You are on page 1of 20

I.

Các lý thuyết mới về thương mại quốc tế:

1. Thương mại dựa trên tính kinh tế theo quy mô:

Trình bày: Phạm Quang Tăng

2. Thương mại dựa trên sự biến đổi công nghệ

2.1. Lý thuyết khoảng cách công nghệ:

Trình bày: Vũ Thu Hà

2.2. Lý thuyết vòng đời sản phẩm:

Trình bày: Trần Thị Quỳnh

3. Lý thuyết thương mại liên quan đến cầu

3.1. Sự phân hóa sản phẩm và thương mại nội bộ ngành

3.2. Giả thuyết Linder

Trình bày: Phạm Thu Hà

II. Lý thuyết về các giai đoạn tăng trưởng kinh tế của Rostow:

Trình bày: Nguyễn Thị Kim Chi

III. Lý thuyết vòng luẩn quẩn:

Trình bày: Nguyễn Thị Kim Hoàn

IV. Lý thuyết cú huých lớn từ bên ngoài:

Trình bày: Trương Đức Trọng

1
CÁC LÝ THUYẾT MỚI VỀ KINH TẾ QUỐC TẾ
Các hoạt động kinh tế quốc tế phát triển ngày càng mạnh mẽ, thực tiễn đã cho
thấy nhiều vấn đề mới đặt ra trong quan hệ kinh tế mà các lý thuyết truyền thống
chưa giải thích được. Điều này đã đặt ra yêu cầu cấp bách cho việc xây dựng các lý
thuyết kinh tế quốc tế mới để giải thích đầy đủ hơn các khía cạnh đa dạng và
thường xuyên biến đổi của lĩnh vực kinh tế quốc tế. Các lý thuyết mới này có cách
tiếp cận khác với các lý thuyết truyền thống trong lĩnh vực kinh tế quốc tế. Các lý
thuyết truyền thống thường coi các chủ thể tham gia vào quan hệ thương mại quốc
tế là các quốc gia chứ không phải các doanh nghiệp mà trên thực tế tình hình diễn
ra lại ngược lại. Hơn nữa, các lý thuyết truyền thống về kinh tế quốc tế chủ yếu đề
cập đến lĩnh vực thương mại, trong khi đó lĩnh vực kinh tế quốc tế còn có cả lĩnh vực
đầu tư, tài chính tiền tệ,di chuyển lao động,... Do đó, có thể xem các lý thuyết mới
này đưa ra nhiều cách tiếp cận đa dạng hơn và ở phạm vi lớn hơn so với các lý
thuyết truyền thống, mặc dù cho đến này vẫn chưa có một lý thuyết nào giải thích
một cách đầy đủ mọi khía cạnh khác nhau của lĩnh vực kinh tế quốc tế.

I. Các lý thuyết mới về thương mại quốc tế


Kinh tế học hiện đại có nhiều lý thuyết mới về thương mại quốc tế nhưng có thể
phân thành 3 nhóm, căn cứ vào các cách tiếp cận của chúng: Lý thuyết dựa trên
hiệu suất theo qui mô; lý thuyết liên quan đến công nghệ; và lý thuyết liên quan
đến cầu.

1.Thương mại dựa trên tính kinh tế theo qui mô

Một trong những lý do quan trọng dẫn đến thương mại quốc tế theo tính
kinh tế theo qui mô. Đó là sản xuất được coi có hiệu quả nhất khi được tổ chức trên
qui mô lớn. Lúc đó một sự gia tăng đầu vào với tỷ lệ nào đó sẽ dẫn tới sự gia tăng
đầu ra( sản lượng) với tỷ lệ cao hơn. Lưu ý rằng các mô hình thương mại truyền
thống như: H – O và Ricardo đều dựa trên giả định về hiệu suất không đổi theo qui
mô. Trong trường hợp hiệu suất tăng dần thì đường giới hạn khả năng sản xuất
thường là một đường cong lồi về phía gốc tọa độ, và khi đó chi phí cơ hội là giảm
dần. Điều này cho phép thương mại giữa các nền kinh tế giống nhau diễn ra một
cách cùng có lợi.

Hình 1 minh họa cho thương mại dựa trên hiệu suất tăng dần theo qui mô.
Giả sử hai nước là Nhật Bản và Mỹ giống nhau về mọi khía cạnh ( công nghệ sản
xuất, mức độ trang bị các yếu tố, sở thích). Giả thiết này loại trừ khả năng giải
thích thương mại hình thành giữa hai nước bằng lý thuyết H – O. Cả hai nước đều

2
sản xuất hai mặt hàng là tàu thủy và máy bay. Do giống nhau cho nên hai nước có
cùng một đường giới hạn khả năng sản xuất là UV và các đường bàng quan I1,I2,I3.

Hình 1 – Thương mại dựa trên hiệu suất tăng dần theo quy mô.

Tàu

U
I2
N S
R M
E

0 T K V
Máy bay

Khi chưa có thương mại, hai nước có chung điểm cân bằng, tức cùng sản
xuất và tiêu dùng tại điểm E, nơi đường giới hạn khả năng sản xuất tiếp xúc với
đường bàng quan I1. Mức giá hàng hóa tương quan giữa hai nước cũng bằng nhau
và được biểu thị bằng độ dốc của đường giá cả chung ST.

Khi có thương mại, Nhật Bản thực hiện chuyên môn hóa hoàn toàn việc sản
xuất tàu thủy, cụ thể tại điểm sản xuất mới là U. Còn Mỹ thì chuyên môn hóa hoàn
toàn việc sản xuất máy bay, tại điểm sản xuất mới là V. Nhật Bản sẽ xuất khẩu RU
(hoặc MK) tàu thủy để đổi lấy RN( hoặc KV) máy bay của Mỹ: Hai tam giác
thương mại URN và MKV là bằng nhau. Cả hai nước đều có lợi do đạt tới các
điểm tiêu dùng cao hơn.

Như vậy, mức giá hàng hóa tương quan giống nhau không cản trở việc hai
nước buôn bán một cách có lợi với nhau. Lưu ý là trong mô hình thương mại dựa
trên hiệu suất theo qui mô, tỷ lệ trao đổi quốc tế cũng đúng bằng mức giá tương
quan trước khi có thương mại, và mỗi nước thực hiện chuyên môn hóa hoàn toàn
nhưng với hướng chuyên môn hóa là không xác định. Những điểm này cho thấy sự
khác biệt giữa thương mại dựa trên hiệu suất theo qui mô và thương mại dựa trên
lợi thế so sánh.

3
2. Thương mại dựa trên sự biến đổi công nghệ

Trong các lý thuyết thương mại trước đây, yếu tố công nghệ chưa được xét
đến. Ở lý thuyết của Adam Smith và Ricardo: thương mại hình thành trên cơ sở có
sự khác biệt về năng suất lao động giữa các quốc gia (chỉ đề cập đến vấn đề lao
động). Còn lý thuyết H - O là một mô hình thương mại tĩnh, quyết định thương mại
dựa trên tương quan sử dụng các yếu tố sản xuất của quốc gia (lao động và vốn)
với công nghệ được giả định là giống nhau giữa các quốc gia.

Trên thực tế, quy mô và trình độ sản xuất của mỗi quốc gia là khác nhau,
điều này cơ bản phụ thuộc vào trình độ phát triển công nghệ của mỗi quốc gia.
Như các bạn đã biết, Nhật Bản vốn là nước rất nghèo nàn về tài nguyên ngoại trừ
gỗ và hải sản, trong khi dân số thì quá đông, phần lớn nguyên nhiên liệu phải nhập
khẩu, kinh tế bị tàn phá kiệt quệ trong chiến tranh, kinh tế Nhật Bản đã nhanh
chóng phục hồi (1945-1954) phát triển cao độ (1955-1973) khiến cho thế giới hết
sức kinh ngạc. Những mặt hàng xuất khẩu chính của Nhật là thiết bị giao thông
vận tải, xe cơ giới, hàng điện tử, máy móc điện tử và hóa chất. Vậy bí quyết cho sự
phát triển thần kì của Nhật Bản là gì ? câu trả lời chính là các chính sách phát triển
phù hợp, đặc biệt là " nghiên cứu và phát triển công nghệ"

Sự bùng nổ của cuộc cách mạng khoa học công nghiệp lần 3 (1913-1950) đã
làm xuất hiện và phát triển nhanh chóng các ngành năng lượng hạt nhân, hóa dầu,
công nghệ tin học, sinh học, ... làm gia tăng đầu tư và buôn bán quốc tế, thúc đẩy
sự phát triển của nền kinh tế thế giới về cơ sở vật chất- kĩ thuật lên một tầm cao
mới. Với tiền đề này, các lý thuyết thương mại liên quan đến công nghệ ra đời. Về
thực chất, các lý thuyết này cũng theo đuổi cách tiếp cận chủ yếu của lý thuyết
Ricardo, nhưng điểm khác biệt ở chỗ : có sự khác biệt về công nghệ sản xuất ở các
quốc gia và sự khác biệt này không phải là yếu tố tĩnh tồn tại mãi mãi mà là 1 hiện
tượng tạm thời và gắn liền với 1 quá trình động, liên tục phát triển.

2.1 Lý thuyết về khoảng cách công nghệ.

• Lý thuyết về khoảng cách công nghệ được nhà kinh tế Posner đưa ra vào năm
1961. Nó dựa trên ý tưởng cho rằng công nghệ luôn thay đổi dưới hình thức các
phát minh sáng chế mới và điều này có tác động đến xuất khẩu của quốc gia.
• Quá trình tác động của như sau:

4
- Phát minh mới ra đời => sản phẩm mới xuất hiện và trở thành mặt hàng mà
quốc gia phát minh có lợi thế tuyệt đối tạm thời
- Ban đầu, hãng phát minh ra sản phẩm giữ vị trí độc quyền và sản phẩm được
tiêu thụ trong thị trường nội địa. Sau 1 thời gian, xuất hiện nhu cầu từ phía
nước ngoài và sản phẩm bắt đầu được xuất khẩu
- Dần dần có sự bắt chước công nghệ, sản phẩm được sản xuất ngay ở nước
ngoài =>Khi đó xuất hiện lợi thế so sánh về sản xuất sản phẩm này tại các
quốc gia
- Khi mà sản phẩm này được nước ngoài sản xuất có hiệu quả hơn thì lợi thế
so sánh thuộc về nước ngoài. Quốc gia phát minh không xuất khẩu sản phẩm
này nữa mà phát minh 1 sản phẩm mới khác để quá trình mô tả ở trên được
lặp lại.

Lưu ý: trong mô hình khoảng cách công nghệ, sản phẩm chỉ được xuất khẩu nếu
như thời gian cần thiết để sản phẩm bị bắt chước ở nước ngoài dài hơn thời gian
xuất hiện nhu cầu về sản phẩm từ thị trường nước ngoài.

• Lý thuyết trên có thể giải thích cho 2 dạng thương mại:

- Thứ nhất: nếu như cả 2 quốc gia có tiềm năng công nghệ như nhau thì vẫn
có thể hình thành quan hệ thương mại. Vì phát minh sáng chế trong chừng
mực nào đó là 1 quá trình ngẫu nhiên, vai trò tiên phong của 1 nước trong 1
lĩnh vực nào đó sẽ được đối lại bởi vai trò tiên phong của nước kia trong lĩnh
vực khác. Dạng thương mại này thường diễn ra giữa các nước công nghiệp
phát triển như Nhật -Mỹ, từng diễn ra trong thời kì hoàng kim của cộng
đồng các nước châu Âu (EU) ..
- Thứ hai: quan hệ thương mại hình thành khi 1 nước tỏ ra năng động về mặt
công nghệ hơn nước kia. Khi đó, nước thứ nhất thường xuất khẩu những mặt
hàng mới công nghệ phức tạp hơn để đổi lấy những mặt hàng đã chuẩn hóa
từ nước thứ 2. Dần dần, các mặt hàng mới này lại trở nên chuẩn hóa, nhưng
với tính ưu việt về công nghệ cho nên nước thứ nhất lại cho ra đời các sản
phẩm mới khác. Mặt khác, các nước kém năng động hơn vẫn mắc lại ở mức
độ năng động công nghệ thấp. Dạng thương mại này thường diễn ra giữa 1
nước công nghiệp phát triển với nước chậm phát triển hơn như Nhật - Việt
Nam...

• Các yếu tố quyết định vai trò tiên phong của 1 nước trong lĩnh vực công nghệ:

5
- Thể chế: công tác nghiên cứu và phát triển sản phẩm của 1 nước cần được
khuyến khích bởi những bộ luật thích hợp về phát minh sáng chế, bản quyền
và thuế.
- Nguồn lực thích hợp cho công tác nghiên cứu phát triển: đặc biệt là nguồn
nhân lực chất lượng cao như các nhà khoa học và kỹ sư và không thể thiếu
nguồn vốn dồi dào
- Tồn tại thị trường thích hợp với sản phẩm mới: do các sản phẩm mới thường
được sản xuất với chi phí rất cao trong giai đoạn đầu nên cần phải có 1 thị
trường quy mô lớn và sức mua cao cho sản phẩm.

Những yếu tố cơ bản trên cho thấy rằng các phát minh sáng chế thường ra đời ở
các nước giàu có và phát triển.

• Đánh giá lý thuyết:

Ưu điểm Nhược điểm

- Đề cao vấn đề công nghệ - 1 vấn đề - Phát minh ra đời ở nước nào thì chỉ
chìa khóa trong sự phát triển bùng nổ có nước ấy có lợi thế sản xuất trong 1
của nền kinh tế thế giới thời gian dài, bỏ qua sự chuyển giao
công nghệ
- Giải thích được sự tác động của
công nghệ đến thương mại quốc tế - Chưa giải thích được sự trao đổi
quốc tế giữa các quốc gia không có
- Giải thích quá trình thương mại
lợi thế công nghệ
liên quan đến các quốc gia giàu có, có
lợi thế công nghệ phát triển - Các nước không phát minh ra công
nghệ mới hay là nước kém năng động
- Chỉ ra rằng lợi thế so sánh có thể
về công nghệ tỏ ra yếu thế, chịu thiệt
thay đổi theo từng giai đoạn, dẫn đến
hơn trong thương mại quốc tế.
sự thay đổi cơ cấu sản xuất của các
quốc gia.

2.2. Lý thuyết vòng đời sản phẩm: (Product life-cycle theory)


Lý thuyết vòng đời sản phẩm (các đại diện là Vernon và Hirsch) cũng có
những ý nghĩa tương tư như lý thuyết về khoảng cách công nghệ.

6
Một sản phẩm mới được phát minh đầu tiên ở một nước có nền công nghệ
hàng đầu ví dụ như Mỹ, họ sản xuất sản phẩm này ban đầu để phục vụ cho thị
trường nội địa và sau đó xuất khẩu sang các nươc khác, họ là những người xuất
khẩu ròng sản phẩm. Ở giai đoạn sản phẩm trưởng thành và được tiêu chuẩn hóa
thì sản phẩm đã được sản xuất rộng rãi ở nhiều nước khác và sự cạnh tranh ngày
càng cao hơn với công nghệ sản xuất sản phẩm đã được lan truyền và mô phỏng
rộng rãi ở nhiều nước, lượng xuất khẩu ròng của nước phát minh sản phẩm sẽ ngày
càng giảm. Cuối cùng, việc sản xuất sản phẩm sẽ được diễn ra ở các nước đang
phát triển và xuất khẩu ngược trở lại các nước phát triển và nước đã phát minh ra
sản phẩm (thông qua quá trình đầu tư trực tiếp của các nước phát triển vào các
nước đang phát triển), nước phát minh ra sản phẩm cũng như các nước phát triển
khác trở thành những nước nhập khẩu ròng sản phẩm này.
Vernon và Hirsch lập luận rằng các nhân tố cần thiết cho việc sản xuất một
hàng hóa, sản phẩm sẽ thay đổi theo vòng đời của sản phẩm đó. Việc phát minh
một sản phẩm mới là một công việc tốn kém và nhiều rủi ro, cần những công nhân
có trình độ chuyên môn cao và có lẽ chỉ có những người có thu nhập cao mới có
khả năng tiêu thụ nên việc sản xuất sản phẩm trong giai đoạn đầu tập trung tại các
nước giàu có, phát triển. Khi bản thân sản phẩm và qui trình sản xuất dần được
chuẩn hóa, cũng như khi thời hạn của các bằng phát minh sáng chế đã hết hiệu lực
thì các nước khác cũng bắt đầu gia nhập thị trường nếu họ có lợi thế trong việc sản
xuất sản phẩm này so với nước sản xuất đầu tiên, ví dụ về mặt chi phí sản xuất
chẳng hạn. Khi công nghệ sản xuất đã được hoàn toàn chuẩn hóa và có thể sử dụng
lao động phổ thông thì chúng ta có thể trông đợi vào việc địa điểm sản xuất sẽ
được chuyển sang các nước đang phát triển là những nước có lợi thế về nguồn
nhân công rẻ, dồi dào.
XK nhân công

Nước phát minh


t1 t2 t3 t4
t0 t
Các nước phát triển
Các nước kém phát
triển

7
3. Lý thuyết thương mại liên quan đến cầu:

3.1. Sự phân hóa sản phẩm và thương mại nội bộ ngành:

Thương mại nội bộ ngành là hoạt động xuất khẩu và nhập khẩu đồng thời
các sản phẩm về cơ bản là giống nhau, nói cách khác là các sản phẩm phân hóa. Ví
dụ: Nhật Bản xuất xe Toyota sang Mĩ đồng thời nhập xe Ford từ Mĩ về.

Sự phân hóa sản phẩm là sự thể hiện tính đa dạng của nhu cầu đối với các
sản phẩm. Có hai cách tiếp cận trong việc giải thích sự đa dạng của nhu cầu sẽ tạo
ra thương mại quốc tế:

- Cách thứ nhất cho rằng các dạng biến tướng khác nhau của cùng một loại
sản phẩm đòi hỏi tỷ lệ các yếu tố sản xuất dùng để sản xuất ra chúng cũng khác
nhau. Khi đó, theo lý thuyết H-O, mỗi quốc gia sẽ sản xuất dạng sản phẩm nào phù
hợp nhất với mức độ trang bị các yếu tố sản xuất của quốc gia đó. Tuy nhiên, cách
tiếp cận này không lý giải được mức tăng trưởng nhanh chóng của thương mại nội
bộ ngành.

- Cách thứ hai gắn liền sự phân hóa sản phẩm với hiệu suất tăng dần theo
quy mô. Cách thức hiệu quả nhất để cung cấp các dạng biến tướng của các sản
phẩm là thực hiện chuyên môn hóa sản xuất từng dạng biến tướng sau đó tiến hành
trao đổi. Cách tiếp cận này dựa trên hai giả thuyết quan trọng:

+ Tồn tại nhu cầu đối với các dạng biến tướng khác nhau của các sản phẩm.

+ Nhu cầu đó không thể được thỏa mãn một cách tốt nhất trong phạm vi thị
trường nội địa vì tính kinh tế theo quy mô.

Như vậy lợi ích do thương mại nội bộ ngành đối với các sản phẩm phân hóa đem
lại bao gồm khả năng đa dạng hóa diện mặt hàng mà người tiêu dùng có thể tiếp
cận, và việc giảm bớt chi phí và giá cả của hàng hóa sản xuất ra nhờ hiệu suất tăng
dần theo quy mô.

3.2. Giả thuyết Linder:

Năm 1961, nhà kinh tế học người Thụy Điển Linder đã đưa ra giả thuyết cho
rằng yếu tố quan trọng dẫn đến thương mại quốc tế nội bộ ngành là mức thu nhập
bình quân đầu người. Thông thường thì các sản phẩm sản xuất trong nước có khả

8
năng cạnh tranh cao trên thị trường nội địa vì đây là thị trường quan trọng với họ,
và hơn nữa khi sản xuất trong nước họ không phải chi trả cước phí vận chuyển và
thuế quan. Để tối đa hóa lợi nhuận, các nhà sản xuất nội địa sẽ chọn sản xuất
những dạng sản phẩm có thị phần lớn nhất, và như vậy đáp ứng của nhà tiêu dùng
trong nước.

Ban đầu thì sản phẩm làm ra nhằm thỏa mãn nhu cầu của thị trường trong
nước. Đến một thời điểm nhất định nhu cầu đối với sản phẩm đó từ thị trường bên
ngoài sẽ xuất hiện và sản phẩm bắt đầu được xuất khẩu. Thị trường xuất khẩu sẽ là
những quốc gia nơi có sở thích và mức thu nhập tương tự như quốc gia xuất khẩu.
Mức thu nhập giữa các quốc gia càng giống nhau thì càng có nhiều cơ hội để mở
rộng thương mại nội bộ ngành giữa các quốc gia đó với nhau.

Giả thuyết Linder chỉ được áp dụng đối với các sản phẩm chế biến. Còn
thương mại hàng nguyên vật liệu và hàng thô thì chủ yếu do mức độ trang bị các
yếu tố sản xuất quyết định, theo như kết luận của lý thuyết H-O. Một trong những
kết luận của giả thuyết Linder là thương mại quốc tế hàng chế biến chủ yếu được
thực hiện giữa các nước có mức thu nhập bình quân giống nhau. Điều này lý giải
tại sao phần lớn thương mại quốc tế lại mang tính chất nội bộ ngành và được tiến
hành giữa các nước công nghiệp phát triển. Tuy nhiên, trên thực tế có thể kể ra
nhiều trường hợp ngoại lệ đối với giả thuyết nói trên. VD: những nước không theo
đạo thiên chúa như Nhật Bản và Hàn Quốc lại là những nước xuất khẩu cây thông
Noel nhân tạo( mặt hàng không có thị trường trong nước).

II. Lý thuyết về các giai đoạn tăng trưởng kinh tế của Rostow.
1. Nội dung

Lý thuyết này do nhà kinh tế học người Mỹ, giáo sư Walter William Rostow
đưa ra. Lý thuyết được trình bày trong cuốn “ các giai đoạn tăng trưởng kinh tế”
(the stages of Economic Growth – 1961) nhằm nhấn mạnh các giai đoạn tăng
trưởng kinh tế của mỗi quốc gia. Theo Rostow quá trình phát triển kinh tế của mỗi
quốc gia được chia làm 5 giai đoạn và ứng với mỗi một giai đoạn là một dạng cơ
cấu ngành đặc trưng thế hiện bản chất phát triển của giai đoạn ấy. Cụ thể từng giai
đoạn phát triển được phân tích như sau:

9
Giai đoạn 1: Giai đoạn xã hội truyền thống.

- đặc trưng của giai đoạn này là: sản xuất nông nghiệp giữ vai trò thống trị
trong nền kinh tế, tỷ trọng lao động trong nông nghiệp chiếm từ 80-85%
trong tổng số lực lượng của toàn xã hội. Năng suất lao động thấp do sản
xuất chủ yếu bằng công cụ thủ công. Tích lũy gần như là con số 0. Hoạt
động chung của xã hội kém linh hoạt, sản xuất nông nghiệp còn mang
nặng tính tự cung tự cấp.
- Tuy vậy, xã hội truyền thống cũng không hoàn toàn tĩnh tại, mức sản
lượng có thể vẫn tăng lien tục do diện tích đất canh tác được mở rộng,
hoặc do áp dụng những cải tiến trong sản xuất như xây dựng hệ thống
thủy lợi hay áp dụng giống cây trồng mới.
- Song nhìn chung, nền kinh tế vẫn không có sự biến đổi mạnh. Cơ cấu
ngành kinh tế trong thời kì này là cơ cấu nông nghiệp thuần túy.

Giai đoạn 2: Giai đoạn chuẩn bị cất cánh.

Đây được coi là thời kỳ quá độ giữa xã hội truyền thống và sự cất cánh, với
những nội dung cơ bản là chuẩn bị những điều kiện tiên quyết để cất cánh.
Những điều kiện đó là:

- Những hiểu biết về khoa học kỹ thuật bắt đầu được áp dụng vào sản xuất
trong cả nông nghiệp và công nghiệp
- Giáo dục được mở rộng và có những cải tiến phù hợp với những yêu cầu
mới của sự phát triển.
- Nhu cầu đầu tư tăng lên đã thúc đẩy sự hoạt động của ngân hàng và sự ra
đời của các tổ chức huy động vốn.
- Giao lưu hàng hóa trong và ngoai nước phát triển đã thúc đẩy sự hoạt
động trong ngành giao thông vận tải, thông tin liên lạc.
Tuy vậy, tất cả những hoạt động này chưa vượt qua được phạm vi giới hạn
của một nền kinh tế với những đặc trưng truyền thống, năng suất thấp. Cơ
cấu ngành kinh tế trong giai đoạn này là cơ cấu nông- công nghiệp.

Giai đoạn 3: Giai đoạn cất cánh.

Đây là giai đoạn trung tâm của sự phân tích các giai đoạn phát triển
của Rostow. Theo ông thì giai đoạn cất cánh diễn ra trong khoảng thờigian
từ 20 đến 30 năm.

10
Cất cánh là giai đoạn mà đất nước bắt đầu phát triển hiện đại và ổn
định, lực cản của xã hội truyền thống và các thế lực chống đồi sự phát triển
bị đẩy lùi, các lực lượng tạo ra sự tiến bộ về kinh tế đang lớn mạnh và trở
thành lực lượng thống trị xã hội.

Những yếu tố cơ bản đảm bảo cho sự cất cánh là:

- Huy động được nguồn vốn đầu tư càn thiết, tỷ lệ tiết kiêm tăng lên ít nhất
phải chiềm 10 % trong thu nhập quốc dân thuần túy. Ngoài vốn đầu tư
trong nước, nguồn vốn đàu tư nươc ngoài dóng vai trò quan trọng.
- Khoa học – Kỹ thuật tác động mạnh vào cả nông nghiệp và công nghiệp.
Công nghiệp giữ vai trò đầu tàu, có tốc độ tăng trưởng nhanh, đem lại lợi
nhuận lớn, lợi nhuận lại được tái đầu tư phát triển sản xuất, sản xuất mở
rộng thu hút công nhân, kích thích phát triển khu vực đô thị và lĩnh vực
dich vụ
- Khu vực nông nghiệp được áp dụng kỹ thuật mới và được thương mại
hóa tạo ra sự thay đổi trong nhận thức và lối sống của người nông dân.
- Hệ thống hỗ trợ tăng trưởng phải được chú trọng phát triển. Hệ thống
ngân hàng, các thị trường vốn và hệ thống dịch vu phát triển. Năng lực kinh
doanh tư nhân sẽ được xem xét như một chuẩn mực để đánh giá mức độ tăng
trưởng.

Cơ cấu ngành kinh tế của giai đoạn này: công nghiệp- nông nghiệp- dịch vụ.

Giai đoạn 4: Giai đoạn trưởng thành.

Theo Rostow giai đoạn trưởng thành kéo dài tới 60 năm. Đặc trưng cơ
bản của giai đoạn này là:

- Tỷ lệ đầu tư tăng liên tục, cao tới 20% thu nhập quốc dân thuần túy.
- Khoa học- kỹ thuật mới được áp dụng trên toàn bộ các mặt hoạt động
kinh tế.
- Nhiều ngành công nghiệp mới hiện địa phát triển.
- Nông nghiệp được cơ giới hóa, đạt được năng suất lao động cao.
- Nhu cầu xuất nhập khẩu tăng mạnh, sự phát triển kinh tế trong nước hòa
dòng vào thị trường quốc tế.
Cơ cấu ngành KT trong giai đoạn này: công nghiệp- dịch vụ- nông nghiệp.

11
Giai đoạn 5: giai đọan tiêu dùng cao.

Trong giai đoạn này có hai xu hướng cơ bản về kinh tế:

- Thứ nhất, thu nhập bình quân đầu người tăng nhanh, dân cư giàu có dẫn
đến sự gia tăng nhu cầu tiêu dung hàng hóa và dịch vụ tinh vi, cao cấp.
- Thứ hai, cơ cấu lao động thay đổi theo hướng tăng tỷ lệ dân cư đô thị và
lao động có tay nghề, có trình độ chuyên môn cao.
Về mặt xã hội, các chính sách kinh tế hướng vào phúc lợi xã hội nhằm tạo ra
nhu cầu cao về hàng hóa tiêu dung lâu bền và các dịch vụ xã hội của nhóm
dân cư.

Theo Rostow đây là giai đoạn dài nhất, và ông cho rằng người Mỹ cần
khoảng 100 năm đẻ chuyển từ giai đoạn trưởng thành tới mức cuối cùng
này. Và cơ cấu ngành trong giai đoạn này có dạng dịch vụ- công nghiệp.

Câu hỏi: Hiện nay, Việt Nam đang ở giai đoạn phát triển nào?

2. Đánh giá

• Ưu điểm:

- Lý thuyết nay có ý nghĩa lớn trong việc xác định trình độ phát triển của
mỗi quốc gia trong từng giai đoạn

- Lý thuyết này gợi ý về sự thúc đẩy hoàn thành những tiền đề cần thiêt
nào đó trong sự phát triển của mỗi quốc gia trong từng giai đoạn

• Nhược điểm:

- Lý thuyết Rostow bị phê phán là quá tham vọng do nó cố mô tả một cách


đầy đủ lô trình kinh tế của mỗi quốc gia. Chẳng hạn nhiều nước phát triển
bộc lộ tính hai mặt là tình trạng công nghệ lac hậu được sử dụng trong
một số ngành công nghiệp và các phương pháp sản xuất thủ công vẫn còn
tiếp tục duy trì trong một số ngành công nghiệp khác.

- Tương tự các con số thực tế đã chỉ ra rằng không có thời kì tăng trưởng
từ 20 đến 30 năm

12
- Mô hình cất cánh có tính chất quá đột ngột trong khi chính các nước như:
Anh, Đức, Thụy Điển và Nhật Bản lại là những nước theo đuổi mô hình
tăng trưởng chậm, ổn định.

- Cách tiếp cận của lý thuyết không lấy đặc thù của mỗi nước làm điểm
xuất phát.

- Lý thuyết của Rostow chỉ nghiên cứu sự tăng trưởng chứ chưa di sâu vào
nghiên cứu phát triển kinh tế, trong khi phát triển kinh tế mới là điều mà
các quốc gia hướng tới.

III. Lý thuyết vòng luẩn quẩn

Chúng ta biết rằng 4 nhân tố cơ bản trong quá trình tăng trưởng và phát triển
của 1 quốc gia là : nhân lực, tài nguyên, tư sản, kĩ thuật. Trong điều kiện cụ thể của
các quốc gia nghèo thì cả 4 nhân tố này đều ở trong tình trạng khan hiếm & chất
lượng thấp.

+Về nhân lực: Ở các nước nghèo, thu nhấp thấp, mức sống thấp.. Lao động
tập trung quá nhiều ở trong ngành nông nghiệp, tình trạng thất nghiệp trá
hình cao.
+Về tài nguyên: Ở các nước nghèo, tài nguyên rải rác ở nhiều nơi,khả năng
phát huy được hiệu quả KT của tài nguyên là thấp..
+Về tư bản: Nhìn chung, các nước nghèo ít tư bản. Muốn có tăng trưởng thì
phải có đầu tư, muốn có đầu tư phải có tư bản. Để đáp ứng những nhu cầu
về vốn đầu tư thì trước đây các nước nghèo thường đi vay. Nhưng trong đk
hiện tại thì hầu hết các nước nghèo đều là những con nợ khổng lồ, khả năng
vay vốn là khó khăn.
+Về kĩ thuật: Tại các nước nghèo thì lạc hậu về kĩ thuật, kĩ thuật vẫn còn thô
sơ và đơn giản.

1, Nội dung

Lý thuyết vòng luẩn quẩn giải thích nguyên nhân của tình trạng nghèo đói ở
các nước đang phát triển là nơi đang đối mặt với công cuộc xoá đói giảm nghèo.
Theo lý thuyết này, nguyên nhân của tình trạng đói nghèo của các nước đang phát

13
triển nằm ngay trong sự tương tác giữa cung và cầu trong vòng tròn khép kín cung
- cầu của nền kinh tế của chúng.

• Thứ nhất, về phía cung

Tại các nước đang phát triển, mức sống nói chung là rất thấp đối với đại đa
số dân chúng. Với thu nhập như vậy, nó chỉ đáp ứng đủ một phần nhu cầu tiêu
dùng của con người. Ta biết là để có nguồn vốn tích luỹ cần phải hy sinh tiêu dùng.
Nhưng khó khăn ở chỗ, đối với những nước đang phát triển, nhất là những nước có
thu nhập thấp, việc giảm tiêu dùng là rất khó khăn nên việc tiết kiệm bị hạn chế.
Và tỷ lệ tiết kiệm thấp là trở ngại lớn cho việc hình thành các nguồn vốn đầu tư
=>vốn đầu tư thấp.

Hơn nữa, tại các nước đang phát triển, kỹ thuật sản xuất là thủ công, lạc hậu
lại thiếu vốn đầu tư nên dẫn tới năng suất tính trên đầu người thấp. Hậu quả là
năng suất thấp khó có thể cải thiện được mức thu nhập => thu nhập vẫn thấp => tỷ
lệ tích luỹ thấp => vốn đầu tư thấp => năng suất thấp.

Đó chính là một vòng luẩn quẩn.

Tiết kiệm

thấp

Thu nhập Vốn đầu tư


thấp thấp

Tiêu dùng

thấp

Năng suất

thấp
Sơ đồ: Vòng luẩn quẩn của sự nghèo khổ

14
• Thứ hai,về phía cầu

Do thu nhập quá thấp => tiêu dùng thấp = > cầu về hàng hoá của người dân
cũng thấp => không hấp dẫn những nhà đầu tư có tiềm năng + việc thiếu nguồn
vốn đầu tư = > năng suất thấp = > thu nhập thấp sẽ diễn ra.

Như vậy, một nước nghèo là do nó quá nghèo không thể tạo ra thị trường
cho các hoạt động đầu tư lớn để vượt qua được tình trạng đói nghèo

2.Đánh giá

a,Ưu điểm:

- Lý thuyết này đã cho ta thấy thực tế rằng dân cư của các nước kém
phát triển thường rơi vào tình trạng nghèo đói và ở các nước kém phát
triển thì tỷ lệ tiết kiệm là thấp.
b, Nhược điểm:

- Sai lầm của quan điểm này là xem xét tiềm năng tiết kiệm ở các nước
kém phát triển theo mức sống ở các nước phát triển. Ở những nước
kém phát triển thì tiềm năng tiết kiệm sẽ thấp hơn các nước phát triển,
điều đó không có nghĩa là tỷ lệ tiết kiệm của các nước kém phát triển
thấp. Ví dụ như các tầng lớp có thu nhập cao vẫn có thể tăng được tỉ
lệ tiết kiệm của mình.

- Phần tiết kiệm cá nhân thường chỉ chiếm một tỉ lệ nhỏ trong tổng mức
tiết kiệm ở các nước kém phát triển, trong khi đó các khoản tiết kiệm
của các doanh nghiệp, tiết kiệm của chính phủ là các nguồn tiết kiệm
khác không thể bỏ qua. Hơn nữa, các nước nghèo có thể vay vốn của
nước ngoài để đầu tư phát triển thì vốn đầu tư của nước này sẽ tăng.

Ví dụ: Việt Nam để tăng đầu tư và phát triển kinh tế cần một số vốn
rất lớn trong khi nguồn vốn trong nước lại không đủ. Việt Nam đã đi
vay nước ngoài và đã có đủ vốn để đầu tư,

15
- Ngoài ra, việc coi các thị trường ở các nước đang phát triển là những
thị trường không hấp dẫn các nhà đầu tư là không hoàn toàn hợp lí vì
chính các thị trường này lại rất thuận lợi cho việc gia nhập của các
doanh nghiệp vào thị trường (chi phí gia nhập thấp,cạnh tranh không
quá gay gắt và chính phủ thường có những ưu đãi).

Ví dụ : Việt Nam là một nước đang phát triển, còn nghèo và lạc hậu
nhưng lại rất hấp dẫn đối với việc đầu tư của các doanh nghiệp trong
nước cũng như nước ngoài như Nhật Bản, Mỹ.. Tính đến cuối tháng 8
năm 2008, Nhật Bản có 1019 dự án đầu tư trực tiếp còn hiệu lực tại
Việt Nam với tổng vốn đầu tư đăng ký 16,9 tỷ USD, đứng thứ 2/81
quốc gia và vùng lãnh thổ có đầu tư tại Việt Nam, sau Đài Loan. Tuy
nhiên lại đứng đầu về vốn đầu tư thực hiện, đến nay, tổng vốn đầu tư
thực hiện của Nhật Bản tại Việt Nam là 5,2 tỷ USD, bằng 30,5% tổng
vốn đầu tư đăng ký của Nhật Bản tại Việt Nam.

=> Điều này chứng tỏ rằng các nước kém phát triển rất thu hút các
nhà đầu tư.

IV. Lý thuyết về cú huých lớn từ bên ngoài:


Trong khi Rostow cố gắng làm rõ lý thuyết phát triển kinh tế của mình thì
cuộc tranh luận chính sách kinh tế ở giữa những năm 1950 – 1960 lại hướng vào
vấn đề nên tập trung phát triển vào tất cả các khu vực kinh tế trong nước hay chỉ
tập trung vào các khu vực chủ đạo của nền kinh tế như khu vực công nghiệp, khu
vực nông nghiệp hay khu vực dịch vụ.

Trong cuộc tranh luận kinh tế vĩ mô đó, quan điểm về một sự phát triển toàn
diện và cân bằng của Ragnar Nurkse thể hiện qua lý thuyết “Cú huých lớn từ bên
ngoài” (Big Push Theory) là một lý thuyết quan trọng và rất đáng chú ý.

1. Tiểu sử nhà kinh tế Ragnar Nurkse:

Ragnar Nurkse (1907-1959) sinh ra Estonia, đầu những năm 1930 ông cùng
gia đình đến nhập cư tại Canada, từ năm 1945 ông chuyển tới Hoa Kỳ làm việc và
giảng dạy tại Đại học Columbia thuộc thành phố Newyork.

16
Nurkse là một trong những học giả hàng đầu trong các lĩnh vực kinh tế quốc
tế, tài chính quốc tế và kinh tế phát triển. Ông đã có nhiều năm làm việc trong các
lĩnh vực kinh tế - tài chính với tư cách cố vấn cho Chính phủ, cũng như đảm nhiệm
các vị trí quan trọng trong nhiều tổ chức kinh tế quốc tế.

Cống hiến quan trọng của Ragnar Nurkse cho kinh tế học đó là các lý thuyết
về sự phát triển cân bằng (Balanced Growth), đồng thời ông cũng phát triển học
thuyết Rostenstein-Rodan để xây dựng lên lý thuyết cú huých lớn từ bên ngoài
(Big Push) nhấn mạnh đến vai trò của vốn và tích lũy tư bản với phát triển kinh tế.

2. Tư tưởng cơ bản:

• Những quan điểm xuất phát làm nền tảng để phát triển các lý thuyết của
Ragnar Nurkse:

- Cái nhìn bi quan về xuất khẩu: xuất khẩu không phải là yếu tố lâu dài để
phát triển kinh tế.

- Quá trình gia tăng với khối lượng lớn của công nghệ mới, máy móc, sự
cải tiến trong quá trình sản xuất chính là chìa khóa cho phát triển kinh tế.

- Muốn đạt được điều đó cần phải công nghiệp hóa trên phạm vi quốc gia.
Thực hiện những khoản đầu tư có quy mô trong công nghiệp (ví dụ: mở
rộng tổng cung) sẽ tạo ra quy mô lớn về tổng cầu (cung mới tạo cầu mới,
cầu mới sẽ lại tạo ra cung mới) từ đó dẫn tới sự phát triển cân bằng
(Balanced Growth).

• Nội dung lý thuyết:

- Theo Ragnar Nurkse: Mọi cố gắng phát triển kinh tế nên nhằm vào mục
tiêu sử dụng đồng bộ các nguồn vốn để mở rộng tất cả các ngành công
nghiệp và phát triển cơ sở hạ tầng của đất nước. Ông cho rằng chỉ có nỗ
lực tổng thể thống nhất như vậy mới đẩy các nước đang phát triển ra khỏi
cái vòng luẩn quẩn của sự nghèo khổ do giới hạn về nguồn cung về vốn
vì tỷ lệ tiết kiệm thấp.

- Nguồn vốn phục vụ cho các khoản đầu tư này không thể tạo ra một cách
từ từ, chúng phải được tạo ra cùng một lúc vì cần phải có một động lực

17
đủ lớn để vượt qua những trở ngại đối với sự phát triển kinh tế chẳng hạn
như những trở ngại do thiếu cơ sở vật chất hạ tầng.

→ Từ đó ông cho rằng các nguồn lực trong nền kinh tế cần được phân phối
vào tất cả các khu vực công nghiệp và phát triển hạ tầng cơ sở (cách tiếp cận cân
bằng) nhằm tạo ra một cú huých lớn. Điều này cũng tương tự như một chiếc xe bị
sa lầy, nó không thể vượt qua khỏi vũng lầy nếu chỉ nhận được các lực tác động để
kéo nó ra khỏi vũng lầy một cách từ từ. Nó cần có một cú huých đủ mạnh!

3. Đánh giá lý thuyết:

• Lý thuyết phát triển cân bằng nhằm tạo ra cú huých lớn bị phê phán trên một
số phương diện:

- Lý thuyết này cho rằng cần sử dụng nguồn vốn để đầu tư vào tất cả các
ngành công nghiệp của cả nước tuy nhiên ý tưởng này bị phê phán do nó
bỏ qua quan điểm kinh tế về lợi ích chung xuất phát từ quá trình chuyên
môn hóa trong quá trình phát triển kinh tế.

- Tính phi thực tế: Lý thuyết này yêu cầu một quốc gia phải có đủ nguồn
lực để đầu tư vào tất cả các ngành của nền kinh tế cùng một lúc, đây là
điều khó xảy ra.

- Giả định tất cả các quốc gia đều bắt đầu từ con số 0 trong khi trên thực tế
các nền kinh tế của chúng ta có thể có một số thế mạnh về lịch sử hoặc
tiềm lực đầu tư nhất định.

- Thực tiễn phát triển kinh tế ở một số quốc gia trên thế giới tạo ra mối
hoài nghi lớn với lý thuyết của Ragnar Nurkse, điển hình là việc một số
quốc gia đã có những tiến bộ vượt bậc trong phát triển kinh tế vào những
năm 1960 và những năm 1970 mà không cần có sự cố gắng đồng bộ
trong việc đầu tư vào tất cả các khu vực như lý thuyết phát triển cân bằng
đã đề nghị.

• Tuy còn nhược điểm trên nhiều khía cạnh nhưng lý thuyết phát triển cân
bằng và cú huých lớn từ bên ngoài đã đóng góp đáng kể vào việc xây dựng
hệ thống các lý thuyết trong kinh tế phát triển.

18
Lý thuyết của Nurkse đã nhìn thấy và nhấn mạnh đến vai trò của đầu tư
trong tăng trưởng kinh tế, mặt khác việc đặt vấn đề đầu tư toàn diện cho khu
vực công nghiệp được xem như gợi ý quan trọng, là một phần ý tưởng trong
mô hình 2 khu vực mà Arthur Lewis phát triển sau đó ít lâu.

19
Tổng kết
Từ những lý thuyết thương mại quốc tế ban đầu của Adam Smith và
David Ricardo cho đến sự phát triển học thuyết thương mại dựa trên tỷ lệ
các yếu tố sản xuất của Heckscher - Ohlin, kinh tế học quốc tế đã có một
bước phát triển khá dài và bền vững. Những kiến thức về cơ chế vận hành
của các quan hệ kinh tế quốc tế cho phép các quốc gia lựa chọn con đường
phát triển phù hợp nhất với tiềm lực sẵn có của quốc gia mình. Tuy nhiên,
khi thương mại càng phát triển, nhiều hiện tượng và vấn đề mới đã đặt ra
cho các nhà kinh tế nhiều nghi vấn, sự cần thiết phải phát triển những lý
thuyết kinh tế quốc tế mới rõ rang đang trở nên vô cùng cấp thiết.

Bước sang những năm giữa thế kỷ XX nhiều lý thuyết mới về kinh tế
quốc tế đã ra đời. Chúng ta đã đề cập tới một số lý thuyết quan trọng:

o Lý thuyết thương mại dựa trên tính kinh tế theo quy mô

o Lý thuyết thương mại dựa trên sự biến đổi công nghệ

o Các lý thuyết thương mại liên quan đến yếu tố cầu.

o Lý thuyết các giai đoạn tăng trưởng kinh tế của Rostow

o Lý thuyết vòng luẩn quẩn

o Lý thuyết cú huých lớn từ bên ngoài

Những lý thuyết này đã thể hiện một cách tiếp cận hoàn toàn mới so với
cách tiếp cận truyền thống và là điểm sáng của kinh tế học đương thời. Tuy
có những bước phát triển đáng ghi nhận như vậy nhưng có thể thấy các lý
thuyết trên vẫn thiếu cách giải thích bản chất của các mối quan hệ kinh tế
quốc tế một cách tổng quát với tư cách là một thực thể kinh tế thống nhất.
Đó cũng chính là điều kiện cho các lý thuyết hiện đại hơn ra đời và là sự bổ
sung cho kinh tế học quốc tế trong giai đoạn mới.

20

You might also like