You are on page 1of 74

CHƯƠNG I

KHÁI QUÁT VỀ XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG VÀ TÌNH HÌNH


XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG TẠI VIỆT NAM

I – Khái quát về xuất khẩu lao động

Để thuận tiện cho quá trình nghiên cứu, trước hết em xin được đề cập
các khái niệm liên quan đến hoạt động xuất khẩu lao động.

1, Khái niệm :

1.1 Lao động : Là hoạt động có mục đích, có ý thức của con người
nhằm thay đổi những vật thể tự nhiên, để phù hợp với lợi ích của mình. Lao
động là sự vận động của sức lao động, là quá trình kết hợp giữa sức lao động
và tư liệu sản xuất tạo ra của cải vật chất cho xã hội.

Thành quả do con người tạo ra trong quá trình lao động để nuôi sống
bản thân họ, gia đình họ và đảm bảo sự tồn tại của xã hội. Lao động có năng
suất, chất lượng đem lại hiệu quả cao là nhân tố quyết định sự phát triển của
đất nước. Vì vậy lao động có một vị trí vô cùng quan trọng và không thể
thiếu được trong bất kỳ một chế độ xã hội nào, một quốc gia nào. Mỗi con
người đến độ tuổi lao động, có khả năng lao động đều mong muốn và có
quyền được lao động để nuôi sống bản thân, giúp đỡ gia đình và làm giàu
cho xã hội.

1.2 Sức lao động : Là tổng hợp thể lực và trí lực của con người trong
quá trình tạo ra của cải xã hội, phản ánh khả năng lao động của con người, là
điều kiện đầu tiên cần thiết trong quá trình lao động xã hội.

1.3 Nguồn lao động : Là một bộ phận của dân cư bao gồm những
người trong độ tuổi lao động, không kể số người mất khả năng lao động và
những người ngoài độ tuổi lao động (trên hoặc dưới tuổi lao động) nhưng
thực tế có tham gia lao động. (Nước ta độ tuổi lao động quy định từ 15-55
đối với nữ và 15-60 đối với nam).

3
1.4 Thị trường lao động : Thị trường là một phạm trù riêng của kinh tế
hàng hoá. Thị trường là nơi diễn ra trao đổi hàng hoá dịch vụ. Nội dung của
thị trường được biểu hiện qua hai nhân tố có quan hệ mật thiết với nhau :
cung và cầu hàng hoá.
Thị trường lao động là một lĩnh vực của nền kinh tế mà ở đó diễn ra
quá trình mua bán, trao đổi, thuê mướn sức lao động. Ở nơi nào có nhu cầu
sử dụng lao động và có nguồn cung cấp lao động thì ở đó sẽ hình thành nên
thị trường lao động. Đối tượng tham gia thị trường lao động gồm những
người lao động và người sử dụng lao động. Giá cả sức lao động chinh là tiền
công mà người sử dụng lao động trả cho người lao động.

Khi cung và cầu lao động gặp nhau và hoạt động mua bán, trao đổi
hay thuê mướn sức lao động diễn ra trong phạm vi biên giới một quốc gia thì
ta có thị trường lao động nội địa, khi diễn ra ngoài biên giới quốc gia một
nước thì ta có thị trường lao động quốc tế.

1.5 Xuất khẩu sức lao động : Là hoạt động trao đổi, mua bán hay thuê
mướn hàng hoá sức lao động giữa chính phủ một quốc gia hay tổ chức, cá
nhân cung ứng sức lao động của nước đó với chính phủ, tổ chức, cá nhân sử
dung sức lao động nước ngoài trên cơ sở hiệp định hay hợp đồng cung ứng
lao động.
Như vậy. khi hoạt động xuất khẩu lao động được thực hiện sẽ có sự di
chuyển lao động có thời hạn và có kế hoạch từ một nước sang một nước
khác. Trong hành vi trao đổi này, nước đưa lao động đi được coi là nước
xuất khẩu lao động, nước tiếp nhận sức lao động được coi là nước nhập khẩu
lao động. Trên thực tế có trường hợp xuất hiện vai trò của nước thứ ba làm
nhiệm vụ trung gian, môi giới hoặc kinh doanh.
Đặc trưng cơ bản của hoạt động xuất khẩu lao động, khác so với các
loại hàng hoá khác xuất phát từ tính đặc thù của loại hàng hoá này. Sức lao
động là một loại hàng hoá đặc biệt vì con người là chủ thể lao động, có tư
duy và khả năng làm chủ bản thân. Cho nên trong hiệp đinh hay hợp đồng
cung ứng lao động, ngoài những điều khoản quy định như đối với các loại
hàng hoá bình thường còn phải có những điều khoản đề cập đến đời sống
chính trị, văn hoá, tinh thần, sinh hoạt của người lao động. Những điều này
bị chi phối phong tục, tập quán, tôn giáo, văn hoá của các quốc gia tham gia
vào lĩnh vực này.

4
Có hai hình thức xuất khẩu lao động là :
- Đưa lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài (LHQ dùng khái
niệm di dân quốc tế) : là hình thức đầu tư lao động sống ra nước ngoài nhằm
thu hút thu nhập quốc dân từ nước ngoài về cho đất nước.
- Xuất khẩu lao động tại chỗ: Theo luật Đầu tư nước ngoài của nước
ta, là hình thức đầu tư lao động sống ở trong nước để thực hiện giá trị sức
lao động cho mình đối với nước ngoài.
Trong nội dung khoá luận này, em chỉ xin đề cập đến hình thức
xuất khẩu lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài.

2, Nguyên nhân hình thành và phát triển xuất khẩu lao động

Trong tác phẩm "Phép biện chứng tự nhiên", F. Ăng - ghen viết :
"Con người sống lan rộng ra tất cả những nơi nào có thể được và người là
loại động vật duy nhất làm được điều đó một cách độc lập, tự chủ". Ngay từ
buổi bình minh của loài người đã xuất hiện sự di chuyển của nguồn lao động
đến những miền đất tốt đẹp hơn. Như vậy, sự di cư lao động quốc tế thể hiện
tính tất yếu và tác dụng tiến bộ của lịch sử. Chính sự phân bố không đồng
đều về dân cư, về điều kiện tự nhiên (tài nguyên, khí hậu) và sự bùng nổ dân
số trên thế giới đã hình thành luồng di cư lao động ở những nước kinh tế
chậm phát triển di cư đến những nước có đời sống kinh tế khá hơn, lao động
ở nước nghèo tài nguyên di chuyển đến những nước có điều kiện thiên nhiên
thuận lợi, dân cư ở nước có mật độ cao di chuyển đến những nước có mật độ
dan cư thấp. Như vậy việc di chuyển lao động trước hết là một hiện tương
khách quan trong quá trình làm việc của bản thân người lao động.

Ngoài ra, xuất khẩu lao động còn bị chi phối bởi các yếu tố chủ quan
khác như : chính sách của quốc gia, ý chí của nhà nước, của các tổ chức
cung ứng và tiếp nhận lao động...
Phân tích cụ thể, ta thấy có những nguyên nhân sau đây :
Thứ nhất, do có sự mất cân đối vê số lượng lao động, khi nguồn lao
động một nước không đáp ứng đủ hoặc vượt quá nhu cầu sử dụng trong
nước.

5
Sự dư thừa lao động, vượt quá nhu cầu sử dụng trong nước của một
nước có thể là do nước dó có tỷ lệ phát triển dân số cao nền sản xuất trong
nước lạc hậu, kém phát triển nên nhu cầu sử dụng thấp hoặc do nước đó có
sự chuyển đổi cơ chế kinh tế mà trong giai đọan chuyển tiếp nền kinh tế
chưa thể phù hợp ngay với cơ chế mới nên đã giảm sút nghiêm trọng, sản
xuất bấp bênh, số lao động dôi thừa tăng nhanh.
Trong khi đó, nhiều nước có nền kinh tế phát triển nhanh, nhu cầu sử
dụng lao động lớn trong khi tốc độ tăng dân số lại quá thấp nên đã xảy ra
hiện tượng thiếu lao động.
Thứ hai, do có sự mất cân đối về cơ cấu ngành nghề nhất định mà
trong nước không có hoặc không đủ. Ví dụ : ở một số nước phát triển rất
thiếu lao động trong các ngành nặng nhọc, độc hại còn ở nước nghèo lại
thiếu các chuyên gia, cán bộ kỹ thuật có trình độ cao.
Trình độ phát triển kinh tế và tiến bộ khoa học kỹ thuật của mỗi quốc
gia không thể giải quyết hết sự mất cân bằng này, đòi hỏi phải có sự trao đổi
lao động với các quốc gia khác. Hành vi trao đổi này dẫn đến sự ra đời và
phát triển của xuất khẩu lao động.
Thứ ba, do có sự chênh lệch giá cả sức lao động trong nước và sức
lao động nước ngoài. Nhiều nước mặc dù không dư thừa lao động cũng tiến
hành xuất khẩu lao động vì có lợi cho cán cân thanh toán do họ có được
những hợp đồng xuất khẩu lao động có giá cao và bù lại họ nhập khẩu lao
động tự những nước có giá cả thấp hơn. Điều này lý giải vì sao có những
nước vừa nhập khẩu lại vừa xuất khẩu lao động như : Cuba, Malaysia,
Bungari...
Thứ tư, do có sự chênh lệch về mức thu nhập và mức sống giữa
người lao động trong nước và người lao động đi làm việc ở nước ngoài. Vì
lý do này mà nhiều người dù không thuộc đội quân thất nghiệp nhưng vẫn
muốn đi xuất khẩu lao động để tăng thêm thu nhập, cải thiện đời sống bản
thân và gia đình.
Thứ năm, do xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế, lực lượng sản
xuất phát triển, nền sản xuất lớn không thể bó hẹp trong phạm vi biên giới
quốc gia mà mở rộng ra nhiều nước, việc sử dụng lao động mang tính quốc
tế. Hơn nữa, việc tăng cường xuất khẩu công nghệ, bao thầu công trình quốc
tế sẽ tất yếu kèm theo việc phát triển xuất khẩu lao động

6
II – Tình hình xuất khẩu lao động tại Việt Nam

1, Sự cần thiết của hoạt động xuất khẩu lao động tại Việt Nam

Cùng với việc giải quyết việc làm trong nước, hoạt động xuất khẩu lao
động có vị trí quan trọng. Nó là hoạt động đặc thù nhằm đạt kết quả tổng
hợp về kinh tế xã hội. Nhà nước ta đã xác định : "Đưa lao động đi làm việc
có thời hạn ở nước ngoài là một hướng giải quyết việc làm, tạo thu nhập cho
người lao động, tăng nguồn thu ngoại tệ cho ngân sách và góp phần tăng
cường quan hệ hợp tác kinh tế - văn hoá, khoa học kỹ thuật giữa Việt Nam
với các nước sử dụng lao động Việt Nam.

a, Xuất phát từ vấn đề kinh tế.

Các nhà khoa học Việt Nam nghiên cứu thị trường lao động khu vực
và quốc tế đều nhận thấy một điều nổi bật, rõ ràng là: Một số nước công
nghiệp phát triển cao như Nhật Bản, Hàn Quốc, Italia... lẫn một số nước mới
phát triển như Thailand, Malaisia, Philipine... ngay từ đầu, khi nền kinh tế
còn chưa phát triển đều biết sử dụng một phương tiện đầy hiệu quả, đó là
xuất khẩu lao động. Theo thống kê của Tổ chức lao động quốc tế (ILO),
khoản thu nhập của người lao đông của nước ngoài mỗi năm đạt tới 65,5
USD, trong khi đó hàng năm tổng các khoản viện trợ chính thức (ODA) chỉ
đạt mức 51 tỷ USD. Người đi làm việc ở nước ngoài thường có mức thu
nhập bình quân cao hơn trong nước từ 6 đến 10 lần. Chênh lệch về thu nhập
là nguyên nhân khiến nhiều nước tận dụng mọi thời cơ đưa lao động đi làm
việc ở nước ngoài. Tại Việt Nam cùng với việc chuyển sang nền kinh tế thị
trường, trong hơn 10 năm (1991 - hết tháng 6/2003) theo cơ chế mới đã đưa
được gần 250.000 lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài, đem lại
thu nhập hàng năm 1 -1,5 tỷ USD. Tuy còn khiêm tốn trên thị trường lao
động thế giới nhưng về mặt kinh tế đã góp phần đáng kể làm tăng trưởng
ngân sách quốc gia, tăng thu nhập cho người lao động và góp phần giải
quyết việc làm trong nước giữa hoàn cảnh nước ta còn đang chắt chiu từng
đồng ngoại tệ mạnh. Có thể sử dụng một so sánh : Để có được 800 triệu
USD do xuất khẩu hàng dệt may chúng ta phải đầu tư rất nhiều cơ sở vật
chất, xây dựng nhà máy, trang bị máy móc thiết bị, đảm bảo cơ sở hạ tầng...
Nhưng với gần 20.000 lao động xuất khẩu hàng năm, chúng ta thu được
lượng ngoại tệ gần gấp đôi mà số vốn đầu tư lại ít hơn nhiều lần.

7
Về lâu dài xuất khẩu lao động nước ta có khả năng đóng góp cao cho
thu nhập quốc dân khi phạm vi xuất khẩu lao động được mở rộng, số lượng
người đưa đi lớn, ngành nghề hình thức đa dạng, chính sách và thủ tục đưa
lao động đi thông thoáng.

b, Xuất phát từ vấn đề dân số và giải quyết việc làm

Sự gia tăng dân số, lao động ở Việt Nam là yêu cầu bức xúc phải phát
triển xuất khẩu lao động.
Sự phát triển dân số, lao động đối với Việt Nam hiện nay là một trong
những vấn đề kinh tế, xã hội phức tạp và gay gắt chẳng những trong giai
đoạn hiện nay mà còn trong những năm tới. Trong dân số có lực lượng lao
động - yếu tố quyết định của sản xuất, đồng thời dân số lại là lực lượng tiêu
dùng của cải vật chất và tinh thần của xã hội. Mối quan hệ này được cụ thể
hoá thành quan hệ giữa dân số và phát triển là nội dung quan trọng của chiến
lược kinh tế xã hội.
Với tốc độ tăng dân số ở mức trên dưới 2% như hiện nay tạo nên áp
lực đối với đời sống và việc làm. Hàng năm, Việt Nam phải tạo ra hơn 1
triệu việc làm mới, khoảng gần 8 triệu lao động thiếu việc làm, hàng chục
vạn bộ đội phục viên, lao động dôi dư ở khu vực Nhà nước... Trong những
năm qua, nhờ chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước, nền kinh tế nước
ta đã đạt được những thành tựu đáng kể, trong đó có việc giải quyết việc làm
trong nước; tuy nhiên so với số lượng lao động cần giải quyết việc làm hàng
năm cũng chỉ đạt 35% nhu cầu. Chính vì vậy, đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu
lao động là một trong những giải pháp vô cùng quan trọng, không chỉ trước
mắt mà còn có ý nghĩa chiến lược lâu dài.
Nhu cầu việc làm càng ngày càng lớn mà khả năng giải quyết còn rất
hạn chế trong khi tiềm năng phát triển kinh tế, tạo việc làm lớn song lại chưa
được khai thác và phát huy, chưa gắn được lao động với tiềm năng đất đai và
tài nguyên.
Mâu thuẫn giữa lao động và việc làm càng gay gắt khi đổi mới cơ cấu
kinh tế, tổ chức lại lao động cho phù hợp với cơ cấu mới của nền kinh tế tất
yếu dẫn đến việc đẩy lao động tách khỏi việc làm cho một bộ phận lớn lao
động trở nên dư thừa, trước hết ở khu vực Nhà nước, các hợp tác xã tiểu thủ
công nghiệp... Trong các năm qua, lao động khu vực Nhà nước dư thừa
khoảng 30%-50%, tương đương 1 triệu người. Mâu thuẫn trong bản thân vấn
đề việc làm vừa là vấn đề kinh tế xã hội cơ bản lâu dài có tính chiến lược, lại

8
vừa là vấn đề cấp bách trước mắt như đối tượng thanh niên mới lớn, lao
động thôi việc từ khu vực Nhà nước, bộ đội xuất ngũ, gia đình chính sách xã
hội... Không giải quyết được vấn đề việc làm thì sẽ nảy sinh các vấn đề xã
hội trầm trọng dẫn đến mất an toàn xã hội, thậm chí mất ổn định chính trị.
Chính từ những mâu thuẫn trên chúng ta thấy việc phát triển xuất
khẩu lao động như là một trong các hướng giải quyết việc làm, có tầm quan
trọng to lớn và cần thiết đối với đất nước ta hiện nay.

c, Xuất phát từ vấn đề công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

Xuất khẩu lao động mang lại một nguồn ngoại tệ mạnh cho đất nước
góp phần tăng nguồn vốn đầu tư cho sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại
hoá.
Người lao động Việt Nam ra nước ngoài làm việc sẽ học tập được tác
phong làm việc công nghiệp sản xuất lớn, thái độ đúng đắn trong công
việc... cùng với một tay nghề vững chắc khi về nước họ sẽ là nguồn nhân lực
đáng quý tham gia vào công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
Người Việt Nam ra nước ngoài lao động tốt sẽ góp phần tăng thêm uy
tín, vị thế của nước ta trên trường quốc tế, tăng cường sự hiểu biết và góp
phần thúc đẩy quan hệ hơp tác giữa Việt Nam và các nước trên thế giới. Đó
là điều quan trọng không thể thiếu được nếu muốn tiến hành thành công sự
nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.

d, Lợi thế của lao động xuất khẩu Việt Nam.


Thứ nhất, xuất khẩu lao động đã trở thành chủ trương lớn của Đảng
và Nhà nước. Đại hội VIII của Đảng cộng sản Việt Nam đã khẳng định :
"Phải đẩy mạnh xuất khẩu lao động", hoạt động xuất khẩu lao động trong
những năm gần đây đã được sự quan tâm chú ý của các ngành, các cấp và
các tầng lớp dân cư trong xã hội.
Thứ hai, nguồn lao động nước ta dồi dào, theo thống kê số lượng
người trong độ tuổi lao động tính đến tháng 7/2002 là 40.694.360 người,
mỗi năm bình quân có thêm hơn 1 triệu người bổ sung vào lực lượng lao
động đó.
Thứ ba, cơ cấu dân số nước ta thuộc loại trẻ, đại bộ phận (53%) ở độ
tuổi dưới 30, dưới 40 là 78%, chỉ có 22% dân số ở độ tuổi trên 40.

9
Thứ tư, giá nhân công Việt Nam rẻ hơn nhiều so với nhiều nước
trong khu vực và trên thế giới, có sức cạnh tranh trên thị trường lao động
quốc tế.
Thứ năm, Việt Nam đang không ngừng tiến xa hơn trên con đường
hội nhập với thế giới, trong khi thị trường lao động quốc tế cũng không
ngừng tăng trưởng và đa dạng. Đây là cơ hội quan trọng để Việt Nam tham
gia và phát huy lợi thế của mình trong lĩnh vực xuất khẩu lao động.

2. Tình hình xuất khẩu lao động ở Việt Nam

Việt Nam bắt đầu đưa chuyên gia và lao động đi làm việc có thời hạn
ở nước ngoài từ năm 1980. Từ đó đến nay, cùng với sự đổi mới về cơ chế
quản lý kinh tế chung của đất nước, cơ chế xuất khẩu lao động của ta cũng
đã qua nhiều lần thay đổi, phù hợp với tình hình phát triển của đất nước và
quan hệ quốc tế của ta trong từng thời kỳ. Đánh giá chung, có thể nói công
tác xuất khẩu lao động của ta đã đạt được những yêu cầu cơ bản trong mục
tiêu đặt ra và góp phần tích cực vào sự phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước.
Hoạt động xuất khẩu lao động của Việt Nam có thể chia thành hai thời
kỳ.

a, Thời kỳ hợp tác lao động quốc tế theo cơ chế bao cấp (1980-1990).

Thời kỳ này, lao động Việt Nam chủ yếu được đưa sang các nước xã
hội chủ nghĩa Đông Âu, gồm : Liên Xô (cũ), Cộng hoà dân chủ Đức (cũ),
Tiệp Khắc (cũ) và Bungari. Một bộ phận công nhân xây dựng với số lượng
đáng kể được đưa đi làm việc ở Irăc, Liby, Angiêri cùng với một số chuyên
gia trong các lĩnh vực y tế, giáo dục và nông nghiệp sang làm việc tại nhưng
nước Châu Phi khác (Ăng - gô - la, Mô - zăm – bich, Công – gô, Y- ê –men,
Madagasca...).
Đối với các nước xã hội chủ nghĩa, khi đó nước ta là thành viên của
Hội đồng tương trợ kinh tế (SEV) nên hoạt động xuất khẩu lao động mang
tính chất hợp tác lao động, giúp đỡ lẫn nhau : bạn cần lao động để bù đắp sự
thiếu hụt lao động trong phát triển kinh tế đất nước; ta cần bạn giúp đào tạo
và nâng cao tay nghề cho người lao động và giải quyết việc làm cho bộ phận
lao động này. Nền kinh tế nước ta, đặc biệt là kinh tế đối ngoại, liên kết chặt
chẽ với các nước thành viên khác của SEV, cơ chế quản lý kinh tế của ta
cũng tương tự như cơ chế quản lý của các nước đó mang tính quản lý tập
trung, bao cấp.

10
Các nước như Irăc, Liby và các nước Châu Phi đón nhận lao động và
chuyên gia của Việt Nam cũng đều có cơ chế quản lý tương tự.
Vì vậy, cũng như các quan hệ kinh tế khác, quan hệ hợp tác sử dụng
lao động giữa ta và các nước nay đều thông qua các Hiệp định chính phủ,
thpả thuận giữa ngành với ngành. Trong bối cảnh đó, cơ chế hợp tác sử dụng
lao động và chuyên gia theo mô hình nhà nước trực tiếp ký kết và tổ chức
thực hiện đưa người lao động và chuyên gia đi làm việc ở nước ngoài.
Số lượng lao động và chuyên gia Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài
trong thời kỳ này là gần 300.000 người, trong đó đi lao động ở 4 nước xã hội
chủ nghĩa (Liên Xô cũ, Cộng hoà dân chủ Đức cũ, Tiệp Khắc cũ và Bungari)
là 261.605 người; đi làm chuyên gia ở các nước Châu Phi là 7.200 người, đi
làm công nhân xây dựng ở Trung Đông khoảng 18.000 người, ngoài ra còn
có 23.713 thực tập sinh và học sinh học nghề tại các nước Đông Âu đã
chuyển sang lao động trong những năm 80.

Bảng 1. Số lao động và chuyên gia Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài
(1980-1990)

LAO ĐỘNG PHÂN CHIA THEO KHU VỰC VÀ SỐ LƯỢNG


NGÀNH NGHỀ (người)
Tổng số 288.106
Bao gồm :
* Chuyên gia 7.200
* Lao động 280.906
Chia theo khu vực :
* Đi các nước XHCN 261.605
* Đi các nước ngoài XHCN 19.301
Chia theo ngành nghề :
* Cơ khí 71.077
* Công nghiệp nhẹ 117.432
* Hoá chất 8.329
* Công nghiệp thực phẩm 3.542
* Xây dựng và sản xuất vật liệu XD 64.247
* Nông, lâm nghiệp 6.160
* Các ngành khác 10.119

( Nguồn : Bản tin Việc làm ngoài nước - Số 6/1999)

11
Như vậy, hơn 10 năm hợp tác lao động với nước ngoài (1980 -1990)
ta đã thu được những kết quả đáng kể, song cũng còn một số tồn tại do hoàn
cảnh lịch sử lúc bấy giờ, do sự thiếu kinh nghiệm cũng như chưa có nghiệp
vụ chuyên môn và đầy đủ cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt động này. Nhưng
chính từ đây chúng ta đã rút ra được những bài học kinh nghiệm vô cùng
quý báu để phát triển hoạt động xuất khẩu lao động cho giai đoạn sau.

b, Thời kỳ xuất khẩu lao động theo cơ chế thị trường (1991 – 6/2003)

Cuối những năm 1980 và đầu những năm 1990, các nước xã hội chủ
nghĩa Đông Âu tiếp nhận lao động của ta đều xảy ra những biến động chính
trị lớn, dẫn đến sự thay đổi về thể chế chính trị và cơ chế kinh tế; ở nhiều
nước Châu Phi có chuyên gia ta làm việc cũng có khủng hoảng kinh tế,
chính trị; ở Irăc xảy ra chiến tranh. Vì vậy, phần lớn các nước này không còn
nhu cầu nhận tiếp lao động và chuyên gia Việt Nam, hoặc nếu có nhu cầu thì
cũng không nhận lao động và chuyên gia theo cơ chế như trước đây nữa.
Đồng thời, cơ chế quản lý kinh tế cua nước ta thời kỳ này đang từng bước
đổi mới chuyển dần sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà
nước. Trước tình hình đó, nếu chúng ta không đổi mới cơ chế xuất khẩu thì
sẽ không đưa được lao động sang làm việc tại các khu vực mới, trong lúc ở
khu vực truyền thống ta có nguy cơ phải đưa về nước hàng loạt lao động và
chuyên gia khi vẫn chưa chuẩn bị được các điều kiện tiếp nhận và bố trí việc
làm, gây khó khăn và mất ổn định cho tình hình trong nước. Thực tiến khách
quan và chủ quan đặt ra yêu cầu bức bách là phải đổi mới cơ chế xuất khẩu
lao động và chuyên gia cho phù hợp với bối cảnh trong nước và quốc tế.
Một cơ chế mới về hoạt động xuất khẩu lao động và chuyên gia được
hình thành, trong đó phân định rõ chức năng quản lý nhà nước và chức năng
kinh doanh dịch vụ xuất khẩu lao động. Nhà nước thống nhất quản lý xuất
khẩu lao động bằng các chính sách và quy định pháp lý. Các tổ chức kinh tế
thực hiện hoạt động kinh doanh dịch vụ xuất khẩu lao động thông qua các
hợp đồng cung ứng lao động ký với bên nước ngoài.
Trong thời gian đầu chuyển đổi sang cơ chế mới, do các doanh nghiệp
mới thoát ra khỏi sự bao cấp của Nhà nước nên gặp nhiều khó khăn, bỡ ngỡ
trong việc tìm kiếm thị trường lao động ngoài nước; đôi khi thậm chí trông
chờ, ỷ lại vào sự hỗ trợ của các cơ quan Nhà nước, chưa có sự chủ động
trong việc khai thác hợp đồng. Các thị trường chủ yếu tiếp nhận lao động
của ta lâu nay do những bíên động về chính trị, kinh tế, xã hội đã không còn
khả năng tiếp nhận lao động Việt Nam như trước đây. Đối với thị trường
mới, ta còn chưa quen, thiếu nhiều thông tin, kinh nghiệm và kiến thức. Hơn

12
nữa, quan hệ đối ngoại trong môi trường quốc tế những năm đầu thập niên
90 (1991 -1993) chưa thuận lợi đối với ta. Trong tình hình đó, chỉ có một số
ít doanh nghiệp là ký hợp đồng đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài với số
lượng nhỏ, khoảng hơn 5000 lao động cho cả 3 năm này.
Những năm sau đó, các doanh nghiệp đã bước đầu có sự chủ động
trong nghiên cứu, tiếp thị và học tập kinh nghiệm từ các nước có truyền
thống xuất khẩu lao động và từng bước hoà nhập thị trường lao động quốc
tế. Cho đến nay, chúng ta đã tiếp cận và thâm nhập được vào thị trường lao
động thuộc trên 40 nước và khu vực trên thế giới như khu vực Đông và
Đông Nam Á, Trung Đông, Bắc Phi; ngoài ra ta đang từng bước mở rộng thị
trường lao động đến một số đảo Nam Thái Bình Dương và khu vực Bắc Mỹ.
Số lượng lao động Việt Nam được đưa đi làm việc ở nước ngoài tăng
nhanh qua các năm kể từ năm 1994, có giảm đáng kể vào năm 1998 do ảnh
hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á nhưng lại đặc biệt
tăng mạnh từ thời điểm năm 1999 trở lại đây. Trong vòng hơn 12 năm qua,
Việt Nam có xấp xỉ 1/4 triệu người đi xuất khẩu lao động. Đặc biệt trong 6
tháng đầu năm 2003 ta đã đưa được 43.000 người đi xuất khẩu lao động, gần
bằng con số 46.122 người của cả năm 2002. Dự kiến trong năm nay ta sẽ
đưa được 5 vạn lao động và chuyên gia ra nước ngoài làm việc.

Bảng 2. Số liệu lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài
(1991 - 06/2003)

Năm Số lượng (người)


1991 1.022
1992 816
1993 3.960
1994 9.230
1995 10.050
1996 12.660
1997 18.470
1998 12.240
1999 21.810
2000 31.500
2001 37.000
2002 46.122
06/2003 43.000
Tổng số 247.880

13
( Nguồn : Số liệu lưu trữ của Cục quản lý lao động với nước ngoài )
Thời kỳ này, số lượng người đi xuất khẩu lao động tăng mạnh qua
từng năm cho thấy sự đi lên về chất lượng cũng như nhận thức của người lao
động, sự cố gắng của Nhà nước cùng với sự vươn lên của các doanh nghiệp
xuất khẩu lao động. Hiện có gần 200 doanh nghiệp đã được Bộ Lao động –
Thương binh và Xã hội cấp giấy phép hoạt động xuất khẩu lao động và đa
phần các doanh nghiệp này hoạt động khá hiệu quả. Các doanh nghiệp lớn
như : VINACONEX, LOD, VIETRACIMEX, SIMCO, SOVILACO ... bình
quân hàng năm đưa được 1000 – 2000 lao động ra nước ngoài làm việc.
Ngành nghề xuất khẩu lao động cũng rất đa dạng, có đến trên 30 ngành nghề
thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau như : xây dựng, cơ khí, giúp việc gia đình và
khán hộ công, điện tử, dệt may, chế biến thuỷ sản, dịch vụ, vận tải biển,
đánh bắt chế biến hải sản, chuyên gia y tế, giáo dục, nông nghiệp, tin học
v.v.. Số lao động nữ hiện nay chiếm khoảng hơn 25%, tập trung chiếm ưu
thế ở các lĩnh vực : dệt, may (69%), điện tử (80%), chăm sóc người bệnh và
giúp việc gia đình (94%). Xuất khẩu lao động của Việt Nam đang không
ngừng vươn lên ngang tầm các nước có truyền thống xuất khẩu lao động ở
Châu Á như Philippines, Malaysia, Thái Lan, Indonesia, Bangladesh.... Tuy
nhiên, cần nhận thấy đây vẫn chỉ là những bước đi khởi đầu để tạo đà cho
các doanh nghiệp xuất khẩu lao động Việt Nam tiếp tục phấn đấu, mở rộng
thêm thị trường lao động và tăng số lượng cũng như chất lượng lao động
xuất khẩu trong thời gian tới.
Trong giai đoạn qua, bên cạnh việc góp phần giải quyết vấn đề việc
làm trong nước, xuất khẩu lao động còn mang lại hiệu quả kinh tế đáng kể
cho đất nước. Lao động đi làm việc ở nước ngoài có thu nhập bằng ngoại tệ
có khả năng chuyển đổi thành ngoại tệ mạnh. Nguồn ngoại tệ này rất cần
thiết để xây dựng đất nước. Mức thu nhập của người lao động làm việc ở
nước ngoài thường cao hơn từ 6 – 10 lần thu nhập của người làm việc trong
nước. Mức thu nhập ròng hàng tháng (kể cả làm thêm giờ, sau khi đã trừ đi
chi phí sinh hoạt ngoài nước) bình quân đầu người khoảng 350USD/người.
Như vậy, với gần 250.000 lao động đã đưa đi, trung bình mỗi hợp đồng làm
việc là là 2 năm thì tổng số tiền được chuyển về cho đất nước ước tính
khoảng 2,8 tỷ USD. Chỉ tính riêng trong năm 2001, tổng số tiền lao động
Việt Nam làm việc ở nước ngoài dưới nhiều hình thức khác nhau gửi về
nước đã đạt 1,3 tỷ USD. Đó là khoản thu lớn góp phần tăng nguồn thu ngoại
tệ cho đất nước, phục vụ thiết thực cho công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại
hoá nước nhà.

14
Tuy nhiên cần nhận thấy hoạt động xuất khẩu lao động của nước ta
cũng còn nhiều bất cập, nhiều tồn tại cần khắc phục. Đầu tiên phải kể đến
công tác quản lý xuất khẩu lao động chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu
thực tế. Chưa tạo được sự phối hợp đồng bộ giữa các doanh nghiệp xuất
khẩu lao động với các cơ quan chức năng trong việc quản lý và chỉ đạo triển
khai thực hiện các hợp đồng lao động. Việc tuyển chọn và làm thủ tục cho
lao động dù đã có sự cải thiện nhiều trong những năm qua nhưng hiện vẫn
còn qua rất nhiều khâu trung gian nên người lao động phải mất nhiều thời
gian và chi phí bất hợp lý. Cá biệt vẫn có tình trạng lừa đảo, thu tiền bất
chính từ người lao động. Thêm vào đó, công tác đào tạo chuẩn bị nguồn lao
động trước khi đi cũng như quản lý lao động tại nước đến chưa được sự
quan tâm đúng mức từ phía doanh nghiệp, lao động trình độ tay nghề, trình
độ ngoại ngữ còn yếu, ý thức chấp hành nội quy và pháp luật nước sở tại rất
kém, dẫn đến tình trạng tỷ lệ lao động phá hợp đồng, bỏ trốn ra ngoài làm
việc hay bị trả về nước do không đạt yêu cầu còn cao. Đây là những vấn đề
bức thiết mà chúng ta cần phải khắc phục và phải khắc phục nhanh để hoạt
động xuất khẩu lao động của nước ta thực sự đạt đến hiệu quả kinh tế - xã
hội tương xứng với tiềm năng và cơ hội của mình.

III – Vị trí, vai trò của khu vực thị trường các nước Đông và Đông Nam Á
đối với hoạt động xuất khẩu lao động nước ta.

1, Các thị trường xuất khẩu lao động hiện nay của nước ta.

Bước sang thời kỳ xuất khẩu lao động theo cơ chế thị trường, chúng ta
đã mất hầu hết các thị trường hợp tác lao động truyền thống trước đây, song
bằng nỗ lực của chính mình, ta đã tiếp cận mở thêm và phát triển được nhiều
thị trường xuất khẩu lao động mới. Trong vòng hơn 10 năm qua, ngành xuất
khẩu lao động nước ta đã đưa lao động Việt Nam đi làm việc tại trên 30 thị
trường thuộc nhiều khu vực khác nhau trên thế giới.

Các thị trường tiếp nhận lao động chủ yếu của nước ta hiện nay có thể
phân thành bốn khu vực thị trường bao gồm : khu vực thị trường Trung
Đông, khu vực thị trường Châu Phi, khu vực thị trường trên biển và khu vực
thị trường Đông và Đông Nam Á.

a, Khu vực thị trường Trung Đông :

15
Trung Đông là một trong những khu vực thu hút số lượng lao động
lớn nhất trên thế giới thường xuyên có khoảng 9 -10 triệu lao động ngoại
quốc làm việc tại các thị trường này) với các ngành nghề đa dạng : xây
dựng,

dầu khí, cơ khí, dệt may, giúp việc gia đình và chuyên gia các ngành. Khu
vực này có điều kiện làm việc rất khó khăn, khí hậu và môi trường sinh hoạt
rất khắc nghiệt, công việc chủ yếu làm ngoài trời nắng nóng, tiền lương thấp
(100 – 150 USD/tháng đối với lao động tay nghề thấp và 200 – 300
USD/tháng đối với công nhân kỹ thuật, kỹ sư, cán bộ quản lý) nhưng phải
chịu nhiều loại thuế, phong tục tập quán đạo Hồi nghiêm ngặt.
Thời gian vừa qua, một số doanh nghiệp Việt Nam đã đưa lao động
xây dựng, dệt may sang Các tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất (UAE) với
số lượng không nhiều (tổng cộng khoảng gần 2000 người). Ngoài ra, một vài
doanh nghiệp khác đã nhận thầu công trình xây dựng ở Kuwait cũng đã đưa
lao động sang đây nhưng do chưa có kinh nghiệm tổ chức thi công và quản
lý lao động ở nước ngoài nên hoạt động chưa có mấy hiệu quả.
Tổng số lao động ta đã đưa sang thị trường Trung Đông từ năm 1991
– 2001 là 2.927 người, nhưng từ đầu năm 2002 đến nay ta không có thêm
lao động nào tại thị trường này.

b, Khu vực thị trường Châu Phi :

Ở Châu Phi có một số quốc gia có nhu cầu nhận lao động nước ngoài.
Tuy nhiên, trong những năm gần đây, ta chủ yếu chỉ đưa lao động sang
Libya. Đây là thị trường tiếp nhận lao động tương đối ổn định của ta. Cho
đến nay, bằng hình thức cung ứng trực tiếp và cung ứng qua nước thứ ba, ta
đã đưa được trên 10.000 lượt lao động sang Libya làm việc trong lĩnh vực
xây dựng. Song do mức lương ở đây không cao (150 -200 USD/tháng), điều
kiện làm việc và sinh hoạt lại hết sức khắc nghiệt nên thị trường gần đây
không tỏ ra hấp dẫn người lao động.
Ngoài ra, tại một số nước Châu Phi khác tuy có tỷ lệ lao động cao
nhưng vẫn có nhu cầu nhận nhiều lao động nước ngoài cho các công trình
xây dựng. Các doanh nghiệp ta có khả năng đưa được số lượng lớn lao động
thông qua các công ty quốc tế thắng thầu ở khu vực này.

16
Bên cạnh đó, ta còn đưa một số chuyên gia nông nghiệp, y tế và giáo
dục sang các nước như Angola, Mozambique... nhưng với số lượng không
nhiều và không thường xuyên.

c, Khu vực thị trường trên biển :

Hiện nay, nhu cầu của thị trường thế giới đối với lao động trên biển
còn rất lớn. Trong thời gian qua, ta đã đưa được trên 26 nghìn lượt sĩ quan,
thuyền viên tàu vận tải, thuỷ thủ đánh bắt cá đi làm việc trên biển. Trong đó
hiện có trên 2.000 người đang làm việc trong các đội tàu của Hàn Quốc,
Nhật Bản, Na Uy, Đài Loan, Singapore và các nước khác. Tuy nhiên trên
thực tế lao động của ta vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của các chủ tàu cả về
số lượng và chất lượng.

d, Khu vực thị trường Đông và Đông Nam Á :

Đây là khu vực thị trường chính mà em muốn đề cập đến trong khoá
luận tốt nghiệp này. Khu vực này chính xác hơn có thể chia thành hai nhóm
thị trường nhỏ hơn là : nhóm thị trường Đông Á (bao gồm Hàn Quốc, Nhật
Bản, Đài Loan) và nhóm thị trường Đông Nam Á (bao gồm Lào và
Malaysia). Vượt trên các khu vực thị trường đã kể trên, Đông và Đông Nam
Á là khu vực thị trường tiếp nhận lao động đi xuất khẩu chủ yếu nhất của
nước ta hiện nay. Khu vực này đồng thời cũng bao gồm những thị trường
tiếp nhận lao động có quy mô lớn nhất ở Châu Á với tổng số lao động nước
ngoài đi theo con đường hợp pháp lên đến trên 2.000.000 người, chưa kể
hàng triệu lao động nước ngoài nhập cư bất hợp pháp khác. Không chỉ lớn
mạnh về số lượng lao động nước ngoài tiếp nhận hàng năm, khu vực thị
trường Đông và Đông Nam Á còn rất đa dạng về ngành nghề tiếp nhận lao
động nước ngoài (gồm hầu hết các lĩnh vực của nền kinh tế), hình thức tiếp
nhận (hợp dồng tu nghiệp sinh hoặc lao động), trình độ lao động (lao động
phổ thông, công nhân kỹ thuật, chuyên gia)...

2, Vị trí, vai trò của khu vực thị trường Đông và Đông Nam Á đối với hoạt
động xuất khẩu lao động nước ta.

17
Có thể nói không ngần ngại rằng khu vực Đông và Đông Nam Á là
khu vực thị trường xuất khẩu lao động có tầm quan trọng bậc nhất đối với
nước ta hiện nay và theo dự báo của các chuyên gia trong lĩnh vực xuất khẩu
lao động, khu vực thị trường này vẫn tiếp tục giữ vai trò chủ chốt cả trong
những năm tới đây.
Thứ nhất, khu vực thị trường Đông và Đông Nam Á là khu vực thị
trường tiếp nhận lao động đi xuất khẩu chủ yếu nhất của nước ta hiện nay.
Ta có thể dễ dàng nhận thấy điều này khi xem Bảng 3 thống kê về số lượng
người Việt Nam đi xuất khẩu lao động theo từng khu vực thị trường trong
thời gian qua dưới đây.

Bảng 3. Số người đi xuất khẩu lao động theo từng khu vực thị trường
(1991 – 6/2003)

Khu vực thị trường Số lượng (người) Tỷ lệ (%)


Đông và Đông Nam Á 193.540 78,08
Trên biển 26.563 10,72
Châu Phi 12.695 5,12
Trung Đông 2.927 1,18
Các thị trường khác 12.156 4,9
Tổng số 247.880 100

(Nguồn : Tổng hợp số liệu báo cáo Cục Quản lý lao động với nước ngoài)

Số lao động Việt Nam đã và đang làm việc tại các thị trường thuộc
khu vực này chiếm đến 78,08% trong tổng số 247.880 lao động ta đã đưa đi
làm việc ở nước ngoài trong vòng hơn 10 năm qua; trong khi đó, các khu
vực thị trường khác nhiều nhất cũng chỉ chiếm đến trên dưới 10%. Có thể
thấy rõ đây là khu vực thị trường tập trung lao động đi xuất khẩu số một của
nước ta hiện nay.
Là khu vực thị trường có nhiều lao động Việt Nam sinh sống và làm
việc nhất, đây cũng đồng thời là khu vực cung cấp nguồn kiều hối lớn nhất
của ta. Năm 2002, lao động Việt Nam tại các thị trường này chuyển về nước
khoảng 1,2 tỷ USD, chiếm 80% trong tổng số 1,5 tỷ USD kiều hối mà ta
nhận được trong cả năm.
Thứ hai, khu vực thị trường này tiếp nhận lao động của ta với cơ cấu
rất đa dạng, bao gồm cả lao động phổ thông, công nhân kỹ thuật và chuyên
gia trong hầu hết các lĩnh vực của nền kinh tế. Chính khu vực thị trường này

18
đã giữ vai trò chủ yếu tạo nên tính đa dạng trong lĩnh vực xuất khẩu lao
động của ta.
Trong số lao động Việt Nam đưa sang các nước Đông và Đông Nam
Á, lượng lao động phổ thông chiếm tỷ lệ cao, lên đến 70%, chủ yếu là lao
động tại các vùng nông thôn. Trong bối cảnh tình trạng thất nghiệp ở nông
thôn Việt Nam còn tương đối phổ biến như hiện nay, như vậy khu vực thị
trường Đông và Đông Nam Á đã góp phần quan trọng để giải quyết vấn đề
trên thông qua con đường xuất khẩu lao động. Nhiều lao động phổ thông qua
quá trình làm việc tại đây, ngoài việc có được thu nhập đáng kể còn có điều
kiện học hỏi để trở thành lao động có nghề.
Thứ ba, trong số các khu vực thị trường xuất khẩu lao động của Việt
Nam, khu vực Đông và Đông Nam Á có điều kiện gần gũi nhất về địa lý,
điều kiện tự nhiên, nền văn hoá cũng như phong tục tập quán với ta. Đó là
những điều kiện vô cùng thuận lợi cho việc đưa lao động của ta sang làm
việc tại những thị trường này. Sự gần gũi về địa lý làm cho các chi phí đi lại,
liên lạc của lao động cũng như của doanh nghiệp xuất khẩu lao động thấp
hơn rất nhiều so với các khu vực thị trường khác. Trong khi sự gần gũi về
điều kiện tự nhiên, nền văn hoá, phong tục tập quán lại khiến giới chủ sử
dụng dễ dàng chấp nhận lao động Việt Nam vào làm việc, hai bên dễ dàng
tìm được tiếng nói chung trong công việc cũng như trong sinh hoạt hàng
ngày. Lao động Việt Nam có được nhiều thuận lợi hơn so với các khu vực
thị trường khác trong việc hoà nhập vào đời sống kinh tế xã hội của nước sở
tại. Đây là một trong những nguyên nhân quan trọng để Đông và Đông Nam
Á trở thành khu vực thị trường xuất khẩu lao động chủ chốt của nước ta.
Thứ tư, khu vực thị trường này tập trung những quốc gia có trình độ
khoa học kỹ thuật vào loại phát triển nhất trong khu vực và trên thế giới.
Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan là những con rồng Châu Á với nền kinh tế
có hàm lượng khoa học công nghệ cao, Malaysia cũng có nền khoa học kỹ
thuật rất phát triển. Xuất khẩu lao động sang những thị trường là cơ hội quan
trong cho phép lao động ta tiếp cận với những thành tựu khoa học kỹ thuật
tiên tiến nhất.
Thứ năm, đây đồng thời là khu vực thị trường xuất khẩu lao động rất
có triển vọng trong tương lai. Một mặt, triển vọng thể hiện rõ ở nhu cầu lao
động nước ngoài còn rất lớn của những thị trường mà ta đã đưa lao động
sang làm việc. Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Lào và đặc biệt là Malaysia
- thị trường mới mở gần đây đều có nhu câu rất lớn về lao động nước ngoài
mà lượng lao động đã tiếp nhận mới chỉ đáp ứng được một phần. Hơn nữa,

19
với đà phát triển kinh tế của những nước trên, dự báo nhu cầu này còn tăng
lên nhiều trong thời gian tới.
Ngoài ra, triển vọng còn thể hiện ở một số thị trường tiếp nhận lao
động nước ngoài có tiếng khác trong khu vực Đông và Đông Nam Á như
Singapore hay Bruney. Tuy trước mắt những thị trường này vẫn chưa chính
thức tiếp nhận lao động của ta (trừ một số ít y tá sang Singapore) song chính
phủ ta đang nỗ lực tiến hành nhiều hoạt động tích cực nhằm xúc tiến tiếp cận
tìm cách đưa lao động của ta sang đây.

CHƯƠNG II

THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG CỦA VIỆT NAM SANG
THỊ TRƯỜNG CÁC NƯỚC ĐÔNG VÀ ĐÔNG NAM Á

I – Vài nét về thị trường các nước Đông và Đông Nam Á

1, Thị trường Nhật Bản :

Nhật Bản là một quốc đảo với diện tích 377.682 km2, dân số
127.100.000 người, nền kinh tế đứng thứ ba trên thế giới. Với dân số có tỷ lệ
người già đã quá tuổi lao động chiếm đến 30% dân số và một nền kinh tế
phát triển như vậy, nhu cầu về lao động nước ngoài của Nhật Bản là rất lớn.
Tuy nhiên, Nhật Bản lại được các chuyên gia quốc tế nghiên cứu về xuất
khẩu lao động coi là một nước có chính sách đóng cửa với lao động nước
ngoài. Trong Luật kiểm tra về người nhập cư và di tản của Nhật Bản được
phê chuẩn năm 1990 đã quy định không được tuyển dụng lao động người
nước ngoài không nghề vào Nhật Bản, chỉ cho phép tuyển dụng những
chuyên gia có trình độ và những lao động đặc biệt lành nghề từ các quốc gia
khác. Song cũng từ đầu những năm 90, Nhật Bản đã đưa ra chính sách tiếp
nhận lao động từ các nước đang phát triển sang Nhật Bản tu nghiệp nâng
cao tay nghề theo "Chương trình tu nghiệp và thực tập kỹ thuật" tại các xí
nghiệp vừa và nhỏ với số lượng hàng năm khoảng 50.000 người, người lao
động được gọi là "tu nghiệp sinh". Theo quan điểm của các nhà hoạch định

20
chính sách Nhật Bản, đây là một biện pháp chuyển giao công nghệ cho các
nước đang phát triển, cũng là giảm số lượng lao động nước ngoài bất hợp
pháp tại đây, đồng thời đáp ứng nhu cầu lao động của các doanh nghiệp vừa
và nhỏ đang thiếu lao động trầm trọng. Đối với các nước xuất khẩu lao động,
đây cũng là một biện pháp được hoan nghênh vì nó mở ra một kênh để đưa
lao động sang Nhật Bản. Tuy người lao động chỉ được hưởng quy chế tu
nghiệp sinh (ít quyền lợi hơn so với quy chế các lao động thông thường tại
Nhật Bản) và hưởng trợ cấp tu nghiệp, nhưng mức thu nhập này vẫn cao hơn
nhiều so với mức lương của người lao động ở nhiều thị trường khác, thông
thường đạt 670 – 780 USD/ tháng.
Nhật Bản tiếp nhận tu nghiệp sinh trong các ngành công nghiệp, nông
nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp và cả các ngành thủ công truyền thống.
Theo quy định, tu nghiệp sinh nước ngoài phải là người lao động đang làm
việc trong các doanh nghiệp của nước phái cử có nghề chuyên môn sẽ tu
nghiệp tại Nhật Bản. Họ được doanh nghiệp cử đi cam kết sẽ sẽ tiếp nhận lại
làm việc sau khi hết hạn tu nghiệp. Thời hạn tu nghiệp tại Nhật Bản từ 2 – 3
năm, tuỳ theo từng ngành nghề. Trong năm đầu tiên, tu nghiệp sinh vừa học
lý thuyết vừa được đào tạo thực hành trong sản xuất, hưởng quy chế trợ cấp
tu nghiệp. Từ năm 1994 đến nay, chính sách đối với lao động nước ngoài
của Nhật Bản được mở rộng thêm một bước : Sau khi kết thúc giai đoạn 1,
tu nghiệp sinh phải qua kỳ thi sát hạch tay nghề để chuyển qua giai đoạn 2,
nếu đạt, tu nghiệp sinh sẽ được hưởng quy chế nhận tiền công theo công
việc gần giống lao động thông thường.
Tham gia vào chương trình này của Nhật Bản có rất nhiều nước Châu
Á, chủ yếu là Trung Quốc, Thái Lan, Philippnines, Indonesia, Việt Nam,
Malaysia, Đài Loan và một số nước khác. Hiện có tổng cộng gần 320.000 tu
nghiệp sinh người nước ngoài hiện đang làm việc tại Nhật Bản, trong đó,
Trung Quốc là nước có số lượng tu nghiệp sinh lớn nhất với 123.117 người,
chiếm đến trên 40% tổng số tu nghiệp sinh nước ngoài tại Nhật Bản.
Nhật Bản bắt đầu tiếp nhận tu nghiệp sinh của Việt Nam từ năm 1992,
là một trong những thị trường xuất khẩu lao động sớm nhất của nước ta tại
khu vực Đông và Đông Nam Á. Thị trường Nhật Bản tương đối khó tính, chỉ
tiếp nhận lao động có nghề, lao động phải có trình độ tiếng Nhật cơ sở, đặc
biệt yêu cầu rất cao về tính kỷ luật của lao động; thêm vào đó thủ tục xin
visa nhập cảnh rất phức tạp và tốn nhiều thời gian, chi phí cho các khâu
trung gian, đặt cọc... rất cao (từ 8.000 – 10.000 USD). Do vậy, việc đưa tu
nghiệp sinh Việt Nam sang làm việc tại Nhật Bản cần có sự nỗ lực rất cao
cả từ phía người lao động và doanh nghiệp xuất khẩu lao động.

21
Tuy nhiên, ở thị trường Nhật Bản cũng giống như ở thị trường Hàn
Quốc, phát sinh vấn đề tu nghiệp sinh nước ngoài tự ý bỏ hợp đồng, đi làm
việc tại doanh nghiệp khác có mức lương cao hơn và tu nghiệp sinh các
nước sau khi hết thời hạn làm việc không chịu về nước, trốn ở lại Nhật Bản
làm việc bất hợp pháp. Hiện tượng này tạo nên rất nhiều phức tạp về mặt xã
hội ở Nhật Bản. Tỷ lệ tu nghiệp sinh nước ngoài bỏ hợp đồng và trốn ở lại
làm việc cao là vấn đề đau đầu của cả giới chức Nhật Bản lẫn các nước phái
cử. Áp dụng các biện pháp hữu hiệu để giảm được tỷ lệ này chính là một
trong những vấn đề mấu chốt để nâng cao sức cạnh tranh của lao động nước
ta tại thị trường này.

2, Thị trường Hàn Quốc :

Hàn Quốc nằm ở khu vực Đông Á mà chính xác hơn là ở Đông Bắc
Á, diện tích 99.600 km2, dân số 48.800.000 người. Hàn Quốc là một nước
công nghiệp phát triển với nền công nghệ điện tử cao dựa trên hàm lượng
cao về khoa học và công nghệ. Nền kinh tế Hàn Quốc đạt tỷ lệ tăng trưởng
cao bắt đầu từ thập niên 60 và trong vòng 25 năm kể từ năm 1967 đến 1991,
giá trị GNP của Hàn Quốc đã tăng 7,3 lần.
Cùng với sự tăng trưởng kinh tế cao, nhu cầu sử dụng lao động cũng
ngày một tăng mạnh. Hơn thế nữa mức tiền lương của người lao động Hàn
Quốc cũng tăng cao nhanh chóng. Những điều này đã khiến cho lao động
Hàn Quốc có sự lựa chọn chỗ làm việc. Họ từ chối làm việc ở những chỗ
lương thấp hoặc trong những ngành thuộc khu vực 3D (dangerous, dificult,
dirty – nguy hiểm, khó khăn và độc hại) mà chuyển sang các ngành dịch vụ,
văn phòng hay kỹ thuật cao. Tình hình đó đã khiến Hàn Quốc phải đối phó
với sự mất cân đối về cung và cầu lao động, tỷ lệ thất nghiệp ở Hàn Quốc dù
rất cao nhưng những công việc có mức lương thấp hoặc thuộc khu vực 3D
nói trên thì vẫn rất thiếu nhân công. Để bù đắp sự thiếu hụt đó, Hàn Quốc
buộc phải nhập khẩu lao động nước ngoài. Tháng 11/1993, chính phủ Hàn
Quốc đã triển khai hệ thống tu nghiệp sinh công nghiệp, cho phép các doanh
nghiệp vừa và nhỏ hoạt động trong lĩnh vực sản xuất tiếp nhận người nước
ngoài với danh nghĩa tu nghiệp sinh. Năm 1996, chủ trương này đã được mở
rộng ra các lĩnh vực đánh cá, nông nghiệp và xây dựng.
Chương trình tu nghiệp sinh của Hàn Quốc có nhiều điểm giống với
chương trình này tại Nhật Bản. Nhưng khác với Nhật Bản - các chủ sử dụng
trực tiếp tuyển chọn và tiếp nhận lao động - tại Hàn Quốc, chính phủ giao
cho 4 hiệp hội bao gồm Hiệp hội các doanh nghiệp vừa và nhỏ Hàn Quốc

22
(KFSB), Hiệp hội xây dựng Hàn Quốc (CAK), Hiệp hội các tổ hợp nông
nghiệp Hàn Quốc, Hiệp hội các tổ hợp ngư nghiệp Hàn Quốc, đứng ra làm
đầu mối tiếp nhận tu nghiệp sinh nước ngoài về giao cho các doanh nghiệp.
Chi tiêu tu nghiệp sinh nước ngoài được phép tiếp nhận được phân bổ cho
các doanh nghiệp theo từng khu vực ngành nghề với phần lớn chỉ tiêu thuộc
về KFSB. Ví dụ như : năm 2003, Hàn Quốc chủ trương tiếp nhận 145.500 tu
nghiệp sinh nước ngoài, trong đó khu vực các doanh nghiệp sản xuất vừa và
nhỏ được tiếp nhận 130.000 người, ngành đánh bắt cá : 3.000 người, nông
nghiệp : 5.000 người và xây dựng 7.500 người.
Thời hạn làm việc của tu nghiệp sinh tại Hàn Quốc là 3 năm, trong đó
thời gian học việc là 1 năm. Từ 17/7/2002, Cục phát triển nhân lực Hàn
Quốc (HRDS) quy định : hết năm thứ nhất nếu tu nghiệp sinh qua khoá học
kéo dài 3 ngày tại các trung tâm của HRDS sẽ được gia hạn visa 2 năm,
chuyển qua chế độ lao động (được hưởng lương và bảo hiểm như người lao
động thông thường), nếu làm việc tốt họ còn có thể được gia hạn hợp đồng
thêm 1 năm. Trước đây, sau giai đoan học nghề, tu nghiệp sinh nước ngoài
vẫn phải trải qua kỳ sát hạch để được cấp giấy phép lao động 2 năm. Nhưng
từ năm 2000 – 2002, có đến 23,2% thí sinh tham dự kỳ thi sát hạch này
không đỗ, nhiều người đã trốn khỏi hợp đồng, ở lại bất hợp pháp ở Hàn
Quốc. Chính sách mới đưa ra một mặt để bảo vệ quyền lợi của người lao
động nước ngoài, mặt khác cũng để phần nào ngăn ngừa tình trạng tu nghiệp
sinh trốn bỏ hợp đồng vốn đã quá nghiêm trọng ở Hàn Quốc.
Về thu nhập của tu nghiệp sinh kỹ thuật tại Hàn Quốc, trong thời kỳ
đầu, KFSB quy định mức lương cho tu nghiệp sinh nước ngoài theo từng
quốc tịch (cao nhất là tu nghiệp sinh Trung Quốc, sau đó đến Phillipines,
Việt Nam đứng thứ 3). Nhưng sau này, do nhiều vấn đề phát sinh, chính phủ
Hàn Quốc quy định cho mọi tu nghiệp sinh nước ngoài được hưởng mức
lương tối thiểu của Hàn Quốc. Mức lương tối thiểu này thường xuyên được
điều chỉnh qua từng thời kỳ, hiện nay vào khoảng 480 USD/tháng. Khi
chuyển qua chế độ lao động, lương bình quân của người lao động có thể đạt
từ 600 – 700 USD/tháng, trên thực tế người lao động còn có mức thu nhập
cao hơn thế nhiều do có thời gian làm thêm giờ.
Chương trình tu nghiệp sinh kỹ thuật thực hiện từ năm 1993 đến nay
với tổng chỉ tiêu 130.000 người được phân bổ cho các quốc gia phái cử.
Hiện nay có tất cả 15 nước Châu Á tham gia vào chương trình này của Hàn
Quốc, trong đó nước có số lượng tu nghiệp sinh lớn nhất là Trung Quốc với
chỉ tiêu 30.790 người, chiếm 23,7%; thứ hai là Indonesia với chỉ tiêu 22.480

23
người, chiếm 17,3%; Việt Nam đứng thứ 3 với chỉ tiêu 18.770 người chiếm
14,4%.
Vấn đề nổi cộm nhất với thị trường Hàn Quốc hiện nay là tình trạng
lao động bất hợp pháp. Số lao động bất hợp pháp này - bao gồm những lao
động nước ngoài nhập cư bất hợp pháp vào Hàn Quốc và các tu nghiệp sinh,
lao động trong khuôn khổ Chương trình tu nghiệp sinh kỹ thuật bỏ hợp đồng
trốn ra ngoài tìm việc làm có thu nhập cao hơn trở thành lao động nước
ngoài bất hợp pháp – đã gia tăng đến con số báo động. Theo công bố của
chính phủ Hàn Quốc, đến cuối tháng 10/2002, trong số 603.294 người nước
ngoài sinh sống ở Hàn Quốc thì đã có đến 287.639 người là lao động bất hợp
pháp (chiếm 47,7%). Tỷ lệ tu nghiệp sinh nước ngoài tự ý phá hợp đồng,
trốn ra ngoài làm việc trung bình vào khoảng 56%, trong đó cao nhất là
Bangladesh : 78,60%, thứ hai là Myanmar : 72,90% và Việt Nam – đứng thứ
ba với 59,25%.
Việt Nam tham gia vào Chương trình tu nghiệp sinh sinh kỹ thuật của
Hàn Quốc ngay từ thời kỳ đầu. Thị trường Hàn Quốc không khó tính như thị
trường Nhật Bản. Tiêu chuẩn đối với lao động đi làm việc tại Hàn Quốc là
có sức khoẻ tốt và chăm chỉ làm việc. Phía Hàn Quốc chỉ yêu cầu tuyển lao
động phổ thông, không cần có nghề, do vậy đây là một thị trường đầy tiềm
năng với lao động Việt Nam. Tuy nhiên, muốn duy trì và tiếp tục phát triển
thị trường này thì chúng ta nhất định cần phải giải quyết dứt điểm tình trạng
tu nghiệp sinh Việt Nam bỏ hợp đồng ra ngoài làm việc bất hợp pháp và bỏ
trốn không chịu về nước sau khi đã kết thúc thời hạn hợp đồng.

3, Thị trường Đài Loan :

Đài Loan nằm cách bờ biển Đông Nam lục địa Trung Hoa khoảng 150
km, ngăn cách với lục địa Trung Hoa bởi eo biển Đài Loan. Đài Loan bao
gồm 64 đảo lớn nhỏ thuộc quần đảo Bành Hồ và trên 20 đảo khác với tổng
diện tích trên 53.960 km2. Đài Loan cách Philippnes 350 km và Nhật Bản
1090 km, dân số có trên 22 triệu người. Thủ phủ Đài Bắc là nơi có mật độ
dân số cao nhất, tiếp sau đó là thành phố Cao Hùng ở phía Nam. Gần 60%
dân số Đài Loan tập trung ở 4 thành phố lớn : Đài Bắc, Cao Hùng, Đài
Trung và Đài Nam. Đó cũng là những địa phương tiếp nhận lao động nước
ngoài chủ yếu, đa phần lao động nước ngoài tập trung tại 4 thành phố này và
các khu vực phụ cận.
Từ năm 1989, do sức ép của vệc nâng lương trong nước cũng như cần
tiến hành nhiều dự án xây dựng cơ sở hạ tầng, để giải quyết tình trạng thiếu

24
nhân lực, chính quyền Đài Loan đã mở cửa cho phép nhận lao động nước
ngoài vào làm việc.
Không giống như Nhật Bản, Hàn Quốc tuyển dụng lao động nước
ngoài theo quy chế tu nghiệp sinh, Đài Loan có chính sách nhận lao động
nước ngoài chính thức (ký hợp đồng lao động chính thức), có hệ thống luật
lệ và quy chế tương đối rõ ràng và chặt chẽ với lao động nước ngoài. Từ đầu
những năm 90, Đài Loan đã nhận lao động từ 4 nước Thái Lan, Philippines,
Malaysia và Indonesia, đến cuối năm 1999 tiếp nhận thêm lao động Việt
Nam. Khởi đầu quy mô lao động nước ngoài bị chính quyền giới hạn khoảng
15.000 người/năm. Những năm gần đây, con số này được nâng lên và dao
động trong khoảng 240.000 đến trên dưới 300.000 người/năm. Theo số liệu
của Uỷ ban lao động Đài Loan (CLA), tính đến cuối tháng 5/2003 số lượng
lao động nước ngoài làm việc tại Đài Loan là 301.780 người, trong đó : Thái
Lan : 110.782 người (chiếm 36.7%); Indonesia : 79.777 người (chiếm
26,44%); Philippines : 71.516 người (chiếm 23,7%); Việt Nam : 36.675
người (chiếm 13,15%), Malaysia : 30 người (chiếm xấp xỉ 1%)
Trong số lao động nước ngoài làm việc tại Đài Loan, có khoảng
140.000 lao động (chiếm 46%) làm nghề giúp việc gia đình, chủ yếu là chăm
sóc người già và trẻ em; 92.035 lao động làm việc trong các doanh nghiệp
sản xuất chế tạo (chiếm 36,8%); 47.803 người làm việc trong các dự án đầu
tư lớn của nước ngoài (chiếm 16%); 573 lao động làm việc trong các dự án
xây dựng của tư nhân (chiếm 0.2%) và 3156 lao động làm thuỷ thủ tàu cá
(chiếm 1%).

Lao động nước ngoài làm việc tại Đài Loan được điều chỉnh bởi một
hệ thống luật pháp tương đối đầy đủ và thống nhất cho mọi nước có lao
động đi làm việc tại Đài Loan. Hợp đồng lao động thường có thời hạn là 2
năm, sau khi hết hạn được gia hạn một lần và thời gian gia hạn không được
quá 1 năm. Đài Loan vẫn duy trì chế độ ngày làm việc 8h/ngày và 6
ngày/tuần, từ tháng 1/2001 là 5,5 ngày/tuần(trừ một số ngành nghề đặc thù
như giúp việc gia đình và khán hộ công). Nếu có nhu cầu làm thêm giờ thì
doanh nghiệp và người lao động phải có sự thoả thuận trên cơ sở tuân thủ
các quy định của Luật lao động tiêu chuẩn Đài Loan. Tiền lương cơ bản cho
mỗi lao động là 15840 Đài tệ/tháng (khoảng 450 USD), nếu cộng thêm tiền
làm thêm giờ mức lương bình quân là 20.000 Đài tệ/tháng. Riêng trong

25
ngành điện tử, nếu 1 ngày làm việc 12 giờ thì tiền lương đạt 30.000 Đài tệ,
nhưng cũng có trường hợp không làm thêm giờ thì tiền lương chỉ được
15.840 Đài tệ. Đương nhiên lương cơ bản của lao động nước ngoài và của
người bản xứ là không giống nhau và cũng khác nhau khi làm ở các lĩnh vưc
khác nhau. Mức lương này có thể được điều chỉnh tuỳ thuộc vào sự phát
triển của nền kinh tế. Người lao động được tham gia bảo hiểm lao động, bảo
hiểm y tế và phải nộp thuế thu nhập (6% thu nhập chịu thuế nếu số ngày làm
việc trong năm lớn hơn 183 ngày và 20% nếu số ngày làm việc trong năm
không đủ 183 ngày).
Việc cung ứng lao động nước ngoài sang Đài Loan có thể qua một
trong hai kênh sau :
Kênh thứ nhất, chủ sử dụng trực tiếp tuyển dụng người lao động nước
ngoài và trực tiếp thuê chuyên gia đến làm nhiệm vụ quản lý lao động. Đi
theo kênh này là các xí nghiệp lớn hoặc các chủ công trình bao thầu lớn và
thực tế cho thấy đi qua kênh này cũng chỉ có khoảng gần 10% số lao động
nước ngoài làm việc tai Đài Loan, với lao động Việt Nam hầu như hoàn toàn
không sử dụng kênh này.
Kênh thứ hai, các hợp đồng được ký thông qua các công ty môi giới,
các công ty có chức năng tìm kiếm các quota nhận lao động, tuyển dụng lao
động theo sự uỷ quyền của chủ sử dụng lao động và tham gia vào quá trình
quản lý lao động nước ngoài tại Đài Loan. Trên 90% số lao động nước ngoài
làm việc tại Đài Loan đã đi theo kênh này. Phí môi giới do người lao động
phải chịu, mức phí này thường khá cao. Mặc dù chính phủ Đài Loan đã quy
định rõ : " Công ty môi giới không được thu phí môi giới của người lao động
nước ngoài làm việc trong mọi lĩnh vực" nhưng trên thực tế, các công ty môi
giới Đài Loan vẫn thường thu của người lao động từ 56.000 Đài tệ (1750
USD) cho đến 90.000 Đài tệ (2810 USD) cho mỗi hợp đồng, khoản phí môi
giới này - được nguỵ trang dưới nhiều tên gọi khác nhau để "lách luật" -
thậm chí còn cao hơn thế do các công ty cung ứng lao động nước ngoài đã
không ngừng tăng cao chi phí môi giới trả cho các công ty môi giới Đài
Loan nhằm tranh giành các quota lao động. Ngoài chi phí môi giới, người
lao động còn phải chi thêm một khoản tiền phục vụ cho công tác quản lý,
mức phí này dao động trong khoảng 1500 - 1800 Đài tệ/ tháng.
Thị trường Đài Loan cũng là một thị trường tương đối khó tính, Đài
Loan chủ yếu nhận lao động có nghề, phải biết tiếng Hoa ở mức độ cơ sở và
có những quy đinh rất ngặt nghèo về sức khoẻ. Đồng thời, đây cũng là một
thị trường có tính cạnh tranh cao. Cho đến hiện nay số lượng lao động của

26
chúng ta tại thị trường này vẫn đứng sau Thái Lan, Indonesia và Philippines.
Những nước này đã có mặt tại thị trường Đài Loan từ những năm 1990
-1991, trong khi nước ta mới bắt đầu từ năm 1999. Lao động Thái Lan
chiếm số lượng đông nhất trong số lao động nước ngoài làm việc tại Đài
Loan, được đánh giá là cần cù, chịu khó, có sức khoẻ và dẻo dai. Số lao
động Indonesia đứng thứ hai, chăm chỉ, nhẫn nại, hơi yếu về tiếng Hoa
nhưng bù lại có sức khoẻ và tính kỷ luật cao. Lao động Phippines thì khá
tiếng Hoa, đặc biệt là tiếng Anh, có trình độ, chuyên môn tốt, tuy có nhược
điểm là hay cãi chủ và hay xin nghỉ. Trong khi đó, các công ty cung ứng lao
động của Thái Lan và Indonesia sẵn sàng chấp nhận mức phí môi giới cao
để kéo các đơn hàng về mình. Chi phí vé máy bay của nước ta đến Đài Loan
lại cao hơn mặt bằng chung trong khu vực rất nhiều khiến các chủ sử dụng
phải tính toán, lựa chọn giữa việc tuyển mộ lao động nước ta với lao động
các nước khác để giảm tiền vé máy bay. Nói chung, những "đối thủ" của
chúng ta rất mạnh và cạnh tranh tìm được chỗ đứng trong một thị trường
như vậy là một điều hoàn toàn không dễ dàng. Tuy Philippines và Indonesia
hiện nay đều đã bị "đông kết" không được phép đưa lao động vào thị trường
Đài Loan nữa nhưng khả năng mở cửa lại với các nước cung ứng lao động
này vẫn còn, nghĩa là nguy cơ cạnh tranh với lao động Việt Nam là rất lớn.
Vấn đề chủ yếu đặt ra với chúng ta khi đưa lao động sang làm việc tại thị
trường này là phải tổ chức đào tạo, giáo dục định hướng cho người lao động
thật tốt, đảm bảo trang bị đầy đủ cho người lao động những kiến thức về
công việc, ngoại ngữ (chủ yếu là tiếng Hoa) và pháp luật, phong tục, tập
quán Đài Loan nhằm nâng cao chất lượng lao động. Ngoài ra, chúng ta cần
chú ý khắc phục và ngăn chặn tình trạng lao động tự ý phá bỏ hợp đồng, trốn
ra ngoài làm việc bất hợp pháp, tránh dẫm lại "vết xe đổ" của Indonesia (đã
bị "đông kết" ngừng tiếp nhận lao động từ tháng 8/2002 do có tỷ lệ lao động
bỏ trốn quá cao). Điều này chỉ có thể làm được khi các công ty cung ứng
làm tốt công tác tuyển chọn, thực hiện chế độ tài chính rõ ràng với người lao
động, tiến hành công tác giáo dục đào tạo tốt đồng thời quản lý theo dõi sát
xao tình hình sinh hoạt và làm việc của người lao động. Người lao động
cũng phải tự nhận thức được quyền lợi và trách nhiệm của mình khi làm việc
tại thị trường này, quyền lợi của bản thân phải gắn liền với quyền lợi của
cộng đồng và của xã hội.

4, Thị trường Malaysia :

Malaysia nằm ở khu vực Đông Nam Á, diện tích khoảng 330.417
km2. Nước này có 13 bang, mỗi bang có đặc điểm và tính chất khác nhau.
Dân số malaysia là 23,7 triệu người, trong đó người Mã Lai chiếm hơn 50%,

27
30% là người Hoa, 10% là người Ấn, còn lại là các dân tộc khác. Tôn giáo
chính thống ở đây là đạo Hồi, ngoài ra còn có đạo Thiên Chúa Giáo. Về kinh
tế, Malysia hiện có GDP bình quân đầu người khoảng gần 4000 USD. Như
vậy, so với Việt Nam thì diện tích Malaysia tương đương nhưng dân số chưa
bằng 1/3 và GDP bình quân đầu người cao gấp nhiều lần.
Kinh tế Malaysia phát triển mạnh dựa vào các lĩnh vực chủ yếu sau :
Cao su, dầu cọ, điện tử, công nghiệp chế tạo và dầu mỏ. Nước này là một
quốc gia vừa nhập, vừa xuất khẩu lao động. Lao động có trình độ cao của
Malaysia phần lớn sang làm việc ở Singapore, đồng thời Malaysia cũng tiếp
nhận lao động của nhiều nước, trong đó người Indonesia chiếm ưu thế.
Từ những năm 70, Malaysia tiến hành chuyển đổi cơ cấu kinh tế, đẩy
mạnh phát triển công nghiệp và dịch vụ với mức tăng trưởng bình quân 11%
thời kỳ 1970 – 1980. Công nghiệp và dịch vụ thu hút rất nhiều lao động từ
khu vực nông nghiệp và đồn điền, gây nên làn sóng lao động nước ngoài lần
thứ nhất (chủ yếu là người Indonesia và Philippines) vào làm việc trong khu
vực nông nghiệp và xây dựng đang bị thiếu hụt lao động. Và từ nửa cuối
những năm 80 đến nay, Malaysia thực hiện chính sách tự do hoá kinh tế, với
mức tăng trưởng cao trên 8% năm, dân số ít, quốc gia này ở vào tình trạng
thiếu lao động trầm trọng. Điều đó đã tạo nên làn sóng lao động người nước
ngoài vào làm việc ở Malaysia lần thứ hai.
Hiện nay, có khoảng hơn 1 triệu lao động từ 12 nước, bao gồm
Indonesia, Bangladesh, Ấn Độ, Campuchia, Pakistan, Myanma, Nepal,
Philippines, Thái Lan, Sri Lanca và Việt Nam đang làm việc hợp pháp tại
Malaysia, trong đó lao động Indonesia chiếm 70% với 5 lĩnh vực được phép
thuê lao động nước ngoài : Công nghiệp : sử dụng khoảng 33,19% tổng số
lao động nước ngoài; Nông nghiệp : 21,2%; Dịch vụ gia đình : 19,55%; Xây
dựng : khoảng 16,72%; Dịch vụ (khách sạn, nhà hàng, bán hàng, vệ sinh
công cộng...) : 9%.
Ngoài ra, vào cuối những năm 90, ước tính tại Malaysia còn có gần 1
triệu lao động nước ngoài bất hợp pháp. Từ đầu tháng 8/2002, Malaysia thực
hiện chính sách nhập cư mới, đưa lao động bất hợp pháp về nước để thay thế
bằng lao động hợp pháp, mỗi ngày trục xuất khoảng 5000 người; vì thế hiện
nay, con số này đã giảm đáng kể.
Theo quy định của pháp luật Malaysia, lao động nước ngoài được
hưởng các quyền lợi bình đẳng như lao động trong nước. Thời hạn hợp đồng
được quy định là 3 năm, có thể gia hạn đến 5 năm với lao động có tay nghề
thấp và đến 6 năm với lao động có tay nghề cao. Malaysia không quy định

28
mức lương tối thiểu mà để chủ sử dụng lao động và người lao động tự thoả
thuận theo sự điều tiết của thị trường. Vì vậy, mức lương của lao động phụ
thuộc vào từng ngành nghề và từng chủ sử dụng lao động. Tổng thu nhập
của lao động nước ngoài bình quân khoảng 200 USD/tháng.
Những năm trước đây, Chính phủ Malaysia cấp phép tuyển nhân công
nước ngoài cho các đại lý lao động. Điều này dẫn đên tình trạng số lao động
nước ngoài do các đại lý đưa vào Malaysia vượt quá nhu cầu sử dụng thực
tế. Từ sau năm 1998, chính phủ Malaysia chủ trương cấp giấy phép trực tiếp
cho chủ sử dụng lao động (công ty, xí nghiệp, chủ sử dụng tư nhân) căn cứ
vào nhu cầu thực tế của họ và chủ sử dụng được phép trực tiếp tuyển chọn
nhân công từ các nguồn do chính phủ quy định. Tuy nhiên nhiều chủ sử
dụng không đủ kinh nghiệm và điều kiện tiếp xúc với các nguồn lao động
nước ngoài để tuyển chọn trực tiếp nên đã uỷ thác cho các đại lý Malaysia
tuyển chọn theo giấy phép được cấp và yêu cầu chất lượng do chủ sử dụng
đặt ra, phí môi giới hoàn toàn do chủ sử dụng chịu. Từ 6/2/2002, chính phủ
Malaysia quy định việc tuyển dụng nhân công nước ngoài phải dựa trên cơ
sở Hiệp định cấp chính phủ giữa nước tiếp nhận và cung ứng lao động.
Theo nhận định của các chuyên gia, hiện tại cũng như nhiều năm tới,
Malaysia là thị trường có nhu cầu lớn về lao động nước ngoài, đặc biệt trong
một số lĩnh vực như công nghiệp, xây dựng, nông nghiệp, dịch vụ và một số
ngành nghề khác đòi hỏi có tay nghề chuyên môn cao. Ngày 6/2/2002, sau
rất nhiều nỗ lực xúc tiến tích cực từ cả hai phía, Chính phủ Malaysia đã công
bố chủ trương mở cửa thị trường cho lao động Việt Nam và không ấn định
về số lượng lao động Việt Nam sang làm việc tại Malaysia. Chủ trương của
Malaysia là nhận lao động Việt Nam thông qua một văn bản thoả thuận giữa
hai chính phủ. Hiện nay, về cơ bản, văn bản thoả thuận đã được hai bên xem
xét đi đến thống nhất ký kết. Tuy nhiên trong thời gian chờ ký kết, Malaysia
đã cho phép lao động Việt Nam sang Malaysia làm việc từ tháng 5/2002.
Với khoảng cách gần Việt Nam, khí hậu và điều kiện sinh hoạt không
có gì khác biệt nhiều, Malaysia là một thị trường mới đầy tiềm năng của lao
động Việt Nam. Mặc dù mức thu nhập không cao như các nước Đông Á
Nhật Bản, Hàn Quốc hay Đài Loan song với mức chi phí trước khi đi thấp
(từ 800 – 1200 USD, trong đó đã có một nửa được cho vay), yêu cầu về tay
nghề và chuyên môn ở mức vừa phải, thị trường này khá phù hợp cho đại bộ
phận lao động khu vực nông thôn Việt Nam.
Malaysia là một thị trường tương đối dễ tính, tuy nhiên khi đưa lao
động sang thị trường Malaysia, các doanh nghiệp xuất khẩu lao động của ta

29
vẫn cần chuẩn bị tốt cho lao động về tay nghề cần thiết, trình độ ngoại ngữ
tiếng Anh hoặc tiếng Trung cơ bản để có thể nghe hiểu những yêu cầu của
chủ sử dụng và giao tiếp đơn giản. Ngoài ra, Malaysia là một nước Hồi giáo,
thành phần dân cư phức tạp, pháp luật rất nghiêm khắc và có nhiều điểm
khác biệt đặc thù, do vậy cần căn cứ vào đặc điểm của từng địa bàn tiếp
nhận để trang bị cho người lao động những hiểu biết tối thiểu về xã hội, luật
pháp, văn hoá, tôn giáo, phong tục tập quán, những điều kiêng kỵ ... để
người lao động tránh được những vi phạm đáng tiếc. Đặc biệt, theo dư luận
giới chủ ở Malaysia, điều quan trọng nhất khi tiếp nhận lao động không phải
là tay nghề hay trình độ văn hoá mà là tính kỷ luật của người lao động.
Chính sự thiếu kỷ luật, kỷ cương, vi phạm pháp luật của người lao động đã
dẫn đến những phức tạp về mặt xã hội trong thời gian qua và chính phủ
Malaysia đã phải quyết định cắt giảm số lượng, tạm ngừng hoặc đình chỉ
tiếp nhận lao động từ một số nước đã từng là nguồn cung cấp lao động rất
lớn cho Malaysia như Bangladesh, Indonesia. Bởi thế, giáo dục lao động có
tính kỷ luật cao chính là biện pháp rất hiệu quả hiện nay để nâng cao vị thế
cạnh tranh của lao động Việt Nam tại thị trường này.

5, Thị trường Lào :

Đất nước Lào rộng 236.800km2, dân số 5.400.000 người, hoàn toàn
nằm lọt trong lòng bán đảo Đông Dương. Là một nước có diện tích lãnh thổ
lớn, dân số ít, tài nguyên dồi dào, lại đang trong qua trình đổi mới cơ chế
cho nên hiện nay Lào đang rất thiếu nguồn lao động có trình độ tay nghề.
Việt Nam và Lào là 2 nước có quan hệ gần gũi truyền thống do yếu tố
địa lý và do cả các điều kiện lịch sử. Trong lịch sử hiện đại mối quan hệ
truyền thống đó được nâng lên thành quan hệ anh em ở cấp quốc gia, trở
thành tình hữu nghị đặc biệt. Trong các cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc
chống lại đế quốc Pháp và Mỹ, dưới sự lãnh đạo của hai Đảng, nhân dân hai
nước đã kề vai sát cánh , giúp đỡ lẫn nhau cả về sức người, sức của; hiện
nay lại đang phối hợp chặt chẽ, giúp đỡ lẫn nhau trong công cuộc xây dựng
đất nước. Phù hợp với chủ trương của hai Đảng, hai Nhà nước, lao động và
chuyên gia Việt Nam đã và đang được đưa sang làm việc tại Lào với số
lượng lớn, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế - xã hội của nước
bạn. Ngoài ra, do chi phí đi lại làm việc tại Lào thấp hơn nhiều so với chi phí
đi làm việc tại các nước khác, mức tiền lương cũng phù hợp với số đông lao
động ở các vùng nông thôn miền Trung, vị trí địa lý lại gần và thuận tiện, thị
trường Lào tỏ ra rất thích hợp với lao động Việt Nam.

30
Hiện đang có khoảng 40 quốc gia có lao động ở Lào, trong đó nhiều
nhất vẫn là Việt Nam, sau đó đến Trung Quốc và Thái Lan. Lao động Việt
Nam và Trung Quốc sang Lào là các chuyên gia và công nhân làm việc theo
các hợp đồng nhận thầu công trình, liên doanh liên kết, nhận khoán công
việc... cùng một bộ phận không nhỏ là lao động tự do trốn qua biên giới sang
đây làm việc còn lao động Thái Lan chủ yếu là lao động tự do. Theo ước
tính, hiện nay tại Lào có khoảng gần 100.000 lao động nước ngoài đang
sống và làm việc.
Ngày 29/06/1995, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã theo uỷ
quyền của Chính phủ ký với Lào Hiệp định về hợp tác lao động, trong đó hai
bên đã thoả thuận về việc tạo điều kiện pháp lý cho việc đẩy mạnh hợp tác
lao động giữa hai nước và tăng cường các biện pháp quản lý công tác này,
đặc biệt phải giải quyết vấn đề số lao động tự do nhập cảnh và làm việc bất
hợp pháp ở Lào theo thời vụ hàng năm.

II - Thực trạng xuất khẩu lao động của Việt Nam sang thị trường các nước
Đông và Đông Nam Á

1, Tình hình chung :

Theo em được biết, hiện nay chưa có một báo cáo hay số liệu thống kê
cụ thể mang tính chính thức nào từ phía các cơ quan chức năng về tình hình
hoạt dộng xuất khẩu lao động sang khu vực thị trường Đông và Đông Nam
Á, mà chỉ có các báo cáo riêng rẽ về từng thị trường trong khu vực. Toàn bộ
nhận định đánh giá và số liệu trong phần này do em tổng kết từ các báo cáo
và số liệu riêng rẽ nói trên.

Thứ nhất, về số lượng lao động xuất khẩu :

Khu vực thị trường các nước Đông và Đông Nam Á (trừ Lào đã có
quá trình hợp tác lao động lâu dài trước đây) đều là những thị trường mới
của ngành xuất khẩu lao động Việt Nam với thị trường có "tuổi đời" lớn nhất
là Nhật Bản cũng mới chỉ có 11 năm và thị trường mới nhất là Malaysia mới
được hơn 1 năm. Tuy nhiên, đây lại tại khu vực thị trường có tốc độ phát
triển rất nhanh, trung bình trong vòng hơn 12 năm qua mỗi năm quy mô lao
động Việt Nam tại các thị trường này tăng 53,85%. Trong đó, nhanh nhất là
vào các năm 1993 (154,8%) và 1994 (221,6%) là những năm đánh dấu bước
ngoặt mở rộng thêm thị trường xuất khẩu lao động của nước ta. Có 4 năm

31
tốc độ phát triển âm là năm 1991, 1992, 1998 và 2001 do ảnh hưởng của các
cuộc khủng hoảng về chính trị (1991,1992) cũng như kinh tế (1998) khác
nhau trên thế giới và trong khu vực.
Tính đến nay, tổng số lao động của ta sang làm việc tại các nước
Đông và Đông Nam Á đã lên đến con số 193.540 lượt người, chiếm gần
80% lượng lao động xuất khẩu của ta. Số lượng cụ thể qua từng năm như
sau :

Bảng 4. Số lao động Việt Nam đi làm việc tại các nước Đông và Đông
Nam Á qua các năm (1991 – 6/2003).

Năm Số lượng (người) Tốc độ tăng (%)


1991 503 - 66,6
1992 482 - 4,2
1993 1.228 154,8
1994 3.949 221,6
1995 4.380 10,9
1996 7.110 62,3
1997 14.056 97,7
1998 9.094 - 35,3
1999 16.522 81,7
2000 28.203 70,7
2001 26.759 - 5,1
2002 42.189 57,7
6/2003 39.065 -
Tổng số 193.540

(Nguồn : Tổng hợp số liệu báo cáo Cục Quản lý lao động với nước ngoài)

Thứ hai, về cơ cấu lao động xuất khẩu :

Khu vực thị trường này tiếp nhận lao động của ta với cơ cấu ngành
nghề rất đa dạng : công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ, xây dựng, đánh bắt cá,
khai thác tài nguyên, chuyên gia y tế, giáo dục, tin học ... Tuy nhiên số
lượng lao động trong từng ngành nghề lại rất khác nhau. Số lao động trong
lĩnh vực công nghiệp và xây dựng chiếm tỷ trọng lớn nhất : khoảng gần 80%
, dịch vụ (chủ yếu là khán hộ công và giúp việc gia đình tại Đài Loan)
khoảng 12%, còn lại là các ngành nghề khác.

32
Lao động Việt Nam làm việc tại các thị trường này bao gồm cả lao
động phổ thông, lao động có nghề và một số ít chuyên gia. Trong đó, lao
động phổ thông chiếm tỷ trọng cao, khoảng trên dưới 70%, tập trung ở các
nước Đài Loan, Hàn Quốc và Malaysia . Lao động có nghề và chuyên gia
chủ yếu làm việc tại Nhật Bản và trong các công trình doanh nghiệp ta nhận
thầu ở Lào.

Thứ ba, về thu nhập của lao động và nguồn kiều hối thu được :

Thu nhập của lao động tại khu vực này nói chung không đồng đều. Tu
nghiệp sinh và lao động ở Nhật Bản, Hàn Quốc có mức lương cao hơn hẳn
các thị trường khác, thị trường Đài Loan ở mức trung bình còn Malaysia và
Lào thì thấp hơn. Thu nhập cụ thể ở từng thị trường sẽ được nêu cụ thể ở
phần sau đây, nhưng nhìn chung là ổn định, không có nhiều biến động. Mức
thu nhập trung bình ước tính cho cả khu vực thị trường Đông và Đông Nam
Á là khoảng 400 – 500 USD/người/tháng.
Hàng năm, lao động Việt Nam làm việc tại đây đã chuyển về nước từ
1 – 1,2 tỷ USD.

Thứ tư, về mô hình và công tác tổ chức xuất khẩu lao động :

Hiện nay ở nước ta có trên 150 doanh nghiệp được cấp giấy phép xuất
khẩu lao động, thì gần như 100% số này đều có đưa lao động đi làm việc tại
các thị trường trong khu vực Đông và Đông Nam Á. Hoạt động xuất khẩu
lao động sang các thị trường này thông qua nhiều hình thức khác nhau (dùng
hợp động cung ứng lao động hoặc hợp đồng phái cử và tiếp nhận tu nghiệp
sinh), theo nhiều kênh khác nhau (trực tiếp hay qua trung gian) v.v.. tuỳ theo
từng đối tượng thị trường nhưng đều thống nhất tiến hành dưới sự chỉ đạo,
giám sát sát sao của Nhà nước ta.
Hoạt động xuất khẩu lao động của ta sang khu vực thị trường này chủ
yếu vẫn phải thông qua các công ty môi giới. Chính phủ ta và chính phủ
nước bạn ký kết các hiệp định, thoả thuận về việc đưa và tiếp nhận lao động
ở tầm vĩ mô, còn công việc cụ thể được giao cho doanh nghiệp xuất khẩu lao
động Việt Nam và các công ty môi giới tiến hành. Người lao động trước khi
đi đều phải trải qua khoá học về ngoại ngữ, giáo dục định hướng và nghiệp
vụ để được cấp chứng chỉ cần thiết. theo yêu cầu của phía tiếp nhận lao
động.

33
Chính phủ ta đã có những văn bản chỉ đạo cụ thể với hoạt động xuất
khẩu lao động trên từng thị trường thuộc khu vực Đông và Đông Nam Á.
Bám sát tình hình mỗi thị trường, những văn bản đó đã định hướng kịp thời
hoạt động xuất khẩu lao động của ta. Công tác tổ chức xuất khẩu lao động
của ta tại khu vực thị trường này sau một thời gian tự điều chỉnh để thích
nghi với tình hình mới, đối tượng mới đã dần đi vào ổn định. Song các cấp
ngành hữu quan vẫn cần phải không ngừng quan tâm xem xét những động
thái mới của thị trường để có sự thay đổi chính sách phù hợp hơn.

Thứ năm, về chất lượng lao động xuất khẩu :

Nhìn chung chất lượng lao động xuất khẩu của Việt Nam nói chung
và tại khu vực thị trường Đông và Đông Nam Á nói riêng còn chưa đáp ứng
được yêu cầu cần thiết. Lao động Việt Nam vốn nổi tiếng về sự thông minh,
tính cần cù, chịu khó; những ưu điểm này rất được các nước tiếp nhận lao
động của ta đánh giá cao. Song lao động Việt Nam lại hay mắc những nhược
điểm không đáng có như trình độ ngoại ngữ không tốt, ý thức kỷ luật kém,
tỷ lệ bỏ hợp đồng trốn ra ngoài làm việc bất hợp pháp còn rất cao. Trình độ
nghiệp vụ của lao động chúng ta, đặc biệt là những khâu đòi hỏi hiểu biết về
khoa học kỹ thuật còn thấp do điều kiện trong nước và khâu đào tạo tiến
hành chưa tốt. Tác phong làm việc còn chậm chạp, giải quyết quan hệ chủ
thợ còn nhiều lúng túng.

2, Thực trạng xuất khẩu lao động nước ta với từng thị trường trong khu vực
các nước Đông và Đông Nam Á.

a, Thị trường Nhật Bản

Thứ nhất, về số lượng lao động xuất khẩu :

Việt Nam bắt đầu đưa lao động đi tu nghiệp ở Nhật Bản từ năm 1992.
Từ đó đến nay, số lao động Việt Nam tại Nhật Bản đều đặn tăng qua các
năm, trừ thời điểm năm 1998 - 2000 do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài
chính tiền tệ lịch sử con số này có suy giảm đôi chút, tuy nhiên lại nhanh
hóng phục hồi và tăng mạnh từ năm 2001 trở lại đây. Tính đến tháng 6/2003,
trải qua hơn 10 năm thực hiện Chương trình tu nghiệp và thực tập kỹ thuật
tại Nhật Bản, ta đã đưa được tổng cộng 16.049 tu nghiệp sinh sang Nhật Bản
làm việc, những năm gần đây trung bình mỗi năm ta đưa đi khoảng 2.000
người. Thực ra, đây là con số khá khiêm tốn nếu so với số lao động của ta tại

34
thị trường các nước Đông và Đông Nam Á khác cũng như nếu so với con số
tu nghiệp sinh của các nước Châu Á khác đang làm việc tại Nhật Bản. Tuy
nhiên, nó đã phản ánh sự cố gắng vượt bậc của các doanh nghiệp cũng như
bản thân người lao động Việt Nam, bởi thị trường Nhật Bản là một trong
những thị trường "khó tính", có yêu cầu vào loại cao nhất thế giới.

Thứ hai, về cơ cấu lao động xuất khẩu :

Tu nghiệp sinh Việt Nam làm việc tại Nhật Bản có mặt trong nhiều
ngành nghề, đặc biệt chiếm tỷ lệ lớn trong lĩnh vực dệt, may, cơ khí và xây
dựng (80%). Trong đó, dệt : 14%, may : 35%, cơ khí : 13% và xây dựng trên
18%. Bên cạnh đó, còn một bộ phận nhỏ lao động của ta làm việc trên các
tàu cá, tàu vận tải (khoảng 10%). Ngoài ra, từ năm 1994, thực hiện thoả
thuận về chương trình tiếp nhận tu nghiệp sinh y tá, hàng năm Việt Nam đã
đưa từ 15 – 20 người sang học tại một số trường y tá Nhật Bản, sau khi tốt
nghiệp ra trường, các y tá này được làm việc 4 năm tại các bệnh viện Nhật
Bản, được hưởng lương và các chế độ khác như lao động người Nhật.
Do chính sách của thị trường Nhật Bản, 100% lao động Việt Nam
sang đây đều là lao động có nghề, phần lớn trong số này là đối tượng đang
trực tiếp làm công việc tương đương tại các doanh nghiệp trong nước. Tu
nghiệp sinh Việt Nam phân bổ trên hầu khắp nước Nhật Bản, nhưng tập
trung chủ yếu ở Tokyo và các thành phố lân cận khu vực Gifu, Fukui, Osaka
và Nagoya. Tỷ lệ nữ tu nghiệp sinh của ta tại Nhật Bản cũng tương đối cao,
chiếm xấp xỉ 33,1% tổng số tu nghiệp sinh của ta tại thị trường này.

Thứ ba, về thu nhập của lao động và nguồn kiều hối thu được :

Tu nghiệp sinh ở Nhật Bản chỉ được hưởng trợ cấp tu nghiệp, nhưng
mức trợ cấp này vẫn cao hơn nhiều tiền lương lao động tại các thị trường
khác, do đó thu nhập của tu nghiệp sinh Việt Nam tại Nhật Bản thuộc loại
cao nhất trong số lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài. Trợ cấp tu
nghiệp của tu nghiệp sinh ta trong giai đoạn 1 (năm đầu tiên) là từ 670 – 780
USD/tháng. Trong giai đoạn 2 (từ năm thứ 2 -3), thu nhập chính thức của tu
nghiệp sinh lên đến trên 1000 USD/tháng, nhiều người còn có thu nhập cao
hơn do làm thêm giờ, cá biệt ở một vài nghề thậm chí có thu nhập từ 1500
-1900 USD/tháng.
Với mức thu nhập cao như vậy, hàng năm tu nghiệp sinh Việt Nam tại
Nhật Bản đã chuyển về nước khoảng 460 triệu USD, góp phần đáng kể vào
công cuộc xây dựng đất nước.

35
Thứ tư, về mô hình và công tác tổ chức xuất khẩu lao động :

Như trên đã nói, người lao động Việt Nam đến Nhật Bản làm việc với
danh nghĩa tu nghiệp sinh theo Chương trình tu nghiệp và thực tập kỹ thuật
của Nhật Bản. Đa phần trong số họ là đối tượng đang trực tiếp làm việc tại
các doanh nghiệp phái cử trong nước. Hiện Việt Nam có khoảng 40 doanh
nghiệp được cấp phép đưa tu nghiệp sinh đi tu nghiệp tại Nhật Bản. Hoạt
động của các doanh nghiệp này đều nằm trong khuôn khổ quy định của các
văn bản ký kết giữa Chính phủ ta và Tổ chức hợp tác đào tạo quốc tế Nhật
Bản (JITCO). Doanh nghiệp phái cử sau khi ký kết Hợp đồng phái cử và tiếp
nhận tu nghiệp sinh với các đối tác Nhật Bản, tiến hành tuyển chọn và đào
tạo lao động (phải là công nhân đang làm việc trực tiếp tại các xí nghiệp, nhà
máy, công trường... trong nước) rồi giao cho phía đối tác tuyển chọn chính
thức. Các chủ sử dụng Nhật Bản yêu cầu rất cao về chất lượng tu nghiệp
sinh, rất nhiều chủ sử dụng ngay cả khi chỉ nhận số lượng rất ít tu nghiệp
sinh cũng bay đến Việt Nam, đích thân phỏng vấn lao động.
Toàn bộ các chi phí cho lao động trước khi đi như chi phí tuyển chọn,
học tiếng Nhật, tư vấn, các thủ tục xuất nhập cảnh, vé máy bay đi và về
nước.... đều do tổ chức tiếp nhận phía Nhật Bản cung cấp. Theo quy định,
doanh nghiệp phái cử chỉ được thu của tu nghiệp sinh một khoản tiền đặt cọc
bằng một lượt vé máy bay từ Việt Nam tới Nhật Bản và 01 tháng trợ cấp tu
nghiệp (khoảng 1.200 – 1.500 USD), song trên thực tế hiện nay khoản đặt
cọc này đã lên đến 8.000 – 10.000 USD nhằm mục đích hạn chế bớt tình
trạng tu nghiệp sinh ta bỏ hợp đồng ra ngoài làm việc sau khi đến Nhật Bản.
Việc quản lý tu nghiệp sinh của ta tại Nhật Bản hầu như giao phó cho
danh nghiệp tiếp nhận, chính phủ ta chưa thành lập Bộ phận quản lý tu
nghiệp sinh Việt Nam tại Nhật Bản, các doanh nghiệp phái cử cũng chưa có
cán bộ tại chỗ để quản lý tu nghiệp sinh . Điều này cũng có ảnh hưởng
không nhỏ đến hiệu quả quản lý tu nghiệp sinh tại Nhật Bản.

Thứ năm, về chất lượng lao động xuất khẩu :

Phần lớn lao động Việt Nam đi tu nghiệp tại Nhật Bản là đối tượng
trực tiếp làm việc ở các doanh nghiệp, đã có kinh nghiệm và trình độ tay
nghề nhất định nên tiếp thu nhanh kỹ thuật công nghệ tiên tiến và tác phong
làm việc công nghiệp từ các đồng nghiệp Nhật Bản. Lao động Việt Nam
nhìn chung được phía Nhật Bản đánh giá cao về khả năng tiếp thu nhanh,
tính cần cù, chịu khó. Do vậy, lao động của ta thường được chủ sử dụng đối

36
xử rất tốt và có thu nhập cao. Các tu nghiệp sinh sau khi về nước đã phát
huy tốt các kinh nghiệm, kiến thức và cả thu nhập có được từ quá trình tu
nghiệp, góp phần không nhỏ vào việc cải tiến hiện đại hoá hoạt động sản
xuất của các doanh nghiệp nước ta.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực rõ ràng ấy thì vấn đề chất
lượng lao động của ta ở Nhật Bản cũng không phải là không có tồn tại phải
lưu ý. Trước hết, tồn tại lớn nhất và bức xúc nhất là tình trạng tu nghiệp sinh
ta tự ý phá bỏ hợp đồng, ra ngoài sống tự do, làm việc bất hợp pháp ở các
doanh nghiệp khác để có mức lương cao hơn. Tỷ lệ tu nghiệp sinh bỏ hợp
đồng rất cao đang là vấn đề đau đầu với các doanh nghiệp Việt Nam. Theo
thông báo của Tổ chức hợp tác đào tạo quốc tế Nhật Bản (JITCO), tỷ lệ tự ý
bỏ hợp đồng của tu nghiệp sinh Việt Nam những năm gần đây trung bình là
trên dưới 20%, gấp hơn nhiều lần tỷ lệ bỏ hợp đồng trung bình của tu nghiệp
sinh các nước khác tại Nhật Bản; thời kỳ cao điểm (năm 2001) tỷ lệ này đã
lên đến 28,53%. Trong khi đó, theo quy định của Chính phủ Nhật, nếu tỷ lệ
tu nghiệp sinh bỏ hợp đồng lên đến trên 10% thì Nhật Bản sẽ ngừng tiếp
nhận tu nghiệp sinh. Chính phủ ta và Tổ chức hợp tác đào tạo quốc tế Nhật
Bản đã tổ chức nhiều cuộc họp bàn và thảo luận để tìm ra biện pháp ngăn
chặn tình trạng này, song cho đến nay vẫn chưa có biện pháp nào tỏ ra thực
sự có hiệu quả. Chính vì điều đó mà các chủ sử dụng Nhật Bản không thể
nhận nhiều lao động Việt Nam mặc dù rấ hài lòng về kết quả làm việc của
lao động ta. Và hơn thế nữa, nếu các doanh nghiệp của ta không tìm ra giải
pháp làm giảm bớt tỷ lệ tu nghiệp sinh bỏ hợp đồng thì nguy cơ đánh mất thị
trường Nhật Bản là diều hoàn toàn có thể xảy ra.
Ngoài ra, Chính phủ đã có văn bản quy định tu nghiệp sinh phải là
công nhân đang làm việc trong doanh nghiệp có thâm niên công tác từ 2 năm
trở lên. Tuy nhiên thực tế có một số doanh nghiệp chưa thực hiện đúng quy
định này mà tiến hành tuyển lao động xã hội đưa vào xí nghiệp huấn luyện
gấp rồi giao cho phía Nhật tuyển chọn. Số lao động này không đảm bảo chất
lượng, không bắt kịp với tác phong làm việc công nghiệp ở Nhật Bản, cá
biệt có hiện tượng cờ bạc, đánh lộn, ăn cắp đồ trong siêu thị... đã gây ấn
tượng xấu về người lao động Việt Nam trong mắt chủ sử dụng và giới chức
cũng như người dân Nhật Bản. Những vấn đề đó cần phải được chấn chỉnh,
khắc phục ngay để góp phần củng cố, nâng cao vị trí của tu nghiệp sinh Việt
Nam tại thị trường này.

b, Thị trường Hàn Quốc

Thứ nhất, về số lượng lao động xuất khẩu :

37
Tu nghiệp sinh Việt Nam có mặt tại thị trường Hàn Quốc ngay từ giai
đoạn đầu của Chương trình thực tập sinh công nghiệp (năm 1993). Trải qua
10 năm thực hiện chương trình này, tính đến tháng 12/2002, số lượng tu
nghiệp sinh và lao động của ta đã và đang làm việc tại Hàn Quốc tổng cộng
lên đến 30.090 lượt người, đứng thứ ba trong 15 quốc gia có tu nghiệp sinh
ở Hàn Quốc. Ngoài ra, trong 6 tháng đầu năm nay, ta còn đưa thêm được
2.853 tu nghiệp sinh mới sang thị trường này.

Con số tu nghiệp sinh Việt Nam đưa sang Hàn Quốc có biến động
nhiều qua các năm, trung bình ở mức xấp xỉ 2.800 người/năm. Những năm
từ 1994 – 1997, số lượng tu nghiệp sinh của ta sang Hàn Quốc tương đối ổn
định trong khoảng trên 3000 người/năm. Năm 1998, do ảnh hưởng của cuộc
khủng hoảng tài chính - tiền tệ Châu Á, nền kinh tế Hàn Quốc gặp nhiều khó
khăn nên trong năm này ta chỉ đưa được 735 tu nghiệp sinh sang tu nghiệp
tại đây. Song ngay khi nền kinh tế Hàn Quốc có dấu hiệu phục hồi, số lượng
tu nghiệp sinh của ta lập tức lại tăng lên nhanh chóng. Năm 2000 là năm ta
đưa được nhiều tu nghiệp sinh đi làm việc tại đây nhất với 6.997 người. Đến
năm 2002 vừa qua, con số này giảm giảm xuống mức thấp chưa từng có :
306 người. Hiện tượng này có nguyên nhân từ việc rất nhiều tu nghiệp sinh
Việt Nam bỏ hợp đồng ra ngoài làm việc bất hợp pháp hoặc trốn ở lại Hàn
Quốc, không chịu về nước sau khi đã kết thúc hợp đồng. Chỉ tiêu tu nghiệp
sinh của Việt Nam được KFSB phân bổ trọn gói là 18.770 người (ngoại trừ
500 tu nghiệp sinh xây dựng phân bổ qua Hiệp hội xây dựng Hàn Quốc) , ta
đã sử dụng hết trên 17.000 chỉ tiêu, đến thời điểm ngày 31/12/2002 có tổng
cộng 17.457 tu nghiệp sinh ta đang ở Hàn Quốc. Trong khi dó, chính phủ
Hàn Quốc quy định, khi tu nghiệp sinh hoàn thành hợp đồng về nước thì các
nước mới được đưa tu nghiệp sinh mới nhập cảnh. Với tỷ lệ "thất thoát chỉ
tiêu" (do tu nghiệp sinh bỏ hợp đồng và trốn ở lại Hàn Quốc) lên đến gần
60% như hiện nay thì việc đưa tu nghiệp sinh mới sang Hàn Quốc đối với ta
là vô cùng khó khăn.

Thứ hai, về cơ cấu lao động xuất khẩu :

Thị trường Hàn Quốc không yêu cầu tu nghiệp sinh phải là lao động
có nghề, do vậy gần như toàn bộ tu nghiệp sinh Việt Nam tại Hàn Quốc là
lao động phổ thông, chưa qua đào tạo nghề. Hầu hết số tu nghiệp sinh và lao
động của ta ở đây làm việc trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Hàn
Quốc với các công việc 3D trong những ngành nghề : dệt may, cơ khí, lắp

38
ráp điện tử, mộc... Ngoài ra, ta còn có 169 tu nghiệp sinh xây dựng mới đưa
sang Hàn Quốc thời gian vừa qua và 1.100 thuyền viên làm việc trên biển.
Tỷ lệ tu nghiệp sinh nữ tại Hàn Quốc không cao, ước tính chỉ khoảng
trên dưới 25%.

Thứ ba, về thu nhập của lao động và nguồn kiều hối thu được :

Tu nghiệp sinh Việt Nam làm việc tại Hàn Quốc có mức thu nhập khá
cao, tuy trong thời kỳ khủng hoảng tài chính (1997 -1998) có gặp một số
khó khăn do tiền lương tối thiểu bị điều chỉnh thấp đi nhiều và một loạt
doanh nghiệp không sắp xếp được giờ làm thêm song ngay sau đó đã ổn
định trở lại. Trung bình một tu nghiệp sinh hàng tháng có mức thu nhập từ
700 – 1000 USD, cá biệt một số trường hợp có mức thu nhập thấp hơn cũng
đạt đến 500 – 600 USD/ người/tháng. Khi chuyển qua chế độ lao động, thu
nhập của họ còn cao hơn thế.
Trung bình hàng năm, Việt Nam nhận được khoảng 350 triệu USD do
các tu nghiệp sinh đang làm việc tại thị trường này chuyển về.

Thứ tư, về mô hình và công tác tổ chức xuất khẩu lao động :

Theo lựa chọn của KFSB, hiện nay chỉ có 9 doanh nghiệp được phép
cung cấp tu nghiệp sinh cho Hàn Quốc bao gồm : LOD, TRACIMEXCO,
TRACODI, VINACONEX, OLECO, IMS, SULECO, SOLAVICO và gần
đây nhất là SIMCO ( thuộc Tổng Công ty xây dựng Sông Đà). Các doanh
ngiệp này tiến hành tuyển chọn tu nghiệp sinh theo chỉ tiêu cụ thể được
KSFB phân bổ, các ứng viên đăng ký phải qua vòng khám sức khoẻ rất gắt
gao và vòng thi năng lực tiếng Hàn Quốc để chọn ra 50% người có số điểm
cao nhất rồi dùng máy tính bốc thăm chọn ngẫu nhiên 1/5 số đó. Đây là hình
thức tuyển chọn mới mà Hàn Quốc thí điểm tại Việt Nam.
Việt Nam được KFSB phân bổ 18.770 chỉ tiêu tu nghiệp sinh, số tu
nghiệp sinh ta đưa sang chỉ có thể nằm trong con số này. Khi tu nghiệp sinh
cũ hoàn thành hợp đồng, trở về nước thì ta mới được đưa tu nghiệp sinh mới
sang thay vào vị trí đó. Thời gian qua, tình trạng tu nghiệp sinh Việt Nam bỏ
hợp đồng ra ngoài làm việc bất hợp pháp hoặc trốn ở lại Hàn Quốc không
chịu về nước sau khi đã hết thời hạn hợp đồng đã khiến các doanh nghiệp
phái cử gặp rất nhiều khó khăn trong việc đưa tu nghiệp sinh mới sang thị
trường này làm việc. Hàng năm, cứ sáu tháng một lần, KFSB lại tổ chức
phân loại, đánh giá xếp hạng hoạt động quản lý tu nghiệp sinh của các doanh
nghiệp phái cử một lần với tiêu chí đánh giá chủ yếu là tỷ lệ hoàn thành hợp

39
đồng đúng luật (không bỏ ra ngoài làm việc, không trốn ở lại sau khi hết hạn
hợp đồng) để trên cơ sở đó phân bổ lại chỉ tiêu cung cấp tu nghiệp sinh cho
các doanh nghiệp này.

Việc đưa tu nghiệp sinh sang Hàn Quốc làm việc chịu sự chỉ đạo trực
tiếp của KFSB, nhưng đồng thời phải thông qua các công ty Hàn Quốc được
KFSB uỷ quyền quản lý lao động nước ngoài. Các công ty này đã yêu cầu
một khoản phí môi giới lớn từ các doanh nghiệp xuất khẩu lao động của ta
để họ đi tìm chủ sử dụng cho lao động. Chính khoản phí môi giới này (trung
bình khoảng 5.000 USD/tu nghiệp sinh) đã đẩy chi phí phải nộp trước khi đi
của tu nghiệp sinh lên rất cao, cộng với tiền đặt cọc, tổng chi phí có thể lên
tới 8.000 USD/người. Điều này gây khó khăn không nhỏ cho các tu nghiệp
sinh khi phải chuẩn bị một khoản tài chính lớn như vậy. Nhà nước ta đã có
chính sách cho vay ưu đãi với các tu nghiệp sinh đi tu nghiệp tại Hàn Quốc
song số vốn vay chỉ hỗ trợ được phần nào khoản tiền phải nộp chứ vẫn chưa
đáp ứng hết được nhu cầu xin vay của các tu nghiệp sinh.

Thứ năm, về chất lượng lao động xuất khẩu :

Thị trường Hàn Quốc không khó tính như thị trường Nhật Bản, tiêu
chuẩn đối với lao động đi làm việc tại đây là có sức khỏe tốt và chăm chỉ
làm việc. Nhìn chung, hầu hết tu nghiệp sinh Việt Nam đều đáp ứng được
yêu cầu này của phía bạn, kể cả về năng lực tiếng Hàn Quốc. Phía Hàn Quốc
cũng đánh giá rất cao tố chất và hiệu quả làm việc của các tu nghiệp sinh,
lao động Việt Nam.
Tuy nhiên, vấn đề nổi cộm nhất để giới chức và các chủ sử dụng Hàn
Quốc không hài lòng đối với tu nghiệp sinh của ta cũng như tu nghiệp sinh
của hầu hết nước khác tại thị trường này là việc tu nghiệp sinh bỏ hợp đồng
sang làm việc bất hợp pháp ở các doanh nghiệp khác có mức lương cao hơn
hoặc trốn ở lại Hàn Quốc, không chịu về nước sau khi hết hạn hợp dồng.
Tình trạng này đối với tu nghiệp sinh Việt Nam nói riêng đã lên đến mức
báo động. Tính đến tháng 12/2002, với 17.457 tu nghiệp sinh hiện có mặt tại
Hàn Quốc thì số người bỏ hợp đồng trốn ra ngoài đã là 11.282 người, chiếm
59,25% - một con số khiến người ta giật mình. Việt Nam dứng thứ 3 trên thị
trường Hàn Quốc về số lượng chỉ tiêu được phân bổ và về số lượng tu
nghiệp sinh có mặt tại đây, song cũng đứng thứ ba về tỷ lệ phá hợp đồng.
Trong khi đó, Trung Quốc và Philippines là những nước có chỉ tiêu phân bổ
lớn hơn ta lại có tỷ lệ bỏ hợp đồng thấp hơn. Vấn đề này xuất phát từ nhiều
nguyên nhân trong đó có nguyên nhân quan trọng là ý thức tôn trọng hợp

40
đồng và luật pháp nước sở tại chưa được các tu nghiệp sinh Việt Nam quán
triệt đầy đủ, lợi ích chung bị vứt bỏ vì chút lợi riêng trước mắt. Điều đó ảnh
hưởng rất lớn đến vị trí của tu nghiệp sinh Việt Nam tại thị trường Hàn
Quốc. Đặc biệt nếu xét theo góc độ dài hạn, khả năng tác động về phía bạn
để mở rộng thêm chỉ tiêu được phân bổ là vô cùng khó khăn.

c, Thị trường Đài Loan

Thứ nhất, về số lượng lao động xuất khẩu :

Việt Nam mới bắt đầu đưa lao động sang làm việc tại Đài Loan từ
cuối năm 1999. Ngay từ đầu, chính phủ ta đã coi Đài Loan là một trong
những thị trường trọng điểm về xuất khẩu lao động của đất nước. Xuyên
suốt những năm qua, chủ trương này luôn được khẳng định và nhất quán,
dồng thời nó cũng nhận được sự quan tâm rộng rãi của các ngành, các cấp,
các tổ chức kinh tế cũng như đông đảo người lao động và dư luận xã hội.
Qua gần 4 năm làm việc với thị trường Đài Loan, tính đến tháng
6/2003, chúng ta đã đưa được tổng cộng 37.607 lượt lao động sang đây làm
việc. Con số lao động đưa đi tăng đều đặn qua từng năm và đặc biệt tăng
mạnh nhất từ tháng 8/2002 trở lại đây, khi Uỷ ban lao động Đài Loan (CLA)
thực hiện lệnh tạm thời "đông kết" đối với lao động Indonesia do các rắc rối
về chính trị và có tỷ lệ bỏ trốn quá cao, các chủ sử dụng Đài Loan đã tăng
cường tuyển mộ lao động Việt Nam. Chỉ tính riêng trong 6 tháng đầu năm
2003, chúng ta đã đưa được 11.158 lao động sang Đài Loan làm việc, nhiều
hơn 442 người so với con số 10.716 lao động của cả năm 2002. Tức là từ
đầu năm đến nay, trung bình mỗi tháng chúng ta xuất được gần 2.000 lao
động sang thị trường này. Số lượng lao động Việt Nam liên tục tăng trong
bối cảnh lao động của các nước khác ở Đài Loan như Indonesia và ngay cả
Thái Lan có dấu hiệu giảm mạnh do nền kinh tế Đài Loan thời gian gần đây
gặp nhiều khó khăn đã khẳng định vị thế của lao động nước ta tại thị trường
này.

Thứ hai, về cơ cấu lao động xuất khẩu :

Lao động Việt Nam tại Đài Loan chủ yếu làm việc trong các lĩnh vực
giúp việc gia đình và khán hộ công, công nhân công xưởng (điện tử, dệt
may, cơ khí v.v..), thuyền viên và một bộ phận nhỏ làm việc trong ngành
xây dựng. Theo thống kê, tính đến hết tháng 5/2003, trong số 39.675 lao
động Việt Nam làm việc tại Đài Loan có 23.939 lao động (chiếm 60,3%) là

41
giúp việc gia đình và khán hộ công, 13.561 người (chiếm 34,2%) là công
nhân công xưởng làm việc trong các ngành sản xuất chế tạo, 1.833 thuyền
viên (chiếm 4,6%) và 342 công nhân xây dựng (chiếm 0,9%).
Nhìn vào cơ cấu lao động trên có thể thấy, bộ phận lớn lao động Việt
Nam tại Đài Loan là giúp việc gia đình và khán hộ công. Giúp việc gia đình
và khán hộ công là lĩnh vực mà thị trường Đài Loan có nhu cầu rất lớn và
nhu cầu này còn có thể mở rộng nhiều trong thời gian tới. Đây là công việc
lao động giản đơn, không yêu cầu cao về trình độ học vấn nhưng yêu cầu
cao về độ chịu khó và chăm chỉ của người lao động, rất phù hợp với lao
động nữ, đặc biệt là lao động nữ nông thôn Việt Nam. Có đến 99% khán hộ
công và giúp việc gia đình là nữ giới, công việc này đã góp phần giải quyết
công ăn việc làm cho lao động nữ ở nông thôn, đồng thời giúp chị em có
được nguồn thu nhập đáng kể về cho gia đình sau 2, 3 năm làm việc tại Đài
Loan. Không chỉ tính riêng trong lĩnh vực giúp việc gia đình và khán hộ
công mà xét chung trong tổng số lao động Việt Nam hiện đang làm việc tại
Đài Loan, lao động nữ cũng chiếm số đông và tỷ trọng này ngày càng tăng
lên. Theo báo cáo của Văn phòng Kinh tế - Văn hoá Việt Nam tại Đài Bắc,
trong tổng số 19.310 bộ hồ sơ được thẩm định trong 6 tháng đầu năm nay,
tương ứng với 25.005 lượt lao động thì đã có 20.641 lao động nữ. Ngoài
giúp việc gia đình và khán hộ công, lao động nữ còn chiếm tỷ lệ cao trong số
công nhân công xưởng thuộc các lĩnh vực điện tử, dệt may. Đây thực sự là
tín hiệu đáng mừng cho ngành xuất khẩu lao động Việt Nam.

Thứ ba, về thu nhập của lao động và nguồn kiều hối thu được :

Việc làm và thu nhập của người lao động tại Đài Loan tương đối ổn
định. Lương cơ bản của người lao động là 15.840 Đài tệ/tháng ( khoảng 450
USD), sau khi trừ đi các khoản chi phí mức lương bình quân được từ 250 –
300 USD/tháng, không ít lao động Việt Nam có mức thu nhập 400 – 600
USD/tháng, thậm chí cá biệt có lao động thu nhập gần 1000 USD/ tháng.
Hiện chưa có một con số chính thức về lượng kiều hối được chuyển về Việt
Nam từ các lao động của ta từ Đài Loan nhưng con số ước tính với bình
quân trên 37.000 lao động, hàng năm chúng ta có thể nhận được gần 200
triệu USD từ thị trường này.

Thứ tư, về mô hình và công tác tổ chức xuất khẩu lao động :

Hiện nay, nước ta có 152 doanh nghiệp được cấp phép đưa lao động
sang Đài Loan làm việc và trong đó có 125 doanh nghiệp đã ký được hợp
đồng cung ứng lao động với phía Đài Loan. Trong đó nổi bật là các doanh

42
nghiệp như VINACONEX, VIETRACIMEX, TRAENCO ..., mỗi doanh
nghiệp này hàng năm đưa được hàng nghìn lao động thuộc các ngành nghề
khác nhau sang Đài Loan làm việc. Các doanh nghiệp này chủ yếu hoạt động
dưới hình thức ký hợp đồng cung ứng lao động với các công ty môi giới Đài
Loan, xuất khẩu lao động qua các công ty này. Việc ký hợp đồng trực tiếp
với chủ sử dụng lao động để giảm bớt phí môi giới cho người lao động mặc
dù được cả Chính phủ hai bên khuyến khích nhưng hầu như không thể thực
hiện được vì nhiều lý do khách quan cũng như chủ quan. Về phía các doanh
nghiệp Việt Nam, chúng ta chưa đủ khả năng về nhân lực, tài lực để tiến
hành đàm phán trực tiếp toàn bộ với các chủ sử dụng cũng như tự quản lý
lao động của ta tại Đài Loan. Vả lại, trên thực tế việc này dù có thể tiến hành
cũng không đem lại hiệu quả cao do tính chất rải rác, số lượng nhỏ khi các
chủ sử dụng thuê lao động Việt Nam. Về phía chủ sử dụng Đài Loan mà chủ
yếu là cá nhân và những công ty có quy mô vừa và nhỏ thì việc họ tự đứng
ra ký hợp đồng nhận lao động với các doanh nghiệp Việt Nam và tự quản lý
lao động là điều quá tốn kém và không hiệu quả. Bởi thế, các công ty môi
giới Đài Loan vẫn giữ vai trò quan trọng trong việc đưa lao động đi và quản
lý lao động Việt Nam tại thị trường Đài Loan. Gần đây còn xuất hiện mô
hình hợp tác đào tạo lao động giữa các công ty môi giới Đài Loan và các
doanh nghiệp Việt Nam. Mô hình này tỏ ra khá hiệu quả do các công ty môi
giới Đài Loan là người thông hiểu hơn hết yêu cầu của các chủ sử dụng cũng
như điều kiện làm việc tại Đài Loan. Những hiểu biết này khi đóng góp vào
quá trình đào tạo giúp cho nội dung đào tạo sát hợp hơn với thực tế, giúp
nâng cao chất lượng lao động của ta tại thị trường Đài Loan. Tuy nhiên, nó
cũng dẫn đến một số tiêu cực như phí môi giới bị đẩy lên rất cao, thoả thuận
ngầm để ăn chia phần trăm phí môi giới và phí quản lý gây thiệt hại cho
người lao động. Một số công ty Việt Nam thậm chí còn "cho mượn" giấy
phép, chỉ treo biển công ty lên, còn toàn bộ quá trình đào tạo, làm thủ tục
đưa lao động đi, quản lý lao động hoàn toàn phó thác cho các công ty môi
giới Đài Loan. Điều này làm cho việc quản lý bị buông lỏng, quyền lợi
người lao động không được đảm bảo, và cá biệt đã có trường hợp người lao
động bị lừa đi Đài Loan bằng visa du lịch, phí dịch vụ (8,3% lương cơ bản/
tháng) của doanh nghiệp Việt Nam bị thất thoát, không thu được. Những tồn
tại đó nếu được khắc phục, tháo gỡ kịp thời sẽ giúp hoạt động xuất khẩu lao
động của các doanh nghiệp Việt Nam tại thị trường này đạt hiệu quả cao hơn
nữa trong tương lai.

Thứ năm, về chất lượng lao động xuất khẩu :

43
Trong thời gian hơn 3 năm kể từ khi những lao động Việt Nam đầu
tiên được đưa sang Đài Loan làm việc, lao động Việt Nam đã từng bước hội
nhập thị trường Đài Loan cùng với lao động Thái Lan, Philippines,
Indonesia và Malaisia. Số lượng lao động Việt Nam ngày càng tăng và thậm
chí tăng rất nhanh chứng tỏ hiệu quả lao động của người Việt Nam đã được
khẳng định rõ nét tại thị trường này. Phản ứng từ phía giới chủ cũng như dư
luận xã hội Đài Loan về lao động Việt Nam nhìn chung là rất tích cực.
Cùng nền văn hoá phương Đông và phong tục tập quán giữa Việt Nam và
Đài Loan có nhiều nét tương đồng là những yếu tố cộng hưởng khiến cho
các chủ sử dụng Đài Loan dễ có cảm tình và chấp nhận lao động Việt Nam.
Hơn nữa, lao động Việt Nam được đánh giá là có tinh thần làm việc, cần cù,
chịu khó và dễ hoà nhập vào những môi trường có nhịp sống mang tính công
nghiệp cao của Đài Loan. Đặc biệt, ở các lĩnh vực khán hộ công và giúp việc
gia đình, chế tạo, điện tử, may mặc, dệt - lao động ta (nữ chiếm tỷ lệ cao)
đang dần chiếm ưu thế, đã tiến lên gần như ngang hàng với lao động Thái
Lan va Indonesia là những nước đã vững chân tại thị trường này trong một
thời gian dài hơn chục năm. Tính đến tháng 5/2003, đã có 36.670 lao động
Việt Nam có mặt tại Đài Loan, tương đương với 13,15% số lao động nước
ngoài làm việc ở đây. Đó thực sự là một thành công đáng tự hào, là kết quả
xứng đáng từ các nỗ lực của Nhà nước, của các doanh nghiệp xuất khẩu lao
động và trước hết là của bản thân hàng vạn lao động nước ta đang làm việc
tại Đài Loan.
Tuy nhiên, cũng như lao động của các nước khác sang làm việc tại
Đài Loan, chúng ta không tránh khỏi tình trạng một số lao động phải về
nước trước thời hạn. Trong số trên 4.000 lao động bị đưa về nước trước thời
hạn (bằng 12% số lao động đã đưa sang, tỷ lệ này thấp hơn so với số lao
động các nước khác phải đưa về) thì chiếm số đông là do trình độ tiếng Hoa
kém, tay nghề yếu , không đáp ứng được yêu cầu công việc (85%), tiếp đến
là lý do sức khoẻ, một bộ phận nhỏ là vì lý do cá nhân tự nguyện xin vể.
Tình trạng trên chủ yếu có nguyên nhân từ việc lao động của ta trước
khi sang Đài Loan chỉ được tập trung đào tạo quá ngắn, nhất là lao động
khán hộ công và giúp việc gia đình. Họ chưa được trang bị đầy đủ về ngoại
ngữ, chưa được huần luyện và hướng dẫn chu đáo về phong cách giao tiếp,
ứng xử, cách sử dụng các dụng cụ gia đình ở Đài Loan. Việc kiểm tra ngoại
ngữ, tay nghề để cấp chứng chỉ cho người lao động thực hiện chưa nghiêm
túc, còn mang tính chất "mua bằng" đối phó. Vì thế, lao động khi đến Đài
Loan rất bỡ ngỡ, thiếu tự tin, không thể đáp ứng được yêu cầu giao tiếp và
không hiểu được nội dung công việc hàng ngày phảỉ làm.

44
Thêm vào đó, tình trạng lao động nước ta tự ý phá hợp đồng, trốn ra
ngoài làm việc bất hợp pháp còn khá phổ biến. Đặc biệt, số lao động sang
làm thuyền viên và số đã hoàn thành hợp đồng về nước, nay sang trở lại bỏ
trốn ra ngoài chiếm tỷ lệ lớn, thậm chí nhiều người trong số này vừa đến sân
bay Đài Loan đã bỏ trốn.Theo báo cáo của Cục Quản lý lao động với nước
ngoài, tỷ lệ bỏ trốn chung là 4,8%, trong đó lao động thuyền viên có tỷ lệ bỏ
trốn là 9%, giúp việc gia đình và khán hộ công là 7,8%. Tuy nhiên, con số
thực tế có thể lớn hơn thế nhiều, do một số doanh nghiệp có lao động bỏ trốn
không báo cáo đầy đủ lên Cục. Văn phòng Kinh tế - Văn hoá Việt Nam tại
Đài Bắc cho biết, nếu chúng ta không hạ thấp được tỷ lệ lao động bỏ trốn,
không loại trừ khả năng lao động Việt Nam sẽ bị "đông kết" ở thị trường
này.

d, Thị trường Malaysia

Thứ nhất, về số lượng lao động xuất khẩu :

Sau một thời gian dài Việt Nam thực hiện nhiều biện pháp tiếp cận thị
trường lao động Malaysia, ngày 6/2/2002 chính phủ Malaysia đã quyết định
mở cửa cho lao động nước ta vào làm việc và những lao động Việt Nam đầu
tiên đã đặt chân lên đất Malaysia từ tháng 5/2002. Chúng ta thâm nhập vào
thị trường này với những bước đi tương đối dè dặt nhưng kết quả đạt được
thì thật sự gây bất ngờ lớn. Giai đoạn đầu, tính đến cuối tháng 12/2002, sau
7 tháng triển khai thí điểm đưa lao động của ta sang Malaysia làm việc, số
lao động Việt Nam có mặt tại Malaysia đã là 23.455 lao động, vượt xa so
với dự đoán ban đầu gần 1 vạn, gấp 4 lần so với chỉ tiêu dự kiến. Con số này
đã nói lên quy mô, tốc độ xuất khẩu lao động của Việt Nam sang thị trường
Malaysia cũng như tiềm năng rộng lớn của thị trường này.
Trong 6 tháng đầu năm nay, số lượng lao động của ta được đưa sang
Malaysia tiếp tục tăng, đạt gần 26.000 người. Và hiện nay, theo thông báo
mới nhất của Cục Quản lý lao động với nước ngoài, tính đến 30/11/2003 vừa
qua, tổng cộng có khoảng 63.000 lao động Việt Nam đang làm việc tại 12
trong số 13 bang của Malaysia. Đây là thị trường "sinh sau đẻ muộn" nhất
trong số các thị trường thuộc khu vực Đông và Đông Nam Á của ta, nhưng
lại có quy mô và tốc độ phát triển lớn nhất. Bình quân mỗi tháng, chúng ta
đưa được khoảng 4.000 lao động sang thị trường này, một tốc độ kỷ lục
trong lịch sử xuất khẩu lao động của Việt Nam và chắc chắn con số này sẽ
còn tăng lên rất nhiều trong thời gian tới.

45
Thứ hai, về cơ cấu lao động xuất khẩu :

Khi mở cửa thị trường lao động với Việt Nam, Malaysia cho phép lao
động của ta làm việc trong 4 lĩnh vực : công nghiệp, xây dựng, nông nghiệp
và dịch vụ, trừ dịch vụ gia đình. Tuy nhiên, hiện nay ta mới đưa lao động đi
làm việc ở 2 lĩnh vực là công nghiệp và xây dựng. Trong đó số công nhân
xây dựng chiếm 20,89%, công nhân dệt chiếm 7,68%, công nhân may chiếm
4,91%, công nhân điện tử chiếm 9,35% và lao động trong các ngành nghề
khác chiếm 12,89%.
Về cơ cấu nam - nữ, thị trường Malaysia với đặc trưng công việc thiên
về các lĩnh vực đòi hỏi thể lực và sức chịu đựng cao tỏ ra không mấy mặn
mà với các lao động nữ Việt Nam. Đến hết tháng 12/2002, số lượng lao
động nữ mới chỉ đạt 1.645 người trong tổng số 23.455 lao động Việt Nam
đang làm việc tại Malaysia ở thời điểm đó (chiếm 7,01%). Theo tính toán,
con số này hiện nay còn thấp hơn thế, ước khoảng 6% - 6,3%.

Thứ ba, thu nhập của lao động và nguồn kiều hối thu được :

Đúng như lời cục trưởng Cục Quản lý lao động với nước ngoài - tiến
sĩ Trần Văn Hằng đã nhận xét : "Malaysia là một thị trường để xoá đói giảm
nghèo chứ không phải đi để làm giàu như một số thị trường khác...", thu
nhập của lao động nước ta tại thị trường này không cao so với các thị trường
xuất khẩu lao động khác của ta. Lương theo hợp đồng của lao động là 18
Ringit/ngày (3,8 Ringit = 1USD), tức là gần 400 Ringit/tháng (trên dưới 105
USD/tháng). Tuy nhiên qua tìm hiểu, với thời gian làm việc từ 10 – 12
giờ/ngày và chế độ thưởng hiệu suất của giới chủ Malaysia, thu nhập thực tế
của phần lớn lao động ta ở Malaysia cao hơn rất nhiều so với hợp đồng,
thông thường là gấp đôi mức lương đã ký trong hợp đồng. Trên 70% lao
động cho biết, họ có thu nhập khoảng 800 Ringit/tháng (tương đương với
210 USD); 23,6% đạt mức xấp xỉ 1000 Ringit/tháng (tương đương
263USD). Cá biệt, không ít lao động có thu nhập 300 - 350 USD/tháng, số
này chủ yếu tập trung ở anh em làm nghề xây dựng. Chỉ có rất ít lao động
phải chịu mức lương thấp như hợp đồng do một số nhà máy không có nhiều
việc làm, không bố trí được giờ làm thêm cho công nhân.

Theo báo cáo của Cục quản lý lao động với nước ngoài, từ tháng
5/2002 đến nay, lao động của ta làm việc tại Malaysia, đã chuyển về nước
tổng cộng gần 100 triệu USD.

46
Thứ tư, về mô hình và công tác tổ chức xuất khẩu lao động :

Chủ trương hiện nay của chính phủ Malaysia là tiếp nhận lao động
nước ngoài trên cơ sở hiệp định cấp nhà nước giữa nước tiếp nhận với nước
cung ứng lao động. Ngày 1/12/2003 vừa qua, Hiệp định hợp tác lao động đã
được ký kết giữa Bộ trưởng Bộ Lao động – Thương Binh và Xã hội nước ta
và Bộ trưởng Nguồn nhân lực Malaysia sau thời gian hơn 1 năm lấy ý kiến
từ các cấp ngành có liên quan cho dự thảo Hiệp định này và kiểm chứng từ
thực tế xuất khẩu lao động sang Malaysia. Hiệp định bảo đảm về mọi nghĩa
vụ và quyền lợi có liên quan của người lao động cũng như chủ sử dụng. Đây
là bước tiến lớn đánh dầu một thời kỳ mới trong quan hệ hợp tác lao động
giữa hai nước.
Malaysia là thị trường chúng ta mới khai thác từ tháng 5/2002 và cũng
chính tại đây chúng ta đã tổ chức thực hiện thí điểm mô hình "liên thông"
trong xuất khẩu lao động. Mô hình này có sự kết hợp của chính quyền địa
phương và các doanh nghiệp xuất khẩu lao động trong việc chuẩn bị tạo
nguồn và tuyển chọn lao động. Đầu tiên, mô hình này được Chính phủ ta
tiến hành chỉ đạo thí điểm tại 2 tỉnh Hải Dương và Phú Thọ. Hai tỉnh này đã
thành lập Ban chỉ đạo xuất khẩu lao động gồm thành viên thuộc đầy đủ các
cơ quan, ban ngành có liên quan như : Uỷ ban nhân dân tỉnh, Sở Lao động –
Thương binh và Xã hội, Ngân hàng, Tài chính, Công an... Ban chỉ đạo xuất
khẩu lao động có nhiệm vụ kiểm tra tư cách và giới thiệu doanh nghiệp xuất
khẩu lao động về các địa phương để tuyển nguồn, cùng kết hợp với doanh
nghiệp đào tạo ngoại ngữ, giáo dục định hướng tại ngay địa phương, tiết
kiệm được chi phí và thời gian cho người lao động, tham gia theo dõi tiến độ
làm hộ chiếu giấy tờ, khám sức khoẻ của lao động đồng thời có những chính
sách khác nhau hỗ trợ lao động về tài chính trước khi đi. Mô hình này trong
quá trình thực hiện đã khẳng định được tính ưu việt của mình và đến nay đã
được nhân rộng ra khắp các tỉnh trong cả nước và cho cả các thị trường xuất
khẩu lao động khác của ta.
Khởi đầu chúng ta chỉ có 7 doanh nghiệp được phép thí điểm đưa lao
động sang thị trường Malaysia, cho đến hiện nay đã có gần 70 doanh nghiệp
được cấp giấy phép đưa lao động đi làm việc tại thị trường này. Các doanh
nghiệp của ta hợp tác với các công ty môi giới lao động Malaysia để tuyển
chọn và xuất lao động theo yêu cầu của chủ sử dụng và trên cơ sở Hiệp định
hợp tác lao động giữa hai chính phủ. TRAENCO là doanh nghiệp đưa được
nhiều lao động sang làm việc ở Malaysia nhất với hơn 9000 lao động, tiếp
theo là các doanh nghiệp như VINACONEX, LOD, SIMCO...

47
Thứ năm, về chất lượng lao động xuất khẩu :

Sau hơn 1 năm lao động Việt Nam có mặt tại thị trường Malaysia,
nhìn chung các chủ sử dụng Malaysia đều nhận xét lao động Việt Nam là rất
thông minh, chịu khó, làm việc có hiệu quả. Tuy nhiên, bên cạnh đó lao
động của ta còn bộc lộ một số nhược điểm như ngoại ngữ kém, gây khó
khăn trong giao tiếp, một số lao động của ta do không hiểu biết về pháp luật
đạo Hồi ở Malaysia nên đã gặp rắc rối với cảnh sát và chính quyền địa
phương. Nghiêm trọng hơn nữa, lao động ta hay khiếu nại đình công, không
có thái độ hợp tác với chủ sử dụng, hay đánh nhau với lao động nước ngoài
và đánh lẫn nhau, thậm chí đã dẫn đến án mạng. Những điều này đã vô hình
chung tạo ra một ấn tượng không tốt về lao động Việt Nam trong suy nghĩ
của nhiều chủ sử dụng Malaysia. Thời gian tới, khi Malaysia tiếp nhận lao
động Trung Quốc và mở cửa trở lại cho thị trường Bangladesh, áp lực cạnh
tranh đối với lao động của tại thị trường này sẽ là rất lớn; đòi hỏi các doanh
nghiệp xuất khẩu lao động nước ta phải tập trung nâng cao chất lượng lao
động đi làm việc ở Malaysia cả về ý thức tổ chức kỷ luật, tay nghề và ngoại
ngữ để đảm bảo sức cạnh tranh của lao động Việt Nam trước những đối thủ
rất mạnh nói trên.

2.5 Thị trường Lào

Thứ nhất, về số lượng lao động xuất khẩu :

Lao động và chuyên gia Việt Nam đã có mặt tại Lào từ đầu những
năm 60 trong chương trình hợp tác hỗ trợ lao động giữa hai Đảng, hai Nhà
nước. Đặc biệt từ những năm 90 trở lại đây, số lượng lao động của ta sang
Lào tăng mạnh. Theo con số chính thức do Cục quản lý lao động với nước
ngoài đưa ra, từ năm 1991 cho dến hết tháng 6 năm nay, tổng cộng có
65.929 lao động Việt Nam đã và đang làm việc ở Lào. Trên thực tế, con số
này chắc chắn còn lớn hơn thế nhiều do còn một bộ phận rất lớn lao động tự
do sang Lào làm việc theo thời vụ mà chúng ta rất khó thống kê đầy đủ. Số
lao động Việt Nam được đưa sang Lào làm việc đặc biệt tăng mạnh vào
những năm 1999 – 2001 do nhu cầu lao động cho công cuộc xây dựng phát
triển của Lào tại thời điểm đó rất lớn, thời gian gần đây có giàm đôi chút do
thị trường Lào đã đi vào ổn định về số lượng và sức hấp dẫn của các thị
trường xuất khẩu lao động khác với lao động của ta. Tuy nhiên xét về tổng
số, Lào vẫn là thị trường có nhiều lao động Việt Nam nhất trong khu vực thị
trường các nước Đông và Đông Nam Á.

48
Thứ hai, về cơ cấu lao động xuất khẩu :

Lao động của ta sang Lào chủ yếu là các kỹ sư và công nhân xây dựng
thuộc những đơn vị kinh tế nhận thầu các công trình xây dựng, các dự án hạ
tầng và các dự án phát triển kinh tế khác của Lào. Số này chiếm đến trên
80% tổng số lao động chính thức của Việt Nam tại Lào. Khoảng 20% lao
động còn lại làm việc trong các lĩnh vực khai thác tài nguyên, liên doanh
liên kết sản xuất, nhận khoán công việc... theo các thoả thuận hợp tác song
phương giữa các tỉnh biên giới kết nghĩa của hai nước. Ngoài ra, còn số lao
động tự do phi chính thức mà chúng ta không thể thống kê chính xác, chỉ có
thể ước tính là rất lớn, làm việc trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Lao động
chính thức của ta tại Lào chủ yếu là lao động có nghề còn lao động phi chính
thức thì hầu hết là lao động phổ thông không nghề.

Thứ ba, về thu nhập của lao động và nguồn kiều hối thu được :

Mức lương trung bình của lao động Việt Nam làm việc tại Lào vào
khoảng 1.500.000 VND/tháng, một số lao động làm việc cho các công ty
quốc tế nhận thầu tại Lào có thu nhập trên 200 USD/ tháng. Mức thu nhập
trên nhìn chung là không cao, nhưng đã góp phần giải quyết đời sống cho bộ
phận không nhỏ lao động nông thôn (chủ yếu ở miền Trung) Việt Nam. Lao
động Việt Nam làm việc ở Lào hầu như không chuyển tiền về nước qua
ngân hàng nên rất khó xác định được lượng kiều hối thu được từ thị trường
này, nhưng ước tính với 65.929 lao động mà chúng ta đã đưa đi được, mỗi
lao động trung bình đi 3 năm, thu nhập hàng tháng sau khi đã trừ các chi phí
ăn ở tại chỗ còn khoảng 1.000.000 VND, thì mỗi năm nước ta sẽ nhận được
trung bình khoảng trên dưới 1 tỷ VND.

Thứ tư, về mô hình và công tác tổ chức xuất khẩu lao động :

Việc hợp tác sử dụng lao động Việt Nam tại Lào được thực hiện dưới
nhiều hình thức.
Hình thức thứ nhất, lao động Việt Nam sang Lào làm việc tại các công
trình do các tổ chức kinh tế Việt Nam nhận thầu tại Lào. Ngay từ những năm
đầu chống Mỹ cứu nước, ta đã có các đơn vị đưa lao động sang giúp bạn xây
dựng các công trình hạ tầng phục vụ chiến đấu. Ngày nay, càng có nhiều
đơn vị kinh tế sang Lào nhận thầu các công trình xây dựng phục vụ trang bị
hạ tầng và phát triển kinh tế của Lào. Rất nhiều công trình hạ tầng và dân
dụng của Lào được các tổ chức kinh tế Việt Nam thực hiện theo phương

49
thức này, từ đường giao thông, nhà máy thuỷ điện, công trình thuỷ lợi, các
dự án khai thác tài nguyên, đến trụ sở các cơ quan, trường học, bảo tàng...
Số lương lao động Việt Nam sang Lào theo hình thức này là rất lớn, chiếm
khoảng trên 80% số lao động của ta có mặt tại Lào.

Hình thức thứ hai, lao động Việt Nam làm việc theo các hợp đồng
cung ứng lao động giữa các doanh nghiệp Việt Nam có giấy phép hoạt động
đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài với các chủ sử dụng lao động tại Lào.
Số lao động này được quản lý theo Hiệp định về hợp tác lao động giữa hai
nước ký ngày 29/06/1995. Số lao động đi theo hình thức này nói chung còn
chưa lớn, tính đến nay vào khoảng 1.300 người.
Hình thức thứ ba, lao động Việt Nam sang Lào theo các thoả thuận
hợp tác giữa các tỉnh biên giới của Việt Nam với các tỉnh biên giới của Lào
hoặc giữa các tỉnh Việt Nam kết nghĩa với các tỉnh của Lào. Hiện nay, hầu
hết các tỉnh biên giới của ta và các tỉnh biên giới của Lào đều có các thoả
thuận song phương giúp đỡ lẫn nhau. Hình thức hợp tác này rất đa dạng
như : đưa phương tiện sản xuất và lao động sang Lào thực hiện các hợp đồng
sản xuất, khai thác tài nguyên, xây dựng các công trình giao thông, thuỷ lợi
nhỏ, liên doanh liên kết, nhận khoán công việc... Thực tế cho thấy số lượng
lao động Việt Nam sang Lào làm việc theo hình thức này cũng rất lớn, góp
phần quan trọng vào công cuộc phát triển kinh tế của các tỉnh bạn, đồng thời
giải quyết công ăn việc làm cho người lao động ta và việc phát triển tình hữu
nghị giữa hai nước nói chung và hai địa phương nói riêng.
Hình thức thứ tư, lao động Việt Nam sang Lào làm ăn tự do. Theo
thông tin của các cơ quan chức năg của Lào và qua báo cáo của một số tỉnh
biên giới của ta, số lượng người đi tự do tuy có giảm nhiều trong các những
năm gần đây nhưng vẫn còn lớn. Số lao động này sang Lào làm việc không
theo một hợp đồng chính thức nào, vì vậy đã gây nhiều khó khăn cho công
tác quản lý của cả phía ta và phía bạn.

Thứ năm, về chất lượng lao động xuất khẩu :

Lượng lao động Việt Nam sang Lào rất lớn, chủ yếu là lao động có
nghề thuộc các đơn vị kinh tế Việt Nam quản lý nên có chất lượng tương đối
cao, kỷ luật tốt, ít phát sinh các vấn đề phức tạp. Lao động tự do làm việc tại
đây cũng rất đông nhưng chưa được sự quản lý chính thức của bất kỳ cơ
quan nào, do vậy vấn đề chất lượng của số lao động này cũng chưa có phản
ánh hay nhận định chính thức.

50
III – Đánh giá về hoạt động xuất khẩu lao động của Việt Nam sang thị
trường các nước Đông và Đông Nam Á.

1, Thành tựu đạt được

a, Liên tục mở rộng thêm các thị trường mới trong khu vực Đông và Đông
Nam Á.

Qua thời kỳ hợp tác lao động quốc tế, bước vào thời kỳ xuất khẩu lao
động theo cơ chế thị trường, khu vực thị trường Đông và Đông Nam Á của
ta hiện nay khi đó mới chỉ có duy nhất thị trường Lào vốn có quan hệ hợp
tác truyền thống lâu đời. Đến nay, trải qua 13 năm với rất nhiều cố gắng của
Chính phủ ta cũng như của các doanh nghiệp xuất khẩu lao động, khu vực
thị trường này đã mở rộng thành 5 thị trường thành viên bao gồm : Lào,
Nhật Bản (1992), Hàn Quốc (1993), Đài Loan (1999) và gần đây nhất là
Malaysia (tháng 5/2002) như trên ta đã đề cập. Và những thị trường này hầu
hết đều là những thị trường quy mô lớn, có tiếng trong số những thị trường
có nhập khẩu lao động nước ngoài trên thế giới.
Để có được những thị trường mới đó, trước hết ta phải kể đến các nỗ
lực tưởng như không mệt mỏi của Nhà nước ta mà đại diện là Bộ Lao động
– Thương binh và Xã hội trong việc đàm phán, khơi thông quan hệ, tiếp cận
thị trường xuất khẩu lao động với chính phủ các quốc gia nói trên. Trong
những năm qua, rất nhiều văn kiện hiệp nghị, thoả thuận song phương đã
được ký kết giữa Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội của ta với chính
phủ bạn – làm nền tảng cơ sở cho việc mở rộng và phát triển thị trường. Thứ
đến là các nỗ lực tự thân từ phía doanh nghiệp xuất khẩu lao động trong
công tác Maketting tìm kiếm đơn hàng và nâng cao chất lượng lao động đưa
đi xuất khẩu để chiếm được niềm tin của phía đối tác, khẳng đinh vị trí của
lao động Việt Nam giữa rất nhiều đối thủ cạnh tranh trên một lĩnh vực phức
tạp và cạnh tranh gay gắt này.

b, Số lượng lao động làm việc tại các thị trường thuộc khu vực Đông và
Đông Nam Á tăng nhanh qua các năm.

51
Điều này có thể thấy rất rõ qua những con số tổng hợp ở Bảng 4 - Số
lượng lao động đi làm việc tại các nước Đông và Đông Nam Á thời gian
qua. Năm 1991, con số này mới là 503 người với thị trường duy nhất là Lào,
đến hết năm 2002 vừa qua con số này đã tăng lên mức 42.189 người, gấp
hơn 80 lần năm 1991 với 5 thị trường thành viên. Tốc độ tăng trung bình
hàng năm của số lượng người đi xuất khẩu lao động tại các thị trường này là
53,85%. Điều đặc biệt là số lao động xuất sang những thị trường mới mở
cửa gần đây như Đài Loan, Malaysia có tốc độ tăng nhanh nhất : Đài Loan
trung bình là 80%, Malaysia : 120%.

c, Thành phần tham gia đi xuất khẩu lao động có sự mở rộng rõ rệt với sự
tham gia ngày càng nhiều của các lao động nông thôn.

Cùng với sự mở rộng của các thị trường thành viên, khu vực thị
trường xuất khẩu lao động Đông và Đông Nam Á của ta đã thu hút ngày
càng nhiều đối tượng lao động tham gia. Trước kia, trong thời kỳ hợp tác lao
động quốc tế, đối tượng đi xuất khẩu lao động chủ yếu là cán bộ, công nhân
thuộc các cơ quan Nhà nước. Song hiện nay đối tượng này đã mở rộng ra
mọi tầng lớp nhân dân trong xã hội mà một bộ phận rất lớn là các lao động
tự do ở nông thôn.
Sở dĩ có được điều đó là do nhu cầu về đối tượng lao động của các thị
trường thuộc khu vực Đông và Đông Nam Á rất đa dạng. Trong khi thị
trường Nhật Bản yêu cầu cao về lao động có nghề thì những thị trường mới
mở cửa gần đây như Đài Loan, Malaysia lại chủ yếu chỉ yêu cầu lao động
phổ thông với số lượng rất lớn. Với một mức chi phí trước khi đi vừa phải
tuỳ theo từng loại hình công việc xuất khẩu lao động, cộng thêm sự hỗ trợ từ
phía ngân hàng theo chinh sách thúc đẩy xuất khẩu lao động của từng địa
phương, đây chính là cơ hội lớn cho lực lượng lao động vốn dư thừa khá
nhiều ở nông thôn nước ta. Theo ước tính, trong tổng số 193.540 người đi
xuất khẩu lao động tại các nước Đông và Đông Nam Á thì có đến trên
175.000 người (chiếm trên 90%) ra đi từ các vùng nông thôn Việt Nam.
Điều này chứng tỏ rằng đẩy mạnh xuất khẩu lao động chính là hướng giải
quyết rất tốt cho tình trạng thất nghiệp tại các vùng nông thôn nước ta.

d, Thu nhập của người lao động tại các thị trường đều tương đối ổn định
và có xu hướng tăng cao, giúp cải thiện kinh tế gia đình đồng thời góp
phần xây dựng đất nước.

52
Nhìn chung, đến nay thu nhập của lao động Việt Nam tại các thị
trường Đông và Đông Nam Á đều tương đối ổn định và đều cao hơn khá
nhiều so với thu nhập của lao động ở trong nước. Đặc biệt là lao động ở
những thị trường như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan có mức thu nhập bình
quân gấp từ 10 – 15 thu nhập của lao động đó khi còn trong nước. Một lao
động ở Nhật Bản hay Hàn Quốc hết hạn hợp đồng quay về nước sau khi trừ
đi tất cả các chi phí cần thiết có thể có được số vốn từ 20.000 – 25.000 USD,
với lao động tại Đài Loan là khoảng 10.000 USD. Nguồn vốn này rất cần
thiết để người lao động cải thiện và xây dựng kinh tế gia đình. Thậm chí
giúp họ có được những kế hoạch làm ăn dài hơi, không những chỉ làm giàu
cho bản thân mà còn quay lại góp phần giải quyết công ăn việc làm cho
nhiều lao động khác. Thị trường Malaysia và Lào có mức thu nhập thấp hơn
nhưng cũng là những thị trường giúp xoá đói giảm nghèo cho các lao động,
đặc biệt là những lao động ở nông thôn có tỷ lệ thất nghiệp nghèo đói cao.
Nguồn ngoại tệ mà các lao động tại những nước Đông và Đông Nam
Á chuyển về nước hàng năm vào khoảng 1,2 tỷ USD, cũng đã đóng góp
không nhỏ cho sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá nước nhà.

e, Công tác tổ chức đưa người lao động đi làm việc tại các nước Đông và
Đông Nam Á đã đi vào ổn định.

Công tác tổ chức đưa người lao động đi làm việc tại nước ngoài nói
chung cũng như thị trường các nước Đông và Đông Nam Á nói riêng đã và
đang nhận được sự quan tâm chỉ đạo cụ thể của Đảng và Nhà nước ta. Với
từng thị trường Lào, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan hay Malaysia, Bộ Lao
động – Thương binh và Xã hội đều có những Nghị định, thông tư hướng dẫn
việc tổ chức đưa lao động sang làm việc tại các thị trường này, bao gồm cả
về giấy tờ, thủ tục, chi phí, quyền lợi cũng như trách nhiệm của người lao
động và doanh nghiệp xuất khẩu lao động. Chính phủ cũng đã xây dựng
một cơ chế tài chính ba bên thông thoáng, chấp nhận chi trả các chi phí môi
giới nước ngoài cần thiết để tạo thêm sức cạnh tranh trong việc tìm kiếm
hợp đồng. Tức là công tác tổ chức đã có được một hành lang pháp lý ổn định
và tương đối đầy đủ. Chính nhờ hành lang pháp lý này mà hoạt động của các
doanh nghiệp xuất khẩu lao động trở nên thuận lợi, quy củ, bảo đảm được
quyền lợi cho người lao động.
Đồng thời, trong thời gian vừa qua chúng ta đã tiến hành thí điểm và
sau đó là nhân rộng mô hình liên thông trong xuất khẩu lao động, các doanh
nghiệp xuất khẩu lao động đã có sự phối kết hợp hiệu quả với địa phương
cũng như các cơ quan ban ngành có liên quan để trực tiếp đưa thông tin về

53
việc tuyển dụng và tổ chức xuất khẩu lao động đến từng người có nhu cầu đi
làm việc ở nước ngoài. Ban chỉ đạo xuất khẩu lao động cấp tỉnh và cấp
huyện đã được thành lập tại hầu khắp các địa phương trong cả nước. Hoạt
động của các ban này dưới sự quản lý thống nhất của Uỷ ban Nhân dân tỉnh,
kết hợp cùng các doanh nghiệp đã góp phần đẩy mạnh hiệu quả của công tác
tuyển chọn, đào tạo và đưa lao động đi làm việc tại nước ngoài nói chung và
đặc biệt, thị trường các nước Đông và Đông Nam Á nói riêng, giảm bớt
phiền hà và chi phí trung gian cho người lao động. Ban chỉ đạo xuất khẩu
lao động còn thực hiện việc kiểm tra tư cách các doanh nghiệp xuất khẩu lao
động về tuyển người ở địa phương, đảm bảo người lao động không bị lừa
đồng thời cũng bảo đảm về tư cách của người lao động được giới thiệu với
doanh nghiệp. Ngoài ra, Ban chỉ đạo xuất khẩu lao động còn tạo các điều
kiện hỗ trợ về tài chính cho người lao động. Hiệu quả hoạt động của Ban đã
đặc biệt thể hiện rõ trong việc đưa lao động sang thị trường Malaysia và hiện
nay tiếp tục thể hiện rõ đối với các thị trường khác như Đài Loan, Hàn
Quốc, Nhật Bản.
Nhờ các chính sách đúng đắn, kịp thời của Nhà nước và sự cố gắng từ
phía các doanh nghiệp xuất khẩu lao động mà công tác tổ chức xuất khẩu lao
động của nước ta đã từng bước đi vào ổn định. Đặc biệt, với sự giám sát chặt
chẽ của các ban ngành có liên quan, tình trạng trung gian cò mồi lừa đảo
người lao động, thu tiền không đúng với quy định, đưa người lao động ra
nước ngoài bằng visa du lịch... xuất hiện khá nhiều trong thời gian trước
đây, hiện nay đã giảm hẳn.

f, Vấn đề chất lượng lao động được quan tâm cải thiện nhiều trong thời
gian vừa qua.

Cục Quản lý lao động với nước ngoài đã có quy định rõ ràng, đầy đủ
về chương trình đào tạo bắt buộc, tài liệu giảng dạy, hình thức kiểm tra cấp
các chứng chỉ cần thiết cho người lao động. Nội dung chương trình đào tạo
đã được sửa đổi nhiều cho sát hợp với thực tế và đáp ứng được yêu cầu riêng
của từng thị trường trong khu vực Đông Và Đông Nam Á. Cục cũng liên tục
tiến hành các đợt kiểm tra giám sát việc thực hiện các quy định này tại các
doanh nghiệp xuất khẩu lao động. Nhờ vậy mà chất lượng lao động đưa sang
các thị trường này trong những năm qua đã có sự cải thiện rõ rệt, nhận được
những nhận xét phản hồi tích cực từ phía chủ sở dụng và dư luận nước sở
tại. Đặc biệt, công tác giáo dục định hướng cho người lao động trước khi đi
rất được Cục quan tâm nhắc nhở các doanh nghiệp phải tiến hành thật

54
nghiêm túc và kỹ lưỡng nhằm đảm bảo người lao động khi ra nước ngoài
làm việc ý thức được đầy đủ quyền lợi và nghĩa vụ của mình.
Ngoài ra, công tác xét tuyển lao động cũng được các doanh nghiệp
tiến hành chặt chẽ hơn, những tiêu cực trong khâu xét tuyển đã được hạn chế
tối đa. Điều này đã góp phần không nhỏ vào việc nâng cao chất lượng lao
động đưa đi xuất khẩu.
g, Công tác quản lý lao động của ta tại nước ngoài đã có những tiến bộ
đáng kể, đặc biệt đối với các thị trường mới mở gần đây như Đài Loan,
Malaysia .

Công tác quản lý lao động của ta tại các nước Đông và Đông Nam Á,
đặc biệt là với các thị trường mới mở cửa gần đây như Đài Loan, Malaysia
được đánh giá là tương đối tốt. Với thị trường Đài Loan, theo quy định của
Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, tất cả các doanh nghiệp đã có trên
100 lao động tại đây đều phải cử cán bộ đại diện sang đây để kết hợp với
công ty môi giới Đài Loan quản lý lao động, giải quyết các sự vụ phát sinh
trong phạm vi trách nhiêm và quyền hạn của mình, bảo đảm quyền lợi hợp
pháp của người lao động. Hiện đã có gần 50% doanh nghiệp xuất khẩu lao
động có người đại diện tại Đài Loan, trong đó có cả những doanh nghiệp mà
số lượng lao động đưa đi chưa đến 100 người cũng tự nguyện cử đại diện
của mình sang Đài Loan làm nhiệm vụ quản lý lao động. Với thị trường
Malaysia thì dù Chính phủ chưa có quy định cụ thể nhưng đã có 40 doanh
nghiệp xuất khẩu lao động có lao động tại thị trường này đưa đại diện sang
đây quản lý lao động. Sự có mặt của người đại diện doanh nghiệp xuất khẩu
lao động là vô cùng quan trong trong công tác quản lý lao động tại thị trường
nước ngoài. Chính nhờ sự có mặt của những đại diện này mà nhiều tranh
chấp giữa người lao động với chủ sử dụng hoặc công ty môi giới nước ngoài
đã được giải quyết êm thấm, các vướng mắc của lao động được giải đáp đầy
đủ, quyền lợi của người lao động được đảm bảo hợp lý; từ đó mà công tác
quản lý lao động đạt được hiệu quả cao hơn.
Ngoài ra, riêng với thị trường Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan là
những thị trường có tình trạng lao động (tu nghiệp sinh) phá hợp đồng, bỏ
trốn ra ngoài làm việc tương đối phổ biến, công tác quản lý lao động cũng
được tăng cường trong thời gian qua. Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội
đã có các quy định rất cụ thể về các biện pháp xử lý nghiêm khắc với các lao
động vi phạm này. Đồng thời, Bộ cũng ban hành các văn bản gắn chặt trách
nhiệm của doanh nghiệp xuất khẩu với việc lao động bỏ hợp đồng nhằm bắt
buộc các doanh nghiệp phải có giải pháp tăng cường công tác quản lý lao
động do mình đưa đi tại các thị trường trên. Ví dụ như, Bộ đã có quy định

55
với các doanh nghiệp đưa lao động sang làm việc tại thị trường Đài Loan
nếu có tỷ lệ lao động bỏ trốn vượt qua 3% sẽ bị tạm đình chỉ, thậm chí xét
đình chỉ hẳn, thu hồi giấy phép xuất khẩu lao động. Thực hiện quy định trên,
tháng 11/2003 vừa qua, Cục Quản lý lao động với nước ngoài đã ra quyết
định tạm đình chỉ với tổng cộng 46 doanh nghiệp xuất khẩu lao động có tỷ lệ
lao động bỏ trốn vượt qua mức 5% và thu hồi giấy phép xuất khẩu lao động
của 3 doanh nghiệp khác vì có tỷ lệ này ở mức quá cao : 20%.
Với thị trường Lào – nơi đa phần các lao động đi xuất khẩu lao động
qua đường chính thức đều là cán bộ, công nhân viên của các doanh nghiệp
trong nước, công tác quản lý trước đây và hiện nay đều được các cơ quan
đơn vị này thực hiện khá chặt chẽ và đạt hiệu quả cao.

2, Tồn tại và nguyên nhân

a, Số lượng lao động đi làm việc tại các nước Đông và Đông Nam Á tuy
tăng nhanh nhưng phần lớn là lao động phổ thông không nghề, tỷ lệ lao
động có nghề và chuyên gia rất ít, vì vậy mà giá trị xuất khẩu lao động
không cao.

Trong tổng số 193.540 lao động mà chúng ta đã đưa sang các thị
trường thuộc khu vực Đông và Đông Nam Á trong những năm vừa qua thì
có đến trên 70% là lao động phổ thông, không nghề. Theo đúng quy luật thị
trường, lao động phổ thông có mức thu nhập thấp hơn nhiều so với lao động
có nghề và chuyên gia, do vậy giá trị xuất khẩu lao động của ta còn chưa
cao. Theo tính toán của một số chuyên gia trong lĩnh vực xuất khẩu lao
động, chỉ cần chúng ta nâng tỷ lệ lao động có nghề và chuyên gia lên khoảng
40% thì thu nhập từ hoạt động xuất khẩu lao động nước ta có thể tăng lên
gấp đôi hiện nay.
Tình trạng trên xuất phát từ các nguyên nhân sau :
Thứ nhất, về khách quan, các thị trường nhận nhiều lao động nhất của
Việt Nam như Đài Loan, Malaysia và cả Hàn Quốc lại hầu hết có nhu cầu
cao về lao động phổ thông giản đơn. Lượng lao động của ta sang 3 thị
trường này chiếm đến 60% tổng lượng lao động tại các thị trường thuộc khu
vực Đông và Đông Nam Á mà trong số này lại có đến 90% là lao động phổ
thông.
Thứ hai, về chủ quan là chúng ta chưa có được một chiến lược dài hạn
về nguồn nhân lực cung cấp cho hoạt động xuất khẩu lao động, chưa có

56
được chiến lược đào tạo lao động xuất khẩu tương ứng với chiến lược xuất
khẩu lao động đã được hoạch định. Quá trình đào tạo cho lao động xuất khẩu
trong thời gian qua còn manh mún, mang tính chất tự phát. Các doanh
nghiệp tham gia xuất khẩu lao động cũng chưa thực sự quan tâm đến việc
xây dựng lực lượng xuất khẩu lao động lâu dài. Chính vì thế mà chúng ta đã
để lỡ mất khá nhiều cơ hội khi không thể đáp ứng đủ với một số ngành nghề
mà những nước Nhật Bản, Singapore ...có nhu cầu cao như : tin học, y tế,
dịch vụ, sĩ quan và thuyền viên trên tàu vận tải.

b, Chất lượng lao động đưa đi dù đã có tiến bộ nhiều trong những năm
qua song vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu đề ra, đặc biệt là trình độ ngoại
ngữ và ý thức kỷ luật của lao động chúng ta thua kém nhiều so với các
nước xuất khẩu lao động khác trong khu vực. Tỷ lệ lao động bị trả về
nước do không đáp ứng được yêu cầu công việc còn cao.

Lao động Việt Nam được giới chủ các nước Đông và Đông Nam Á
đánh giá cao về sự thông minh và tính cần cù, chịu khó vậy mà trong khi đó
có đến trên 10% lao động của ta bị trả về nước trước thời hạn do vô kỷ luật
và không đáp ứng được yêu cầu công việc của chủ sử dụng . Nhược điểm
mà rất đông lao động ta mắc phải , đó là trình độ ngoại ngữ và ý thức kỷ luật
rất kém. Trình độ ngoại ngữ của lao động đặc biệt cần thiết với những công
việc thường xuyên phải tiếp xúc trực tiếp với chủ sử dụng và người địa
phương như khán hộ công và giúp việc gia đình do vậy sự yếu kém vê ngoại
ngữ khó có thể được chủ sử dụng chấp nhận. Nhược điểm về tính kỷ luật
còn nghiêm trọng hơn thế bởi tất cả các thị trường mà ta đưa lao động sang
đều yêu cầu rất cao về ý thức kỷ luật.
Sự yếu kém trong chất lượng lao động xuất khẩu thời gian vừa qua
chủ yếu bắt nguồn từ khâu tuyển chọn và đào tạo lao động trước khi đi.
Khâu tuyển chọn lao động tiến hành còn vội vàng, một vài doanh nghiệp do
thiếu nguồn nên chấp nhận cả những người không đủ tiêu chuẩn về tuổi tác,
thể trạng, trình độ văn hoá... với tâm lý "đến đâu hay đến đó". Cá biệt từ đây
còn xuất hiện những tiêu cực vi phạm pháp luật như làm lại giấy tờ để giảm
tuổi của ứng viên, mua kết quả sức khoẻ v.v.. Hoạt động đào tạo lao động đi
xuất khẩu tại các Trung tâm đào tạo (bao gồm cả đào tạo nghề, ngoại
ngữ,giáo dục định hướng và cấp Chứng chỉ) còn nhiều thiếu sót, vừa manh
mún, chắp vá lại vừa có nhiều biểu hiện thiếu nghiêm túc, không thực hiện
đúng các quy định của Nhà nước về chương trình và thời gian đào tạo. Lao
động không được giáo dục rèn luyện kỹ về ý thức kỷ luật, thiếu hiểu biết về
công việc và các quy định liên quan. Tuy nhiên, nhược điểm trên không phải

57
là cố hữu mà hoàn toàn có thể sửa chữa, khắc phục nếu có được sự nỗ lực từ
phía các doanh nghiệp xuất khẩu lao động cũng như cơ chế quản lý, giám sát
hiệu quả từ phía Nhà nước.

c, Công tác quản lý lao động tại các thị trường thuộc khu vực Đông và
Đông Nam Á vẫn chưa đạt được hiệu quả như yêu cầu dù đã được chấn
chỉnh trong thời gian qua, tình trạng lao động (tu nghiệp sinh) phá hợp
đồng, trốn ra ngoài làm việc bất hợp pháp vẫn còn phổ biến.

Thời gian gần đây, công tác quản lý lao động làm việc tại các nước
Đông và Đông Nam Á đã được Nhà nước và các doanh nghiệp quan tâm
chấn chỉnh nên có những tiến bộ đáng kể song hiệu quả của công tác này
vẫn chưa được như mong đợi. Đặc biệt nghiêm trọng là tình trạng tu nghiệp
sinh và lao động phá hợp đồng trốn ra ngoài làm việc bất hợp pháp tại thị
trường Nhật Bản , Hàn Quốc, Đài Loan đã lên đến con số báo động. Ở Đài
Loan, tỷ lệ lao động bỏ trốn trên thực tế ước đoán là 15%, Nhật Bản là :20%,
Hàn Quốc là : 59,25%. Tỷ lệ này đều đã vượt khá xa tỷ lệ cho phép của
Chính phủ các nước sở tại, và là nguy cơ số một hiện nay khiến chúng ta có
khả năng đánh mất thị trường.
Nguyên nhân của tình trạng này có thể thấy được từ nhiều góc độ
khác nhau. Trong đó, nguyên nhân chủ quan quan trọng là do công tác quản
lý lao động ở nước ngoài của chúng ta chưa có chiều sâu cần thiết, các văn
bản ban hành về lĩnh vực này còn chưa được thực hiện nghiêm túc, cán bộ
đại diện của ta ở nước ngoài hoặc chưa có (Hàn Quốc, Nhật Bản), hoặc đã
có (Đài Loan) nhưng một bộ phận không nhỏ là cô dâu hoặc lao động về
nước được các doanh nghiệp xuất khẩu lao động tuyển dụng lại làm cán bộ
đại diện còn non yếu về nghiệp vụ, không đáp ứng được yêu cầu công việc.
Ngoài ra, còn có nguyên nhân từ khâu tuyển chọn của chúng ta chưa nghiêm
túc : một số doanh nghiệp thay vì tuyển công nhân trong các đơn vị đã tuyển
lao động tự do ngoài xã hội đi tu nghiệp sinh; khâu đào tạo của chúng ta còn
chưa chú trọng giáo dục định hướng về bản chất việc đi lao động ở nước
ngoài, ý thức tôn trọng luật pháp, quy định của nước sở tại, ý thức về trách
nhiệm của bản thân đối với lợi ích chung. Công tác phối kết hợp cùng gia
đình, thân nhân để giáo dục thường xuyên và thông tin hai chiều cho người
lao động cũng chưa được làm tốt, chưa tập trung cao độ cho việc phối hợp
chặt chẽ giữa cơ quan phái cử và cơ quan tiếp nhận trong quá trình quản lý
tu nghiệp sinh ở nước ngoài.

58
d, Phí môi giới trong các hợp đồng cung ứng lao động quá cao, gây thiệt
hại cho người lao động.

Các doanh nghiệp xuất khẩu lao động của ta đưa lao động sang làm
việc tại các thị trường thuộc khu vực Đông và Đông Nam Á hầu hết dều phải
thông qua các công ty môi giới nước ngoài và họ đều đòi ta trả phí môi giới
cao hơn quy định của của nước sở tại. Gần đây, Chính phủ ta đã ban hành
nhiều văn bản quy định về tài chính có tính chất khá "thông thoáng" để tạo
điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động, tăng sức cạnh tranh
nhằm giành được nhiều đơn hàng; trong đó, cho phép các doanh nghiệp
được thu tiền từ người lao động để trả phí môi giới cho các công ty môi giới
này. Sự thông thoáng này trong điều kiện hiện nay là rất cần thiết tuy nhiên
có một thực trạng là rất nhiều hợp đồng cung ứng lao động gần đây được ký
với mức phí môi giới quá cao, gây thiệt hại trực tiếp đến quyền lợi của người
lao động. Phí môi giới - núp dưới nhiều tên gọi khác nhau (nhằm lách luật
nước sở tại) như : khoản vay nước ngoài, phí an gia...., có khi chiếm đến
30% thu nhập của người lao động.
Phí môi giới bị đẩy lên cao như vậy xuất phát từ nhiều lý do. Thứ
nhất, là do các doanh nghiệp của chúng ta bị thúc bách trả phí môi giới cao
nhằm giành được nhiều đơn hàng. Các công ty môi giới nước ngoài thường
có sự liên kết thoả thuận rất chặt chẽ với nhau để từng bước đẩy phí môi giới
lên cao, trong khi đó các doanh ngiệp của ta lại không tìm cách liên kết trao
đổi thông tin để "ghìm giá" môi giới lại. Thậm chí còn "giẫm lên chân
nhau", cạnh tranh thiếu lành mạnh cố tình phá giá, khiến các công ty môi
giới đứng giữa thành ra "ngư ông đắc lợi", thiệt hại cuối cùng lại do người
lao động chịu. Mặt khác, còn xuất hiện hiện tượng tiêu cực như người đại
diện đi ký hợp đồng của một số doanh nghiệp xuất khẩu lao động, lợi dụng
chính sách tài chính thông thoáng của Nhà nước, thoả thuận ngầm với công
ty môi giới nước ngoài đẩy phí môi giới cao lên để ăn chia phần chênh lệch.
Trong khi đó, chính sách tài chính của Nhà nước ta tuy đã thông thoáng
nhưng lại chưa có một quy định cụ thể nào về mức thu nhập ròng (sau khi
khấu trừ các khoản chi phí) tối thiểu của người lao động.

e, Mô hình liên thông liên kết giữa doanh nghiệp xuất khẩu lao động và
các cấp ngành địa phương được triển khai trong thời gian qua vẫn còn
mắc phải một số bất cập khi nhân rộng.

Mô hình liên thông liên kết giữa doanh nghiệp xuất khẩu lao động và
các cấp ngành địa phương trong công tác xuất khẩu lao động được thí diểm

59
triển khai trong thời gian qua đã thu được những kết quả không thể phủ
nhận, tuy nhiên bên cạnh đó vẫn còn những bất cập làm hạn chế hiệu quả
của mô hình này khi tiến hành nhân rộng.
Trước hết là việc Ban chỉ dạo xuất khẩu lao động ở một số địa phương
không thực hiện được đầy đủ vai trò, chức năng của mình, hoạt động còn
mang tính phong trào hình thức, chưa đi vào thực chất, chưa nắm bắt được
về nguồn lao động cũng như các doanh nghiệp xuất khẩu lao động đến xin
tuyển dụng lao động tại địa phương. Mối quan hệ liên kết hai chiều giữa
doanh nghiệp và Ban chỉ đạo xuất khẩu lao động địa phương còn lỏng lẻo,
thông tin về lượng lao động ứng tuyển, tiến độ làm các thủ tục giấy tờ (từ
phía địa phương), số lao động trúng tuyển, số lao động đào tạo và số đã xuất
cảnh (từ phía doanh nghiệp) còn chưa được nối kết thông tin chặt chẽ từ hai
phía. Nhiều doanh nghiệp vẫn tổ chức tuyển lao động theo phương thức cũ
(thông qua hệ thống các trung tâm dịch vụ việc làm, qua thông báo trên
phương tiện thông tin đại chúng, qua các cá nhân và tổ chức môi giới trung
gian), từ đó các tiêu cực như tình trạng trung gian lừa đảo, thu phí của người
lao động cao hơn quy định vẫn xảy ra tuy không phổ biến như trước đây.
Nhà nước ta cần phải xem xét tìm hướng khắc phục với những vấn đề trên
nhằm tăng cường hiệu quả của mô hình, tránh những hoài nghi không đáng
có từ phía doanh nghiệp và người lao động về tính ưu việt của mô hình này.

f, Việc giải quyết chế độ đối với những lao động vì nhiều lý do bị trả về
nước trước thời hạn còn nhiều bất hợp lý, chưa thoả đáng dẫn đến các vụ
khiếu kiện của lao động còn phổ biến.

Tỷ lệ lao động của ta tại thị trường các nước Đông và Đông Nam Á bị
trả về nước trước thời hạn khá cao : trên 12% . Việc giải quyết chế độ cho
những lao động này sau khi về nước là một vấn đề nhạy cảm và phức tạp
song vô cùng quan trọng. Lao động bị trả về nước do nhiều nguyên nhân, có
thể do lỗi của người lao động, cũng có thể do lỗi của chủ sử dụng hoặc công
ty môi giới nước ngoài nhưng nhìn chung dù trong bất kỳ trường hợp nào thì
người chịu thiệt nhiều nhất vẫn là lao động. Các doanh nghiệp ta hầu hết đều
ý thức được điều này và đã có cố gắng giải quyết thoả đáng về chế độ cho
những lao động về nước, song thời gian vừa qua các vụ khiếu kiện của lao
động vẫn không ngừng tăng lên gây ảnh hưởng đến uy tín của doanh nghiệp
nói riêng và ngành xuất khẩu lao động nước ta nói chung. Lý do tại sao?
Thứ nhất, do một số doanh nghiệp tỏ ra bất lực trong việc yêu câu chủ
sử dụng và đặc biệt là công ty môi giới nước ngoài đền bù quyền lợi cho
người lao động. Các khoản phí môi giới được thu đủ trước khi đi, sau khi lao

60
động bị trả về nước, theo quy định phải được hoàn lại theo tỷ lệ thời gian
tương ứng cho lao động nhưng lại bị các công ty môi giới lờ đi, không hoàn
lại. Doanh nghiệp xuất khẩu lao động của ta e ngại "mất lòng" đối tác cũng
không sát sao thúc giục họ chi trả đầy đủ.
Thứ hai, cá biệt một số doanh nghiệp ta còn có tình trạng "phủi tay",
rũ trách nhiệm. Lao động về nước không cần tìm hiểu lý do, coi như không
thuộc trách nhiệm của mình, thậm chí không cần tiến hành thanh lý hợp
đồng, không quan tâm đến yêu cầu, nguyện vọng của người lao động. Tình
trạng này diễn ra chủ yếu ở các doanh nghiệp cho công ty môi giới nước
ngoài hặc các tư nhân mượn giấy phép xuất khẩu lao động. Những đối tượng
này vốn có tư tưởng "ăn xổi", gây thiệt hại cho cả doanh ngiệp và người lao
động.
Thứ ba, công tác tài chính trong việc giải quyết chế độ cho lao động
về nước tại các doanh nghiệp còn nhiều vướng mắc, giải thích với lao động
còn chưa rõ ràng, gây tâm lý nghi ngờ, không tin tưởng ở người lao động.

CHƯƠNG III

TRIỂN VỌNG CỦA KHU VỰC THỊ TRƯỜNG ĐÔNG VÀ ĐÔNG


NAM Á CÙNG MỘT SỐ KIẾN NGHỊ GIẢI PHÁP

I - Triển vọng của thị trường các nước Đông và Đông Nam Á.

Nhìn chung, trong thời gian tới đây, triển vọng của các thị trường xuất
khẩu lao động của ta ở khu vực Đông và Đông Nam Á đều rất khả quan.
Nhu cầu lao động nước ngoài tại các thị trường này là rất lớn và có thể còn
tăng lên nhiều trong tương lai. Theo ước tính, trong vòng 6, 7 năm nữa, từ
nay đến năm 2010, nhu cầu về lao động nước ngoài của toàn bộ những nước
mà ta đang đưa lao động sang làm việc có thể tăng đến con số 7.000.000
người. Ngoài ra, còn phải kể đến những thị trường tiềm năng thuộc khu vực
này như : Singapore, Bruney... mà chính phủ ta đang có kế hoạch xúc tiến
tiếp cận.

61
Triển vọng dự đoán của từng thị trường cụ thể như sau :

1, Thị trường Hàn Quốc :

Nền kinh tế Hàn Quốc sau thời kỳ khủng hoảng 1998 – 2000, đã đi
vào ổn định và có tốc độ tăng trưởng khá cao, nhu cầu về lao động nước
ngoài do đó cũng tăng lên nhiều. Đặc biệt với đội ngũ gần 200.000 doanh
nghiệp vừa và nhỏ, các chuyên gia dự đoán Hàn Quốc sẽ còn cần thêm ít
nhất nửa triệu lao động nước ngoài trong vòng 5 năm nữa. Theo thông báo
của KFSB, Chính phủ nước này sẽ nâng tổng chỉ tiêu tu nghiệp sinh lên
145.000 người vào đầu năm tới thay vì 130.000 người như hiện nay. Hiện
vẫn chưa có thông tin chính thức về số lượng chỉ tiêu tu nghiệp sinh được
phân bổ cho Việt Nam, rất có thể ta sẽ có thêm khoảng 2000 - 2500 tu
nghiệp sinh nữa trong tổng chỉ tiêu này. Tuy nhiên không loại trừ khả năng
con số tu nghiệp sinh được tăng thêm ít hơn thế do tỷ lệ bỏ trốn của tu
nghiệp sinh Việt Nam tại Hàn Quốc quá cao. Ngành nghề xuất khẩu lao
động vẫn chủ yếu tập trung vào lĩnh vực 3D.
Đặc biệt, ngày 31/7/2003 vừa qua, Quốc hội Hàn Quốc đã thông qua
Luật Cấp phép lao động (EPA). Luật này quy định, vào thời điểm 1 năm sau
khi công bố luật (tức là từ tháng 8/2004), lao động nước ngoài tại thị trường
Hàn Quốc được làm việc cùng điều kiện và quyền lợi như lao động nước sở
tại. Đồng thời Luật EPA cho phép các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Hàn
Quốc có khó khăn về nhân lực được tuyển dụng hợp pháp số lượng lao động
nước ngoài phù hợp. Được áp dụng song song với Chương trình tu nghiệp
sinh công nghiệp hiện nay, luật này mở ra cơ hội mới cho lao động các nước
xuất khẩu lao động sang Hàn Quốc nói chung và Việt Nam nói riêng.

2, Thị trường Nhật Bản :

Nền kinh tế rất phát triển của Nhật Bản hàng năm cần một lượng lớn
lao động mà dân số với tỷ lệ người quá tuổi lao động lên đến 30% không đáp
ứng đủ. Theo báo cáo của Bộ Kinh tế - Thương mại và Công nghiệp Nhật
Bản (METI), từ nay cho đến năm 2010, Nhật Bản sẽ thiếu khoảng 2.000.000
lao động. Hiện nay, với số lượng tu nghiệp sinh khoảng 50.000 người mà
Nhật Bản tiếp nhận hàng năm không thể đủ để giải quyết tình trạng thiếu lao

62
động ở đất nước này. Trong báo cáo, Bộ này nêu rõ : " Nhật Bản cần thêm
nhiều nỗ lực để thu hút lao động nước ngoài đến làm việc, nhằm thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế, tham gia vào quá trình toàn cầu hoá thế giới về lao
động ", đồng thời kiến nghị Chính phủ Nhật dỡ bỏ rào cản đối với lao động
nước ngoài nhằm tạo điều kiện cho họ sống và làm việc tại Nhật Bản.
Dưới áp lực của dư luận trong nước, rất có thể đến cuối năm sau,
chính phủ Nhật Bản sẽ xem xét ra một đạo luật cho phép lao động nước
ngoài vào làm việc tại đây. Trước mắt, Nhật Bản có chính sách tăng số tu
nghiệp sinh tiếp nhận trong năm tới lên con số 60.000 người, chủ yếu làm
việc trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ với những ngành nghề thuộc lĩnh
vực 3K (từ viết tắt theo tiếng Nhật có nghĩa là bẩn thỉu, nặng nhọc và độc
hại). Nhu cầu về chuyên gia công nghệ thông tin trên thị trường này cũng rất
lớn, dự kiến để đáp ứng đủ nhu cầu trong nước, trong vài năm tới đây, Nhật
Bản sẽ tiếp nhận thêm khoảng 100.000 kỹ sư công nghệ thông tin. Thời gian
vừa qua, Nhật Bản đã tiếp nhận một số chuyên gia công nghệ thông tin của
ta, đây là một lĩnh vực mà Nhà nước và các doanh nghiệp xuất khẩu lao
động Việt Nam cần quan tâm.

3, Thị trường Đài Loan

Nhu cầu về lao động nước ngoài của thị trường Đài Loan rất lớn và
đa dạng. Về số lượng, dự báo tới năm 2010, Đài Loan cần thêm khoảng 700
vạn lao động và trong đó có 1 vạn là lao động nước ngoài. Nhu cầu bổ sung
lao động nước ngoài của Đài Loan tập trung nhiều vào những ngành nghề
thuộc lĩnh vực dịch vụ, khán hộ công và chăm sóc gia đình. Riêng với nghề
khán hộ công và chăm sóc gia đình, Đài Loan có thể tiếp nhận thêm tối thiểu
là 500.000 lao động nước ngoài.
Riêng đối với Việt Nam, trước mắt, trong năm 2004, quy mô xuất
khẩu lao động của ta sang thị trường này có khả năng không tăng nhiều, do
rất có thể chính phủ Đài Loan sẽ mở cửa tiếp nhận trở lại với lao động
Indonesia. Lực lượng lao động xuất khẩu của Indonesia rất đông và có sức
cạnh tranh cao có thể làm suy giảm đáng kể nhu cầu lao động của thị trường
Đài Loan với lao động các nước khác, bao gồm cả Việt Nam. Ngoài ra, tỷ lệ
bỏ trốn của lao động Việt Nam tại Đài Loan, đặc biệt là lao động khán hộ
công, giúp việc gia đình và thuyền viên trong thời gian qua là khá cao cũng
làm ảnh hưởng đến sự sẵn sàng tiếp nhận lao động Việt Nam của giới chủ
Đài Loan. Vừa qua, chính phủ ta đã áp dụng biện pháp cảnh cáo, tạm đình
chỉ hoặc thu hồi giấy phép của 35% doanh nghiệp xuất khẩu lao động có tỷ

63
lệ lao động bỏ trốn vượt quá mức quy định, nhờ đó tình hình đã khả quan
hơn.

4, Thị trường Malaysia

Nền kinh tế Malaysia sau một thời gian biến động hồi đầu năm đến
nay đã có dấu hiệu phục hồi, nhiều nhà máy đã bắt đầu tiến hành sản xuất
trở lại. Theo các nhà phân tích kinh tế dự đoán hết năm 2003, tốc độ tăng
trưởng kinh tế của Malaysia có thể đạt mức 4,5% và trong những năm tới tốc
độ này có thể tăng lên tới 5 - 6%. Theo đó, chắc chắn nhu cầu về lao động
nước ngoài của Malaysia cũng sẽ tăng nhiều trong thời gian tới, đặc biệt khi
chính phủ nước này trục xuất hết số lao động nước ngoài bất hợp pháp tại
đây. Ước tính đến năm 2010, thị trường Malaysia sẽ cần thêm khoảng
3.000.000 – 4.000.000 lao động nước ngoài.
Đến nay, thị trường Malaysia đã tiếp nhận trên 70.000 lao động Việt
Nam . Như phía bạn đã công bố ngay từ khi mở cửa thị trường cho lao động
của ta, Malaysia có thể tiếp nhận lao động Việt Nam với số lượng 10 – 20
vạn ngưòi trong 4 lĩnh vực là công nghiệp, xây dựng, nông nghiệp và dịch
vụ, song theo ý kiến của nhiều chuyên gia phân tích con số này có thể lên tới
30 – 40 vạn trong vòng 3 năm tới.
Vừa qua, chính phủ Malaysia đã tuyên bố mở cửa thị trường cho lao
động Trung Quốc và xem xét việc tiếp nhận trở lại dối với lao động
Bangladesh. Những động thái này, đặc biệt là việc mở cửa thị trường trở lại
cho lao động Bangladesh có thể ảnh hưởng trực tiếp đến nhu cầu tiếp nhận
lao động Việt Nam của các chủ sử dụng vì lao động Bangladesh có nhiều ưu
điểm hơn so với lao động của ta như khả năng giao tiếp ngoại ngữ, chấp
nhận mức lương thấp hơn của ta và nhất là không hay khiếu nại, đình công.

5, Thị trường Lào

Dự báo trong thời gian tới nhu cầu về nhập khẩu lao động nước ngoài
của Lào vẫn còn rất lớn, khoảng 300.000 người, tập trung trong các lĩnh vực
xây dựng, công nghiệp và khai thác tài nguyên.

64
Thị trường Lào đã từng là một trong những thị trường xuất khẩu lao
động chủ yếu của ta trong thập niên 90, thời gian gần đây do sự xuất hiện
của những thị trường mới mở như Đài Loan, Malaysia nên sức thu hút của
thị trường Lào có giảm đôi chút với lao động Việt Nam. Dự kiến trong thời
gian tới số lao động sang Lào có thể tăng song không đáng kể, chỉ khoảng
1000 – 2000 người mỗi năm, chủ yếu vẫn là kỹ sư, công nhân của các doanh
nghiệp ta thi công các công trình xây dựng tại Lào. Con số này không bao
gồm số lao động tự do thường xuyên qua lại biên giới hai nước vốn rất khó
thống kê.

II - Một số kiến nghị :

Đông và Đông Nam Á khu vực thị trường quan trọng bậc nhất trong
chiến lược tăng cường xuất khẩu lao động nước ta hiện nay. Việc nhận định
lại toàn cảnh hoạt động xuất khẩu lao động của ta tại khu vực này, đánh giá
những mặt được và cả những mặt chưa được trong đó để tìm ra hướng phát
triển tốt nhất cho hoạt động xuất khẩu lao động là một việc làm thực sự cần
thiết.
Sau đây là một vài kiến nghị về giải pháp nhằm tăng cường quy mô và
hiệu quả của hoạt động xuất khẩu lao động tại khu vực thị trường này mà em
mạo muội đưa ra. Những kiến nghị này dành cho hoạt động xuất khẩu lao
động sang khu vực thị trường các nước Đông và Đông Nam Á nói riêng
cũng như toàn bộ ngành xuất khẩu lao động của nước ta nói chung.

1, Về phía Nhà nước :

1.1, Nhà nước ta cần bổ sung hoàn thiện hơn nữa về chính sách xuất
khẩu lao động nói chung cũng như với khu vực thị trường các nước
Đông và Đông Nam Á nói riêng, đặc biệt chú trọng xây dựng chiến lược
lâu dài về đào tạo nguồn nhân lực phục vụ xuất khẩu lao động.
Xuất khẩu lao động có phạm vi hoạt động rất rộng, liên quan đến
nhiều tổ chức và đặc biệt có quan hệ quốc tế rộng lớn. Vì vậy để tăng cường,
nâng cao tính pháp lý của công tác này về lâu dài, Quốc hội và các cơ quan
liên quan nên sớm nghiên cứu ban hành Luật xuất khẩu lao động. Đồng thời
với riêng khu vực thị trường Đông và Đông Nam Á, vẫn còn một số văn bản
pháp quy mà nội dung quy định trong đó còn chưa thực sự chặt chẽ như
những quy định về tài chính trong hoạt động xuất khẩu lao động. Bộ Lao

65
động – Thương binh và Xã hội nên ra thêm quy định cụ thể về mức thu nhập
ròng (thu nhập sau khi trừ hết các chi phí hợp lệ) tối thiểu đối với lao động
Việt Nam làm việc trên từng thị trường trong khu vực để bảo vệ quyền lợi
của người lao động.
Đặc biệt, chính phủ ta cần xem xét đề ra càng sớm càng tốt một chiến
lược về đào tạo nguồn nhân lực cho hoạt dộng xuất khẩu lao động mang tính
lâu dài, có quy mô tương xứng với chiến lược xuất khẩu lao động của nước
ta hiện nay.

1.2, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội cần nghiên cứu để kiến nghị
Chính phủ sửa đổi, bổ sung chính sách về bảo hiểm xã hội với người lao
động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài.

Bảo hiểm xã hội với người lao động đi làm việc ở nước ngoài cho đến
hiện nay vẫn là câu hỏi còn bỏ ngỏ chưa có lời giải đáp. Đến 80% lao động
xuất khẩu của ta và 90% lao động Việt Nam sang thị trường các nước Đông
và Đông Nam Á chưa hề được tham gia bảo hiểm xã hội. Một số lao động đã
từng làm trong cơ sở sản xuất, dịch vụ trong nước trước khi đi có tham gia
bảo hiểm xã hội, nhưng trong quá trình đi lao động xuất khẩu thì không thể
tham gia đóng bảo hiểm xã hội nữa. Bảo hiểm xã hội vừa là quyền lợi, vừa
là nghĩa vụ đối với mọi người lao động. Người lao động ta đi làm việc ở
nước ngoài đương nhiên cũng có quyền lợi và nghĩa vụ đó. Đặc biệt khi thời
gian tới bảo hiểm thất nghiệp được đưa vào áp dụng trong hệ thống bảo
hiểm xã hội vì nguy cơ thất nghiệp đối với lao động Việt Nam ở nước ngoài
tuy không cao nhưng nếu xảy ra thì thiệt hại đối với người lao động sẽ là rất
lớn do họ còn phải chịu cả một khoản chi phí lớn trước khi đi mà không dễ
gì đòi dền bù lại được. Do vậy, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội cần
nghiên cứu, kiến nghị Chính phủ sửa đổi, bổ sung chính sách về bảo hiểm xã
hội với người lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài.

1.3, Cần tăng cường hơn nữa công tác thanh tra, giám sát hoạt động của
các doanh nghiệp xuất khẩu lao động, tiến hành bình xét phân loại để có
chế độ khen thưởng, nêu gương với các doanh nghiệp hoạt động tốt, hiệu
quả đồng thời xử lý thích đáng các doanh nghiệp vi phạm hay hoạt động
kém hiệu quả.

Xuất khẩu lao động là một lĩnh vực hết sức phức tạp, dễ phát sinh tiêu
cực. Công tác thanh tra, giám sát của Nhà nước đối với hoạt động của các
doanh nghiệp xuất khẩu lao động cần được đẩy mạnh hơn nữa. Bộ Lao động

66
– Thương binh và Xã hội mà cơ quan chức năng trực tiếp là Cục Quản lý lao
động với nước ngoài, bên cạnh việc khuyến khích ý thức tự giác chấp hành
chính sách pháp luật của từng doanh nghiệp xuất khẩu lao động, nên tổ chức
thường xuyên hơn nữa các đợt thanh tra, kiểm tra về mọi mặt : tài chính, đào
tạo, hành chính... của các doanh nghiệp này. Kết quả kiểm tra phải được xử
lý công bằng theo đúng quy định, từ đó tiến hành bình xét phân loại để có
chế độ nêu gương khen thưởng cũng như xử phạt thích đáng với từng doanh
nghiệp.

1.4, Đẩy mạnh đầu tư về vật chất cũng như tăng cường mọi mặt đội ngũ
cán bộ cho các cơ quan quản lý Nhà nước trong lĩnh vực xuất khẩu lao
động nhằm đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.

Muốn mở rộng và phát triển hơn nữa hoạt động xuất khẩu lao động
nước ta thì điều cần thiết phải làm là chuẩn bị tốt về cơ sở vật chất và nguồn
nhân lực làm nền tảng cho xuất khẩu lao động. Nền tảng này trước hết thể
hiện cơ sở vật chất và đội ngũ cán bộ nghiệp vụ và quản lý tại các cơ quan
quản lý Nhà nước về xuất khẩu lao động. Thời gian trước đây có một thực
trạng là tại các cơ quan này cơ sở vật chất cũng như trình độ của đội ngũ cán
bộ còn chưa tương xứng với vai trò của mình, chưa đáp ứng tốt yêu cầu công
việc. Đây là việc mà Nhà nước ta cần quan tâm chấn chỉnh, đặc biệt là đối
với đội ngũ cán bộ quản lý, nghiệp vụ vì họ chính là hạt nhân trong chiến
lược đẩy mạnh xuất khẩu lao động của nước ta. Cần phải xây dựng được
một đội ngũ cán bộ có trình độ nghiệp vụ, trình độ quản lý và tư cách đạo
đức nghề nghiệp tốt.

1.5, Xây dựng các chiến lược dài hơi về đào tạo nguồn nhân lực cung cấp
cho thị trường xuất khẩu lao động, xây dựng các Trung tâm đào tạo
nguồn nhân lực có quy mô lớn, hoạt động mang tính chuyên nghiệp cao.

Chất lượng lao động Việt Nam hiện vẫn chưa đáp ứng tốt yêu cầu của
các nước tiếp nhận lao động, còn rất nhiều lĩnh vực yêu cầu lao động có
trình độ cao mà chúng ta đành phải ngậm ngùi bỏ qua dù nhu cầu trên thị
trường là rất lớn... Thực trạng trên bắt nguồn từ nguyên nhân chủ yếu là
chúng ta chưa có được một chiến lược dài hơi về đào tạo nguồn nhân lực
cung cấp cho thị trường xuất khẩu lao động, chưa có được một hệ thống
Trung tâm đào tạo chuyên nghiệp có quy mô lớn, trang bị hiện đại và đội
ngũ giáo viên có trình độ về khoa học kỹ thuật công nghệ cao. Vấn đề này
cần được Nhà nước quan tâm khắc phục và khắc phục càng sớm càng tốt.
Tất nhiên, việc đầu tư xây dựng một hệ thống Trung tâm đào tạo như vậy sẽ

67
cần tới một khoản kinh phí rất lớn nhưng đó thực sự là khoản đầu tư thiết
thực, cần thiết cho việc đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu lao động nói riêng
cũng như vì lợi ích của cả nền kinh tế nói chung.

1.6, Thành lập bộ phận tư vấn, chuyên cung cấp thông tin về các thị
trường đang hoặc có khả năng tiếp nhận lao động Việt Nam, đặc biệt với
khu vực thị trường tập trung đông lao động của ta như các nước Đông và
Đông Nam Á.

Một khó khăn chung với hầu hết doanh nghiệp xuất khẩu lao động của
Việt Nam hiện nay là tình trạng thiếu thông tin về thị trường xuất khẩu lao
động, cả thị trường đang khai thác và những thị trường tiềm năng. Cục Quản
lý lao động với nước ngoài nên xem xét thành lập một bộ phận tư vấn,
chuyên cung cấp thông tin về các thị trường này, đặc biệt là ở những khu
vực thị trường có tầm quan trọng đặc biệt như Đông và Đông Nam Á. Bộ
phận này có nhiệm vụ tìm hiểu và cung cấp các thông tin về những chính
sách mới nhất, tình hình, nhu cầu lao động trên thị trường tiếp nhận lao động
nước ngoài; các chủ trương của Nhà nước ta với từng thị trường và thậm chí
có thể giữ vai trò làm cầu nối giới thiệu đối tác cho các doanh nghiệp Việt
Nam khi có dịp. Đây là một nhiệm vụ rất quan trọng, tạo thuận lợi cho hoạt
động xuất khẩu lao động của các doanh nghiệp bởi không phải doanh nghiệp
nào cũng có đủ khả năng về tài chính và nhân lực để tiến hành các hoạt động
khảo sát, thăm dò, tìm đối tác ở thị trường xuất khẩu lao động nước ngoài.

1.7, Thành lập bộ phận quản lý lao động Việt Nam tại hai thị trường Nhật
Bản và Hàn Quốc.

Hai thị trường này là những nơi mà yêu cầu về công tác quản lý hết
sức cấp bách song chưa hề có cơ quan đại diện chuyên trách quản lý của
Chính phủ ta đóng tại đây. Tỷ lệ phá hợp đồng, bỏ trốn ra ngoài làm việc bất
hợp pháp của tu nghiệp sinh Việt Nam ở đây rất cao. Tình trạng này xuất
phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân từ sự thiếu sâu sát
trong công tác quản lý tu nghiệp sinh tại hai thị trường trên của các doanh
nghiệp xuất khẩu lao động Việt Nam nói riêng cũng như của các cấp ngành
chức năng thuộc Chính phủ ta nói chung. Gần như ta đã giao phó toàn bộ
công việc này cho chủ sử dụng và chính quyền nước bạn. Việc thành lập
một bộ phận đại diện chuyên trách quản lý tu nghiệp sinh của chính phủ ta
tại Nhật Bản và Hàn Quốc vào thời điểm hiện nay là một động thái tuy
muộn nhưng thực sự cần thiết.

68
1.8, Tăng cường các chính sách hỗ trợ ưu đãi cho hoạt động xuất khẩu
lao động trên từng thị trường, đồng thời giao nhiệm vụ cụ thể cho từng
ngành chức năng thực hiện.

Nhà nước ta cần tăng cường và thể chế hoá hơn nữa các chính sách hỗ
trợ ưu đãi cho hoạt động xuất khẩu lao động. Đầu tiên là các chính sách về
cơ chế cho vay tín dụng cần thông thoáng hơn nữa, các thủ tục xin vay vốn
cần được đơn giản hoá nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất cho người lao
động. Nghiên cứu để thay thế cho vay thế chấp toàn bộ bằng cho vay thế
chấp một phần hoặc tín chấp. Công việc này cần có chỉ thị cụ thể cho ngành
ngân hàng nước ta. Thủ tục và thời gian cấp các giấy tờ cần thiết cho người
lao động cũng cần được rút ngắn lại. Về việc đó phải có quy định cụ thể cho
các cơ quan hành chính cấp giấy tờ và nhận thực. Ngoài ra, Nhà nước có thể
yêu cầu các ngành có liên quan khác như thuế, hàng không, hải quan tạo
điều kiện cho người lao động đi xuất khẩu bằng cách cung cấp các dịch vụ
với mức giá ưu đãi, ưu tiên trong việc xếp chuyến bay..., ra chỉ thị cho Bộ
Văn hoá – Thông tin thực hiện tốt các hoạt động văn hoá tinh thần phục vụ
lao động ta ở nước ngoài v.v..

1.9, Thực hiện xã hội hoá hoạt động xuất khẩu lao động, tăng cường sự
tham gia của các đoàn thể, tổ chức nhân dân vào việc thúc đẩy hoạt động
xuất khẩu lao động.

Cần thu hút hơn nữa sự quan tâm của các cấp các ngành và mọi tầng
lớp nhân dân đối với hoạt động xuất khẩu lao động, khiến mọi người đều
nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động này trong công cuộc phát triển
kinh tế của nước ta. Cần làm cho các đối tượng lao động có cách nhìn nhận
đúng về việc đi xuất khẩu lao động là việc đi kiếm tiền bằng lao động chân
chính của mình ở nước ngoài, không có thái độ bài xích và cũng không coi
đó là cơ hội để "đi tìm thiên đường" nơi ngoại quốc.
Muốn làm tốt được công tác xã hội hoá hoạt động xuất khẩu lao động,
Nhà nước cần có chính sách chỉ đạo để tăng cường sự tham gia của các đoàn
thể, tổ chức nhân dân như Hội phụ nữ, Hội cựu chiến binh, Đoàn thanh
niên... của các địa phương vào việc thúc đẩy hoạt đông xuất khẩu lao động.
Ví dụ như : định hướng để các đoàn thể, tổ chức này tổ chức các cuộc toạ
đàm, tìm hiểu về xuất khẩu lao động và các chính sách có liên quan của
Đảng và Nhà nước ta; đứng ra bảo lãnh để người lao động vay vốn trang trải
chi phí trước khi đi...

69
1.10 Tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động ngoại giao ở tầm vĩ mô nhằm tiếp
cận những thị trường xuất khẩu lao động tiềm năng mới.

Hoạt động xuất khẩu lao động của nước ta không thể chỉ dừng lại ở
những thị trường đã khai thác hiện nay mà muốn phát triển chúng ta cần tìm
kiếm thêm nhiều thị trường xuất khẩu lao động mới. Hiện nay trên thế giới
nói chung và trong khu vực Đông và Đông Nam Á nói riêng còn rất nhiều
thị trường xuất khẩu lao động tiềm năng mà chúng ta chưa đặt chân lên
được. Nhà nước ta cần xúc tiến các nỗ lực ngoại giao cần thiết để bước đầu
tiếp cận, khai phá các thị trường này; đặt nền móng về mặt pháp lý để các
doanh nghiệp xuất khẩu lao động của ta tiến hành các bước tiếp theo nhằm
khai thác đưa lao động Việt Nam sang làm việc tại đây.

2, Về phía các doanh nghiệp xuất khẩu lao động :

2.1 Chuẩn bị tốt đội ngũ cán bộ chuyên môn có trình độ nghiệp vụ cao,
hiểu biết về pháp luật và nắm vững về thị trường xuất khẩu lao động.

Trong các yếu tố làm nên sự thành công của một doanh nghiệp xuất
khẩu lao động thì nhân lực chính là yếu tố quan trọng nhất. Đặc biệt với khu
vực thị trường Đông và Đông Nam Á là khu vực thị trường đa dạng, phức
tạp, nhiều đối thủ cạnh tranh, luật pháp có những nét đặc thù; mỗi doanh
nghiệp xuất khẩu lao động của ta phải tự xây dựng một đội ngũ cán bộ
chuyên môn có trình độ nghiệp vụ, có hiểu biết về pháp luật và nắm vững về
thị trường xuất khẩu lao động. Muốn vậy, doanh nghiệp cần tuyển chọn cán
bộ kỹ càng, tổ chức các hoạt động nhằm bồi dưỡng kiến thức về chuyên môn
nghiệp vụ cho cán bộ của mình, cử cán bộ tham gia vào các lớp học tập huấn
của Cục Quản lý lao động với nước ngoài, yêu cầu dội ngũ cán bộ phải cập
nhật những thông tin mới nhất về chính sach của Nhà nước và tình hình thị
trường xuất khẩu lao động, nếu có điều kiện thậm chí đưa cán bộ đi tìm hiểu
nâng cao trình độ ở nước ngoài.

2.2 Chủ động nắm bắt thông tin về nhu cầu lao động trên các thị trường
đồng thời tiến hành rộng khắp các hoạt động Maketting nhằm tiếp cận
đối tác, tìm kiếm đơn hàng.

Việt Nam hiện nay đang tiến hành hoạt động xuất khẩu lao động theo
cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước, trong bối cảnh đó, các doanh
nghiệp xuất khẩu lao động của ta phải tự thân vận động trong việc tìm kiếm

70
đơn hàng. Công việc đó vốn đã không dễ dàng càng trở nên khó khăn hơn
đối với những thị trường trong khu vực Đông và Đông Nam Á vì ở hầu hết
các thị trường này áp lực cạnh tranh trong việc cung ứng lao động rất cao.
Doanh nghiệp Việt Nam muốn đưa và đưa được nhiều lao động hơn sang
các thị trường này thì điều tất yếu là phải chủ động nắm bắt thông tin về nhu
cầu lao động trên các thị trường, đồng thời tiến hành rộng khắp các hoạt
động Maketting nhằm tiếp cận đối tác, tìm kiếm đơn hàng, cho dù công việc
này có thể tiêu tốn nhiều thời gian và công sức của doanh nghiệp. Nhìn
chung, hoạt động Maketting của các doanh nghiệp ta tại khu vực thị trường
Đông và Đông Nam Á thời gian vừa qua bị đánh giá là chưa đủ độ mạnh và
sức thuyết phục. Các doanh nghiệp xuất khẩu lao động cần phải quan tâm
chú trọng vấn đề này hơn nữa trong những năm tới.

2.3 Phải đặt lợi ích của người lao động lên hàng đầu khi nghiên cứu ký
kết các hợp đồng cung ứng lao động (tu nghiệp sinh) với phía đối tác, đặc
biệt về các điều khoản liên quan đến tài chính và điều kiện lao động.

Khi ký kết hợp đồng cung ứng lao động (tu nghiệp sinh), bao giờ các
công ty môi giới nước ngoài cũng đòi trả phí môi giới rất cao. Các doanh
nghiệp của ta cần thận trọng và đặt lợi ích của người lao động lên hàng đầu
khi nghiên cứu điều khoản này; cần tìm ra giải pháp hợp lý nhất có thể dung
hoà quyền lợi tài chính của cả công ty môi giới nước ngoài và người lao
động. Trong trường hợp cần thiết, phải kiên quyết gạt bỏ những đòi hỏi quá
mức của công ty môi giới. Bảo vệ quyền lợi người lao động vừa là trách
nhiệm của doanh nghiệp vừa là biện pháp tốt nhất để bảo về quyền lợi của
chính doanh nghiệp xuất khẩu lao động. Bởi khi phí môi giới (hoặc các chi
phí khác tương tự) quá cao, người lao động nhận được ít lương cảm thấy
không xứng đáng với sức lao động bỏ ra dễ phát sinh các hành vi tiêu cực
như tự ý phá hợp đồng, bỏ trốn ra ngoài làm việc để có mức lương cao hơn.
Khi đó doanh nghiệp xuất khẩu lao động Việt Nam sẽ phải đối mặt với một
loạt hậu quả do hành vi bỏ trốn của lao động gây ra, thậm chí có nguy cơ bị
thu hồi giấy phép nếu tỷ lệ lao động bỏ trốn quá cao.
Ngoài ra, các doanh nghiệp cũng cần lưu ý xem xét các nội dung khác
liên quan đến điều kiện sinh hoạt và làm việc như : giờ làm việc, số giờ tăng
ca có thể có, chi phí ăn ở có bị trừ vào lương không v.v..

2.4 Tăng cường phối hợp với các địa phương theo mô hình liên thông,
liên kết; tiến hành phổ biến thông tin về các đợt tuyển dụng, công việc và

71
các chi phí có liên quan đến từng người có nhu cầu đi xuất khẩu lao
động.

Mô hình liên thông liên kết giữa doanh nghiệp xuất khẩu lao động và
các cấp ngành của địa phương qua quá trình thí điểm đã thể hiện rõ tính ưu
việt của mình. Mô hình này giúp cho công tác tuyển người, làm thủ tục giấy
tờ cho lao động cũng như quản lý lao động của doanh nghiệp được thuận lợi
hơn rất nhiều. Nhiệm vụ của các doanh nghiệp xuất khẩu lao động là phải
tăng cường hơn nữa việc phối hợp với các địa phương theo mô hình này, nối
liền liên tục quan hệ thông tin hai chiều, kịp thời thông báo cho Ban chỉ đạo
xuất khẩu lao động địa phương về kế hoạch tuyển lao động, số lao động
trúng tuyển, số lao động đang đào tạo và số đã xuất cảnh. Đồng thời, kết hợp
với địa phương tiến hành phổ biến thông tin về các đợt tuyển dụng, công
việc và các chi phí có liên quan đến từng người có nguyện vọng đi xuất khẩu
lao động.

2.5 Tiến hành nghiêm túc khâu tuyển chọn lao động theo đặc tính công
việc và yêu cầu của chủ sử dụng nhằm đảm bảo chất lượng lao động.

Một trong những lý do chủ yếu khiến tỷ lệ lao động của ta không đáp
ứng được yêu cầu công việc, bị trả về nước trước thời hạn còn cao là do
khâu tuyển chọn lao động của các doanh nghiệp tiến hành chưa nghiêm túc.
Muốn hạn chế tình trạng này thì các doanh nghiệp phải tiến hành tuyển chọn
lao động trên cơ sở phù hợp với đặc tính công việc và yêu cầu của chủ sử
dụng. Việc tuyển chọn phải thật khách quan, nghiêm túc, kiên quyết gạt ra
ngoài danh sách những ứng viên không phù hợp về sức khoẻ, thể trạng, tuổi
tác, trình độ văn hoá v.v.. và những ứng viên có biểu hiện không thực sự
quyết tâm đi làm việc (đi với mục đích kết hôn hoặc dự định bỏ trốn). Cán
bộ tuyển chọn nên có từ 2 người trở lên để tránh thiên lệch, tiêu cực.

2.6 Tuân thủ nghiêm túc các văn bản quy định của Cục Quản lý lao động
với nước ngoài về đào tạo lao động.

Doanh nghiệp khi đào tạo lao động phải đảm bảo lao động được học
đủ chương trình, đủ thời lượng, tổ chức thi cấp chứng chỉ nghiêm túc, giáo
trình và tài liệu giảng dạy khác phải đúng theo quy định của Cục Quản lý lao
động với nước ngoài. Doanh nghiệp cần đầu tư trang bị các thiết bị cần thiết
cho hoạt động giảng dạy, nhất là giảng dạy về công việc chuyên môn. Đồng
thời doanh nghiệp có thể căn cứ theo tình hình thực tế để có sự bổ sung hợp

72
lý vào chương trình đào tạo, bảo đảm lao động sau khi xuất cảnh có khả
năng đáp ứng tốt yêu cầu công việc của chủ sử dụng.

2.7 Công tác tài chính đối với lao động cần tiến hành công khai, minh
bạch.

Doanh nghiệp cần phổ biến kỹ cho người lao động nắm rõ về tiền
lương, các khoản chi phí trước khi xuất cảnh và các khoản khấu trừ vào
lương hàng tháng. Đội ngũ cán bộ tài chính phải là những người giỏi nghiệp
vụ và nắm vững công việc chuyên môn. Khi tác nghiệp, cán bộ tài chính cần
giải thích căn kẽ cho người lao động về nội dung và số tiền của các khoản
thu chi, các chứng từ tương ứng như phiếu thu, phiếu chi phải rõ ràng; tránh
tình trạng mập mờ gây thắc mắc khó hiểu cho người lao động khiến người
lao động đánh mất lòng tin vào các doanh nghiệp xuất khẩu lao động Việt
Nam.

2.8 Nên cử cán bộ đại diện sang thị trường xuất khẩu lao động ở nước
ngoài để quản lý lao động.

Sự có mặt của cán bộ đại diện của doanh nghiệp tại thị trường xuất
khẩu lao động ở nước ngoài là vô cùng cần thiết. Cán bộ đại diện vừa là
người thay mặt doanh nghiệp nhận các đơn hàng lao động lại vừa phối hợp
với chủ sử dụng và công ty môi giới nước ngoài quản lý lao động. Doanh
nghiệp cần đào tạo được đội ngũ cán bộ đại diện có đủ trình độ ngoại ngữ,
nghiệp vụ, hiểu biết về luật pháp, phong tục tập quán nước sở tại, có phẩm
chất tốt, có tâm huyết với nghề.

2.9 Giải quyết chế độ theo đúng quy định và hợp lý đối với các trường hợp
lao động phải về nước trước thời hạn,

Mỗi khi gặp trường hợp lao động bị trả về nước trước thời hạn, doanh
nghiệp xuất khẩu lao động cần tìm hiểu rõ nguyên nhân lao động bị trả về để
có hướng giải quyết thích hợp. Cán bộ phụ trách giải quyết phải nghiêm túc
xem xét những nguyện vọng, yêu cầu của lao động. Trong trường hợp lao
động bị về nước do lỗi của chủ sử dụng hay công ty môi giới nước ngoài,
cần khéo léo nhưng kiên quyết yêu cầu bên có lỗi bồi thường thoả đáng cho
lao động. Nếu do lỗi của người lao động cũng cần giải thích rõ để người lao
động "tâm phục khẩu phục", đồng thời tuỳ theo từng trường hợp nên có hỗ
trợ về tài chính chia xẻ bớt khó khăn cho người lao động. Doanh nghiệp nên
trích nguồn thu từ phí quản lý lập quỹ dự phòng rủi ro để có nguồn kinh phí

73
giải quyết trong những trường hợp cần thiết, tránh để lao động do không
được giải quyết thoả đáng, đi khiếu kiện tố cáo, làm ảnh hưởng đến uy tín
của doanh nghiệp nói riêng và cách nhìn của dư luận xã hội với việc đi xuất
khẩu lao động nói chung.

2.10 Tổ chức thành lập Hiệp hội các doanh nghiệp cung ứng lao động
trên từng thị trường để cùng trao đổi thông tin phối hợp liên kết bảo vệ
quyền lợi của các hội viên, đồng thời qua đó bảo vệ quyền lợi của người
lao động.

Các công ty môi giới nước ngoài tại hầu hết thị trường xuất khẩu lao
động trong khu vực Đông và Đông Nam Á của ta đều liên kết với nhau trong
những Hiệp hội riêng nhằm bảo về quyền lợi của mình và ép doanh nghiệp
cung ứng lao động "nâng giá" phí môi giới. Thiết nghĩ, một mô hình Hiệp
hội như vậy nếu được thành lập giữa các doanh nghiệp xuất khẩu lao động
Việt Nam theo từng thị trường chắc chắn sẽ đem lại những thuận lợi rất lớn
cho hoạt động xuất khẩu lao động nước ta nói chung và của từng doanh
nghiệp nói riêng. Các doanh nghiệp của ta sẽ có cơ hội trao đổi thông tin,
cùng thoả thuận để "ghìm giá" phí môi giới, thực hiện các biện pháp tẩy
chay trong trường hợp công ty môi giới nào đó nước bạn không thực hiện
đúng cam kết. "Đoàn kết là sức mạnh" , Hiệp hội các doanh nghiệp cung
ứng lao động ra đời có thể khiến cho quyền lợi của mỗi doanh nghiệp hội
viên mà thông qua đó là quyền lợi của người lao động được đảm bảo hơn
nhiều so với tình trạng hoạt động riêng lẻ, thậm chí còn "dẫm lên chân nhau"
của các doanh nghiệp xuất khẩu lao động Việt Nam hiện nay.

74
KẾT LUẬN

Xuất khẩu lao động là một hoạt động trao đổi hàng hoá sức lao động
giữa các quốc gia, các nền kinh tế dựa trên cơ sở lợi thế về nguồn và cơ cấu
lao động.

Với nước ta - một quốc gia có dân số đông và nguồn lao động dồi dào
- thì xuất khẩu lao động thực sự là một lĩnh vực có nhiều lợi thế. Hơn thế
nữa, nó còn là một yêu cầu bức bách khi mà tình trạng thiếu việc làm ở nước
ta hiện nay vẫn đang là vấn đề làm đau đầu các nhà hoạch định chính sách.
Xuất khẩu lao động thực sự đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế
và giải quyết các nhu cầu xã hội ở nước ta.
Tình hình xuất khẩu lao động của Việt Nam thời gian qua có thể chia
làm hai thời kỳ : Thời kỳ hợp tác lao động quốc tế (1980 -1990) và thời kỳ
xuất khẩu lao động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước (1991
– nay). Điểm nổi bật của hoạt động xuất khẩu lao động Việt Nam trong thời
kỳ hợp tác quốc tế là hình thức cung ứng lao động chủ yếu thông qua Hiệp
định hợp tác lao động ký kết giữa Chính phủ ta với chính phủ bạn, thị trường
tiếp nhận phần lớn là các nước XHCN. Bước sang thời kỳ xuất khẩu lao
động theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước, chúng ta đã mất đi
hầu hết thị trường tiếp nhận lao động truyền thống trước đây. Tuy nhiên với
sự nỗ lực của Đảng, Nhà nước ta và trước hết là những cố gắng tự thân
không ngừng của các doanh nghiệp xuất khẩu lao động, hoạt động xuất khẩu
lao động của ta đã được khôi phục trở lại và không ngừng phát triển trong
những năm qua. Hiện nay, thị trường xuất khẩu lao động của ta đã mở rộng
đến trên 40 nước và vùng lãnh thổ.
Đông và Đông Nam Á là khu vực thị trường xuất khẩu lao động chủ
yếu của nước ta hiện nay. Khu vực này hàng năm tiếp nhận khoảng trên
40.000 lao động Việt Nam, chiếm gần 80% số lao động đi làm việc tại nước

75
ngoài của ta. Hiện tại khu vực này gồm có 5 thị trường đã mở cửa tiếp nhận
lao động của ta là Lào, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan và Malaysia tuy
nhiên dự báo trong tương lai số lượng thị trường của ta tại khu vực này chắc
chắn không dừng lại ở con số 5 như trên.
Nội dung của khoá luận này tập trung đề cập tới thực trạng xuất khẩu
lao động của ta sang thị trường các nước Đông và Đông Nam Á, bao gồm
các vấn đề chủ yếu : số lượng lao động xuất khẩu, cơ cấu lao động xuất
khẩu, thu nhập của lao động và nguồn kiều hối thu được, mô hình và công
tác tổ chức xuất khẩu lao động, cuối cùng là chất lượng lao động xuất khẩu.
Các vấn đề trên được xem xét ở cả 2 khía cạnh : chung cho cả khu vực và
riêng cho từng thị trường trong khu vực. Từ việc tái hiện toàn cảnh hoạt
động xuất khẩu lao động của ta tại khu vực thị trường này thông qua các số
liệu và nhận định, khoá luận cũng rút ra những đánh giá tổng quát về những
thành tựu mà chúng ta đã đạt được, những hạn chế mà ta cần phải khắc phục
và nguyên nhân của nó. Phần cuối khoá luận là những kiến nghị giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động xuất khẩu lao động tại khu vực thị trường
Đông và Đông Nam Á nói riêng cũng như trên toàn bộ thị trường xuất khẩu
lao động của ta nói chung. Những kiến nghị này - gồm hai phần : kiến nghị
đối với Nhà nước và kiến nghị với các doanh nghiệp xuất khẩu lao động -
được người viết mạo muội đề xuất trên cơ sở đã nghiên cứu kỹ tình hình,
thành tựu và tồn tại của hoạt động xuất khẩu lao động tại đây trong thời gian
qua cung như triển vọng của từng thị trường trong khu vực thời gian tới.

76

You might also like