You are on page 1of 7

Hoạt động học tập của sinh viên

1/ Khái niệm hoạt động học.


Theo quan điểm của Tâm lý học hoạt động, thì hoạt động là quan hệ, tác động
qua lại giữa con người và thế giới. Trong đó, con người làm biến đổi thế giới,
tạo ra sản phẩm có chứa đựng tâm lý – ý thức – tính cách của mình. Đồng thời
thế giới tác động trở lại làm cho con người có nhận thức mới, năng lực mới.
Hay nói khác đi hoạt động là quá trình xác lập, vận hành các mối quan hệ nhất
định của con người với thế giới xung quanh và với chính bản thân nhằm đáp
ứng nhu cầu của mình.
Như vậy con người có rất nhiều hoạt động trong cuộc sống như: hoạt động lao
động, hoạt động học tập, hoạt động vui chơi, hoạt động nghiên cứu khoa học…
Ở mỗi lứa tuổi khác nhau sẽ có một hoạt động chủ đạo chi phối các hoạt động
khác.Ở lứa tuổi học sinh, hoạt động học tập giữ vai trò chủ đạo.
Hoạt động học : Là hoạt động đặc thù của con người được điều khiển bởi mục
đích tự giác là lĩnh hội những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo mới, những giá trị,
những hình thức hành vi và những dạng hoạt động nhất định.
Để hình thành hoạt động học cần:
Hình thành động cơ học tập
Hình thành mục đích học tập
Hình thành các hành động học tập

- Theo triết học, hoạt động là quá trình diễn ra giữa con người với giới tự nhiên, một quá
trình trong đó bằng hoạt động của mình con người làm trung gian điều tiết kiểm tra sự
trao đổi chất giữa họ và tự nhiên

(trích thuyết hoạt động)

- Theo tâm lý học mà chúng ta đang được học thì hoạt động là sự tác động của con
người vào thế giới khách quan tạo ra sự thay đổi cả về con người cả về thế giới
khách quan trong đó con người là chủ thể còn thế giới khách quan là khách thể
hay nói cách khác là đối tượng của hoạt động

Hoạt động học với sinh viên Hoạt động học tập là hoạt động chuyên hướng vào sự tái tạo
lại tri thức ở người học. Sự tái tạo ở đây hiểu theo nghĩa là phát hiện lại. Và để tái tạo lại,
người học không có cách gì khác đó là phải huy động nội lực của bản thân ( động cơ, ý
chí, …) càng phát huy cao ban nhiêu thì việc tái tạo càng diẽn ra tốt bấy nhiêu. Do đó
hoạt động học làm thay đổi người học. Ai học thì người đó phát triển, không ai học thay
thế được, người học cần phải có trách nhiệm với chính bản thân mình.

Hoạt động học là hoạt động tiếp thu những tri thức lý luận, khoa học. Nghĩa là việc học
không chỉ dừng lại ở việc nắm bắt những khái niệm đời thường mà học phải tiến đến
những tri thức khoa học, những tri thức có tính chọn lựa cao đã được khái quát hoá, hệ
thống hoá.
Hoạt động học tập không chỉ hướng vào việc tiêp thu những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo mà
còn hướng vào việc tiếp thu cả những tri thức của bản thân hoạt động học.
Hoạt động học là hoạt động chủ đạo của lứa tuổi học sinh. Do đó nó giữ vai trò chủ đạo
trong việc hình thành và phát triển tâm lý của người học trong lứa tuổi này.

Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về hoạt động học tập:
theo N. V. Cudomina coi học tập là nhận thức cơ bản của sinh viên được thực
hiện dưới sự hướng dẫn của cán bộ giảng dạy. Trong quá trình đó, việc nắm
vững nội dung cơ bản các thông tin mà thiếu nó thì không thể tiến hành được
hoạt động nghề ngiệp tương lai.
Theo I. B. Intenxon xác định học tập là loại hoạt động đặc biệt của con
người có mục đích nắm vững những tri thức, kĩ năng, kĩ xảo và các hình thức
nhất định của hành vi. Nó bao gồm cả ý nghĩa nhận thức và thực tiễn.

Trong các tài liệu tâm lí học gần đây(1) nêu ra các vấn đề cơ bản nói lên bản
chất của hoạt động học tập:
- Đối tượng của hoạt động học tập là các tri thức kĩ năng kĩ xảo.
- Mục đích của hoạt động này hướng vào làm thay đổi chính chủ thể của hoạt
động.
- Hoạt động học tập là hoạt động lĩnh hội tri thức, kĩ năng, kĩ xảo.
- Hoạt động học tập không phải là hoạt động chỉ tiếp thu những tri thức của
bản thân hoạt động
Hoạt động học tập của sinh viên cũng có bản chất như vậy và có thể định
nghĩa: Hoạt động học tập ở đại học là một loại hoạt động tâm lí được tổ chức
một cách độc đáo của sinh viên nhằm mục đích có ý thức là chuẩn bị trở thành
người chuyên gia phát triển toàn diện sáng tạo và có trình độ nghiệp vụ cao

1.1/ Bản chất của hoạt động học.


Hoạt động học tập là hoạt động chuyên hướng vào sự tái tạo lại tri thức ở người
học. Sự tái tạo ở đây hiểu theo nghĩa là phát hiện lại. Sự thuận lợi cho người
học ở đây đó là con đường đi mà để phát hiện lại đã được các nhà khoa học tìm
hiểu trước, giờ người học chỉ việc tái tạo lại. Và để tái tạo lại, người học không
có cách gì khác đó là phải huy động nội lực của bản thân ( động cơ, ý chí, …),
càng phát huy cao bao nhiêu thì việc tái tạo lại càng diễn ra tốt bấy nhiêu. Do
đó hoạt động học làm thay đổi chính người học. Ai học thì người đó phát triển,
không ai học thay thế được, người học cần phải có trách nhiệm với chính bản
thân mình, vì mình trong quá trình học. Mặc dù hoạt động học có thể cũng có
thể làm thay đổi khách thể. Nhưng như thế không phải là mục đích tự thân của
hoạt động học mà chính là phương tiện để đạt được mục đích làm thay đổi
chính chủ thể của hoạt động.
Hoạt động học là hoạt động tiếp thu những tri thức lý luận, khoa học. Nghĩa là
việc học không chỉ dừng lại ở việc nắm bắt những khái niệm đời thường mà
học phải tiến đến những tri thức khoa học, những tri thức có tính chọn lựa cao,
đã được khái quát hoá, hệ thống hoá.
Hoạt động học tập không chỉ hướng vào việc tiếp thu những tri thức, kĩ năng, kĩ
xảo mà còn hướng vào việc tiếp thu cả những tri thức của chính bản thân hoạt
động học. Hoạt động học muốn đạt kết quả cao, người học phải biết cách học,
phương pháp học, nghĩa là phải có những tri thức về chính bản thân hoạt động
học.
Hoạt động học là hoạt động chủ đạo của lứa tuổi học sinh. Do đó nó giữ vai trò
chủ đạo trong việc hình thành và phát triển tâm lý của người học trong lứa tuổi
này.

1.3/ Phương tiện học tập.


Hoạt động bao giờ cũng hướng tới một đối tượng cụ thể, và chủ thể phải có
những phương tiện, những điều kiện cụ thể để chiếm lĩnh đối tượng. Trong hoạt
động học tập, ngoài những phương tiện như: giấy, bút, sách, giáo trình, máy
tính…mà nó còn mang tính chất đặc thù của hoạt động học tập đó là mọi yếu tố
của quá của nó đều được hình thành trong quá trình học tập. Phương tiện của
học tập không có sẵn trong tâm lý chủ thể mà hình thành chính trong quá trình
chủ thể tham gia hoạt động học tập.
Phương tiện chủ yếu của hoạt động học tập đó là các hành động học tập: so
sánh, phân loại, phân tích, khái quát hoá.. Tâm lý học đã khẳng định so sánh,
phân loại là những hành động học tập là phương tiện đắc lực cho việc hình
thành những khái niệm kinh nghiệm, còn phân tích, khái quát hoá là phưong
tiện để hình thành nên những khái niệm khoa học.
Cần nhấn mạnh rằng trong hoạt động học, phương tiện chủ yếu là tư duy.
Trong giáo dục, tất cả các hình thức tư duy đều quan trọng và cần thiết.

1.4/ Điều kiện học tập.


Hoạt động học muốn được diễn ra phải có điều kiện của nó. Điều kiện đầu tiên
đó là có sự tham gia của các yếu tố bên ngoài (ngoại lực) như: có sự hướng dẫn
của thầy, sách, vở, bút, máy tính, giáo trình…Và điều kiện thứ hai đó là có sự
vận động của chính bản thân người học hay còn gọi là yếu tố nội lực. Đó là
những tri thức mà người học học được, trình độ trí tuệ hiện có của người học,
động cơ, ý chí, hứng thú của người học…Có đầy đủ những điều kiện đó, người
học dù trong hoàn cảnh có thầy với trò, hay không có đối mặt với thầy thậm chí
khi ra trường, hoạt động học vẫn diễn ra. Từ đó có thể hiểu học là quá trình
tương tác các yếu tố ngoại lực và yếu tố nội lực thông qua hoạt động dạy và
học. Trong đó, yếu tố nội lực ở đây đóng vai trò quan trọng trong hoạt động
học của người học.
1.5/ Sự hình thành hoạt động học tập.
Học tập là một quá trình do đó khi nói đến hoạt động học tập phải nói đến
sự hình thành các hành động học tập. Hành động học ở đây được hiểu là
hành động trí óc, nhằm chiếm lĩnh tri thức. Hành động học có rất nhiều các
hành động khác nhau, và bản chất nhất, cơ bản nhất có các hành động chính
sau:hành động phân tích ( tìm ra nguồn gốc nội tại, cấu trúc lôgíc của đối
tượng), hành động mô hình hoá ( giúp con người diễn đạt các khái niệm một
cách trực quan, nó bao gồm mô hình gần giống với vật thật, mô hình tượng
trưng, mô hình mã hoá, nó được dùng nhiều trong sinh học…), hành động
cụ thể hoá (nhằm vận dụng giúp người học hiểu được rõ nhất bản chất của
vấn đề, giải quyết những vấn đề trong mối liên hệ cụ thể từng lĩnh vực.

1. Đặc điểm chung của hoạt động học tập ở sinh viên như sau:

+ Hoạt động học tập của sinh viên có tính chất độc đáo về mục đích và kết
quả hoạt động. Đó là, khác với lao động, học tập không làm thay đổi đối
tượng mà thay đổi chính bản thân mình. Sinh viên học tập để tiếp thu các tri
thức khoa học, hình thành những kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp, phát triển
những phẩm chất nhân cách người chuyên gia tương lai.
+ Hoạt động học tập được diễn ra trong điều kiện có kế hoạch vì nó phụ
thuộc vào nội dung, chương trình, mục tiêu, phương thức và thời hạn đào
tạo.
+ Phương tiện hoạt động học tập là thư viện, sách vở, máy tính…
+ Tâm lý diễn ra trong hoạt động học tập của sinh viên với nhịp độ căng
thẳng, mạnh mẽ về trí tuệ.
+ Hoạt động học tập của sinh viên mang tính độc lập cao
Cái cốt lõi của hoạt động học tập của sinh viên là sự tự ý thức về động cơ
mục đích, biện pháp học tập.

2. Động cơ hoạt động học tập của sinh viên


- Động cơ là cái thúc đẩy con người hoạt động đạt mục đích nhất định.
- Động cơ học tập là những hiện tượng, sự vật trở thành cái kích thích người
sinh viên đạt kết quả nhận thức và hình thành, phát triển nhân cách.
- Có 3 nguồn gốc tác động đến động cơ học tập:
+ Nguồn gốc bên ngoài xác định bởi nhu cầu của con người. Trong hoạt động
học tập có thể là nhu cầu thông tin, nhu cầu nhận thức, nhu cầu xã hội
+ Nguồn gốc bên ngoài là những điều kiện xã hội của hoạt động sống, yêu cầu,
hy vọng, khả năng có quan hệ tới con người.
+ Nuồn gốc cá nhân xác định bởi hứng thú, mong muốn, tâm thế, niềm tin, thế
giới quan, biểu tượng về bản thân…
Dựa vào mục đích học tập, các nhà tâm lí nghiên cứu lĩnh vực này chia làm 5
loại động cơ chủ yếu: động cơ xã hội, động cơ nhận thức khoa học, động cơ
nghề nghiệp, động cơ khẳng định và động cơ vụ lợi.
Sự hình thành động cơ học tập:
Động cơ học tập không có sẵn hay tự phát, mà được hình thành dần dần
trong quá trình học tập của học sinh dưới sự tổ chức, hướng dẫn của giáo
viên. Nhu cầu giải quyết được mâu thuẫn “giữa một bên là “phải hiểu biết”
và bên kia là “chưa hiểu biết” (hoặc hiểu biết chưa đủ, chưa đúng)” là
nguyên nhân chính yếu để hình thành động cơ học tập ở học sinh.
Ngoài ra, động cơ nói chung và động cơ học tập nói riêng thường liên hệ
mật thiết tới hứng thú của mỗi người. Nhờ có hứng thú mà động cơ ngày
càng mạnh mẽ. Vì thế vai trò của hứng thú trong học tập là rất lớn. Trong
học tập chẳng những cần có động cơ đúng đắn mà còn phải có hứng thú bền
vững thì học sinh mới có thể tiếp thu tri thức hiệu quả nhất.
Như đã phân tích ở trên, động cơ học được chia thành hai loại là động cơ
bên ngoài (động cơ xã hội) và động cơ bên trong (động cơ hoàn thiện tri
thức). Hoạt động học tập được thúc đẩy bởi động cơ hòan thiện tri thức
thường không chứa đựng xung đột bên trong. Có thể có những khó khăn
trong quá trình học hỏi đòi hỏi phải có nỗ lực ý chí để khắc phục, nhưng là
khắc phục các trở ngại bên ngoài chứ không hướng vào đấu tranh với chính
bản thân. Do đó, chủ thể của hoạt động học không có những căng thẳng tâm
lý. Hơn nữa, động lực nội tâm còn chứng tỏ được khả năng “tự quyết định”,
làm phát sinh tinh thần độc lập, tự giải quyết các trở ngại, đem lại cho người
học nhiều sáng kiến. Nên hoạt động học tập được thúc đẩy bởi động cơ này
được cho là tối ưu trong lĩnh vực sư phạm. Còn Hoạt động học tập được
thúc đẩy bởi động cơ quan hệ xã hội ở mức độ nào đó mang tính cưỡng bức,
có những lực chống đối nhau (như kết quả học tập không đáp ứng mong
muốn của cha mẹ). Vì thế nó gắn liền với sự căng thẳng tâm lý, không đóng
góp nhiều cho óc sáng tạo và khả năng giải quyết các trở ngại. Hơn nữa nó
đòi hỏi phải đấu tranh với chính bản thân nên học sinh dễ vi phạm nội quy,
lơ là việc học…
Tuy nhiên, xét về mặt lý luận, mỗi hoạt động được thúc đẩy bởi một động
cơ nhất định. Hoạt động học hướng đến là những tri thức khoa học, thì
chính nó (tức là đối tượng của hoạt động học) trở thành động cơ của hoạt
động ấy. Động cơ hoàn thiện tri thức là động cơ chính của hoạt động học
tập. Nhưng trên thực tế còn có động cơ quan hệ xã hội. Nó “bám vào”,
“hiện thân” trên động cơ hoàn thiện tri thức, trở thành một bộ phận của
động cơ hoàn thiện tri thức. Khi động cơ hoàn thiện tri thức được đáp ứng
thì đồng nghĩa với nó là động cơ quan hệ xã hội cũng được thoả mãn. Cả hai
loại động cơ này đều xuất hiện trong quá trình học tập và trong từng hoàn
cảnh cụ thể, điều kiện nào đó mà động cơ này hay động cơ kia chiếm vị trí
quan trọng hơn, nổi lên và chiếm ưu thế trong thứ bậc động cơ.
Vậy dựa trên nền tảng đó, ta có thể đưa ra một số phương cách cụ thể để
hình thành động cơ học tập cho học sinh trung học.

) Khái niệm động cơ học tập:


Ý tưởng nghiên cứu động cơ hoạt động của con người đã tồn tại rất lâu
trong lịch sử tâm lý học và có nhiều cách lý giải khác nhau về động cơ
Theo thuyết phân tâm học: Động lực thúc đẩy hoạt động của con người là
vô thức. nguồn gốc vô thức là những bản năng nguyên thủy mang tính sinh
vật và nhấn mạnh vai trò của các xung năng tính dục.
Theo thuyết hành vi: với mô hình "kính thích - phản ứng", coi kích thích là
nguồn gốc tạo ra phản ứng hay gọi là động cơ.
Theo J. Piaget: Động cơ là tất cả các yếu tố thúc đẩy cá thể hoạt động nhằm
đáp ứng nhu cầu và định hướng cho hoạt động đó.
Theo thuyết tâm lý hoạt động: những đối tượng nào được phản ánh vào óc
ta mà có tác dụng thúc đẩy hoạt động, xác định phương hướng hoạt động để
thỏa mãn nhu cầu nhất định thì được gọi là động cơ hoạt động.
Đề tài này chủ yếu đi theo hướng của tâm lý hoạt động nên việc đi tìm động
cơ sẽ liên quan đến nhu cầu, hứng thú, …Vì vậy cần tìm hiểu thêm các khái
niệm này.
Nhu cầu: là sự đòi hỏi tất yếu mà con người thấy cần phải thỏa mãn trong
những điều kiện nhất định để tồn tại và phát triển.
Hứng thú: là thái độ đặc biệt của cá nhân đối với đối tượng nào đó, vừa có ý
nghĩa trong cuộc sống, vừa đem lại cho cá nhân sự hấp dẫn về mặt tình cảm.
Vậy thì khi con người có nhu cầu học tập, xác định được đối tượng cần đạt
thì xuất hiện động cơ học tập.Động cơ học tập được thể hiện ở đối tượng
của hoạt động học, tức là những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo … mà giáo dục
đem lại.
Nhiều nhà tâm lý học đều khẳng định: hoạt động học tập của học sinh được
thúc đẩy bởi nhiều động cơ.Các động cơ này tạo thành cấu trúc xác định có
thứ bậc của các kích thích, trong đó có một số động cơ là chủ đạo, cơ bản,
một số động cơ khác là phụ, là thứ yếu.

4. Tính thích cực trong hoạt động học của sinh viên.

Việc tạo ra tính tích cực học tập của sinh viên là nhiệm vụ chủ yếu của người
thầy giáo trong nhà trường đại học. Một trong những yếu tố quan trọng có ảnh
hưởng mạnh tới tính tích cực hoạt động tập của sinh viên là do sự vận dụng một
cách thích hợp phương pháp giảng dạy của thầy.
Theo Thái Duy Tiên thì "Tính tích cực học tập của sinh viên là tập hợp các hoạt
động nhằm làm chuyển biến vị trí của người sinh viên từ đối tượng tiếp nhận tri
thức sang chủ thể tìm kiếm tri thức. để nâng cao hiệu qủa học tập"
Tính tích cực học tập của sinh viên được thể hiện qua một số đặc điểm cơ bản
sau:
- Trong giờ học sinh viên có chú ý tới bài giảng hay không
- Mức độ tự giác tham gia vào xây dựng bài học, trao đổi thảo luận, ghi chép…
- Thực hiện tốt các nhiệm vụ học tập được giao
- Hiểu bài và có thể trình bày lại theo cách hiểu của mình
- Có hứng thú học tập
- Biết vận dụng những tri thức được học vào thực tiễn
- Có sáng tạo trong quá trình học tập.
Mục đích học tập.
Theo tâm lý học hoạt động, mục đích được hiểu là cái mà hành động đang diễn
ra hướng tới. Hoạt động học được thúc đẩy bởi động cơ và nó được tiến hành
dưới các hành động học. Vậy mục đích của hoạt động học là các khái niệm, các
giá trị, các chuẩn mực…..mà hành động học đang diễn ra hướng đến nhằm đạt
được nó. Quá trình hình thành mục đích bắt đầu từ việc hình thành trong chủ
thể dưới các dạng là các biểu tượng sau đó được tổ chức để hiện thực hoá biểu
tượng trên thực tế, và khi thực tế có hoàn thành được thì mục đích được hoàn
thành. Mục đích của hoạt động học cũng được hình thành như vậy, chỉ có điều
nó có tính đặc thù riêng đó là việc hình thành mục đích học tập hướng đến là để
thay đổi chính chủ thể ở đây là người học. Và mục đích này chỉ có thể được bắt
đầu hình thành khi chủ thể bắt đầu bắt tay vào thực hiện hành động học tập của
mình. Trên con đường chiếm lĩnh đối tượng nó luôn diễn ra quá trình chuyển
hoá giữa mục đích và phương tiện học tập. Mục đích bộ phận được thực hiện
đầy đủ nó lại trở thành công cụ để chiếm lĩnh các mục đích tiếp theo.

Mục đích học tập


Mục đích của của hoạt động học là các khái niệm, các chuẩn mực,…mà hoạt động học
đang diễn ra hướng đến nhằm đạt được nó.

You might also like