You are on page 1of 27

Đảng Cộng sản Việt Nam

03/02/2010

Đảng Cộng sản Việt Nam

ĐCSVN)- Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, lãnh
đạo nhân dân tiến hành Cách mạng Tháng Tám thành công, lập nên nước Việt Nam dân
chủ cộng hoà (nay là nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam), đánh thắng các cuộc
chiến tranh xâm lược, xoá bỏ chế độ thực dân phong kiến, hoàn thành sự nghiệp giải
phóng dân tộc, thống nhất đất nước, tiến hành công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ
vững chắc nền độc lập dân tộc.

Hội nghị thành lập

1. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, bước ngoặt quyết định của cách mạng Việt Nam.

Từ năm 1858, thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, từng bước thiết lập chế độ thống trị tàn bạo,
phản động của chủ nghĩa thực dân trên đất nước ta.

-Về chính trị, chúng trực tiếp nắm giữ các chức vụ chủ chốt trong bộ máy nhà nước, thi hành
chính sách cai trị chuyên chế, biến giai cấp tư sản mại bản và địa chủ phong kiến thành tay sai
đắc lực. Đồng thời chúng thực hiện chính sách đàn áp, khủng bố hết sức dã man, tàn bạo, làm
cho nhân dân mất hết quyền độc lập, quyền tự do dân chủ.

-Về kinh tế, chúng thực hiện chính sách độc quyền, kìm hãm sự phát triển kinh tế độc lập của
nước ta, vơ vét tài nguyên và bóc lột nặng nề, làm cho nhân dân ta, trước hết là công nhân và
nông dân bị bần cùng hoá, nền kinh tế bị què quặt, lệ thuộc vào kinh tế Pháp.

- Về văn hoá-xã hội, chúng thực hành chính sách ngu dân, khuyến khích văn hoá nô dịch, vong
bản, tự ti, sùng Pháp, kìm hãm nhân dân ta trong vòng tối tăm, dốt nát, lạc hậu.

Với chính sách khai thác thuộc địa triệt để của thực dân Pháp, xã hội Việt Nam có những biến
đổi lớn, hai giai cấp mới ra đời: giai cấp công nhân và giai cấp tư sản. Từ chế độ phong kiến
chuyển sang chế độ thuộc địa nửa phong kiến, xã hội Việt Nam xuất hiện hai mâu thuẫn cơ bản
ngày càng gay gắt: mâu thuẫn giữa dân tộc ta với đế quốc Pháp xâm lược và mâu thuẫn giữa
nhân dân ta, chủ yếu là nông dân với giai cấp địa chủ phong kiến. Hai mâu thuẫn đó có quan hệ
chặt chẽ với nhau, trong đó mâu thuẫn giữa dân tộc với đế quốc xâm lược là chủ yếu. Nhiệm vụ
chống đế quốc Pháp xâm lược và nhiệm vụ chống phong kiến tay sai không tách rời nhau. Đấu
tranh giành độc lập dân tộc và đấu tranh đòi quyền dân sinh dân chủ, đó là yêu cầu của cách
mạng Việt Nam đặt ra.

Ngay từ khi thực dân Pháp xâm lược, nhân dân ta đã liên tiếp đứng lên chống lại chúng. Hàng
trăm phong trào, cuộc khởi nghĩa oanh liệt dưới ngọn cờ của các sĩ phu và các nhà yêu nước
đương thời, nhưng đều thất bại và bị thực dân Pháp đàn áp tàn bạo. Nguyên nhân cơ bản dẫn
đến thất bại là thiếu một đường lối cứu nước đúng đắn.

2. Nguyễn Ái Quốc tìm đường cứu nước. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Giữa lúc cách mạng Việt Nam đang chìm trong cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước,
Nguyễn Tất Thành (Hồ Chí Minh) rời Tổ quốc đi tìm đường cứu nước. Bước ngoặt lớn trong tư
tưởng của Nguyễn Ái Quốc diễn ra khi Người đọc toàn văn: Sơ thảo lần thứ nhất những luận
cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin. Người hiểu sâu sắc những vấn đề cơ bản của
đường lối giải phóng dân tộc, đó là con đường cách mạng vô sản, giải phóng dân tộc gắn với
giải phóng giai cấp, độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội, giai cấp vô sản phải nắm lấy ngọn
cờ giải phóng dân tộc, gắn cách mạng giải phóng dân tộc từng nước với phong trào cách mạng
vô sản thế giới. Từ đây Người dứt khoát đi theo con đường cách mạng của Lênin. Nguyễn Ái
Quốc là người Việt Nam đầu tiên tiếp thu sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tìm ra con đường
đúng đắn giải phóng dân tộc Việt Nam.

Trở thành chiến sĩ cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã tham gia hoạt động trong phong trào cộng sản
và công nhân quốc tế, tích cực vận động phong trào cách mạng thuộc địa, nghiên cứu và truyền
bá chủ nghĩa Mác-Lênin về Việt Nam. Tháng 12-1924, Nguyễn Ái Quốc về Quảng Châu Trung
Quốc trực tiếp chỉ đạo việc chuẩn bị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.

Chủ nghĩa Mác-Lênin và những tài liệu tuyên truyền của Nguyễn Ái Quốc được giai cấp công
nhân và nhân dân Việt Nam đón nhận như "người đi đường đang khát mà có nước uống, đang
đói mà có cơm ăn". Nó lôi cuốn những người yêu nước Việt Nam đi theo con đường cách mạng
vô sản. Phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và nhiều tầng lớp nhân dân phát triển
mạnh mẽ, đòi hỏi phải có tổ chức đảng chính trị lãnh đạo.

Chỉ trong một thời gian ngắn ở Việt Nam đã có ba tổ chức cộng sản được tuyên bố thành lập:
Ở Bắc Kỳ có Đông Dương Cộng sản Đảng (6-1929).Ở Nam Kỳ có An Nam Cộng sản Đảng (7-
1929). Ở Trung Kỳ có Đông Dương Cộng sản Liên đoàn (9-1929). Điều đó phản ánh xu thế tất
yếu của cách mạng Việt Nam. Song, sự tồn tại của ba tổ chức cộng sản hoạt động biệt lập
trong một quốc gia có nguy cơ dẫn đến chia rẽ lớn. Yêu cầu bức thiết của cách mạng là cần có
một đảng thống nhất lãnh đạo. Nguyễn Ái Quốc, người chién sĩ cách mạng lỗi lạc của dân tộc
Việt Nam, người duy nhất có đủ năng lực và uy tín đáp ứng nhu cầu đó của lịch sử: thống nhất
các tổ chức cộng sản thành Đảng Cộng sản duy nhất ở Việt Nam.

Từ ngày 3 đến 7-2-1930, Hội nghi hợp nhất ba tổ chức cộng sản họp tại Cửu Long (Hương
Cảng, Trung Quốc) dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Ái Quốc. Hội nghị nhất trí thành lập
đảng thống nhất, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam, thông qua Chánh cương vắn tắt, Sách
lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt và Điều lệ vắn tắt của Đảng, Điều lệ tóm tắt của các hội quần
chúng.

Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản Việt Nam mang tầm vóc lịch sử như là một Đại hội
thành lập Đảng. Đảng được thành lập là kết quả của cuộc đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân
tộc ở nước ta trong những năm đầu thế kỷ XX; là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-
Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước; là kết quả của quá trình lựa chọn,
sàng lọc nghiêm khắc của lịch sử và là kết quả của quá trình chuẩn bị đầy đủ về chính trị, tư
tưởng và tổ chức của một tập thể chiến sĩ cách mạng, đứng đầu là đồng chí Nguyễn Ái Quốc.
Đó là một mốc lớn đánh dấu bước ngoặt trọng đại trong lịch sử cách mạng Việt Nam, chấm dứt
cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước.

Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam với Cương lĩnh, đường lối cách mạng đúng đắn chứng
tỏ giai cấp công nhân Việt Nam đã trưởng thành, đủ sức lãnh đạo cách mạng.

Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam gắn liền với tên tuổi của Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh,
người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng ta.

Đảng lãnh đạo cách mạng giải phóng dân tộc đánh thắng các cuộc chiến tranh xâm lược
thống nhất đất nước

Sau thời gian học tập ở Liên Xô, tháng 4-1930 đồng chí Trần Phú trở về nước hoạt động. Theo
đề nghị của Nguyễn Ai Quốc, Trần Phú tham gia Ban Chấp hành Trung ương lâm thời và được
phân công cùng Ban Thường vụ chuẩn bị kỳ họp thứ nhất của BCHTW và dự thảo Luận cương
chính trị.

Hội nghị BCHTW lần thứ nhất họp từ ngày 14 đến ngày 31-10-1930 tại Hương Cảng (Trung
Quốc) do Trần Phú chủ trì, đã thông qua Nghị quyết về tình hình và nhiệm vụ cần kíp của Đảng,
dự thảo Luận cương chính trị của Đảng, Điều lệ Đảng và Điều lệ các tổ chức quần chúng. Theo
chỉ thị của Quốc tế Cộng sản, Hội nghị đã đổi tên ĐCSVN thành Đảng Cộng sản Đông Dương.
Hội nghị đã bầu BCHTW chính thức, đồng chí Trần Phú được bầu là Tổng Bí thư.
Tháng 3-1935 Đại hội đại biểu lần thứ nhất của Đảng đã họp tại một địa điểm ở phố Quan
Công, Ma Cao (Trung Quốc). Trên cơ sở đánh giá tình hình thế giới và trong nước, Đại hội đề
ra 3 nhiệm vụ chủ yếu của toàn Đảng trong thời gian trước mắt là: Củng cố và phát triển Đảng;
tranh thủ quần chúng rộng rãi; chống chiến tranh đế quốc. Đại hội đã thông qua Nghị quyết
chính trị và Điều lệ Đảng; thông qua các nghị quyết về vận động công nhân, nông dân, thanh
niên, phụ nữ, binh lính và các nghị quyết về công tác liên minh phản đế, công tác trong các dân
tộc thiểu số, về đội tự vệ và cứu tế đỏ.

Đại hội đã bầu ra Ban Chấp hành Trung ương Đảng, đồng chí Lê Hồng Phong được bầu làm
Tổng Bí thư. Ban Chấp hành Trung ương Đảng nhất trí cử đồng chí Nguyễn Ai Quốc là đại diện
của Đảng bên cạnh Quốc tế Cộng sản.Tại Đại hội VII Quốc tế Cộng sản, với tư cách Trưởng
đoàn đại biểu Đảng ta, đồng chí Lê Hồng Phong đã được bầu là Uỷ viên Ban Chấp hành Quốc
tế Cộng sản.

Đại hội đại biểu lần thứ nhất của Đảng có ý nghĩa lịch sử quan trọng; Đại hội đã đánh dấu sự
khôi phục được hệ thống tổ chức của Đảng từ Trung ương đến địa phương, từ trong nước ra
ngoài nước, thống nhất phong trào đấu tranh cách mạng của công nhân, nông dân và các tầng
lớp nhân dân khác dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Ngay 22-6-1938 Lê Hồng Phong bị bắt tại Sài Gòn, sau 6 tháng tù giam, chúng đưa về quê nhà
quản thúc. Lo sợ trước vai trò của lãnh tụ Lê Hồng Phong ngày 29-9-1939 bọn mật thám Pháp
lại bắt giam đồng chí tại Khám lớn Sài Gòn. Cuối năm 1940 chúng đày Lê Hồng Phong ra Côn
Đảo. Trước sự đầy đoạ khắc nghiệt, tra tấn dã man, tàn bạo của kẻ thù, đồng chí vẫn nêu cao
khí tiết của người cộng sản. Đồng chí bị kiệt sức và trút hơi thở cuối cùng vào trưa ngày 5-9-
1942.

Sau Đại hội đại biểu lần thứ nhất, nhiều đồng chí Trung ương bị bắt; công tác của Ban Chấp
hành Trung ương do Ban chỉ huy ở nước ngoài đảm nhiệm. Đồng chí Hà Huy Tập-Trưởng Ban
lãnh đạo hải ngoại kiêm chức Tổng Bí thư của Đảng đến tháng 3-1938. Để kiện toàn cơ quan
lãnh đạo của Đảng, Hội nghị Trung ương tháng 3-1938 bầu đồng chí Nguyễn Văn Cừ vào Ban
thường vụ Trung ương và được cử giữ chức Tổng Bí thư của Đảng. Sau Hội nghị Trung ương
tháng 11-1939 đồng chí Nguyễn Văn Cừ, Lê Duẩn và một số đồng chí uỷ viênTrung ương bị
bắt, các đồng chí còn lại cùng đồng chí Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ, Hoàng Quốc Việt (Xứ
uỷ Bắc Kỳ) tổ chức lại Ban Chấp hành Trung ương của Đảng, đồng chí Trường Chinh được cử
giữ chức quyền Tổng Bí thư của Đảng.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng Cộng sản Đông Dương họp từ ngày 11 đến ngày
19 tháng 2 năm 1951, tại xã vinh quang, huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang. Dự Đại hội có
158 đại biểu chính thức và 53 đại biểu dự khuyết thay mặt cho 766.349 đảng viên đang sinh
hoạt trong Đảng bộ toàn Đông Dương. Đến dự Đại hội còn có đại biểu của Đảng Cộng sản
Trung Quốc, Đảng Cộng sản Xiêm (Thái Lan).

Sau lời khai mạc của đồng chí Tôn Đức Thắng, Đại hội đã nghiên cứu, thảo luận các báo cáo
trình trước Đại hội: Báo cáo Chính trị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Báo cáo Bàn về cách mạng
Việt Nam của Tổng Bí thư Trường Chinh, Báo cáo về Tổ chức và Điều lệ Đảng của đồng chí Lê
Văn Lương và nhiều báo cáo bổ sung khác. Sau khi thảo luận Báo cáo Chính trị của Chủ tịch
Hồ Chí Minh, Đại hội đã thông qua nghị quyết khẳng định: Đường lối đoàn kết toàn dân, kháng
chiến trường kỳ giành độc lập, dân chủ là hoàn toàn đúng đắn. Trong điều kiện lịch sử mới, Đại
hội chủ trương xây dựng ở mỗi nước Việt Nam, Lào, Cămpuchia, một Đảng cách mạng thích
hợp với hoàn cảnh cụ thể, để lãnh đạo cuộc kháng chiến từng nước đến thắng lợi hoàn toàn. Ở
Việt Nam, Đại hội quyết định xây dựng Đảng Lao động Việt Nam. Kế thừa truyền thống của
Đảng Cộng sản Đông Dương, Đảng Lao động Việt Nam đảm nhận sứ mệnh lịch sử trọng đại
vừa tiếp tục lãnh đạo cuộc kháng chiến của nhân dân ta, vừa có nghĩa vụ giúp đỡ các Đảng
cách mạng ở Lào và Cămpuchia đấu tranh thắng lợi.

Trên cơ sở tổng kết những kinh nghiệm thực tiễn hơn 20 năm lãnh đạo cách mạng nước ta,
đồng thời tiếp thu có chọn lọc những kinh nghiệm của phong trào cách mạng thế giới, Báo cáo
Bàn về cách mạng Việt Nam của đồng chí Trường Chinh đã phân tích rõ tính chất, những mâu
thuẫn trong xã hội Việt Nam và chỉ rõ nhiệm vụ cơ bản của cách mạng Việt Nam là tiêu diệt bọn
đế quốc xâm lược, làm cho nước Việt Nam hoàn toàn độc lập và thống nhất, xóa bỏ hình thức
bóc lột phong kiến, làm cho người cày có ruộng, tiến lên chủ nghĩa xã hội. Báo cáo xác định lực
lượng cách mạng Việt Nam gồm giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, giai cấp tiểu tư sản và
giai cấp tư sản dân tộc. Động lực của cách mạng Việt Nam bao gồm giai cấp công nhân, giai
cấp nông dân và giai cấp tư sản, chủ yếu là công nhân và nông dân. Lực lượng lãnh đạo cách
mạng là giai cấp công nhân. Báo cáo Bàn vè cách mạng Việt Nam là một văn kiện lịch sử rất
quan trọng, đã bổ sung hoàn chỉnh và phát triển lý luận của Đảng ta về cách mạng dân tộc, dân
chủ do giai cấp công nhân lãnh đạo, tiến hành trong điều kiện một nước thuộc địa, nửa phong
kiến.

Đại hội đã thảo luận và nhất trí thông qua Điều lệ mới của Đảng Lao động Việt Nam. Đại hội đã
bầu Ban Chấp hành Trung ương gồm 19 ủy viên chính thức và 10 ủy viên dự khuyết. Ban Chấp
hành đã bầu Bộ Chính trị. Chủ tịch Đảng là đồng chí Hồ Chí Minh, Tổng Bí thư là đồng chí
Trường Chinh.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng đánh dấu một mốc quan trọng trong quá trình
lãnh đạo và trưởng thành của Đảng ta. Đường lối do Đại hội đề ra đã đáp ứng yêu cầu trước
mắt của kháng chiến và yêu cầu lâu dài của cách mạng và thực sự là những đóng góp quý báu
vào kho tàng lý luận cách mạng nước ta.

Hơn 9 năm sau Đại hội Đảng lần thứ II (1951) cách mạng Việt Nam đã có những thay đổi lớn.
Đại hội lần thứ III của Đảng họp tại Thủ đô Hà Nội từ ngày 5-9-1960 đến ngày 10-9-1960. Về
dự Đại hội có 525 đại biểu chính thức và 51 đại biểu dự khuyết thay mặt hơn 50 vạn đảng viên
trong cả nước

Trong lời khai mạc Đại hội, đồng chí Hồ Chí Minh Chủ tịch Đảng đã khái quát nhiệm vụ mới của
cách mạng Việt Nam và chỉ rõ “Đại hội lần này là Đại hội xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc
và đấu tranh hoà bình thống nhất nước nhà”. Sau lời khai mạc, đồng chí Lê Duẩn, Uỷ viên Bộ
Chính trị đọc Báo cáo Chính trị trước Đại hội. Báo cáo Chính trị nêu rõ nhiệm vụ cơ bản của
cách mạng miền Nam là giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc và phong kiến,
thực hiện độc lập dân tộc và người cày có ruộng, góp phần xây dựng một nước Việt Nam hoà
bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giầu mạnh. Vì vậy nhiệm vụ trước mắt của cách mạng
miền Nam là đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược và gây
chiến, đánh đổ tập đoàn thống trị Ngô Đình Diệm, tay sai của đế quốc Mỹ, thành lập một chính
quyền liên hợp dân tộc dân chủ ở miền Nam, thực hiện độc lập dân tộc, các quyền tự do dân
chủ và cải thiện đời sống nhân dân, giữ vững hoà bình, thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ
sở độc lập và dân chủ, tích cực góp phần bảo vệ hoà bình ở Đông-Nam-Á và trên thế giới. Báo
cáo nhấn mạnh tính chất lâu dài, gian khổ và phức tạp của cách mạng miền Nam và quá trình
giành thắng lợi của cách mạng miền Nam là quá trình phát triển từ thấp đến cao, kết hợp nhiều
hình thức đấu tranh, lấy việc xây dựng, củng cố, phát triển lực lượng cách mạng của quần
chúng làm cơ sở.

Báo cáo Chính trị đã phân tích một cách sâu sắc về đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa ở
miền Bắc. Sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc trước hết phải biến miền Bắc
thành căn cứ vững chắc cho cách mạng cả nước, giải phóng miền Nam thống nhất nước nhà.
Báo cáo chính trị chỉ rõ nội dung cơ bản của công cuộc cải tạo xã hội chủ và xây dựng chủ
nghĩa xã hội của miền Bắc, đó là một quá trình cải biến cách mạng về mọi mặt nhằm đưa miền
Bắc từ nền kinh tế chủ yếu dựa trên sở hữu cá thể về tư liệu sản xuất tiến lên nền kinh tế xã hội
chủ nghĩa dựa trên sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể, từ chế độ sản xuất nhỏ tiến lên chế độ
sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Đường lối chung của cách mạng miền Bắc trong thời kỳ quá độ
tiến lên chủ nghĩa xã hội là: Đoàn kết toàn dân, phát huy tinh thần yêu nước nồng nàn và truyền
thống phấn đấu anh dũng, lao động cần cù của nhân dân ta, đồng thời tăng cường đoàn kết với
các nước xã hội chủ nghĩa anh em, để đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên
chủ nghĩa xã hội, xây dựng đời sống ấm no, hạnh phúc, củng cố miền Bắc thành cơ sở vững
mạnh cho cuộc đấu tranh thực hiện hoà bình thống nhất nước nhà, góp phần tăng cường phe
xã hội chủ nghĩa, bảo vệ hoà bình ở Đông Nam Á và thế giới.

Tiếp theo Báo cáo Chính trị, đồng chí Lê Đức Thọ đọc báo cáo về việc sửa đổi Điều lệ Đảng.
Báo cáo chỉ rõ trước tình hình mới, yêu cầu cơ bản của việc xây dựng Đảng là phải ra sức củng
cố Đảng về mặt tư tưởng và tổ chức, phải giữ vững và nâng cao hơn nữa tính chất giai cấp và
tính chất tiên phong của Đảng để nâng cao sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo của Đảng, bảo
đảm cho Đảng có khả năng lãnh đạo Nhà nước, lãnh đạo quản lý kimh tế và văn hoá, xây dựng
thắng lợi chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và làm tròn nghĩa vụ lãnh đạo cuộc đấu tranh thực hiện
thống nhất nước nhà.

Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Trung ương mới gồm 47 uỷ viên chính thức và 31 uỷ viên dự
khuyết. Ban Chấp hành Trung ương đã bầu Bộ Chính trị gồm 11 uỷ viên chính thức và 2 uỷ
viên dự khuyết; Ban Bí thư Trung ương Đảng có 7 đồng chí. Đồng chí Hồ Chí Minh được bầu
lại làm Chủ tịch Đảng và đồng chí Lê Duẩn được bầu làm Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành
Trung ương Đảng..

Trong diễn văn bế mạc Đại hội của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Người khẳng định: Đại hội lần thứ hai
đã đưa kháng chiến đến thắng lợi. Chắc chắn rằng Đại hội lần thứ III này sẽ là nguồn ánh sáng
mới, lực lượng mới cho toàn Đảng và toàn dân ta xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội ở miền
Bắc và đấu tranh thực hiện hoà bình thống nhất nước nhà.

Sau đại thắng mùa Xuân năm 1975, đất nước ta bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên hoà
bình, độc lập, thống nhất và cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Đại hội lần thứ IV của Đảng là Đại
hội toàn thắng của sự nghiệp giải phóng dân tộc; là Đại hội tổng kết những bài học lớn của
cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, là Đại hội thống nhất Tổ quốc đưa cả nước tiến lên con
đường xã hội chủ nghĩa. Đại hội họp từ ngày 14 đến 20-12-1976 tại Hà Nội. Dự Đại hội có 1008
đại biểu thay mặt cho 1,5 triệu đảng viên trong cả nước. Đồng chí Tôn Đức Thắng đã đọc Diễn
văn khai mạc; đồng chí Lê Duẩn đọc Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng;
đồng chí Phạm Văn Đồng đọc Báo cáo về phương hướng, nhiệm vụ và mục tiêu chủ yếu của
kế hoạch nhà nước 5 năm lần thứ hai (1976-1980); Báo cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng
và sửa đổi Điều lệ Đảng do đồng chí Lê Đức Thọ trình bày.

Báo cáo Chính trị đã tổng kết quá trình đấu tranh anh dũng, bền bỉ, liên tục và thắng lợi vẻ vang
của quân và dân ta chống lại cuộc chiến tranh xâm lược lớn nhất và vô cùng ác liệt của đế quốc
Mỹ để giải phóng miền Nam thống nhất nước nhà. Báo cáo cũng chỉ rõ những nguyên nhân
đưa đến thắng lợi và những bài học có giá trị để lại cho Đảng và nhân dân ta.

Trên cơ sở phân tích mọi mặt tình hình của đất nước khi bước vào sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội; Đại hội xác định đường lối chung của cách mạng xã hội chủ nghĩa là: Nắm vững
chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, tiến hành đồng
thời ba cuộc cách mạng : Cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học kỹ thuật, cách
mạng tư tưởng và văn hoá, trong đó cách mạng khoa học-kỹ thuật là then chốt; đẩy mạnh công
nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội;
xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa,
xây dựng nền văn hoá mới, xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa; xoá bỏ chế độ người
bóc lột người, xoá bỏ nghèo nàn và lạc hậu; không ngừng đề cao cảnh giác, thường xuyên
củng cố quốc phòng, giữ gìn an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội; xây dựng thành công Tổ
quốc Việt Nam hoà bình, độc lập, thống nhất và xã hội chủ nghĩa; góp phần tích cực vào cuộc
đấu tranh của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Trên
cơ sở đường lối chung, Báo cáo vạch rõ đường lối xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa;
phương hướng, nhiệm vụ và mục tiêu chủ yếu của kế hoạch 5 năm 1976-1980. Đại hội cũng đã
nêu ra những nhiệm vụ cụ thể về kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng và công tác xây dựng
Đảng. Đại hội quyết định đổi tên đảng thành Đảng Cộng sản Việt Nam và thông qua Điều lệ mới
của Đảng. Ban Chấp hành Trung ương Đảng do Đại hội bầu ra gồm 102 uỷ viên chính thức và
32 uỷ viên dự khuyết. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản lần thứ nhất ngày
19-12-1976 đã bầu Bộ Chính trị gồm 14 uỷ viên chính thức và 3 uỷ viên dự khuyết. Hội nghị đã
bầu Ban Bí thư gồm 9 đồng chí, đồng chí Lê Duẩn được bầu làm Tổng Bí thư.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng họp từ ngày 27 đến ngày 31-3-1982 tại Thủ đô
Hà Nội. Dự Đại hội có 1033 đại biểu thay mặt cho 1.727.000 đảng viên. Đồng chí Tổng Bí thư
Lê Duẩn trình bày Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương khóa IV. Báo cáo khẳng
định: Thành công rực rỡ của Đảng ta và nhân dân ta là đã nhanh chóng thống nhất nước nhà
về mặt nhà nước, thiết lập hệ thống chuyên chính vô sản trong cả nước và thực hiện nhiều
chính sách thúc đẩy quá trình thống nhất về mọi mặt, tạo nên cuộc sống hòa hợp dân tộc, chan
hòa từ Bắc đến Nam. Thắng lợi của hai cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc là thắng lợi có ý nghĩa
lịch sử hết sức to lớn. Báo cáo nêu bật những thành tựu trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa;
đồng thời xác định rõ hai nhiệm vụ chiến lược là: Xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội; sẵn
sàng chiến đấu, bảo vệ vững chắc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đại hội khẳng định tiếp tục thực
hiện đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa và đường lối xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa
do Đại hội lần thứ IV của Đảng vạch ra.

Báo cáo về công tác xây dựng Đảng đã nhấn mạnh công tác xây dựng Đảng có vị trí đặc biệt
quan trọng và chỉ rõ nhiệm vụ then chốt của công tác xây dựng Đảng hiện nay là tiếp tục nâng
cao tính giai cấp công nhân, tính tiên phong của Đảng, xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị,
tư tưởng và tổ chức nhằm bảo đảm thực hiện thắng lợi đường lối của Đảng, nâng cao năng lực
lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, làm cho
Đảng ta luôn luôn giữ vững bản chất cách mạng và khoa học, một Đảng thật sự trong sạch, có
sức chiến đấu cao, gắn bó chặt với quần chúng.

Đại hội đã nghe Báo cáo phương hướng nhiệm vụ và những mục tiêu chủ yếu về kinh tế và xã
hội trong 5 năm 1981-1985 và những năm 80 do đồng chí Phạm Văn Đồng - Ủy viên Bộ Chính
trị, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng trình bày.

Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Trung ương gồm 116 ủy viên chính thức và 36 ủy viên dự
khuyết. Ban Chấp hành Trung ương đã bầu Bộ Chính trị gồm 13 ủy viên chính thức và 2 ủy
viên dự khuyết, đồng chí Lê Duẩn được bầu lại làm Tổng Bí thư.

Đại hội đại biểu lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam họp tại Thủ đô Hà Nội từ ngày 15 đến
ngày 18-12-1986. Dự Đại hội có 1.129 đại biểu thay mặt cho gần 1,9 triệu đảng viên. Đồng chí
Nguyễn Văn Linh, Ủy viên Bộ Chính trị đọc Diễn văn khai mạc Đại hội. Đồng chí Trường Chinh,
Tổng Bí thư đọc Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa V. Đồng chí Võ
Văn Kiệt, Ủy viên Bộ Chính trị đọc Báo cáo phương hướng mục tiêu chủ yếu phát triển kinh tế,
xã hội trong 5 năm (1986-1990).

Trên tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật, Đại hội nhận định năm năm qua là một
chặng đường đầy thử thách đối với Đảng và nhân dân ta. Chúng ta đã đạt được những thành
tựu quan trọng trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc,
bảo đảm an ninh chính trị và thực hiện nghĩa vụ quốc tế đã giành được những thắng lợi to lớn.
Khẳng định những thành tựu, đồng thời Đại hội cũng chỉ rõ tình hình kinh tế - xã hội nước ta
đang có nhiều khó khăn, chúng ta chưa thực hiện được mục tiêu do Đại hội lần thứ V đề ra là
về cơ bản ổn định tình hình kinh tế - xã hội, ổn định đời sống của nhân dân.

Đại hội lần thứ VI của Đảng nhấn mạnh: Để khắc phục được khuyết điểm, chuyển biến được
tình hình, Đảng ta trước hết phải thay đổi nhận thức, đổi mới tư duy. Phải nhận thức đúng đắn
và hành động phù hợp với hệ thống quy luật khách quan. Trên cơ sở phân tích, đánh giá tình
hình, Đại hội đề ra đường lối đổi mới. Trước hết là đổi mới cơ cấu kinh tế. Xây dựng và củng cố
quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành phần kinh tế. Đổi
mới cơ ché quản lý kinh tế, thực hiện các chính sách xã hội. Phát huy quyền làm chủ tập thể
của nhân dân lao động, nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước. Nâng cao năng lực và sức
chiến đấu của Đảng. Đổi mới đội ngũ cán bộ, kiện toàn các cơ quan lãnh đạo và quản lý. Đổi
mới phong cách làm việc, giữ vững các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt trong Đảng. Nâng cao
chất lượng đảng viên, đấu tranh chống các biểu hiện tiêu cực và nâng cao sức chiến đấu của tổ
chức cơ sở Đảng.

Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VI gồm 124 ủy viên chính thức và 49 ủy
viên dự khuyết. Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương bầu Bộ Chính trị gồm 13 ủy
viên chính thức và 1 ủy viên dự khuyết, bầu Ban Bí thư gồm 13 đồng chí. Đồng chí Nguyễn Văn
Linh được bầu làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Các đồng chí Trường
Chinh, Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ được giao trách nhiệm là Cố vấn Ban Chấp hành Trung
ương Đảng.

Đại hội lần thứ VI của Đảng đã hoạch định đường lối đổi mới toàn diện, sâu sắc và triệt để. Đó
là sự kết tinh trí tuệ của toàn Đảng và toàn dân, thể hiện tinh thần trách nhiệm cao của Đảng
trước đất nước và dân tộc. Đường lối do Đại hội VI đề ra thể hiện sự phát triển tư duy lý luận,
khả năng tổng kết và tổ chức thực tiễn của Đảng mở ra thời kỳ mới của sự nghiệp cách mạng
nước ta trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng họp tại Thủ đô Hà Nội từ ngày 24 đến ngày 27-
6-1991. Dự Đại hội có 1176 đại biểu đại diện cho 2.155.022 đảng viên. Đồng chí Võ Chí Công
đọc Diễn văn khai mạc. Đồng chí Nguyễn Văn Linh đọc Báo cáo của Ban Chấp hành Trung
ương về các văn kiện Đại hội VII. Báo cáo đánh giá việc thực hiện đổi mới hơn 4 năm trên các
lĩnh vực đời sống xã hội, đề ra phương hướng nhiệm vụ chủ yếu trong 5 năm (1991-1995).
Công cuộc đổi mới đã đạt được những thành tựu bước đầu: Tình hình chính trị của đất nước
ổn định. Nền kinh tế có những bước phát triển đã đạt được những tiến bộ rõ rệt trong việc thực
hiện các mục tiêu của 3 chương trình kinh tế, bước đầu hình thành nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, huy động được
nguồn lực sản xuất của xã hội, tốc độ lạm phát được kiềm chế, đời sống của một bộ phận nhân
dân được cải thiện.

Đại hội đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội;
Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế-xã hội đến năm 2000; Báo cáo xây dựng Đảng và sửa
đổi Điều lệ Đảng.

Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Trung ương gồm 146 ủy viên. Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khóa VII đã bầu Bộ Chính trị gồm 13 đồng chí. Đồng chí Đỗ Mười được
bầu làm Tổng Bí thư của Đảng.

Đại hội lần thứ VII là Đại hội của trí tuệ - đổi mới, dân chủ - kỷ cương - đoàn kết.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII Đảng Cộng sản Việt Nam diễn ra từ ngày 28-6 đến ngày
1-7-1996 tại Thủ đô Hà Nội. Dự Đại hội có 1.198 đảng viên. Đại hội có nhiệm vụ kiểm điểm việc
thực hiện Nghị quyets Đại hội VII; tổng kết 10 năm đổi mới; đề ra mục tiêu, phương hướng, giải
pháp thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đát nước đến năm 2000 và định hướng đến năm
2020; bổ sung sửa đổi Điều lệ Đảng; bầu Ban Chấp hành Trung ương mới.

Báo cáo Chính trị đã khẳng định những thành tựu quan trọng đã đạt được: Đẩy nhanh nhịp độ
phát triển kinh tế, hoàn thành vượt mức nhiều mục tiêu chủ yếu của kế hoạch 5 năm. Tạo được
một số chuyển biến tích cực về mặt xã hội. Giữ vững ổn định chính trị, củng cố quốc phòng, an
ninh. Thực hiện có kết quả một số đổi mới quan trọng về hệ thống chính trị. Phát triển mạnh mẽ
quan hệ đối ngoại, phá thế bao vây cấm vận, tham gia tích cực vào đời sống cộng đồng quốc
tế.

Đảng cũng chỉ rõ những khuyết điểm, yếu kém: Nước ta còn nghèo và kém phát triển. Chúng ta
chưa thực hiện tôt cần kiệm trong sản xuất, tiết kiệm trong tiêu dùng, dồn vốn cho đầu tư phát
triển. Tình hình xã hội còn nhiều vấn đề tiêu cực. Nạn tham nhũng, buôn lậu, lãng phí của công
chưa ngăn ch��
Tin tức Site được cập nhật vào: 2010-10-18 17:34:57

Nguyễn Ái Quốc tìm đường cứu nước, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (1911-1930)
03/02/2010

Nguyễn Ái Quốc tìm đường cứu nước, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (1911-1930)

I. CUỘC KHỦNG HOẢNG VỀ CON ĐƯỜNG CỨU NƯỚC ĐẦU THẾ KỶ XX

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là kết quả chuẩn bị công phu về tư tưởng, chính trị và tổ
chức của đồng chí Nguyễn Ái Quốc và của các chiến sĩ cách mạng tiền bối, đáp ứng nhu cầu
lịch sử của đất nước ta đầu thế kỷ XX, phù hợp xu thế phát triển của thời đại.

1. Xã hội thuộc địa, nửa phong kiến Việt Nam


Cuối thế kỷ XIX, sau khi cơ bản kết thúc giai đoạn vũ trang xâm lược, thực dân Pháp tiến
hành khai thác thuộc địa. Để bóc lột được lợi nhuận thuộc địa tối đa, thực dân Pháp duy trì
phương thức sản xuất phong kiến, thiết lập một cách hạn chế phương thức sản xuất tư bản
chủ nghĩa. Chúng thực hiện chính sách độc quyền kinh tế về các mặt: xuất nhập khẩu, khai
thác mỏ, giao thông vận tải, ngân hàng, tài chính, thuốc phiện, muối, rượu, chiếm đất lập đồn
điền, lập ra hàng trăm thứ thuế vô lý và vô nhân đạo. Chúng bóc lột dân ta đến tận xương tuỷ,
khiến cho dân ta càng nghèo khổ, nước ta xơ xác, tiêu điều. Chúng thực hành chính sách
chuyên chế vềchính trị, làm cho dân ta không có một chút tự do, dân chủ nào. Để ngăn chặn
tình đoàn kết của dân tộc ta, chúng thực hiện chính sách "chia để trị".

Cùng với độc quyền về kinh tế, chuyên chế về chính trị, về văn hoá, thực dân Pháp thi
hành chính sách ngu dân, nhằm giam hãm dân tộc ta trong vòng nô lệ.

Những chính sách trên của thực dân Pháp đã làm cho xã hội Việt Nam thay đổi, từ một
xã hội phong kiến độc lập, Việt Nam trở thành một xã hội thuộc địa, nửa phong kiến.

Về cơ cấu xã hội, bên cạnh giai cấp địa chủ phong kiến và giai cấp nông dân đã tồn tại từ
lâu, xuất hiện giai cấp công nhân, giai cấp tiểu tư sản thành thị và giai cấp tư sản.

Nhân dân ta bị bần cùng hoá, công nhân, nông dân nghèo đói, tiểu tư sản phá sản, trí
thức thất nghiệp, tư sản dân tộc, địa chủ nhỏ và vừa bị chèn ép.

Chính sách thống trị của Pháp và bọn tay sai đã tạo ra hai mâu thuẫn cơ bản trong xã hội
Việt Nam thuộc địa, nửa phong kiến: mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với chủ nghĩa
thực dân Pháp và mâu thuẫn giữa nhân dân Việt Nam, chủ yếu là giữa nông dân với giai cấp
địa chủ phong kiến. Mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc ta với bọn thực dân
Pháp và bè lũ tay sai. Độc lập dân tộc và người cày có ruộng là hai yêu cầu cơ bản của xã hội
Việt Nam thuộc địa, nửa phong kiến, nhưng độc lập dân tộc là yêu cầu chủ yếu trước mắt,
phản ánh nguyện vọng bức thiết của các tầng lớp, giai cấp trong dân tộc.

2. Phong trào giải phóng dân tộc cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
a) Phong trào yêu nước của nông dân và sĩ phu yêu nước

Ngay từ khi thực dân Pháp đặt chân lên đất nước ta, với tinh thần yêu nước nồng
nàn, bất chấp chủ trương đầu hàng của triều đình phong kiến, nhân dân cả nước đã vùng
lên chống thực dân Pháp xâm lược. Chúng đã vấp phải một phong trào đấu tranh vũ trang
quyết liệt và kéo dài, hễ phong trào này bị dập tắt, thìphong trào khác tiếp theo, không hề
ngưng nghỉ, thật đúng với lời tuyên bố đanh thép của Nguyễn Trung Trực trước giờ xử tử:
"Bao giờ Tây nhổ hết cỏ nước Nam mới hết người Nam đánh Tây".
Ngày 5-7-1885, phái kháng chiến còn sót lại trong triều đình Huế do Tôn Thất Thuyết dẫn
đầu đánh đồn Mang Cá và toà khâm sứ Trung Kỳ. Bị thất bại, Tôn Thất Thuyết đưa vua Hàm
Nghi ra vùng núi Quảng Trị. Ngày 13-7-1885, nhà vua xuống chiếu "Cần Vương". Phong trào
"Cần Vương" nhanh chóng lan ra nhiều địa phương ở Trung Kỳ, Bắc Kỳ và cả Nam Kỳ. Ngày 1-
11-1888, vua Hàm Nghi bị Pháp bắt. Phong trào "Cần Vương" còn kéo dài cho đến khi cuộc
khởi nghĩa Phan Đình Phùng thất bại (1896). Trong thời gian đó, các cuộc khởi nghĩa của nông
dân chống Pháp không ngừng bùng nổ ở khắp các miền của đất nước. Cuộc khởi nghĩa lớn
nhất tiêu biểu cho ý chí chiến đấu bất khuất, kiên cường, bền bỉ của nông dân Việt Nam là cuộc
khởi nghĩa Yên Thế do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo. Thực dân Pháp đã bốn lần dùng lực lượng
lớn tiến công Yên Thế, nhưng đều bị nghĩa quân đánh bại. Chỉ sau khi Hoàng Hoa Thám hy
sinh (10-3-1913), cuộc khởi nghĩa Yên Thế (kéo dài 30 năm từ 1883-1913) mới kết thúc.

b) Phong trào yêu nước theo hệ tư tưởng tư sản

Sau khi phong trào "Cần Vương" thất bại, nhiều sĩ phu yêu nước hướng ra nước ngoài
tìm con đường cứu nước mới.

Đầu thế kỷ XX, trào lưu dân chủ tư sản qua sách báo của Khang Hữu Vi, Lương Khải
Siêu, gương Duy Tân của Nhật Bản, cuộc vận động hiến pháp của Trung Quốc (1898), cách
mạng Tân Hợi ở Trung Quốc (1911) đã lôi cuốn nhiều sĩ phu yêu nước, tiêu biểu là Phan Bội
Châu và Phan Châu Trinh.

Là ngọn cờ của phong trào yêu nước chống Pháp hồi đầu thế kỷ, lúc đầu Phan Bội Châu
chủ trương lập chế độ quân chủ lập hiến, năm 1904 đã lập Duy Tân hội để khôi phục độc lập
dân tộc. Tuy vậy, ông vẫn chưa thấy vai trò chủ lực của nông dân.

Năm 1912, ông cùng một số nhà yêu nước lập raViệt Nam Quang phục hội, từ bỏ lập
trường quân chủ lập hiến, chuyển sang lập trường dân chủ tư sản với chủ trương: đánh
đuổi giặc Pháp, thành lập Cộng hoà dân quốc Việt Nam. Năm 1924, ông quyết định cải tổ
Việt Nam Quang phục hội thành Việt Nam Quốc dân Đảng, vạch đường lối chính trị phỏng
theo cương lĩnh Trung Hoa Quốc dân Đảng do Tôn Dật Tiên lãnh đạo. Ông cũng có cảm
tình với nước Nga Xôviết, chủ nghĩa xã hội và có ý đặt hy vọng vào Nguyễn Ái Quốc.

Hạn chế lớn của ông là chủ trương dựa vào Nhật để đuổi Pháp. Sau này, trong tác phẩm
Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Trần Dân Tiên đã nhận xét con đường
đó chẳng khác gì "đưa hổ cửa trước, rước beo cửa sau".

Con đường cứu nước của Phan Bội Châu đã không thành công. Trong bản hồi ký cuối
đời ông viết: "Than ôi! Cuộc đời của tôi là một trăm thất bại mà không một thành công".

Phan Châu Trinh là nhà yêu nước dân chủ nhiệt thành. Ông kịch liệt tố cáo bọn quan lại
phong kiến sâu mọt, kết tội tên vua bù nhìn Khải Định và tố cáo tội ác của thực dân Pháp. Ông
chủ trương "khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh". Hạn chế lớn của Phan Châu Trinh là
đường lối cải lương phản đối bạo động ("bạo động tắc tử") và muốn dựa vào Pháp để chống
phong kiến. Dù là cải lương, ông vẫn bị thực dân Pháp bắt giam, đày đi Côn Đảo. Con đường
cứu nước của Phan Châu Trinh đã thất bại, đúng như nhận xét của Trần Dân Tiên, vì sai lầm
chẳng khác gì "xin giặc rủ lòng thương".

Lòng yêu nước và gương hoạt động của hai cụ Phan đã cổ vũ nhân dân ta qua nhiều thế
hệ.

Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh có điểm giống nhau là chưa tiếp cận được xu thế
của thời đại mới, do đó không tìm ra con đường cứu nước mới, con đường giành độc lập
triệt để do nhân dân lao động làm chủ đất nước, lấy sức ta mà tự giải phóng cho ta.

Thất bại của phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản đã nói lên một sự
thật: con đường dân chủ tư sản cũng không cứu được nước. Ở nước thuộc địa, nửa phong
kiến Việt Nam, giai cấp tư sản dân tộc có vai trò nhất định trong sự nghiệp cứu nước, nhưng họ
chỉ có thể phát huy vai trò đó với sự giúp đỡ của Đảng, của giai cấp công nhân.

Sau Cách mạng Tháng Mười Nga (1917), tính chất thời đại thay đổi, đòi hỏi con đường
giải quyết mâu thuẫn xã hội phải thay đổi và giai cấp lãnh đạo cách mạng cũng phải thay đổi.

Vào những năm đầu thế kỷ XX, cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước đã diễn ra sâu
sắc, trầm trọng trên đất nước ta. Việc tìm lối ra cho cuộc khủng hoảng là nhu cầu nóng bỏng
nhất của dân tộc ta lúc bấy giờ.

II. NGUYỄN ÁI QUỐC TÌM ĐƯỜNG CỨU NƯỚC

1.Quá trình tìm tòi con đường cứu nước mới của Nguyễn Ái Quốc
Nguyễn Ái Quốc sinh ngày 19-5-1890, quê ở làng Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ
An. Lúc nhỏ có tên là Nguyễn Sinh Cung, khi đi học lấy tên là Nguyễn Tất Thành. Lớn lên giữa
lúc nước mất nhà tan, đau xót trước cảnh lầm than của đồng bào, Nguyễn Tất Thành sớm có
chí đánh đuổi thực dân Pháp, giải phóng dân tộc.

Ngày 5-6-1911, Nguyễn Tất Thành rời đất nước ra đi tìm đường cứu nước, xem các
nước làm thế nào rồi trở về giúp đồng bào.

Trên lộ trình tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc đã trải qua những bước ngoặt lớn.

Một là: Nhận ra hạn chế của các nhà yêu nước đương thời.

Nguyễn Ái Quốc rất khâm phục tinh thần yêu nước của Phan Bội Châu, Phan Châu
Trinh, Hoàng Hoa Thám, nhưng không đồng ý đi theo con đường của một người nào. Trong
khi nhiều người còn ngưỡng mộ cách mạng tư sản, Người đã vượt qua sự hạn chế tầm
nhìn của họ, đi tìm con đường cứu nước khác.

Hai là: Tìm ra chỗ hạn chế của cách mạng dân chủ tư sản là những cuộc cách mạng
không giải phóng được công nông và quần chúng lao động.

Một cuộc khảo sát có một không hai ở Mỹ, Anh và Pháp đã giúp Nguyễn Ái Quốc nhận ra
là ở đâu cũng có hai loại người: người giàu và người nghèo, người áp bức và người bị áp bức.
Càng ngày Người càng hiểu sâu sắc bản chất của chủ nghĩa đế quốc.

Ngày 6-7-1911, Nguyễn Tất Thành đến cảng Mácxây, thấy nhiều phụ nữ nghèo khổ,
Nguyễn Tất Thành nói với người bạn "Tại sao người Pháp không "khai hóa" đồng bào của họ
trước khi đi "khai hóa" chúng ta?".

Làm thuê trên chiếc tàu đi vòng quanh châu Phi, tận mắt trông thấy những cảnh khổ cực,
chết chóc của người da đen dưới roi vọt của bọn thực dân, Nguyễn Tất Thành nghĩ: Đối với
bọn thực dân, tính mạng của người thuộc địa, da vàng hay da đen cũng không đáng một xu.

Giữa tháng 12-1912, Nguyễn Tất Thành tới nước Mỹ, Người dành một phần thời gian để
lao động kiếm sống, còn phần lớn thời gian dành cho học tập, nghiên cứu Cách mạng tư sản
Mỹ năm 1776. Khi thăm pho tượng Thần Tự do, Nguyễn Tất Thành không để ý đến ánh hào
quang quanh đầu tượng mà xúc động trước cảnh những nô lệ da đen dưới chân tượng.

Cuối năm 1913, Nguyễn Tất Thành từ Mỹ sang Anh và cuối năm 1917 trở lại Pháp.

Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 - 1918) giết hại biết bao sinh mạng, phá huỷ vô vàn
của cải. Qua đó, Nguyễn Ái Quốc càng hiểu thêm bản chất của chủ nghĩa tư bản.

Quá trình nghiên cứu, xem xét Cách mạng tư sản Mỹ (1776) và Cách mạng tư sản Pháp
(1789) đã giúp Nguyễn Ái Quốc học hỏi được nhiều điều. Tuy vậy, Người vẫn đánh giá những
cuộc cách mạng tư sản là "những cuộc cách mạng không đến nơi".

Chiến tranh kết thúc, các nước thắng trận họp


Hội nghị hoà bình ở Vécxây (Pháp) để chia phần. Thay mặtHội những người Việt Nam yêu
nước, Nguyễn Ái Quốc gửi đến Hội nghị bản yêu sách 8 điểm. Trong khi chờ đợi giải quyết vấn
đề dân tộc tự quyết, Người chỉ đề cập những yêu sách "tối thiểu" và "cấp thiết". Tổng thống Mỹ
Uynxơn (Wilson), tác giả chương trình 14 điểm với chiêu bài dân tộc tự quyết cũng có mặt ở
Hội nghị. Nhưng những yêu sách dù khiêm tốn của Người không được Hội nghị đáp ứng.

Sự kiện này đã giúp Nguyễn Ái Quốc hiểu rõ "chủ nghĩa Uynxơn chỉ là một trò bịp bợm
lớn...". Những lời tuyên bố tự do của nhà chính trị tư sản trong lúc chiến tranh thực ra chỉ là
những lời đường mật để lừa bịp các dân tộc. Muốn được giải phóng, các dân tộc chỉ có thể
trông cậy vào mình, trông cậy vào lực lượng của bản thân mình. Đầu năm 1919, Nguyễn Ái
Quốc gia nhập Đảng Xã hội Pháp, một đảng tiến bộ hồi bấy giờ, Người có dịp tiếp xúc, hoạt
động với nhiều nhà chính trị nổi tiếng ở Pháp. Nguyễn Ái Quốc tìm hiểu và hoạt động trong
phong trào công nhân, liên lạc và cùng hoạt động với nhiều nhà cách mạng ở nhiều thuộc địa
Pháp.

Ba là: Đi theo con đường của Cách mạng Tháng Mười Nga, đi theo Quốc tế Cộng sản.

Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 thắng lợi là sự kiện chính trị lớn nhất của thế kỷ
XX, mở ra thời đại mới trong lịch sử loài người, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ
nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới, thời đại thắng lợi của cách mạng giải phóng dân tộc và
cách mạng vô sản.

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười đặt ra sự lựa chọn mới đối với những người cách
mạng Việt Nam: Độc lập dân tộc cho một số ít người hay cho đại đa số người? Độc lập dân tộc
đi lên chủ nghĩa tư bản hay độc lập dân tộc đi lên chủ nghĩa xã hội?

Khi được biết thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga, Nguyễn Ái Quốc ngưỡng mộ
cuộc cách mạng đó, kính phục Lênin. Người đã tham gia nhiều cuộc vận động ủng hộ nhân dân
Nga bảo vệ thành quả cách mạng. Tháng 3-1919, Quốc tế Cộng sản (Quốc tế thứ ba) ra đời, có
ảnh hưởng lớn đến phong trào cách mạng thế giới. Năm 1920, cuộc đấu tranh giữa hai con
đường diễn ra quyết liệt trong nhiều đảng công nhân và ngay trong Đảng Xã hội Pháp: tiếp tục
theo Quốc tế thứ hai tức là tiếp tục con đường cải lương hay đi theo Quốc tế thứ ba, con
đường cách mạng.

Tháng 7-1920, Nguyễn Ái Quốc đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những Luận cương về vấn
đề dân tộc và thuộcđịa của Lênin. Luận cương đã giải đáp trúng những vấn đề mà Nguyễn Ái
Quốc đang trăn trở tìm hiểu, giúp Người thấy rõ con đường thắng lợi của cách mạng giải phóng
dân tộc, nhận rõ lập trường của Lênin và Quốc tế thứ ba khác hẳn với những lời tuyên bố
suông của Quốc tế thứ hai. Luận cương của Lênin đã có ảnh hưởng quyết định đến lập trường
cứu nước của Nguyễn Ái Quốc: Người đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, tán thành Quốc tế thứ
ba, đặt cách mạng giải phóng dân tộc trong quỹ đạo cách mạng vô sản, trở thành một trong
những nhà sáng lập Đảng Cộng sản Pháp và là người cộng sản đầu tiên của Việt Nam.

Qua mười năm sống và làm việc ở những nước tư bản phát triển, Nguyễn Ái Quốc
không choáng ngợp trước sự giàu có của giai cấp tư sản mà lại nhận thấy chế độ tư bản có
nhiều khuyết tật. Người khẳng định dứt khoát chủ nghĩa tư bản không cứu được nước, không
cứu được dân. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 đã giúp Nguyễn Ái Quốc
nhanh chóng nhận ra chân lý thời đại: Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải
phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ.

Khác với các nhà yêu nước đương thời, Nguyễn Ái Quốc có một phương pháp nghiên cứu độc
lập, tự chủ, sáng tạo, đem lý luận đối chiếu với thực tiễn, lấy mục tiêu giải phóng dân tộc, giải
phóng xã hội làm tiêu chuẩn đánh giá các học thuyết, tiếp thu kinh nghiệm cách mạng thế giới
có chọn lọc.

Tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo của Nguyễn Ái Quốc đã được thể hiện nổi bật trong việc vận
dụng học thuyết Mác - Lênin, vạch ra đường lối cứu nước đúng đắn cho dân tộc ta.

2. Truyền bá chủ nghĩa Mác- Lênin và chuẩn bị thành lập Đảng


a) Tố cáo tội ác của bọn thực dân Pháp, liên kết cách mạng giải phóng dân tộc thuộc địa
với cách mạng vô sản ở các nước đế quốc

Trở thành người cộng sản, Nguyễn Ái Quốc bắt tay vào truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin
về nước. Quá trình đó cũng là quá trình Người từng bước vạch đường lối chiến lược cho cách
mạng Việt Nam.

Tháng 4-1921, khi còn ở Pháp, trong bài báoĐông Dương, Người phê phán sai lầm của
một số đảng cộng sản ở các nước tư bản phát triển "chưa quan tâm đến vấn đề thuộc địa".
Tháng 5 năm đó cũng trong bài báo Đông Dương, Người cho rằng "chế độ cộng sản có áp
dụng được ở châu Á nói chung và ở Đông Dương nói riêng". Người dự đoán "ngày mà hàng
trăm triệu nhân dân châu Á bị tàn sát và áp bức thức tỉnh để gạt bỏ sự bóc lột đê tiện của một
bọn thực dân lòng tham không đáy, họ sẽ hình thành một lực lượng khổng lồ, và trong khi thủ
tiêu một trong những điều kiện tồn tại của chủ nghĩa tư bản là chủ nghĩa đế quốc, họ có thể
giúp đỡ những người anh em mình ở phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn".

Tháng 7-1921, Nguyễn Ái Quốc cùng một số chiến sĩ cách mạng ở nhiều nước thuộc địa
Pháp lập Hội liên hiệp thuộc địa. Tuyên ngôn của Hội do Người khởi thảo đã nêu bật tư tưởng
tự lực tự cường: "Công cuộc giải phóng anh em chỉ có thể thực hiện được bằng sự nỗ lực của
bản thân anh em".

Hội đã ra tờ báoNgười cùng khổ (Le Paria).Trong truyền đơn cổ động mọi người mua báo,
Nguyễn Ái Quốc đã phát triển lời kêu gọi đoàn kết quốc tế của Mác và Lênin: "Lao động tất cả
các nước đoàn kết lại!". BáoNgười cùng khổ đã tạo "một luồng gió mới thổi đến nhân dân các
nước bị áp bức", "đã làm cho nước Pháp chân chính biết rõ những việc xảy ra trong các thuộc
địa", "đã thức tỉnh đồng bào chúng ta", "khiến cho đồng bào chúng ta nhận rõ nước Pháp, nước
Pháp tự do, bình đẳng, bác ái". Ngoài việc viết bài cho báo Người cùng khổ, Nguyễn Ái Quốc
còn viết bài cho các báoNhân đạo, Đời sống công nhân. Người đã dự Đại hội lần thứ nhất và
thứ hai của Đảng Cộng sản Pháp. Người tiếp tục chỉ ra sai lầm của Đảng Cộng sản Pháp về
vấn đề thuộc địa.

Trong thời gian này, Nguyễn Ái Quốc bắt đầu viết tác phẩm nổi tiếngBản án chế độ thực
dân Pháp nhằm vạch trần bản chất chủ nghĩa đế quốc và kêu gọi "Dân bản xứ không cam chịu
nhục được mãi, phải vùng lên". Người nêu lên mối quan hệ giữa cách mạng vô sản và cách
mạng giải phóng dân tộc qua hình ảnh chủ nghĩa đế quốc là một con đỉa hai vòi. Muốn giết con
vật ấy "người ta phải đồng thời cắt cả hai vòi. Nếu người ta chỉ cắt một vòi thôi, thì cái vòi còn
lại kia vẫn tiếp tục hút máu của giai cấp vô sản, con vật vẫn tiếp tục sống và cái vòi bị cắt đứt lại
sẽ mọc ra". Tác phẩmBản án chế độ thực dân Pháp có giá trị lớn về mặt lý luận, thực tiễn, đồng
thời có giá trị về văn học.

Năm 1922, Nguyễn Ái Quốc phê phán vua Khải Định khi ông ta sang Pháp dự hội chợ
thuộc địa. Qua truyện ngắnLời than vãn của Bà Trưng Trắc, vở kịch Con rồng tre, Người lên án
ông ta là "đớn hèn, bất lực và ngu dốt", cam tâm làm tôi tớ cho thực dân Pháp.

Giữa năm 1923, Nguyễn Ái Quốc đến Pêtơrôgrát (Liên Xô). Ở đó, Người có điều kiện
học tập, nghiên cứu sâu sắc hơn chủ nghĩa Mác - Lênin. Người phát triển thêm những quan
điểm chính trị của mình đã hình thành ở Pháp. Người tiếp tục tố cáo tội ác của chủ nghĩa đế
quốc. Qua bài Hành hình kiểu Linsơ, Người coi tội ác đó "chiếm vị trí vinh dự trong toàn bộ
những tội ác của nền văn minh Mỹ".Người vạch trần"chính sách thực dân trá hình" của đế quốc
Anh muốn chiếm cả Trung Quốc, phê phán đế quốc Ý đồng lõa với đế quốc Pháp đàn áp
phong trào cách mạng ở Bắc Phi.

Tháng 10-1923, Nguyễn Ái Quốc dự Đại hội lần thứ nhất Quốc tế Nông dân. Đại hội bầu
Người vào Ban Chấp hành Quốc tế Nông dân và Ban Chấp hành cử Người làm uỷ viên Đoàn
chủ tịch. Năm 1924, Người dự các Đại hội của Thanh niên, Phụ nữ quốc tế. Công hội đỏ và Đại
hội lần thứ V của Quốc tế Cộng sản. Người tiếp tục phê bình thiếu sót của nhiều đảng cộng sản
ở Tây Âu về vấn đề thuộc địa và thẳng thắn nêu thiếu sót đó của cả Quốc tế Cộng sản.

Người rất chú ý nghiên cứu chế độ mới ở Liên Xô. Người nhận rõ lúc này dù thiếu thốn,
nhân dân Liên Xô đã dành cho trẻ em những "cái gì tốt nhất", nhà nước hết sức chăm lo việc
giáo dục và y tế cho nhân dân. Người viết nhiều bài báo nêu cao công lao vĩ đại, đạo đức cao
cả của Lênin.

Ngày 11-11-1924, Nguyễn Ái Quốc đến Quảng Châu (Trung Quốc) làm nhiệm vụ đặc
phái viên của Quốc tế Cộng sản và trực tiếp chuẩn bị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.

Người cùng với một số nhà cách mạng lậpHội liên hiệp các dân tộc bị áp bức Á Đông,
do ông Liêu Trọng Khải (Trung Quốc) làm Hội trưởng và Người làm Bí thư.

b) Thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên (Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng
chí hội)

Tháng 6-1925, từ nhóm cách mạng đầu tiên, Nguyễn Ái Quốc thành lập Hội Việt Nam
cách mạng thanh niên, nhằm tập hợp những thanh niên yêu nước Việt Nam có xu hướng cộng
sản chủ nghĩa, chuẩn bị thành lập Đảng. Người mở những lớp huấn luyện cán bộ và ra tờ
báoThanh niên. Phần lớn những thanh niên đã được huấn luyện trở về nước hoạt động và số
còn lại sang Liên Xô tiếp tục học tập. Hội đã truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin và đường lối cứu
nước của Nguyễn Ái Quốc vào công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân.

Năm 1928, Hội đề ra chủ trương "vô sản hoá", đưa hội viên vào các nhà máy, hầm mỏ,
đồn điền. Chủ trương này có tác dụng rèn luyện những người trí thức tiểu tư sản về lập trường
giai cấp công nhân và bước đầu kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và
phong trào yêu nước.

Hội kết nạp ngày càng nhiều hội viên, năm 1928 có 300 hội viên, năm 1929 có 1.700 hội
viên, nếu kể cả hội viên dự bị thì có gần 3.000 người. Từ năm 1926 đến năm 1929, Hội có cơ
sở ở nhiều trung tâm kinh tế, chính trị trong cả nước, trở thành lực lượng chính trị yêu nước
lớn mạnh nhất đất nước, hoàn thành ý định của người sáng lập hội là chuẩn bị tiền đề cho việc
thành lập Đảng Cộng sản.

c) Phác thảo đường lối cứu nước

Nguyễn Ái Quốc phác thảo đường lối cứu nước từ năm 1921 và thể hiện tập trung trong
tập bài giảng ở lớp chính trị tại Quảng Châu, năm 1927 được in thành sách lấy tên là Đường
Cách mệnh. Nội dung cơ bản của tác phẩm như sau:

Một là: Chỉ có cách mạng vô sản là cách mạng triệt để, vì lợi ích của đại đa số dân
chúng.

Nguyễn Ái Quốc giới thiệu những cuộc cách mạng điển hình trên thế giới, từ Cách mạng
tư sản Mỹ năm 1776 đến Cách mạng tư sản Pháp năm 1789, từ Công xã Pari năm 1871 đến
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và sau khi so sánh cách mạng tư sản với cách mạng
vô sản, Người khẳng định: "Cách mệnh Pháp cũng như cách mệnh Mỹ, nghĩa là cách mệnh tư
bản, cách mệnh không đến nơi, tiếng là cộng hoà và dân chủ, kỳ thực trong thì nó tước lục
công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa.Cách mệnh đã 4 lần rồi, mà nay công nông Pháp
hẵng còn phải mưu cách mệnh lần nữa mới hòng thoát khỏi vòng áp bức".

Người khẳng định: "Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mệnh Nga là đã thành công, và
thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc tự do, bình đẳng thật,
không phải tự do và bình đẳng giả dối như đế quốc chủ nghĩa Pháp khoe khoang bên An Nam".
Nguyễn Ái Quốc nhấn mạnh: "làm sao cách mệnh rồi thì quyền giao cho dân chúng số nhiều,
chớ để trong tay một bọn ít người. Thế mới khỏi hy sinh nhiều lần, thế dân chúng mới được
hạnh phúc".Đây là điểm xuất phát và là điểm khác nhau cơ bản giữa con đường cứu nước của
Nguyễn Ái Quốc với các con đường cứu nước trước kia.

Hai là:Mục tiêu và con đường đi lên của cách mạng Việt Nam là chủ nghĩa xã hội, muốn
xoá bỏ chế độ người bóc lột người, muốn có tự do, hạnh phúc, bình đẳng thật sự thì phải qua
hai cuộc cách mạng: cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Hai cuộc
cách mạng này có quan hệ mật thiết với nhau.

Ba là: Về lực lượng cách mạng, công nông là gốc của cách mệnh, học trò, nhà buôn nhỏ,
điền chủ nhỏ là bầu bạn của công nông. "Ai mà bị áp bức càng nặng, thì lòng cách mệnh càng
bền, chí cách mệnh càng quyết". Cách mệnh là việc chung của cả dân chúng chứ không phải là
việc của một hai người.

Bốn là: Về phương pháp cách mạng.

Cùng với việc hoạch định đường lối cách mạng, Nguyễn Ái Quốc phác thảo cả phương
pháp cách mạng. Người cho rằng giải phóng gông cùm nô lệ cho đồng bào, cho nhân loại là
công việc "to tát", cho nên phải "dùng hết sức", phải "quyết tâm làm thì chắc được", "thà chết tự
do hơn sống làm nô lệ". Nhưng phải "biết cách làm thì mới chóng". "Cách mệnh trước hết phải
làm cho dân giác ngộ". Tiếp theo tư tưởng khởi nghĩa vũ trang quần chúng giành chính quyền
đề ra từ năm 1924, trong tác phẩm này, Nguyễn Ái Quốc ph�
Bài 2
Đảng cộng sản Việt Nam - nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam

Trải qua mấy ngàn năm lịch sử, công cuộc dựng nước và giữ nước đã hun đúc cho dân tộc
ta những phẩm chất cao đẹp và những truyền thống vô cùng quý báu. Trong đó, yêu nước trở
thành tình cảm thiêng liêng, là chuẩn mực đạo lý cao nhất và đứng đầu trong thang giá trị văn
hoá tinh thần của dân tộc, là động lực nội sinh to lớn tạo nên sức mạnh của dân tộc Việt Nam.
Từ thời đại Hùng Vương đến thời đại Hồ Chí Minh, dân tộc ta đã trải qua một chặng đường
lịch sử với nhiều thử thách, hy sinh nhưng cũng đầy khí phách anh hùng, dũng cảm.
Những thế hệ người Việt Nam nối tiếp nhau phát huy những phẩm chất anh hùng sáng ngời
của dân tộc viết nên những trang sử vàng chói lọi... Chúng ta có quyền tự hào về những trang sử
vẻ vang của thời đại Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung... và phải ghi nhớ
công lao của các vị anh hùng dân tộc vì các vị đó tiêu biểu cho một dân tộc anh hùng. Lịch sử
Việt Nam đã thể hiện sức mạnh to lớn của chủ nghĩa yêu nước, tinh thần dân tộc chân chính. Vì
vậy, mọi người Việt Nam, nhất là thanh niên cần phải có những hiểu biết sâu sắc về lịch sử dân
tộc Việt Nam. Như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhắc:
Dân ta phải biết sử ta
Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam.
Ngày 3 tháng 2 năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đánh dấu bước chuyển biến
quyết định của cách mạng Việt Nam. Với cương lĩnh và đường lối đúng đắn, sáng tạo của mình,
Đảng Cộng sản Việt Nam đã tổ chức, lãnh đạo mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Hơn 7
thập kỷ qua, dân tộc ta đã vượt qua một chặng đường đấu tranh cực kỳ khó khăn, gian khổ và đã
giành được những thắng lợi rất đáng tự hào, đưa nước ta bước vào một kỷ nguyên mới: Kỷ
nguyên độc lập dân tộc gắn liền với CNXH; mở ra thời đại mới: Thời đại Hồ Chí Minh.

Câu hỏi 1: Vì sao nói Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là bước ngoặt quyết định của
cách mạng Việt Nam?
Trả lời:
Từ năm 1858, thực dân Pháp xâm lược và từng bước thiết lập chế độ thống trị rất tàn bạo,
hà khắc và phản động của chủ nghĩa thực dân trên đất nước ta, xã hội Việt Nam đã có những
biến đổi lớn: Từ chế độ phong kiến chuyển sang chế độ thuộc địa nửa phong kiến; hai mâu thuẫn
cơ bản, chủ yếu trong xã hội ngày càng gay gắt. Đó là, mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc ta với đế
quốc Pháp xâm lược và giữa nhân dân ta chủ yếu là nông dân với bọn địa chủ, phong kiến tay
sai, chỗ dựa của thực dân Pháp.
Nhiệm vụ chống đế quốc Pháp xâm lược và nhiệm vụ chống bọn phong kiến tay sai là
không tách rời nhau. Đó là yêu cầu của cách mạng Việt Nam. Với truyền thống yêu nước nồng
nàn, nhân dân ta đã liên tiếp đứng lên chống thực dân Pháp xâm lược và bọn phong kiến tay sai
ở khắp mọi nơi, dưới sự lãnh đạo của các sĩ phu và các nhà yêu nước đương thời theo nhiều
khuynh hướng khác nhau. Song các phong trào đấu tranh đó đều thất bại, nguyên nhân chủ yếu
là chưa tìm được con đường cứu nước đúng đắn, chưa có một lực lượng xã hội, một giai cấp
tiên tiến và một tổ chức cách mạng chặt chẽ đủ sức lãnh đạo phong trào. Cách mạng Việt Nam
đứng trước sự bế tắc và khủng hoảng về đường lối cứu nước.
Giữa lúc đó, Nguyễn ái Quốc - người con ưu tú của dân tộc Việt Nam ra đi tìm đường cứu
nước. Sau 10 năm bôn ba khắp năm châu bốn bể đã bắt gặp được chủ nghĩa Mác-Lênin và tìm
được con đường cứu nước đúng đắn, Người nói: “Muốn cứu nước giải phóng dân tộc, không có
con đường nào khác là con đường cách mạng vô sản". Đây là bước ngoặt đánh dấu sự chuyển
biến quyết định mở đường thắng lợi cho cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam.
Nguyễn ái Quốc đã truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin về Việt Nam, sáng lập và trực tiếp huấn
luyện Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, ra báo Thanh niên, xuất bản tác phẩm Đường Kách
Mệnh để tuyên truyền, giáo dục bồi dưỡng, đào tạo cán bộ tiếp tục chuẩn bị đầy đủ về chính trị,
tư tưởng và tổ chức cho việc thành lập Đảng.
Từ ngày 3 đến ngày 7 tháng 2 năm 1930, tại Quảng Châu - Trung Quốc, Hội nghị hợp nhất
ba tổ chức cộng sản được triệu tập dưới sự chủ trì và lãnh đạo của Bác Hồ. Hội nghị nhất trí
thành lập một đảng thống nhất lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam, thông qua các văn kiện:
Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ tóm tắt do Nguyễn ái Quốc khởi thảo. Đó là
cương lĩnh và điều lệ đầu tiên của Đảng...Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản Việt Nam
mang ý nghĩa lịch sử như là Đại hội thành lập Đảng.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1930 là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh giai
cấp và đấu tranh dân tộc trong thời đại mới; là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác- Lênin
với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam; là kết quả của quá trình lựa chọn,
sàng lọc nghiêm khắc của lịch sử; là kết quả của quá trình chuẩn bị đầy đủ về chính trị, tư tưởng
và tổ chức của các chiến sĩ cách mạng đứng đầu là Bác Hồ kính yêu của chúng ta.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam đã chứng tỏ rằng: Giai cấp công nhân Việt Nam đã
trưởng thành, đủ sức lãnh đạo cách mạng. Đó cũng là cột mốc lớn đánh dấu bước ngoặt trọng
đại trong lịch sử cách mạng Việt Nam. Cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước kéo dài mấy
chục năm đã được giải quyết. Từ đây, cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam, một Đảng Mác- Lênin chân chính với đường lối cách mạng khoa học và sáng tạo
là cơ sở lý luận vững chắc đảm bảo mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam, đáp ứng đầy đủ yêu
cầu của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và công cuộc phát triển của đất nước.

Câu hỏi 2: Đảng đã lãnh đạo đấu tranh và khởi nghĩa giành chính quyền Tháng Tám
năm 1945 như thế nào?
Trả lời:
Với đường lối cách mạng, cứu nước đúng đắn, Đảng ta đã quy tụ đoàn kết xung quanh
mình tất cả các giai cấp và tầng lớp yêu nước không phân biệt dân tộc, tôn giáo xây dựng nên
lực lượng cách mạng to lớn và rộng khắp trong cả nước, đấu tranh chống thực dân Pháp xâm
lược và bọn phong kiến tay sai. Qua 15 năm (1930-1945) lãnh đạo cách mạng, trải qua đấu tranh
gian khổ, mặc dù gặp phải những tổn thất hy sinh to lớn nhưng Đảng vẫn giữ vững ý chí chiến
đấu, kiên định cách mạng, trung thành với mục tiêu lý tưởng của mình. Ba cao trào cách mạng
lớn (1930-1931; 1936-1939; 1939-1945) là ba cuộc tổng diễn tập cách mạng chuẩn bị lực lượng,
tạo cơ sở giành thắng lợi cho cuộc chiến đấu mới. Nắm chắc thời cơ lịch sử, với một nghệ thuật
lãnh đạo và tổ chức khởi nghĩa tài tình, Đảng ta đã lãnh đạo cuộc Tổng khởi nghĩa Cách mạng
Tháng Tám năm 1945 thành công trọn vẹn. Chỉ trong một thời gian ngắn, nhân dân Việt Nam đã
vùng lên đập tan xiềng xích nô lệ của chế độ thực dân, lật nhào chế độ phong kiến tay sai, giành
chính quyền về tay nhân dân.
Ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa- Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, đưa dân tộc ta bước
sang một kỷ nguyên mới- kỷ nguyên độc lập, tự do tiến lên CNXH. Đánh giá ý nghĩa lịch sử của
thắng lợi này, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: "Chẳng những giai cấp lao động và nhân dân Việt Nam
ta có thể tự hào mà giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào
rằng: Lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc
địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc".

Câu hỏi 3: Đảng lãnh đạo toàn dân kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược
(1945-1954) như thế nào? ý nghĩa lịch sử của thắng lợi?
Trả lời:
Vừa mới ra đời, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã bị các nước đế quốc, các thế lực
phản động cấu kết với nhau chống phá rất quyết liệt hòng tiêu diệt chính quyền cách mạng còn
non trẻ. Nhà nước ta lúc này hết sức khó khăn: Nền kinh tế nghèo nàn xơ xác, nạn đói hoành
hành, đất nước bị bao vây bốn phía; vận mệnh của Tổ quốc như "ngàn cân treo sợi tóc". Song,
Đảng ta đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kịp thời đề ra những chủ trương, quyết sách đúng
đắn, toàn diện trên tất cả các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng... Với
đường lối cực kỳ sáng suốt, vừa cứng rắn về nguyên tắc, vừa mềm dẻo về sách lược, Đảng đã
huy động được sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc vượt qua muôn vàn khó khăn, nguy hiểm, củng
cố giữ vững chính quyền cách mạng, chuẩn bị mọi mặt cho cuộc kháng chiến lâu dài chống thực
dân Pháp.
Bất chấp nguyện vọng yêu chuộng hòa bình của nhân dân ta, mặc dù chúng ta đã nhân
nhượng, chúng ta càng nhân nhượng thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng muốn cướp nước ta
một lần nữa. Ngày 19-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến.
Đáp lời kêu gọi đó, nhân dân cả nước đã nhất tề đứng lên với quyết tâm: "Thà hy sinh tất cả chứ
nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Với đường lối kháng chiến toàn
dân, toàn diện, đánh lâu dài, dựa vào sức mình là chính, vừa kháng chiến vừa kiến quốc, Đảng
ta đã tổ chức, lãnh đạo nhân dân vượt qua mọi khó khăn, giành thắng lợi vĩ đại trong cuộc kháng
chiến 9 năm chống thực dân Pháp xâm lược.
Chiến thắng Điện Biên Phủ (tháng 5-1954) đã đi vào lịch sử dân tộc ta như một Bạch Đằng,
một Chi Lăng hay một Đống Đa của thế kỷ XX, đi vào lịch sử thế giới như một chiến công chói
lọi, đột phá thành trì của đế quốc, báo hiệu sự sụp đổ hoàn toàn không tránh khỏi của chủ nghĩa
thực dân cũ. Đánh giá ý nghĩa lịch sử của thắng lợi này, Hồ Chủ tịch viết: "Lần đầu tiên trong lịch
sử, một nước thuộc địa nhỏ yếu đã thắng một nước thực dân hùng mạnh. Đó là thắng lợi vẻ vang
của nhân dân Việt Nam, đồng thời cũng là thắng lợi của các lượng hòa bình, dân chủ và CNXH
thế giới"...
Thắng lợi đó đã làm sáng tỏ một chân lý: Trong điều kiện thế giới ngày nay, một dân tộc dù
nhỏ yếu nhưng một khi đoàn kết đứng lên, kiên quyết đấu tranh dưới sự lãnh đạo của chính
Đảng Mác-Lênin để giành độc lập và dân chủ thì có đầy đủ lực lượng để chiến thắng mọi kẻ thù
xâm lược.

Câu hỏi 4: Đảng lãnh đạo nhân dân tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược và
đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược (1954-1975) như thế nào? ý nghĩa lịch sử?
Trả lời:
Với thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, cách mạng Việt Nam bước vào
thời kỳ mới với đặc điểm: Đất nước tạm thời chia cắt làm hai miền với hai chế độ chính trị - xã
hội đối lập nhau. Miền Bắc đã có hoà bình, dưới sự lãnh đạo của Đảng đang bắt đầu xây dựng
một xã hội mới. Miền Nam vẫn còn dưới ách đô hộ, áp bức của chủ nghĩa đế quốc. Con đường
phát triển của cách mạng nước ta lúc này được Đảng ta xác định là phải tiến hành đồng thời hai
nhiệm vụ chiến lược:
Một là, tiến hành cách mạng XHCN ở miền Bắc, xây dựng miền Bắc thành căn cứ địa vững
chắc của cả nước.
Hai là, tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, chống đế quốc Mỹ xâm
lược và tay sai, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Như vậy, đặc điểm lớn nhất, nét độc đáo của cách mạng Việt Nam thời kỳ này là một Đảng
thống nhất lãnh đạo nhân dân cả nước tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược. Tuy mỗi
miền thực hiện một nhiệm vụ chiến lược khác nhau nhưng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau,
trong đó cách mạng miền Bắc giữ vai trò quyết định nhất đối với toàn bộ sự phát triển của cách
mạng Việt Nam. Cách mạng miền Nam giữ vị trí quan trọng, tác động trực tiếp đối với sự nghiệp
giải phóng miền Nam thống nhất đất nước.
Hơn 20 năm cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, mặc dù gặp nhiều khó khăn
trở ngại chồng chất, đặc biệt từ năm 1965 trở đi miền Bắc phải trực tiếp đương đầu với cuộc
chiến tranh phá hoại rất ác liệt của đế quốc Mỹ, nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân
miền Bắc đã kiên cường trong sản xuất và chiến đấu, giành được những thành tựu to lớn, đồng
thời chi viện đắc lực cho miền Nam...Hàng triệu tấn lương thực và vũ khí, trang bị; hàng vạn
thanh niên nam nữ hăng hái lên đường vào miền Nam chiến đấu. Miền Bắc đã dốc sức vào
chiến tranh cứu nước và giữ nước với toàn bộ sức mạnh của chế độ xã hội chủ nghĩa, đã làm
tròn một cách xuất sắc nghĩa vụ căn cứ địa của cách mạng cả nước, xứng đáng là pháo đài vô
địch của chủ nghĩa xã hội.
Đế quốc Mỹ, đã dùng mọi thủ đoạn, thử nghiệm mọi chiến lược, sử dụng mọi vũ khí và
phương tiện chiến tranh hiện đại trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Qui mô, tính chất
cũng như mức độ ác liệt của cuộc chiến tranh mà nhân dân ta phải đương đầu chịu đựng chưa
từng có trong lịch sử. Song, nhân dân miền Nam đã kiên cường chịu đựng gian khổ hy sinh, kiên
quyết đánh thắng đế quốc Mỹ xứng đáng với danh hiệu “Thành đồng Tổ quốc", sát cánh cùng
đồng bào miền Bắc đánh bại mọi âm mưu, chiến lược của đế quốc Mỹ, góp phần trực tiếp giải
phóng miền Nam thống nhất đất nước.
Trải qua 21 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân cả nước đã chiến đấu kiên cường
anh dũng với sự đồng tình ủng hộ của bạn bè quốc tế; bằng cuộc Tổng tiến công nổi dậy mùa
xuân 1975, với chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, nhân dân ta đã kết thúc cuộc kháng chiến chống
Mỹ cứu nước giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. "Năm tháng sẽ trôi qua, nhưng thắng
lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp đánh Mỹ cứu nước sẽ mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc
ta như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ
nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại
của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc".
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã kết thúc vẻ vang 30 năm chiến
tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc; hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ trong cả nước,
mở ra thời kỳ mới - thời kỳ cả nước độc lập thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội.
Câu hỏi 5: Công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa từ năm 1975 đến
nay đã thu được những thành tựu như thế nào? ý nghĩa lịch sử?
Trả lời:
Sau năm 1975, đất nước ta bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, có những thuận
lợi song cũng không ít khó khăn, với một nền kinh tế chủ yếu là sản xuất nhỏ, nghèo nàn, hậu
quả chiến tranh để lại hết sức nặng nề, chủ nghĩa đế quốc và bọn phản động quốc tế câu kết với
nhau bao vây, chống phá rất quyết liệt. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã vượt qua
những khó khăn trở ngại thu được nhiều thành tựu:
- Đã nhanh chóng hoàn thành việc thống nhất Nhà nước về mọi mặt; cuộc tổng tuyển cử
bầu Quốc hội chung của cả nước (ngày 24-4-1976) đã đạt kết quả tốt đẹp. Các tổ chức đoàn thể
cách mạng cũng nhanh chóng được thống nhất.
- Nhân dân cả nước hăng hái tham gia khôi phục kinh tế, khắc phục những hậu quả chiến
tranh, ổn định sản xuất và đời sống.
- Thắng lợi của cuộc chiến tranh biên giới bảo vệ vững chắc biên cương của Tổ quốc, giữ
gìn an ninh trật tự an toàn xã hội.
Tuy vậy, những thành tựu về kinh tế - xã hội đạt được trong 10 năm xây dựng (1975-1985)
còn thấp, đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn, gay gắt. Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật,
đánh giá đúng sự thật, Đại hội VI của Đảng đã nghiêm khắc kiểm điểm, chỉ ra những yếu kém
trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, đề ra đường lối đổi mới toàn diện, mở ra
bước ngoặt trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (1991) đã thông qua Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế- xã
hội 1991 - 2000, các Nghị quyết của Đại hội VII, Đại hội VIII và các Nghị quyết Trung ương sau
đó đã cụ thể hoá hơn nữa đường lối đổi mới ở nước ta. Sau hơn 10 năm thực hiện đường lối đổi
mới, đất nước ta đã vượt qua một giai đoạn thử thách gay go, cách mạng nước ta không những
đứng vững mà còn vượt lên đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa rất quan trọng. Nước ta
đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế- xã hội, nhưng còn một số mặt chưa vững chắc. Nhiệm vụ đề ra
cho chặng đường đầu của thời kỳ quá độ là chuẩn bị tiền đề cho công nghiệp hoá hoàn thành về
cơ bản, cho phép chuyển sang thời kỳ phát triển mới đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước. Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được xác định rõ hơn.
Trong 5 năm (1996-2001), thực hiện Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng, đất nước ta đã đạt
được những thành tựu quan trọng:
Kinh tế tăng trưởng khá. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng bình quân hàng năm là
7%. Nông nghiệp phát triển liên tục. Giá trị sản xuất công nghiệp bình quân hàng năm tăng
13,5%. Hệ thống kết cấu hạ tầng, các ngành dịch vụ, xuất nhập khẩu đều phát triển.
Văn hoá, xã hội có những tiến bộ; đời sống nhân dân tiếp tục được cải thiện. Giáo dục đào
tạo, khoa học công nghệ có chuyển biến tích cực. Các hoạt động văn hoá, văn nghệ, công tác
chăm sóc sức khoẻ và những chính sách xã hội khác đều được coi trọng, đạt những kết quả to
lớn.
Tình hình chính trị - xã hội cơ bản được ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng cường,
bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ.
Quan hệ đối ngoại ngày càng được mở rộng, hội nhập quốc tế được tiến hành chủ động và
đạt được nhiều kết quả, vị thế của nước ta trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao.
Công tác xây dựng Đảng được chú trọng, hệ thống chính trị được củng cố; quyền làm chủ
của nhân dân trên các lĩnh vực được phát huy, một số chính sách và quy chế dân chủ của nhân
dân trước hết là ở cơ sở, bước đầu được thực hiện.
Những thành tựu 5 năm (1996 – 2001) đã tăng cường sức mạnh tổng hợp, làm thay đổi bộ
mặt của đất nước và cuộc sống của nhân dân, củng cố vững chắc độc lập dân tộc và chế độ xã
hội chủ nghĩa, nâng cao vị thế và uy tín của nước ta trên trường quốc tế.
Tuy nhiên, chúng ta vẫn còn những yếu kém, khuyết điểm: Nền kinh tế phát triển chưa vững
chắc. Một số vấn đề văn hóa-xã hội bức xúc chưa được giải quyết, tỷ lệ thất nghiệp còn cao, tệ
nạn xã hội diễn biến phức tạp và một số giá trị đạo đức xuống cấp...Tình trạng tham nhũng, suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một số bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên là
rất nghiêm trọng... Đây là những vấn đề phải nhanh chóng khắc phục.
Câu hỏi 6: Vì sao nói Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố cơ bản quyết định mọi
thắng lợi của cách mạng Việt Nam?
Trả lời:
1. Những thắng lợi có ý nghĩa lịch sử của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của
Đảng.
Hơn 7 thập kỷ qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân ta đã vượt
qua một chặng đường đấu tranh cách mạng cực kỳ khó khăn, gian khổ nhưng đã giành được
những thắng lợi rất vẻ vang:
Một là, thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và việc thành lập nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hoà nay là nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã mở ra một kỷ nguyên
mới: Kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Hai là, thắng lợi của các cuộc kháng chiến oanh liệt để giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc,
góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân
chủ và tiến bộ xã hội.
Ba là, thắng lợi của sự nghiệp đổi mới và từng bước đưa đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã
hội. Trải qua nhiều tìm tòi, khảo nghiệm, tổng kết sáng kiến của nhân dân, Đảng ta đã đề ra và
lãnh đạo thực hiện đường lối đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc phù hợp với
thực tiễn Việt Nam và bối cảnh quốc tế mới.
Với những thắng lợi giành được trong thế kỷ XX, nước ta từ một nước thuộc địa nửa phong
kiến đã trở thành một quốc gia độc lập, tự do, phát triển kinh tế theo con đường xã hội chủ nghĩa,
có quan hệ quốc tế rộng rãi, có vị thế ngày càng quan trọng trong khu vực và trên thế giới. Nhân
dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội. Đất nước ta từ
một nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu đã bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá.
Những thắng lợi to lớn có ý nghĩa chiến lược của cách mạng Việt Nam giành được trong
hơn 7 thập kỷ qua bắt nguồn từ nhiều nhân tố, trong đó nhân tố hàng đầu quyết định là sự lãnh
đạo đúng đắn và sáng suốt của Đảng ta- Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh
sáng lập và rèn luyện - một Đảng cách mạng thực sự vì nước, vì dân, ngoài lợi ích đó Đảng
không có lợi ích nào khác. Giành độc lập cho dân tộc, tự do hạnh phúc cho nhân dân là mục tiêu
lý tưởng của Đảng. Vì vậy, vượt lên mọi thách thức, trong phong ba bão táp, Đảng ta vẫn kiên
định vững vàng không xa rời mục tiêu lý tưởng, không run sợ trước kẻ thù, không nhụt chí trước
những khó khăn chồng chất, không hạ thấp vị trí tiên phong chiến đấu và trách nhiệm của người
lãnh đạo, người tổ chức mọi thắng lợi của cách mạng, một lòng một dạ phục vụ Tổ quốc, phục
vụ nhân dân.
2. Đường lối cách mạng đúng đắn và sáng tạo của Đảng - nhân tố hàng đầu bảo đảm
vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
Đảng lãnh đạo trước hết và chủ yếu bằng cương lĩnh, đường lối, bằng chủ trương, chính
sách của Đảng. Đường lối chính trị đúng là cơ sở để đoàn kết thống nhất ý chí và hành động của
toàn Đảng, toàn dân, tạo nên sức mạnh của Đảng và của cách mạng.
Đường lối chính trị đúng đắn nghĩa là đường lối đó phải phản ánh được xu thế vận động
của lịch sử, đồng thời phù hợp với nguyện vọng và lợi ích chân chính của đa số nhân dân. Sức
mạnh của Đảng chính là sự đồng tình ủng hộ của nhân dân, mà sự đồng tình và tin cậy của nhân
dân đối với Đảng trước hết nhờ có đường lối đúng đắn của Đảng.
Đường lối cách mạng của Đảng có vai trò to lớn trong việc thống nhất về chính trị, tư tưởng
và tổ chức, củng cố niềm tin vào Đảng, ngăn chặn và đẩy lùi những khuynh hướng sai lầm về
chính trị và tư tưởng làm cho Đảng ngày càng vững mạnh.
Sở dĩ Đảng ta có đường lối chính trị đúng đắn vì: Đảng có một nền tảng lý luận vững chắc,
một lý luận tiên phong dẫn đường, đó là chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh như
Lênin đã nói: "Không có lý luận cách mạng không có phong trào cách mạng..." Chỉ Đảng nào có
được một lý luận tiên phong hướng dẫn thì mới có khả năng làm tròn vai trò chiến sĩ tiên phong.
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đã nắm vững, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa
Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn của cách mạng Việt Nam để đề ra đường lối
đúng đắn phù hợp với sự phát triển của lịch sử, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân.
Hơn thế nữa, Đảng ta luôn quán triệt sâu sắc quan điểm cách mạng là sáng tạo, chân lý là
cụ thể. Vì vậy, trong lãnh đạo Đảng ta luôn ý thức vận dụng một cách độc lập, sáng tạo vào thực
tiễn Việt Nam. Một trong những bài học được Đảng ta rút ra là phải luôn luôn xuất phát từ thực
tiễn, tôn trọng thực tế, kết hợp nhuần nhuyễn sự kiên định về nguyên tắc với sự linh hoạt, sáng
tạo về phương pháp, đó là điều kiện đảm bảo sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng. Mọi sự giáo điều,
chủ quan duy ý chí, xa rời thực tiễn cũng như xa rời các nguyên tắc, mục tiêu cơ bản của cách
mạng thì sẽ dẫn đến nguy cơ sai lầm, làm mất sự lãnh đạo của Đảng.
Để đảm bảo vai trò lãnh đạo của mình, Đảng luôn quan tâm tới việc xây dựng đội ngũ cán
bộ, đảng viên của Đảng có phẩm chất, đạo đức cách mạng và năng lực công tác, thật sự là
những chiến sĩ cách mạng trong đội tiên phong của giai cấp công nhân.
Mỗi đảng viên của Đảng phải luôn gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và bảo vệ lợi ích
chính đáng, hợp pháp của nhân dân, trung thành với lợi ích của giai cấp và của dân tộc, một đời
hy sinh phấn đấu vì lý tưởng của cách mạng và lợi ích của nhân dân.
Để giữ vững vai trò lãnh đạo, phải xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ
chức, thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, lấy tự phê bình và phê bình làm vũ khí đấu tranh
để làm cho Đảng ngày càng vững mạnh. Đồng thời, luôn củng cố, giữ vững và tăng cường sự
đoàn kết trong Đảng, đảm bảo sự nhất trí cao về mục tiêu lý tưởng của Đảng, để làm cho Đảng
ngày càng vững mạnh, đủ sức lãnh đạo cách mạng. Trong quá trình lãnh đạo, bên cạnh những
ưu điểm, trong Đảng cũng còn những yếu kém, thậm chí có lúc sai lầm, khuyết điểm, song điều
quan trọng, Đảng đã sớm phát hiện ra những yếu kém của mình. Đảng công khai tự phê bình
nhận khuyết điểm trước nhân dân, quyết tâm sửa chữa và sửa chữa có kết quả. Vì vậy, Đảng
vẫn được nhân dân tin yêu, thừa nhận là đội tiên phong chính trị, người lãnh đạo duy nhất của
dân tộc. Thực tiễn lịch sử đã khẳng định rằng: ở nước ta, ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam, không
có lực lượng nào khác có đủ sức mạnh lãnh đạo cách mạng. Với tất cả tinh thần khiêm tốn của
người cách mạng, chúng ta vẫn có quyền tự hào nói rằng: Đảng ta thật vĩ đại.
Học tập, nghiên cứu để hiểu biết về quá trình đấu tranh cách mạng và truyền thống của
Đảng không phải chỉ để tự hào về Đảng, mà quan trọng hơn là thanh niên cần nâng cao hơn nữa
niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, ra sức phấn đấu thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng,
để công cuộc đổi mới giành thắng lợi to lớn hơn. Trên những vị trí công tác, lao động và học tập
của mình, thanh niên phải góp phần tích cực vào công tác xây dựng, bảo vệ Đảng, góp phần làm
cho Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh; ra sức học tập, rèn luyện phấn đấu để trở thành
những đảng viên của Đảng, đem tài năng và sức trẻ cống hiến cho sự nghiệp của Đảng, làm cho
những thành tựu và truyền thống của Đảng ngày càng phát triển và phong phú hơn.

o Sự xuất hiện các tổ chức cộng sản Phong trào công nhân cuối những năm 20 phát triển
không đồng đều, mạnh nhất là phong trào công nhân ở Bắc Kỳ, bởi ở đây có đông hội
viên và trong hoạt động thực tiễn có nhiều sáng tạo.

o Sự xuất hiện các tổ chức cộng sản

Phong trào công nhân cuối những năm 20 phát triển không đồng đều, mạnh nhất là phong trào
công nhân ở Bắc Kỳ, bởi ở đây có đông hội viên và trong hoạt động thực tiễn có nhiều sáng tạo.
Phong trào "vô sản hóa" cũng được phát sinh từ đây và đã góp phần đẩy nhanh quá trình kết
hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân. Từ thực tiễn sinh động đó, những ng¬ười
lãnh đạo trong Kỳ bộ '' Bắc Kỳ những học trò xuất sắc của Nguyễn ái Quốc, đã nắm bắt được đòi
hỏi '' của phong trào, nhận ra sự cấp thiết phải thành lập một Đảng Cộng sản thay cho
HVNCMTN để tiếp tục đưa phong trào giải phóng dân tộc tiến lên.

Tháng 3-1929, Trần Văn Cung, Ngô Gia Tự, Nguyễn Đức Cảnh, Trịnh Đình Cửu, Đỗ Ngọc Du,
Dương Hạc Đính và Nguyễn Tuân, họp tại ngôi nhà số 5D phố Hàm Long (Hà Nội) đã quyết định
lập ra chi bộ cộng sản đầu tiên nhóm làm đầu tàu cho cuộc vận động thành lập Đảng Cộng sản
Ở Việt Nam.
Tại Đại hội đầu biểu Kỳ bộ Bắc Kỳ họp vào cuối tháng 3-1929 trong đồn điền Bô ren (Sơn Tây)
đã nhất trí thông qua chủ trương lập Đảng Cộng sản thay cho HVNCMTN đã hết vai trò lịch sử
và cử một đoàn đại biểu gồm 4 đồng chí do Trần Văn Cung, Bí thư Kỳ bộ, dẫn đầu đi dự Đại hội I
của Hội VNCMTN sẽ họp ở Hương Cảng. Đại hội cũng giao cho đoàn đại biểu của mình có
nhiệm vụ '' đấu tranh khẳng định xu thế thành lập Đảng Cộng sản của Kỳ bộ mình tại Đai '' hội I
Hội VNCMTN. 1 Đầu tháng 5-1929, tại Đại hội I của HVNCMTN, Đoàn đại biểu Kỳ bộ Bắc Kỳ đã
đưa ra đề nghị giải tán tổ chức Thanh niên và thành lập Đảng Cộng sản. Nhưng đề nghị đó
không được chấp nhận, nên Đoàn đã bỏ đại hội ra về.

Sau khi về tới Hà Nội, ngày 1-6-1929, Đoàn đại biểu Kỳ bộ Bắc Kỳ đã ra Tuyên ngôn giải thích lý
do họ bỏ Đại hội ra về và chỉ ra những điều kiện khách quan và chủ quan đã chín muồi để thành
lập một chính đảng của giai cấp công nhân.

Đêm 17-6-1929, 20 đại biểu ưu tú của Kỳ bộ Bắc Kỳ đã nhóm họp từ ngôi nhà 312 phố Kham
Thiên (Hà Nội) tuyên bố thành lập Đông Dương Cộng sản đảng. Hội nghị đã thông qua Tuyên
ngôn, Điểu lệ và quyết định xuất bản báo Búa liềm làm cơ quan ngôn luận của Đảng. Tuyên
ngôn của Đông Dương Cộng sản đảng xác định rõ tính chất của Đảng : "Đông Dương Cộng sản
đảng là Đảng cách mạng, đại biểu cho tất cả anh chị em vô sản giai cấp (tức thợ thuyền) ở Đông
Dương. Đảng Cộng sản là đảng bênh vực cho toàn thế giới vô sản giai cấp, nhưng chỉ gồm
những người nào giác ngộ cách mạng, tiên tiến hơn cả trong giai cấp vô sản".

Cùng với công tác tuyên truyền, Đông Dương Cộng sản đảng đã cử người vào Trung Kỳ và Nam
Kỳ tuyên truyền và tổ chức các cơ sở Đảng Ở các địa phương đó. Trước ảnh hưởng sâu rộng
của Đông Dương Cộng sản đảng, Tổng bộ Thanh niên và Kỳ bộ Nam Kỳ đã quyết định thành lập
An Nam Cộng .sản đảng vào tháng 8-1929(7), xuất bản báo ĐỎ làm cơ quan ngôn luận của
mình.

Cùng với quá trình phân hóa trong HVNCMTN dẫn tới sự ra đởi của hai tổ chức cộng sản,
khuynh hướng tư tưởng xã hội chủ nghĩa ngày càng thắng thế trong Tân Việt Cách mạng đảng.
Các đại biểu cấp tiến của Tân Việt đã nhóm họp tại Sài Gòn vào tháng 9-1929, ra "Tuyên đạt"
tuyên bố chính thức thành lập Đông Dương Cộng sản liên đoàn và sẽ cùng Đông Dương Cộng
sản đảng và An Nam Cộng sản đảng "1iên hợp thành một tổ chức cộng sản ở Đông Dương để
cho sức mạnh cộng sản vững chắcvà duy nhất". Sự ra đời của ba tổ chức cộng sản ở nửa sau
năm 1929 khẳng định hệ tư tưởng cộng sản đã chiếm ưu thế trong phong trào dân tộc ở Việt
Nam.

o Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam

Sau khi ra đời, ba tổ chức cộng sản đều tuyên bố ủng hộ Quốc tế Cộng sản, kêu gọi Quốc tế
Cộng sản thừa nhận tổ chức của mình và đều tự nhận là đảng cách mạng chân chính. Trong quá
trình phát triển tổ chức của mình, các đảng cộng sản không thể không tranh giành ảnh hưởng
trong quần chúng nhân dân, và không tránh khỏi công kích lẫn nhau. Tình hình đó sớm muộn sẽ
gây ra sự chia rẽ trong phong trào công nhân, dẫn đến sự tổn thất cho phong trào cách mạng.
Một đòi hỏi khách quan là phải thống nhất các tổ chức cộng sản lại làm một. Vì vậy, ngày 27-10-
1929 Quốc tế Cộng sản đã gửi một lá thư, như một chỉ thị cho những ng¬ười cộng sản Đông
Dương, trong đó yêu cầu các tổ chức cộng sản phải chấm dứt sự chia rẽ, công kích lẫn nhau và
tích cực xúc tiến việc hợp nhất thành một đảng duy nhất ở Đông Dương. Thực hiện chỉ thị đó
của Quốc tế Cộng sản, Đông Dương Cộng sản đảng và An Nam Cộng sản đảng đã cử những
đại diện của mình, tiến hành những cuộc tiếp xúc bàn việc hợp nhất, nhưng không thành.

Trước nhu cầu cấp bách của phong trào cộng sản trong nước, với tư cách là phái viên của Quốc
tế Cộng sản, có đầy đủ quyền quyết định mọi vấn đề liên quan đến phong trào cách mạng Ở
Đông Dương Nguyễn Ái Quốc đã tới Hương Cảng (Trung Quốc) để triệu tập hội nghị hợp nhất
các tổ chức cộng sản thành một chính đảng duy nhất.

Hội nghị hợp nhất gồm hai đại biểu của Đông Dương Cộng sản đảng là Trịnh Đình Cửu và
Nguyễn Đức Cảnh, 2 đại biểu của An Nam Cộng sản Đảng là Châu Văn Liêm và Nguyễn Thiệu
dưới sự chủ trì của Nguyễn ái Quốc, đã họp ở Cửu Long Hương Cảng (Trung Quốc). Tại phiên
họp ngày 3-2-1930, các đại biểu đã nhất trí hợp nhất các tổ chức cộng sản thành Đảng Cộng sản
Việt Nam, thông qua Chính cương vắn tắt, sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt, Điều lệ tóm
tắt(8). Trong các văn kiện chủ yếu trên, Đảng Cộng sản Việt Nam được xác định là 'đội tiền
phong của vô sản giai cấp" chủ trương tiến hành “tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách
mạng để đi tới xã hội cộng sản". Đồng thời, qua các văn kiện đó, Đảng Cộng sản Việt Nam xác
định cho mình nhiệm vụ lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc cách mạng đánh đổ đế quốc Pháp và
phong kiến, thực hiện độc lập dân tộc, thành lập chính phủ công nông binh, tịch thu ruộng đất
của bọn đế quốc phong kiến chia cho nông dân nghèo, quốc hữu hoá các sản nghiệp, mở mang
sản xuất, thực hiện các quyền tự do dân chủ, quyền bình đẳng nam nữ, thi hành luật ngày làm
việc 8 giờ ...

Để thực hiện được mục tiêu chiến lược trên, Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương tập hợp được
đại bộ phận giai cấp công nhân, làm cho giai cấp công nhân lãnh đạo được quần chúng, phải thu
phục cho được đại đa số dân cày và phải dựa vào hạng dân cay nghèo. Đồng thời phái “hết sức
liên lạc với tiểu tư sản trí thức, trung nông... để lôi kéo họ về phe vô sản giai cấp. Còn đối với phú
nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản Việt Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít
nữa là làm cho họ trung lập. Bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng thì phải đánh đổ".

Chính cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt do Nguyễn ái Quốc khởi thảo và thông qua tại Hội
nghị hợp nhất là cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng một cương lĩnh cách mạng đúng đắn và
sáng tạo.

Sau Hội nghị hợp nhất, ngày 24-2-1930 theo đề nghị của Đông Dương cộng sản liên đoàn, Ban
Chấp hành Trung ương lâm thời của Đảng Cộng sản Việt Nam đã chấp nhận hợp nhất tổ chức
này vào Đảng Cộng sản Việt Nam. Như vậy, việc hợp nhất các tổ chức cộng sản đến cuối tháng
2 năm 1930 mới hoàn tất.

Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là kết quả của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác-lênin tư
tưởng cách mạng tiên tiến của thời đại với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt
Nam. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam chứng tỏ giai cấp công nhân nước ta đã trưởng
thành và đủ khả năng đảm nhiệm vai trò lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Thông qua đội tiền
phong của mình, giai cấp công nhân có sứ mệnh lãnh đạo toàn thể nhan dân tiến hành cuộc
cách mạng giải phóng dân tộc tới thắng lợi. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam đã chấm dứt
cuộc khủng hoảng đường lối cứu nước lừ cuối thế kỷ trước. Sự ra đời của Đảng chính là sự
chuẩn bị nhân tố quan trọng đầu tiên cho những thắng lợi tiếp sau. Sự ra đời của Đảng Cộng sản
Việt Nam là bước ngoặt lịch sử quan trọng trong lịch sử nước ta.

Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, dưới tác động của chương trình khai thác thuộc địa lần thứ
hai, đất nước ta đã có những biến chuyển mạnh mẽ trên phương diện kinh tế và xã hội. Từ đó,
phong trào dân tộc cũng có những bước phát triển mạnh mẽ. Trong những năm 20 của thế kỷ
này, các giai tầng xã hội đã bước lên vũ đài chính trị với những đòi hỏi, yêu cầu và những hành
động cách mạng riêng, tùy thuộc vào mối quan hệ của mình đối với chính quyền thực dân, tùy
thuộc vào vị thế của mình trong kết cấu giai cấp của xã hội thuộc địa. Phong trào dân tộc sau
chiến tranh có những chuyển biến mới trong nội dung và phong phú về các hình thức biểu hiện.
Và cuối cùng, lịch sử đã chứng kiến sự bất lực của hệ tư tưởng dân chủ tư sản trước nhiệm vụ
cứu nước và chứng kiến sự chuyển giao ngọn cờ giải phóng vào tay giai cấp công nhân với đội
tiền phong của nó là Đảng Cộng sản Việt Nam.

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời - Bước ngoặt lịch sử của cách mạng Việt
Nam
Ngày cập nhật: 08-02-2010
* Sự bế tắc về đường lối cứu nước

Ngay từ khi thực dân Pháp đặt chân lên đất nước ta (năm 1858), với tinh thần yêu nước nồng nàn, bất chấp
chủ trương đầu hàng của triều đình phong kiến, nhân dân cả nước đã vùng lên chống thực dân Pháp xâm
lược. Chúng đã vấp phải một phong trào đấu tranh quyết liệt và kéo dài, hễ phong trào này bị dập tắt thì
phong trào khác lại tiếp tục, không hề ngơi nghỉ, đúng như lời tuyên bố đanh thép của Nguyễn Trung Trực
trước giờ xử tử: “Bao giờ Tây nhổ hết cỏ nước Nam thì mới hết người Nam đánh Tây”. Phong trào Cần
Vương (phong trào yêu nước theo ý thức hệ phong kiến do giai cấp phong kiến lãnh đạo) đã chấm dứt ở
cuối thế kỷ XIX với sự thất bại của cuộc khởi nghĩa của Phan Đình Phùng vào năm 1896. Sang đầu thế kỷ
XX, khuynh hướng này không còn là khuynh hướng tiêu biểu nữa. Phong trào nông dân, tiêu biểu là cuộc
khởi nghĩa Yên Thế của Hoàng Hoa Thám kéo dài mấy chục năm cũng thất bại vào năm 1913. Phong trào
yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản do các cụ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh lãnh đạo cũng rơi
vào bế tắc. Trong bản hồi ký cuối đời, Phan Bội Châu viết: “Than ôi! Cuộc đời của tôi là một trăm thất bại
mà không một thành công”. Cuộc khởi nghĩa Yên Bái do Nguyễn Thái Học lãnh đạo cũng bị thất bại.
Thất bại của phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản đã nói lên một sự thật: Con đường
dân chủ tư sản cũng không cứu được nước. Ở nước thuộc địa, nửa phong kiến Việt Nam, giai cấp tư sản
dân tộc có vai trò nhất định trong sự nghiệp cứu nước, nhưng họ chỉ có thể phát huy vai trò đó với sự giúp
đỡ của Đảng, của giai cấp công nhân.

Các phong trào yêu nước từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX là sự nối tiếp truyền thống yêu nước, bất khuất
của dân tộc ta được hun đúc qua hàng ngàn năm lịch sử. Nhưng do thiếu đường lối đúng đắn, thiếu tổ chức
và lực lượng cần thiết nên các phong trào đó đã lần lượt thất bại. Cách mạng Việt Nam bị khủng hoảng sâu
sắc về đường lối cứu nước. Việc tìm lối ra cho cuộc khủng hoảng là nhu cầu nóng bỏng nhất của dân tộc ta
lúc bấy giờ.

* Mở ra bước ngoặt mới cho cách mạng Việt Nam

Giữa lúc dân tộc ta đang đứng trước cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước, nhiều nhà yêu nước
đương thời tiếp tục con đường cứu nước theo lối cũ thì ngày 5 tháng 6 năm 1911, người thanh niên
Nguyễn Tất Thành (tức Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí Minh sau này) đã ra đi tìm đường cứu nước theo phương
hướng mới. Người đã đi qua nhiều nước ở châu Âu, châu Phi, châu Mỹ và đã phát hiện ra chân lý: chủ
nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc thực dân là cội nguồn mọi đau khổ của công nhân và nhân dân lao động ở
chính quốc cũng như ở các thuộc địa. Sau khi đọc Đề cương của Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa,
Người đã tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc ta. Người tham gia thành lập Đảng Cộng sản
Pháp, trở thành người Cộng sản đầu tiên của Việt Nam. Đây là một sự kiện lịch sử quan trọng, không
những Nguyễn Ái Quốc từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, mà còn đánh dấu bước
chuyển quan trọng của con đường giải phóng dân tộc Việt Nam: muốn cứu nước và giải phóng dân tộc
không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản. Từ đây, cùng với việc thực hiện nhiệm vụ đối
với phong trào cộng sản quốc tế, Nguyễn Ái Quốc xúc tiến truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam
và chuẩn bị các bước đi đến thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam vào ngày 3 tháng 2 năm 1930.

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời có Cương lĩnh chính trị xác định con đường cách mạng là giải
phóng dân tộc theo phương hướng cách mạng vô sản. Đây chính là cơ sở để Đảng Cộng sản
Việt Nam vừa ra đời đã nắm được ngọn cờ lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam; giải
quyết được tình trạng khủng hoảng về đường lối cách mạng, về giai cấp lãnh đạo cách mạng,
mở ra con đường và phương hướng phát triển mới cho dân tộc ta. Chính con đường này là
cơ sở đảm bảo cho sự tập hợp lực lượng và sự đoàn kết, thống nhất của toàn dân tộc cùng
chung tư tưởng và hành động để tiến hành cuộc cách mạng vĩ đại giành những thắng lợi to
lớn sau này. Đánh giá về sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam, sau này Chủ tịch Hồ Chí
Minh viết: “Việc thành lập Đảng là một bước ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử cách
mạng Việt Nam. Nó chứng tỏ rằng giai cấp vô sản ta đã trưởng thành và đủ sức lãnh đạo

cách mạng” (*). Kinh tế


Bài chi tiết: Kinh tế Việt Nam
Gạo - một trong những mặt hàng xuất khẩu chính của Việt Nam

Trước năm 1986, Việt Nam là một quốc gia có nền kinh tế tập trung tương tự nền kinh tế
của các nước xã hội chủ nghĩa. Chính sách Đổi Mới năm 1986 thiết lập mô hình kinh tế
mà Việt Nam gọi là "Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa". Các thành phần
kinh tế được mở rộng nhưng các ngành kinh tế then chốt vẫn dưới sự điều hành của Nhà
nước. Sau năm 1986, kinh tế Việt Nam đã có những bước phát triển to lớn và đạt được
tốc độ tăng trưởng kinh tế trung bình khoảng 9% hàng năm từ 1993 đến 1997, đặc biệt là
sau khi Hoa Kỳ dỡ bỏ cấm vận với Việt Nam năm 1994. Tăng trưởng GDP 8,5% vào
năm 1997 đã giảm xuống 4% vào năm 1998 do ảnh hưởng của sự kiện khủng hoảng kinh
tế Á châu năm 1997, và tăng lên đến 4,8% năm 1999[cần dẫn nguồn]. Tăng trưởng GDP tăng
lên từ 6% đến 7% giữa những năm 2000-2002 trong khi tình hình kinh tế thế giới đang trì
trệ. Hiện nay, giới lãnh đạo Việt Nam tiếp tục các nỗ lực tự do hóa nền kinh tế và thi
hành các chính sách cải cách, xây dựng cơ sở hạ tầng cần thiết để đổi mới kinh tế và tạo
ra các ngành công nghiệp xuất khẩu có tính cạnh tranh hơn.

Mặc dù có tốc độ phát triển kinh tế cao trong một thời gian dài nhưng do tình trạng tham
nhũng không được cải thiện và luôn bị xếp hạng ở mức độ cao của thế giới[cần dẫn nguồn] cộng
với các khó khăn về vốn, đào tạo lao động, đất đai, cải cách hành chính, cơ sở hạ tầng
gây ra cho việc kinh doanh với hàng chục ngàn thủ tục từ 20 năm trước đang tồn tại và
không phù hợp với nền kinh tế thị trường nên với con số cam kết đầu tư trực tiếp của
nước ngoài (FDI) cao kỷ lục 61 tỉ USD năm 2008 chưa nói lên được mức độ tin tưởng
của các nhà đầu tư quốc tế đối với Việt Nam và Việt Nam đang bị các nước trong khu
vực bỏ lại khá xa, theo Báo cáo phát triển Việt Nam 2009 của Ngân hàng Thế giới WB
thì Việt Nam đã bị tụt hậu về kinh tế tới 51 năm so với Indonesia, 95 năm so với Thái
Lan và 158 năm so với Singapore[16].

Ngày 7 tháng 11 năm 2006, Việt Nam được phép gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới
(WTO) sau khi đã kết thúc đàm phán song phương với tất cả các nước có yêu cầu (trong
đó có những nền kinh tế lớn như Hoa Kỳ, Liên minh châu Âu (EU), Nhật Bản, Trung
Quốc). Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức WTO ngày 11
tháng 1 năm 2007.

Các vùng kinh tế - xã hội


Các vùng

Nghị định số 92/2006/NĐ-CP của chính phủ Việt Nam[17] phân chia Việt Nam thành 6
vùng kinh tế xã hội:

• Vùng trung du và miền núi phía Bắc


• Vùng đồng bằng sông Hồng
• Vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung
• Vùng Tây Nguyên
• Vùng Đông Nam Bộ
• Vùng đồng bằng sông Cửu Long

Nghị định trên cũng quy định 3 vùng kinh tế trọng điểm

• Vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ


• Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung
• Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam

Số liệu về tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) qua các năm

Năm 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010

Tỉ lệ
tăng
5,8 4,8 6,8 6,9 7,1 7,3 7,8 8,4 8,2 8,5 6,2 5,3 ~6,5
trưởng
theo %
Nguồn: bfai [18] ~ = ước tính

Số liệu những năm gần đây

Dựa theo số liệu từ CIA[19] và các báo chí Việt Nam[20][21][22][23][24][25]

Các chỉ số về GDP theo tỷ giá


GDP theo GDP tỷ giá
tỷ giá theo đầu Tăng
Năm
(tỷ USD) người trưởng
(USD)
2007 71,4 823 8,5%
2008 89,83 1024 6,2%
2009 92,84 1040 5,3%
2010 6,5%*

(*) - Dự kiến của Chính phủ Việt Nam[26]

Đầu tư trực tiếp nước ngoài


FDI đăng ký FDI giải ngân
Năm
(tỷ USD) (tỷ USD)
2007 21,3 8
2008 71,7 11,5
2009 21,48 10
2010 (dự kiến) 22 - 25 11
Các chỉ số về xuất nhập khẩu
Xuất khẩu Nhập khẩu Thâm hụt
Năm
(tỷ USD) (tỷ USD) (tỷ USD)
2007 48,38 60,83 -12,45
2008 63,0 80,5 -17,5
2009 56,58 68,83 -12,25
2010

You might also like