Professional Documents
Culture Documents
2
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong học tập hoá học, việc giải bài tập có một ý nghĩa rất quan trọng. Ngoài
việc rèn luyện kỹ năng vận dụng, đào sâu và mở rộng kiến thức đã học một cách
sinh động; bài tập hoá học còn được dùng để ôn tập, rèn luyện một số kỹ năng
về hoá học. Thông qua giải bài tập, giúp học sinh rèn luyện tính tích cực, trí thông
minh, sáng tạo, bồi dưỡng hứng thú trong học tập.
Việc lựa chọn phương pháp thích hợp để giải bài tập lại càng có ý nghĩa
quan trọng hơn. Mỗi bài tập có thể có nhiều phương pháp giải khác nhau. Nếu
biết lựa chọn phương pháp hợp lý, sẽ giúp học sinh nắm vững hơn bản chất của
các hiện tượng hoá học.
Qua quá trình giảng dạy, bồi dưỡng học sinh giỏi nhiều năm và việc tham
khảo nhiều tài liệu, tôi đã tích luỹ được một số phương pháp giải bài tập hoá học.
Việc vận dụng phương pháp đồ thị trong toán học để giải nhanh một số bài tập
hoá học đã tỏ ra có nhiều ưu điểm, đặc biệt là khi các kỳ thi ngày nay đã chuyển
đổi sang phương pháp TNKQ. Trong trường hợp này, học sinh tiết kiệm được rất
nhiều thời gian tính toán để có kết quả. Một số tác giả khác cũng đã đề cập đến
cách làm này trong một số tài liệu tham khảo. Tuy nhiên, ở đó cũng mới chỉ dừng
lại ở việc giải một số bài tập đơn lẻ mà chưa có tính khái quát.
Chính vì vậy, tôi viết đề tài này nhằm khái quát việc vận dụng phương pháp
đồ thị trong toán học để giải một số bài tập hoá học. Thông qua đó tôi muốn giới
thiệu với các thầy cô giáo và học sinh một trong những phương pháp giải bài tập
hoá học rất có hiệu quả. Vận dụng được phương pháp này sẽ giúp cho quá trình
giảng dạy và học tập môn hoá học được thuận lợi hơn rất nhiều, nhanh chóng có
kết quả để trả lời câu hỏi TNKQ.
Đề tài được viết dựa trên cơ sở giải một số ví dụ điển hình bằng hai phương
pháp khác nhau. Trong đó có phương pháp đồ thị trong toán học. Tổ chức giảng
dạy ở một lớp, đánh giá việc vận dụng phương pháp này sau khi đã được học tập.
So sánh kết quả làm bài với một lớp khác không được giới thiệu vận dụng
phương pháp đồ thị trong toán học học tập. Trên cơ sở kết quả thu được, đánh
giá được ưu điểm và khái quát thành phương pháp chung cho một số dạng bài tập
hoá học có thể giải bằng phương pháp này.
3
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. PHƯƠNG PHÁP ĐỒ THỊ
Cơ sở của phương pháp là việc sử dụng đồ thị trong toán học để giải một số
hệ phương trình.
Trong hoá học, một số dạng bài tập được giải dựa trên cơ sở nội dung của
phương pháp này. Đó là trường hợp mà trong thí nghiệm hoá học có hai quá trình
lượng kết tủa tăng dần, sau đó giảm dần đến hết khi lượng chất phản ứng có dư.
Có thể vận dụng phương pháp này trong hoá học ở các trường hợp chủ yếu sau:
- Thổi khí CO2 vào dung dịch chứa hiđroxit của kim loại phân nhóm chính
nhóm II.
- Rót từ từ dung dịch kiềm đến dư vào dung dịch muối nhôm hoặc muối
kẽm.
- Rót từ từ dung dịch axit đến dư vào dung dịch muối có chứa anion AlO2-
hoặc ZnO22-.
Ta xem xét phương pháp giải một số bài tập dựa trên cơ sở đó thông qua
một số ví dụ sau.
II. CÁC VÍ DỤ
Ví dụ 1: Cho 10 lít (đktc) hỗn hợp A gồm N2 và CO2 ở đktc vào 2 lít dung
dịch Ca(OH)2 0,02 M thì thu được 1 gam kết tủa.
4
0,01
0,04
Trường hợp 2: Cả phản ứng (1) và (2) đều xảy ra ↔ Ca(OH)2 hết.
Số mol CaCO3
Dựa vào đồ thị, nếu sau phản ứng thu được 1 gam kết tủa thì ta có ngay:
Trường hợp 1: Số mol CO2 = 0,01 (mol).
Ví dụ 2: Hoà tan 26,64 gam chất X là tinh thể muối sunfat ngậm nước của
5
kim loại M hoá trị n vào nước được dung dịch A.
Cho A tác dụng với dung dịch NH3 dư, lọc lấy kết tủa, nung đến khối lượng
không đổi thì thu được 4,08 gam chất rắn B. Nếu cho A tác dụng với dung dịch
BaCl2 dư thì thu được 27,96 gam kết tủa.
b. Để lượng kết tủa lớn nhất thì chỉ xảy ra phản ứng (1).
Theo phương trình:
Số mol OH- = 3. Số mol Al3+ = 3. 0,08 = 0,24 (mol)
Để lượng kết tủa nhỏ nhất thì xảy ra cả phản ứng (1) và (2).
Theo phương trình:
Số mol OH- = 4. Số mol Al3+ = 4. 0,08 = 0,32 (mol)
Vậy, thể tích dung dịch NaOH 0,2 M cần thêm vào A để lượng kết tủa thu
được lớn nhất, nhỏ nhất tương ứng là:
V = 0,24 : 0,2 = 1,2 (lít) và V' = 0,32 : 0,2 = 1,6 (lít).
c. Số mol kết tủa Al(OH)3 thu được là 2,34 : 78 = 0,03 (mol).
6
0,03
0,08
7
Trường hợp 2: Số mol OH- = 0,29 (mol).
Ví dụ 3: Hoà tan vừa hết m gam Al vào dung dịch NaOH thì thu được dung
dịch A và 3,36 lít H2 (đktc).
a. Tính m.
b. Rót từ từ dung dịch HCl 0,2 M vào A thì thu được 5,46 gam kết tủa. Tính
thể tích dung dịch HCl đã dùng.
Lời giải
a. Phương trình phản ứng:
2 Al + 2 H2O + 2 NaOH → 2 NaAlO2 + 3 H2
→ m = 2,7 (gam).
* Phương pháp tự luận:
Phương trình hoá học của những phản ứng lần lượt xảy ra như sau:
H+ + H2O + AlO2- → Al(OH)3 (1)
8
0,07
0,1 a
9
b
a
a b
x a y 2a Số mol CO2
y = 2a - b (mol).
Dạng 2: Rót từ từ dung dịch kiềm đến dư vào dung dịch chứa a mol muối
Al3+ hoặc Zn2+. Sau phản ứng thu được b mol kết tủa.
* Số mol OH- đã phản ứng là: x = 3b (mol)
y = 4a - b (mol).
Số mol Al(OH)3
Số mol OH-
x 3a y 4a
Số mol Zn(OH)2
Số mol OH-
x 2a y 4a
* Số mol OH- đã phản ứng là: x = 2b (mol)
y = 4a - 2b (mol).
Dạng 3: Rót từ từ dung dịch axit đến dư vào dung dịch chứa a mol muối
AlO2- hoặc ZnO22-. Sau phản ứng thu được b mol kết tủa.
Số mol Al(OH)3
10
b
b
a
Số mol H+
x a y 4a
* Số mol OH- đã phản ứng là: x = b (mol)
y = 4a - 3b (mol).
Số mol Zn(OH)2
Số mol H+
x 2a y 4a
* Số mol H+ đã phản ứng là: x = 2b (mol)
y = 4a - 2b (mol).
IV. TỔ CHỨC THỰC HIỆN
Với nội dung phương pháp như đã trình bày ở trên, tôi đã áp dụng giảng dạy
ở các lớp khối 12 và thu được kết quả rất tốt.
Đối tượng áp dụng là học sinh lớp 12C8 và lớp 12C9 trường THPT Hàm
Rồng năm học: 2006 - 2007.
Học sinh lớp 12C8 được giới thiệu phương pháp đồ thị, còn học sinh lớp
12C9 chỉ được giới thiệu phương pháp truyền thống.
11
- Rót từ từ dung dịch Ba(OH)2 0,2M vào 150 ml dung dịch AlCl3 0,04M đến
khi thu được lượng kết tủa lớn nhất, nhỏ nhất. Thể tích dung dịch Ba(OH)2 đã
dùng tương ứng là:
A. 45 và 60 ml. B. 60 và 45 ml. C. 90 và 120 ml. D. 45 và 90 ml.
Kết quả chọn được số phương án đúng:
Tổng HS 1 2 3 4
Lớp 12C8 55 0 6 9 40
Lớp 12C9 52 1 9 11 31
Ngoài những lần kiểm tra, đánh giá lấy kết quả để so sánh như trên, tôi đã
theo dõi, so sánh trực tiếp trong bài giảng thông qua các câu hỏi vấn đáp. Mức độ
nắm vững bài, biết vận dụng kiến thức của học sinh 2 lớp đều có kết quả tương tự
như bài kiểm tra TNKQ.
Như vậy, với việc vận dụng phương pháp đồ thị trong toán học để giải một
số bài tập hoá học chắc chắn là một trong những phương pháp mang lại hiệu quả
cao trong quá trình giảng dạy cũng như học tập môn hoá.
12
C. KẾT LUẬN
Quá trình giảng dạy ở năm học vừa qua, đặc biệt là khi việc kiểm tra, đánh
giá học sinh chuyển sang hình thức kiểm tra TNKQ, tôi nhận thấy:
- Kiến thức của học sinh ngày càng được củng cố và phát triển sau khi hiểu
nắm vững được bản chất của các quá trình hoá học.
- Trong quá trình tự học, học sinh tự tìm tòi, phát hiện được nhiều phương
pháp khác nhau trong giải bài tập hoá học
- Niềm hứng thú, say mê trong học tập của học sinh càng được phát huy khi
biết sử dụng kiến thức toán học, đặc biệt là kiến thức về đồ thị để giải các bài tập
loại này.
- Học sinh nhanh chóng có được kết quả để trả lời câu hỏi TNKQ mà tránh
được việc bỏ sót nghiệm khi làm theo hình thức tự luận.
- Sử dụng phương pháp này trong giảng dạy, các thầy cô giáo sẽ không phải
mất nhiều thời gian trong việc mô tả hiện tượng, xét các trường hợp xảy ra.
Do năng lực và thời gian có hạn, đề tài có thể chưa bao quát hết được các
loại dạng của phương pháp. Các ví dụ được đưa ra trong đề tài có thể chưa thực
sự điển hình nhưng vì lợi ích thiết thực của phương pháp trong công tác giảng
dạy và học tập nên tôi mạnh dạn viết, giới thiệu với các thầy cô và học sinh.
Rất mong sự đóng góp ý kiến bổ sung cho cho đề tài để thực sự góp phần
giúp học sinh học tập ngày càng tốt hơn.
Xin chân thành cảm ơn.
Thành phố Thanh Hóa, ngày 25/4/2007
Người viết
13