Professional Documents
Culture Documents
1/ khái niệm:
. Đường thủy nội địa là luồng, âu tàu, các công trình đưa phương tiện qua đập, thác trên
sông, kênh, rạch hoặc luồng trên hồ, đầm, phá, vụng, vịnh, ven bờ biển, ra đảo, nối các
đảo thuộc nội thuỷ của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam được tổ chức quản lý,
khai thác giao thông vận tải.
Luồng chạy tàu thuyền (sau đây gọi là luồng) là vùng nước được giới hạn bằng hệ thống
báo hiệu đường thuỷ nội địa để phương tiện đi lại thông suốt, an toàn.
Âu tàu là công trình chuyên dùng dâng nước, hạ nước để đưa phương tiện qua nơi có
mực nước chênh lệch trên đường thuỷ nội địa.
Kết cấu hạ tầng giao thông đường thuỷ nội địa bao gồm đường thuỷ nội địa; cảng, bến
thuỷ nội địa; kè, đập giao thông và các công trình phụ trợ khác.
2. Đường thuỷ nội địa được phân loại thành đường thuỷ nội địa quốc gia, đường thuỷ nội
địa địa phương và đường thuỷ nội địa chuyên dùng. Đường thuỷ nội địa được chia thành
các cấp kỹ thuật.
Cảng thuỷ nội địa là hệ thống các công trình được xây dựng để phương tiện, tàu biển neo
đậu, xếp, dỡ hàng hoá, đón, trả hành khách và thực hiện các dịch vụ khác. Cảng thuỷ nội
địa bao gồm cảng công cộng và cảng chuyên dùng.
Bến thuỷ nội địa là vị trí độc lập được gia cố để phương tiện neo đậu, xếp, dỡ hàng hoá,
đón, trả hành khách. Bến thuỷ nội địa bao gồm bến công cộng và bến chuyên dùng.
Cảng, bến thuỷ nội địa chuyên dùng là cảng, bến thuỷ nội địa của một hoặc một số tổ
chức kinh tế chỉ dùng để xếp, dỡ hàng hoá, vật tư phục vụ cho sản xuất hoặc phục vụ
đóng mới, sửa chữa phương tiện cho chính tổ chức đó.
Sông, kênh việt nam có lưu lượng nước bình quân 26.600m3/s, trong tổng lượng nước
này, phần được sinh ra trên lãnh thổ việt nam chiếm khoảng 38,5%, phần từ nước ngoài
chảy vào việt nam chiếm 61,5 %. Lượng nước được phân phối không đồng đều giữa các
hệ thống sông. Hệ thống sông mê kông chiếm 60,4%, hệ thống sông hồng chiếm 15,1%,
các hệ thống sông còn lại chiếm 24,5%.
Hầu hết các sông ở việt nam chảy theo hướng tây bắc-đông nam và đổ ra biển đông.
Ngoại lệ có sông kỳ cùng và bằng giang. Chảy theo hướng đông nam-tây bắc. do các
sông bắt nguồn từ các núi cao nên sông ở thượng lưu rất dốc, độ dốc bình quân của sông
hồng đến việt trì là 23 cm/km., sông lô là 33cm/km. các sông ở đông trường sơn độ dốc
còn lớn hơn, có nơi lên trên 100cm/km. chính vì vậy vào mùa mưa sông ở khu vực này
chảy xiết, các phương tiện vận tải ngược dòng rất khó khăn. Khi chảy về đồng bằng với
độ dốc còn khoảng vài cm/km, sông uốn khúc quanh co và tạo nên nhiều bãi cạn, gây khó
khăn cho vận tải đường thủy về mùa khô.
Theo khái niệm thủy văn, nước ta có 2 mùa mưa và khô. Các mùa mưa, khô dài ngắn
khác nhau và lệch pha với nhau theo các vùng trong cả nước.
Mùa lũ ở nước ta dài khoảng 3 đến 6 tháng, lượng nước chiếm từ 60-90% lượng nước cả
năm. Cũng như mưa, lũ chậm dần từ bắc vào nam. Lũ sớm nhất là trên sông sông bằng
giang-kỳ cùng từ tháng 6 đến tháng 9. ở bắc trung bộ, mùa lũ kéo dài đến tháng 10, cục
đại vào tháng 9. sông hương mùa lũ từ tháng 9 đến tháng 12, cực đại vào tháng 10, sông
thu bồn và sông ba cực đại vào tháng 11. ở nam bộ, lũ cực đại vào tháng 9 và 10.
Mùa cạn ở nước ta dài hơn mùa lũ, có từ 6 đến 9 tháng. Lượng nước chiếm từ 20-30%
tổng lượng nước năm. Tháng kiệt nhất xuống tới 1-2%, thậm chí có sông không còn nước
như vùng cực nam trung bộ.. khu vực đông bắc mùa cạn đến sớm từ tháng 10 đến tháng
5, tháng kiệt nhất là tháng 2. ở đồng bằng bắc bộ và bắc trung bộ, mùa cạn từ tháng 11
đến tháng 5, kiệt nhất là tháng 3. ở sông gianh kiệt nhất là tháng 4.
Tiềm năng:
Các dự báo mới nhất cho thấy, nhu cầu vận tải hàng hóa bằng đường biển của khu vực
ĐBSCL hiện tại vào khoảng 12,5 triệu tấn/năm, đến năm 2020 lượng hàng qua các cảng
trong khu vực tối đa có thể đạt 20,35 triệu tấn/năm
DANH MỤC CÁC TUYẾN ĐƯỜNG THỦY NỘI ĐỊA QUỐC GIA
(Ban hành kèm theo Quyết định số 970/QĐ-BGTVT ngày 15 tháng 4 năm 2009 của Bộ trưởng
vận tải)
sông cầu được xem như dòng chính, xuất phát từ na dinh chảy qua bắc cạn, chợ mới, thái
nguyên đến phả lại dài 264km. sông thương bắt nguồn từ vùng làng man chảy về phả lại
dài 157 km. sông lục nam chảy từ cùng chiềng chan về phả lại dài khoảng 167 km. trên
hệ thống sông thái bình, sông cầu có mùa lũ từ tháng 6 đến tháng 10, sông thương và lục
nam từ tháng 11 đến tháng 9. lượng nước mùa lũ rất lớn, chiếm khoảng 70% tong lượng
nước cả năm
hệ thống sông hồng có rất nhiều phụ lưu, hai phụ lưu quan trọng nhất là sông đà và sông
lô. Sông đà có chiều dài tổng công là 1.010km, đoạn chảy qua việt nam dài 527 km.sông
lô có chiều dài tổng cộng 470 km, đoan chảy qua đất việt nam dái 274 km. hai phụ lưu
chính này cùng với các phụ lưu khác đã hợp với dòng chính của sông hồng tạo thành
mạng lưới sông hình rẻ quạt và hội tụ tại việt trì. Chính dạng mạng lưới sông này đã tổ
hợp lũ các phụ lưu vói lũ của dòng chính để gây nên những trận lũ lớn ở đồng bằng bắc
bộ. sông hồng có 5 nthang1 lũ (6-10) chiếm một lượng nước 75% tổng lượng nước cả
năm, đỉnh lũ là tháng 8. tính nguy hiểm của lũ ở hệ thống sông hồng là lũ xảy ra đồng
thời trên toàn khu vực. gây ra sự tổng hợp lũ rất nguy hiểm. sau khi xây dựng đập thủy
điện hòa bình, sự phối hợp lũ đã giảm nhiệu lần, nhưng sự phối hợp lũ 2 sông thao và lô
cũng tạo nên lũ lớn ở hạ lưu, điển hình là ở hà nội. lũ ở hạ lưu sông hồng được giảm
nhanh vào lúc triều kiệt, và nhờ nước thoát qua các sông đuống, sông luộc, sông trà lý.
Do vậy, lũ sông hồng có ảnh hưởng đến sông thái bình. Sông hồng có 7 tháng mùa cạn
(11-5), kiệt nhất là tháng 3. vào mùa cạn, các tuyến vận tải sông đi qua hệ thong sông
hồng thường có nhiều bãi cạn gây khó khăn, ách tắc giao thông (bãi soi dậu (sông lô),
bãi chim, ngã ba hưng long….)
phía nam sông hồng có: sông đáy dài 237 km chảy qua cửa đáy, sông ninh cơ dài 61 km
nối với sông hồng tại ngã 3 môm rô chảy qua cửa rạch giang. Nối sông hồng với sông
đáy là sông nam định dài 33,5 km
hệ thống sông mã có 5 tháng mùa lũ (6-10), đỉnh lũ là tháng 8. mùa cạn dài 7 tháng( 9-5),
tháng kiệt nhất là tháng 3.
Hệ thống sông mã nối với sông đáy qua các sông, kênh: vạc, yên mô, kênh ngã, sông lèn,
kênh de, sông trường và kênh choán. Như vậy từ cảng lệ môn trên sông mã có thể đi bằng
đường sông đến hòa bình, yên bái, tuyên quang, phả lại…
sông đồng nai có các phụ lưu: phía tả ngạn có sông la ngà dài 272 km, phía hữu ngạn có
sông bé dài 344km, sông sài gòn dài 265 km. sông vàm cỏ đông dài 156 km, vàm cỏ tây
dài 129 km.các sông này chảy vào sông soài rạp và chảy ra biển bằng cửa soài rạp tại cần
giờ tạo thành một hình nan quạt. ngoài các phụ lưu trên phía tả ngạn từ nhà bè, cần giờ,
long thành. Sông đồng nai còn có các phân nhánh: sông long tau…là luồng chính vào các
cảng trên sông sài gòn. Các sông đồng tranh, lô gia, thị vải, ngã bảy….là những phụ lưu
đầy tiềm năng cho việc xây dựng cảng và phát triển kinh tế.
sông đồng nai có tiềm năng lớn về thủy năng, có độ dốc trung bình 0,033% sông tuy có
nhiều ghềnh thác ở thượng lưu nhưng không tạo thành đột biến đáng kể. ngoài những
đoạn thác ghềnh, nước chảy tương đối điều hòa. Sông đồng nai có 2 mùa mưa và khô,
mùa lũ thường có 5 tháng (7-11) lũ lớn nhất vào tháng 9, 10. mùa khô khoảng 7 tháng
(12-6). Kiệt nhất là tháng 2, 3.
Sông đồng nai chịu ảnh hưởng của thủy triều biển đông tương đối mạnh và thao chế độ
bán nhật triều với biên độ ngoài cửa trung bình khoảng 2-3,5m. thủy triều ảnh hưởng sâu
vào trong sông. Lên đến tân uyên với biên độ trung bình từ 1-2m. mùa khô thủy triều lên
đến ngã 3 sông bé, sông đồng nai.
Sông tiền giang và hậu giang được nối với nhau bằng hệ thống sông tự nhiên và kenh,
đào như: kênh tân châu, châu đốc, sông vàm nao, kenh lấp vò- sa đéc, kênh chợ lách,
sông măng thít và rạch trà ôn. Hai hệ thống sông cửu long và đồng nai được nối với nhau
bằng kênh chợ gạo.
Sông cửu long có 5 tháng lũ (7-11) đỉnh lũ thường xuất hiện vào cuối tháng 9 đầu tháng
10. còn lại là những tháng mùa khô, nước kiệt nhất vào tháng 4. lũ ở sông cửu long lên từ
từ và khi rút cũng chậm. là do độ dốc sông cửu long ở khu vực việt nam nhỏ, kết hợp với
sự điều tiết tự nhiên của biển hồ làm cho nước lũ lên chậm và xuông cũng chậm.
Hệ thống sông cửu long có chế độ thủy văn hết sức phức tạp, chịu ảnh hưởng của 2 chế
độ thủy triều: ở biển đông với chế độ bán nhật triều không đều với biên độ trung bình 3
m. ở khu vực vịnh thái lan theo chế độ nhật triều không đều với biên độ trung bình 0,7
đến 1m.
Thủy triều với chế độ bán nhật triều thuận lợi cho giao thông đường sông trong việc lợi
dụng con nước để vận tải. nhưng với các kênh đào nói giữa 2 sông chính hoặc từ sông
chính vào các kênh chạy song song với biển thường xảy ra hiện tượng giao thoa thủy
triều, tọa nên vận tốc dòng chảy nhỏ, có lúc bằng không dẫn đến tình trạng bồi lắng bùn
cát gây khó khăn cho vận tải. ngoài ra do ảnh hưởng của lũ lụt ( trung bình 3-4 nam 1
lần)trên hệ thống sông cửu long cũng gây tác hại đến đời sống, sinh hoạt của cư dân sinh
sống trên đồng bằng sông cửu long.
Ngoài 2 hệ thống sông chính đồng nai và me6kong. Về phía tây nam còn có các sông;
sông bé dài 55km, sông cái lớn dài 46 km, sông ông đốc dài 44km, sông gành hào dài 44
km, sông cửa lớn dài 58 km,… các sông này được hình thành cùng với sự phát triển miền
đất phía tây nam bộ. sông ở khu vực này quanh co, uốn khúc, không có nguồn gốc rõ rệt.
các cửa sông ra biển đông gồm có: cửa bồ đề, sông cửa lớn, cửa gành hào, các cửa ra
vịnh thái lan gồm có: cửa sông ông đốc, cửa sông cái bé, cái lớn. do ở phía đông và phía
tây đều là biển và có chề độ thủy triều khác nhau. Các sông nối từ biển đông sang vịnh
thái lan biên độ triều giảm dần. nhiều nơi trong các sông gần như không có dòng chảy. tất
cả những yếu tố trên đã tạo ra sự phức tạp cho luồng lạch ở khu vực tây nam bộ.
Kết luận:
Như vậy, việt nam cơ bản có 9 hệ thống sông. Trong 9 hệ thống sông ngòi kể trên.
Chúng ta chỉ xây dựng cảng biển chủ yếu ở 4 hệ thông sông: sông thái bình, sông hồng,
sông đồng nai và sông cửu long. Trong 4 hệ thông sông này thì hệ thống sông đồng nai là
có độ sâu tốt nhất và ổn định nhất ( lượng sa bồi phải nạo vét hằng năm không đáng kể)-
cảng sài gòn, tân cảng, VICT, bến nghé nằm trên sông sài gòn và sông đồng nai đều
thuộc hệ thống sông đồng nai. Hệ thống sông thái bình và sông hồng bị sa bồi từ 2 nguồn
chính: sa bồi từ thượng nguồn và dòng vận chuyển bùn cát dọc bờ biển nên cảng hải
phòng và các cảng lân cận chỉ có thể tiếp nhận được 10.000 t đầy tải. hệ thống sông mê
kong cũng có điều kiện tương tự và chỉ cho phép tàu có trọng tải 10.000t ra vào nhưng
khó khăn hơn khi vượt qua cửa định an.