thể
bị xem là không hiệu quả vì khi đó người dân nói chung và các chủ thể tham
gia thị trường chứng khoán nói riêng sẽ phải bỏ ra nhiều chi phí hơn cho việc
tuân thủ những quy định không hợp lí và khắc phục các hậu quả tổn thất do
những hành vi vi phạm pháp luật gây ra.

* Nâng cao mức độ thoả mãn các nhu cầu và lợi ích của các bên tham
gia thị trường chứng khoán

Như đã đề cập ở trên, các chủ thể tham gia thị trường chứng khoán luôn
hướng tới mục tiêu cơ bản là tìm cách thoả mãn tối đa các nhu cầu và lợi ích
chính đáng của mình khi quyết định gia nhập thị trường. Vì lẽ đó, không thể
nói rằng Luật chứng khoán đã đảm bảo tính hiệu quả về phương diện kinh tế
nếu quyền và lợi ích chính đáng của các nhà đầu tư, các tổ chức phát hành hay
các nhà kinh doanh chứng khoán chuyên nghiệp không được đảm bảo bằng
các quy định đó, dù là ở mức độ tối thiểu.

Vậy, làm thế nào để cho Luật chứng khoán có khả năng đảm bảo và nâng cao
dần mức độ thoả mãn các nhu cầu và lợi ích của các bên tham gia thị trường
chứng khoán?

Trên thực tế, việc đo lường mức độ thoả mãn nhu cầu và lợi ích của các bên
tham gia thị trường chứng khoán để từ đó đánh giá, đo lường mức độ hiệu quả

17
của Luật chứng khoán là vấn đề rất khó khăn và nan giải. Tuy vậy, ở mức khái
quát, chúng tôi cho rằng người soạn luật vẫn có thể làm được việc đó nếu
quan tâm thoả đáng đến những khía cạnh sau đây:

- Một là, người soạn luật phải xác định và nhận diện chính xác những nhu
cầu, lợi ích cơ bản mà các chủ thể tham gia thị trường chứng khoán nhằm
hướng tới. Đối với các chủ thể tham gia thị trường, những nhu cầu, lợi ích này
thường gắn với quyền tư hữu và chúng được phát sinh từ quyền tư hữu. Ví dụ,
nhà đầu tư bỏ tiền ra để mua chứng khoán nhằm mưu lợi cho mình, do đó họ
có nhu cầu được biết chính xác về tình hình hoạt động hiện tại và khả năng tài
chính của tổ chức phát hành để từ đó đánh giá mức độ tin cậy cũng như khả
năng tăng, giảm giá của loại chứng khoán họ đã hoặc sẽ đầu tư. Còn đối với tổ
chức phát hành, do lợi ích của họ nằm ở số vốn mà họ muốn huy động từ các
nhà đầu tư nên đương nhiên chủ thể này có nhu cầu được phát hành chứng
khoán ra công chúng với thủ tục nhanh chóng nhất, thuận lợi nhất với chi phí
phát hành thấp nhất. Riêng đối với các nhà kinh doanh chứng khoán chuyên
nghiệp như công ti chứng khoán, công ti quản lí quỹ… thì lợi ích của họ nằm
ở khoản lợi nhuận mà họ sẽ thu được khi mua bán chứng khoán cho chính
mình hoặc cung cấp dịch vụ về chứng khoán cho khách hàng, vì thế nhu cầu
của họ là làm sao có được nhiều khách hàng tham gia vào thị trường phát
hành cũng như thị trường giao dịch chứng khoán với khoản chi phí là thấp
nhất. Trên thực tế, không phải khi nào các nhu cầu và lợi ích của các bên tham
gia thị trường chứng khoán cũng có sự thống nhất nên về lí thuyết, nhà soạn
luật còn phải nhận biết được những nhu cầu, lợi ích nào của các bên có khả
năng xảy ra mâu thuẫn, xung đột với nhau hoặc mâu thuẫn, xung đột với lợi
ích chung của cộng đồng để từ đó dự liệu những phương thức giải quyết xung
đột, mâu thuẫn giữa các lợi ích một cách công bằng và hiệu quả.

- Hai là, người soạn luật cần thiết kế những quy định nhằm đảm bảo hợp lí
các nhu cầu, lợi ích của mỗi loại chủ thể tham gia thị trường chứng khoán, đặt
trong mối quan hệ với việc đảm bảo hợp lí các nhu cầu, lợi ích chung mang
tính cộng đồng. Tuy nhiên, việc cân bằng lợi ích giữa các bên tham gia thị
trường chứng khoán là điều rất khó và có lẽ cần được hiểu theo nghĩa, bên nào
có vị thế kinh tế bất lợi hơn so với các bên còn lại thì cần được Nhà nước
quan tâm bảo vệ đặc biệt bằng các quy tắc pháp lí công bằng, ví dụ như nhu
cầu ưu tiên bảo vệ quyền lợi của các nhà đầu tư chứng khoán, xét trong mối
quan hệ lợi ích với tổ chức phát hành chứng khoán hay với các tổ chức kinh
doanh chứng khoán chuyên nghiệp.

18
Mặt khác, những quy định của Luật chứng khoán cũng cần đảm bảo sự đối xử
công bằng giữa các nhà đầu tư trong nước với các nhà đầu tư nước ngoài trên
thị trường chứng khoán để không tạo ra những rào cản bất hợp lí cho sự gia
nhập thị trường của các nhà đầu tư tiềm năng như tổ chức và cá nhân nước
ngoài.

 Tóm lại, những phân tích trên đây cho phép nhận định rằng, muốn có
một thị trường chứng khoán hoạt động ổn định, an toàn và hiệu quả thì không
thể thiếu khung pháp luật an toàn và hiệu quả, trong đó tính hiệu quả của Luật
chứng khoán được xem là vấn đề cốt lõi. Với niềm tin có cơ sở, chúng ta có
quyền bày tỏ sự kì vọng vào những thành công của Việt Nam trên địa hạt kinh
tế, trong nỗ lực cải cách hệ thống pháp lí hiện hành, trong đó có lĩnh vực pháp
luật về chứng khoán để đáp ứng yêu cầu phát triển nền kinh tế theo hướng thị
trường và hội nhập.

2) Quan điểm chỉ đạo trong việc xây dựng Luật Chứng khoán:

Xuất phát từ mục đích, yêu cầu của việc xây dựng Luật Chứng khoán là
phải bảo đảm các nguyên tắc hoạt động của thị trường chứng khoán, đồng
thời phù hợp với khuôn khổ pháp luật cũng như tình hình kinh tế - xã hội của
Việt Nam, có phạm vi điều chỉnh rộng nhằm tạo ra khuôn khổ pháp luật đầy
đủ, đồng bộ, tạo điều kiện cho thị trường chứng khoán phát triển, bảo vệ lợi
ích hợp pháp của nhà đầu tư đồng thời đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính
bảo đảm tổ chức, vận hành thị trường hoạt động trật tự, công khai, minh bạch;
tăng cường giám sát, cưỡng chế thực thi, việc xây dựng Luật Chứng khoán
được thực hiện dựa trên những quan điểm chỉ đạo sau đây:
- Đảm bảo thể chế hoá các đường lối, chủ trương chính sách của Đảng và
Nhà nước trong lĩnh vực tài chính, tiền tệ nói chung cũng như lĩnh vực thị
trường Chứng khoán nói riêng.
- Bảo đảm đồng bộ, phù hợp với các văn bản quy phạm pháp luật khác có
liên quan, đặc biệt là Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Luật Các tổ chức tín
dụng, Luật Kinh doanh bảo hiểm, Luật Thanh tra và Luật Khiếu nại, tố cáo.
- Quy định chi tiết đến mức tối đa nhằm bảo đảm tính thực thi, giảm bớt
các văn bản hướng dẫn Luật.
- Phù hợp với thông lệ quốc tế để bảo đảm điều chỉnh hoạt động của các
nhà đầu tư trong nước và nước ngoài theo một quy định thống nhất. Mức độ
tham gia của bên nước ngoài vào thị trường chứng khoán Việt Nam sẽ do
Chính phủ quy định phù hợp với lộ trình hội nhập.

19
 CHƯƠNG III:
MỘT SỐ GIẢI PHÁP KIẾN NGHỊ NHẰM
NÂNG CAO VAI TRÒ HIỆU QUẢ CỦA
LUẬT ĐỐI VỚI THỊ TRƯỜNG CHỨNG
KHOÁN

I. Một số thiếu sót:


Khi doanh nghiệp sợ thủ tục hành chính họ sẽ không tự nguyện tham gia
niêm yết, các nhà đầu tư sẽ thiếu niềm tin để bỏ vốn vào TTCK", Hiệp hội các
nhà đầu tư chứng khoán (VAFI) góp ý dự thảo Luật Chứng khoán lần thứ 4
vừa được hoàn thành.

Trong văn bản đóng góp ý kiến, VAFI tập trung phân tích vào chính sách
đối với 2 nhóm đối tượng chính: nhà đầu tư cá nhân và các công ty. Dự luật
quy định, cá nhân tham gia hoạt động trên TTCK phải thực hiện chế độ báo
cáo và công bố thông tin theo quy định của pháp luật. Điều này theo VAFI
khó khả thi, vì có hàng nghìn cá nhân đầu tư, luật chỉ cần yêu cầu một số
trường hợp đã vi phạm pháp luật là đủ.

Tổng thư ký hiệp hội Nguyễn Hoàng Hải cho rằng quy định “bán chứng
khoán cho trên 100 nhà đầu tư thì được coi là chào bán chứng khoán ra công
chúng" cũng không có căn cứ, vì tổ chức phát hành không thể biết chính xác
bao nhiêu nhà đầu tư sẽ mua cổ phiếu của mình.

Khái niệm thị trường giao dịch chứng khoán được đề cập trong dự thảo
theo nhận xét của các nhà đầu tư là không hợp lý. Trên thực tế, thị trường
được hình thành ở bất kỳ địa điểm nào, thậm chí chỉ cần một cú điện thoại hay
email là có giao dịch. Theo dự thảo những hoạt động này sẽ được quản lý bởi
UBCKNN. "Người ta có cảm giác rằng UBCKNN có nghìn mắt, nghìn tay để
kiểm soát bất kỳ giao dịch nào. Thiết kế như vậy là không ổn", ông Hải nói.

Dự luật còn "ôm" thêm việc phát hành chứng khoán ra công chúng đối với
các ngân hàng chưa niêm yết. Trong khi theo các nhà đầu tư, ngân hàng là
doanh nghiệp đặc biệt, luôn luôn được Ngân hàng Nhà nước quản lý chặt chẽ
về các mặt hoạt động, các việc phát hành thương phiếu, kỳ phiếu, chứng chỉ
tiền gửi, trái phiếu đều phải xin phép ngân hàng nhà nước. "Nếu có cấp phép,

20
UBCKNN cũng không nắm được tình hình hoạt động của khối ngân hàng
thương mại cổ phần", ông Hải nhấn mạnh.

Dự luật có hẳn một chương đề cập đến thanh tra và xử lý vi phạm, tuy
nhiên chương này chỉ đề cập đến trách nhiệm của các thành phần khác mà
không đề cập đến trách nhiệm của UBCKNN. Do vậy VAFI đề nghị cần bổ
sung trách nhiệm của UBCKNN và cán bộ của UBCKNN vào luật. Ông Hải
nhận xét: "Sự phức tạp của luật sẽ tạo điều kiện cho nạn nhũng nhiễu, còn về
phía nhà đầu tư và doanh nghiệp có thể bị vi phạm luật mà không biết".

Trao đổi với VnE tại hội thảo xây dựng Luật Chứng khoán mới đây, Phó
chủ tịch UBCKNN Vũ Bằng cho hay, do đây là một nghiệp vụ rất mới mẻ,
việc soạn thảo luật không thể tránh khỏi thiếu sót, UBCKNN sẽ tổ chức các
buổi hội thảo và đăng tải chi tiết dự luật trên website của ủy ban để thu nhận ý
kiến đóng góp. Dự luật cũng được các chuyên gia chứng khoán của Mỹ và
Ngân hàng phát triển châu Á hỗ trợ soạn thảo.

II. Dự thảo Luật:


Luật chứng khoán là một đạo luật rất quan trọng, hơn thế nữa, đó là một
đạo luật liên quan đến các ngành an ninh, tài chính, tiền tệ của quốc gia, nghĩa
là đến an ninh kinh tế và nói rộng hơn là ảnh hưởng đến an ninh chính trị quốc
gia. Vì vậy, phải xem xét luật này một cách hết sức kỹ lưỡng, nhất là khi
chúng ra dự kiến thông qua nó trong một kỳ họp.
Dự thảo lần này đã tiếp thu thêm nhiều ý kiến và đã có cấu trúc chặt chẽ
hơn. Tuy nhiên, chúng tôi có mấy vấn đề cần xem xét kỹ lưỡng hơn.
- Thứ nhất, làm gì để chúng ta có thể giảm thiểu được nguy cơ ảnh hưởng của
thị trường chứng khoán đối với an ninh quốc gia. Tôi chỉ nói đến vấn đề giảm
thiểu nguy cơ bởi vì những mặt tích cực của thị trường chứng khoán là đã quá
rõ và bản thân Dự thảo luật này cũng đã đề ra những biện pháp để phát huy
tích cực của thị trường chứng khoán.
Chúng ra đều đã biết nguy cơ của thị trường tiền tệ tài chính “bong bóng”
hay nền kinh tế “bong bóng” ra đời và phát triển cùng thị trường chứng
khoán. Xin hình dung rằng, khi chúng ta có Quỹ đầu tư chứng khoán, những
người có tiền, kể cả nhà nước, đầu tư vào Quỹ đầu tư chứng khoán để mua cổ
phiếu ở những nơi nào có thể sinh lời cao nhất. Nhưng từ Quỹ đầu tư chứng
khoán, sẽ có Công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán và công ty này bản thân
nó cũng có thể tham gia phát hành trái phiếu và tham gia vào thị trường chứng

21
khoán. Công ty này không có vốn mà vốn kinh doanh của nó chính là từ Quỹ
đầu tư chứng khoán và cứ như thế - đây là một ví dụ thôi -cái bong bóng này
đẻ ra bong bóng kia hoặc nó tự thổi phồng lên thành một bong bóng to hơn,
cao hơn và cứ như thế, nó dẫn đến nền kinh tế chúng ta vào nền kinh tế bong
bóng. Đã có nhiều nước là nạn nhân của chuyện này. Nền kinh tế các nước
Đông Nam Á năm 1997 là một ví dụ. Nền kinh tế Achentina năm 1999 và đầu
những năm 2000 cũng là một ví dụ.
Trong thị trường chứng khoán, người mua chứng khoán và người bán
chứng khoán không bao giờ tách bạch. Một người có thể bán chứng khoán để
làm cho chứng khoán đó hạ giá xuống, khi giá đã thấp nhất thì người đó lại
mua trở lại để chờ lúc giá lên mà kiếm lời cao nhất. Và chính đây là hiện
tượng đầu cơ chứng khoán. Vì thế, không thể tách bạch mua chứng khoán là
một lớp người và bán chứng khoán là một lớp người. Đây cũng là chỗ tế nhị
của thị trường chứng khoán, nhất là trong điều kiện đa số ta chưa hiểu rõ
chuyện này, do vậy, khi xây dựng Luật chứng khoán chúng ta phải cân nhắc
hết sức kỹ. Có thể từng cá nhân riêng lẻ bỏ tiền để mua rất nhiều chứng
khoán, nhưng người chi phối thị trường chứng khoán lại chính là những tổ
chức tài chính tiền tệ, chính là maphia tiền tệ. Có thể có rất đông người mua
chứng khoán cá thể, nhưng người quyết định giá cả thị trường lại thường chỉ
là một số công ty thôi. Cũng vì vậy mà ở các nước phương Tây, chỉ trong một
ngày, thậm chí trong một giờ, giá trị của cổ phiếu có thể rớt xuống mức thấp
nhất, hoặc có thể được đôn lên cao gấp 4 – 5 lần mức bình thường. Điều này
xảy ra hoàn toàn độc lập với điều kiện khách quan về vật chất, kinh tế, kỹ
thuật của doanh nghiệp phát hành cổ phiếu đó và rất dễ dẫn đến sự phá sản
của doanh nghiệp, kéo theo đó là sản phẩm của hàng chục ngàn lao động bị
thất nghiệp một cách không thương tiếc. Những cảnh báo này, cả Mác và
Lênin đã nói trước đây.
- Thứ hai là, Dự thảo luật này đã chú ý đến hạn chế mặt tiêu cực của đầu cơ
chứng khoán bằng cách đề ra một loạt các biện pháp như quản lý ngoại hối,
chính sách thuế, kế toán, kiểm toán…Nhưng nếu đem áp dụng, thì áp dụng
như thế nào? Chúng ta biết là thị trường chứng khoán là thị trường tiền tệ
trung và dài hạn, nhưng nếu người nào đó chỉ mua cổ phiếu rồi bán lại với
mục đích đầu cơ trong thời gian ngắn thì xử lý như thế nào? Thuế đánh như
thế nào và đánh bao nhiêu? Theo như tôi biết, trong các chính sách về thuế,
chúng ta chưa có những quy định nào về vấn đề này, cũng như chưa bàn về

22
việc sử dụng phương pháp đánh giá thuế trong các lĩnh vực khác của hoạt
động chứng khoán. Tổ chức UNCTAD của LHQ về kinh tế đã có khuyến cáo
là nên có thuế TOBIN là thuế đánh lên trên những việc chuyển đổi, tức là mua
bán chứng khoán ngắn hơn. Chúng ta nên nghiên cứu và có đề xuất cụ thể để
sửa ngay Luật thuế nhằm có sự đồng bộ về pháp lý.
Đối với quy định đặt Uỷ ban chứng khoán là cơ quan thuộc Bộ Tài chính,
tôi cho rằng cần phải xem xét lại. Chúng ra đã biết, Bộ Tài chính là người
thay mặt cho Chính phủ để phát hành trái phiếu, trái phiếu của trung ương
cũng như trái phiếu của địa phương. Như vậy, Bộ tài chính là một người phát
hành cổ phiếu, nhưng lại quản lý Uỷ ban chứng khoán thì đúng là “vừa đá
bóng vừa thổi còi”. Cho nên, với những kinh nghiệm chúng ta đã có trong 7
năm qua, kết hợp với cách làm chúng học được trên thế giới về lĩnh vực này
và với những khuyến cáo của các tổ chức tài chính, những định chế tài chính
quốc tế…thì chúng ta nên tách nó ra, không nên nhập lại. Chúng ta cần cân
nhắc kỹ và xác định cho Uỷ ban chứng khoán một vị trí, địa vị pháp lý cần có
để nó làm tốt nhiệm vụ của nó. Có thể có khó khăn trong giai đoạn đầu,
nhưng nếu chúng ta quyết tâm thì sẽ làm tốt được. Bản thân tôi thiên về quy
định để Uỷ ban chứng khoán là một đơn vị pháp lý độc lập, là một cơ quan
độc lập như Ngân hàng nhà nước trong Chính phủ.

23
1. www.vista.gov.vn

2. www.lobs-ueh.net

3. www.mof.gov.vn

4. www.igo-chungkhoan.blogspot.com

5. www.haynhat.com

6. www.pcdn.vn

7. www.vietnamese-law-consultancy.com

8. www.vnindex.com.vn

9. www.chiakhoathanhcong.mquiz.net

10. www.vietbao.com

24
Ký hiệu viết tắt

TTCK: Thị trường Chứng khoán


TP. HCM: Thành phố Hồ Chí Minh
DN: Doanh nghiệp
GDCK: Giao dịch Chứng khoán
TNHH: Trách nhiệm hữu hạn
CTNY: Công ty niêm yết
CTCK: Công ty Chứng khoán
CTQLQ: Công ty quản lý quỹ
UBCKNN: Ủy ban Chứng khoán Nhà nước
LHQ: Liên Hiệp Quốc

25

You might also like