You are on page 1of 5

Thống đốc NHNN trả lời phỏng vấn liên quan đến hai

Luật Ngân hàng (16/06/2010)


/w ps/w cm/conne

Tại kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XII vừa thông qua
Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (sửa đổi) và
Luật các Tổ chức tín dụng (sửa đổi). Thống đốc
NHNN Việt Nam, Nguyễn Văn Giàu vừa trao đổi với
báo chí về những nội dung được sửa đổi, bổ sung, các
điểm mới trong hai Luật Ngân hàng năm 2010.
Câu hỏi 1: Kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XII vừa
thông qua Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (sửa
đổi). So với Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
năm 1997 và Luật NHNN được sửa đổi, bổ sung năm
2003, Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam năm 2010
có những điểm mới, tiến bộ nào thưa Thống đốc?
Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam năm 2010 gồm 7 chương, 66 Điều. Trong đó, bổ
sung mới 26 điều, sửa đổi, bổ sung 38 điều, giữ nguyên 5 điều và huỷ bỏ 4 điều trong
Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 2003.
Về địa vị pháp lý, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam vẫn giữ nguyên như thể hiện trong
Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 1997 để phù hợp với thể chế chính trị và Hiến pháp
1992. Tuy nhiên, cách thiết kế trong Luật Ngân hàng Nhà nước 2010 đã thể hiện rõ hơn
vị trí của Ngân hàng Nhà nước là cơ quan ngang Bộ của Chính phủ, đồng thời xác định
rõ các chức năng, nhiệm vụ của Ngân hàng Nhà nước với tư cách là Ngân hàng Trung
ương của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện các chức năng về quản lý
nhà nước trên lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng, qua đó, khẳng định mối quan hệ
chặt chẽ giữa hai chức năng quan trọng của một Ngân hàng Trung ương: Thực thi chính
sách tiền tệ và giám sát an toàn hoạt động của hệ thống các tổ chức tín dụng. Đây là nội
dung quan trọng đã được thực tiễn chứng minh qua cuộc khủng hoảng tài chính ở các
nước vừa qua. Theo đó, cơ cấu tổ chức, đội ngũ cán bộ và cơ chế vận hành được thiết kế,
xây dựng theo hướng đảm bảo thực hiện được đồng thời cả hai chức năng nói trên.
Bên cạnh đó, Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam năm 2010 có nhiều nội dung thay đổi
so với Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 2003 và 1997, đó là:
(i) Cụ thể hóa được vai trò, vị trí của các cơ quan nhà nước trong việc quyết định và thực
thi chính sách tiền tệ quốc gia trên cơ sở phù hợp Hiến pháp, Luật Tổ chức Chính phủ,
trong đó thẩm quyền và tính tự chủ của Ngân hàng Nhà nước trong việc chủ động, linh
hoạt sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ đã được xác định rõ ràng.
(ii) Xác định rõ được thẩm quyền của Ngân hàng Nhà nước trong việc giám sát an
toàn hoạt động của các tổ chức tín dụng thông qua hai hoạt động giám sát và thanh tra,
cùng với việc thành lập Cơ quan Thanh tra, giám sát Ngân hàng thuộc Ngân hàng Nhà
nước để đảm bảo sự quản lý chặt chẽ hơn đối với hệ thống tổ chức tín dụng.
(iii) Quy định rõ trách nhiệm giải trình, báo cáo của Ngân hàng Nhà nước trước
Quốc hội, Chính phủ và công chúng. Đây là nội dung mới, quan trọng trong hoạt động
của Ngân hàng Trung ương nhằm minh bạch hóa, công khai hóa các quyết định trong
điều hành của mình không những với cơ quan cấp trên mà còn với công chúng, thị
trường.
Ngoài ra, Luật Ngân hàng Nhà nước năm 2010 còn có những nội dung quan trọng
khác đã được điều chỉnh, sửa đổi so với Luật hiện hành trên nhiều lĩnh vực hoạt động của
Ngân hàng Nhà nước, như: lãi suất, kế toán, quan hệ với Kho bạc Nhà nước, dự trữ
ngoại hối, kiểm toán nội bộ, quản lý nhà nước đối với Bảo hiểm tiền gửi…
Câu hỏi 2: Luật Ngân hàng Nhà nước năm 2010 đã phân định rõ thẩm quyền quyết
định chính sách tiền tệ của Việt Nam?
Đúng vậy, Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 2010 đã đưa ra được nội hàm của chính
sách tiền tệ quốc gia để làm cơ sở phân định thẩm quyền quyết định chính sách tiền tệ
quốc gia của Quốc hội, Chính phủ, cụ thể:
“Chính sách tiền tệ quốc gia là các quyết định về tiền tệ ở tầm quốc gia của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền bao gồm: quyết định mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền biểu hiện
bằng chỉ tiêu lạm phát; quyết định sử dụng các công cụ và biện pháp để thực hiện mục
tiêu đề ra.”
Theo đó, Quốc hội quyết định chỉ tiêu lạm phát hàng năm được thể hiện thông qua chỉ số
giá tiêu dùng; Thủ tướng Chính phủ, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quyết định việc sử
dụng các công cụ và biện pháp điều hành để thực hiện mục tiêu chính sách tiền tệ quốc
gia.
Câu hỏi 3: Thế còn về vấn đề lãi suất? Luật Ngân hàng Nhà nước năm 2010 đã có
lời giải cho những lo ngại về vai trò của lãi suất cơ bản trong việc làm cơ sở cho việc
giải quyết tranh chấp và chống cho vay nặng lãi?
Trong nền kinh tế thị trường, chính sách tiền tệ sẽ từng bước được thực hiện
thông qua việc sử dụng ngày càng nhiều các công cụ gián tiếp, đặc biệt là việc Ngân hàng
Trung ương sử dụng nghiệp vụ thị trường mở để tác động đến các mức lãi suất ngắn hạn,
qua đó, tác động đến tỷ lệ tăng cung tiền và tác động đến tốc độ tăng trưởng kinh tế.
Trong quá trình này, thông thường các Ngân hàng Trung ương đều muốn đưa ra một tín
hiệu rõ ràng về mức lãi suất cho vay ngắn hạn mà mình mong muốn. Đây là lý do tại sao
các Ngân hàng Trung ương thường công bố một số lãi suất điều hành chính sách của
mình.
Quy định về lãi suất trong Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 2010 đã tách lãi
suất điều hành chính sách tiền tệ và lãi suất làm cơ sở cho việc giải quyết tranh chấp và
chống cho vay nặng lãi, vừa đảm bảo để Ngân hàng Nhà nước điều hành, thực thi chính
sách tiền tệ, vừa có cơ sở để áp dụng quy định của các luật liên quan như Luật Dân sự,
Hình sự, Lao động, Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước….
Đây cũng là cơ sở pháp lý quan trọng để Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thay
đổi nội hàm lãi suất cơ bản theo hướng không công bố “trước” lãi suất cơ bản để định
hướng lãi suất thị trường mà thực hiện cơ chế công bố “sau” về lãi suất đã được hình
thành trên thị trường của các tổ chức tín dụng để làm cơ sở cho việc phòng, chống cho
vay nặng lãi trong nền kinh tế.
Câu hỏi 4: Vấn đề quản lý dự trữ ngoại hối nhà nước được thể hiện trong Luật như
thế nào?
Kể từ khi hình thành vào năm 1991 đến nay, dự trữ ngoại hối nhà nước của Việt Nam
được Chính phủ giao Ngân hàng Nhà nước quản lý luôn đóng vai trò rất quan trọng trong
việc bảo đảm nguồn lực để thực thi chính sách tiền tệ quốc gia, chính sách tỷ giá, đảm
bảo khả năng thanh toán quốc tế và đáp ứng nhu cầu ngoại hối đột xuất cấp bách của Nhà
nước.
Dự trữ ngoại hối là một hạng mục tài sản Có trong Bảng cân đối của Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam và được coi là một tài sản bảo đảm cho giá trị tiền trong lưu thông. Quỹ
Dự trữ ngoại hối Nhà nước được sử dụng cho nhiều mục đích khác nhau, trong đó chủ
yếu là để can thiệp thị trường ngoại hối nhằm ổn định giá trị đồng tiền thông qua nghiệp
vụ mua bán ngoại tệ với các tổ chức tín dụng. Quỹ Dự trữ ngoại hối Nhà nước được quản
lý dưới nhiều hình thức như tiền gửi, đầu tư vào trái phiếu Chính phủ các nước G7…để
đáp ứng nhu cầu thanh toán bằng ngoại tệ của nền kinh tế, vừa để sinh lời, đảm bảo giá trị
của Quỹ.
Việc quy định Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quản lý quỹ Dự trữ ngoại hối Nhà nước
theo quy định của Chính phủ là phù hợp với pháp luật hiện hành về quản lý ngoại hối.
Trong trường hợp việc sử dụng Dự trữ ngoại hối làm thay đổi dự toán Ngân sách nhà
nước thì thực hiện theo quy định của Luật Ngân sách.
Câu hỏi 5: Những nội dung mới chủ yếu về hoạt động của các tổ chức tín dụng được
thể hiện trong Luật Các tổ chức tín dụng 2010 như thế nào? Đặc biệt các quy định
nhằm đảm bảo an toàn hệ thống tổ chức tín dụng?
Luật Các tổ chức tín dụng năm 1997 không quy định phân biệt phạm vi hoạt động của
từng loại hình tổ chức tín dụng nên khi triển khai thực hiện đã gặp nhiều vướng mắc, đặc
biệt trong việc xác định loại nghiệp vụ mà một loại hình tổ chức tín dụng cụ thể được
phép thực hiện, do vậy đã ảnh hưởng đến hoạt động và sự phát triển của các loại hình tổ
chức tín dụng.
Trên cơ sở tiêu chí phân loại các tổ chức tín dụng, Luật Các tổ chức tín dụng 2010 đã quy
định cụ thể phạm vi hoạt động của từng loại hình tổ chức tín dụng, trong đó lấy hoạt động
của ngân hàng thương mại làm căn cứ dẫn chiếu khi quy định phạm vi hoạt động của tổ
chức tín dụng khác.
Ranh giới phân biệt hoạt động giữa các tổ chức tín dụng là ngân hàng và các tổ chức tín
dụng không phải là ngân hàng (tổ chức tín dụng phi ngân hàng) được làm rõ hơn, theo đó
các tổ chức tín dụng phi ngân hàng không được phép nhận tiền gửi của dân cư (của các cá
nhân), không được cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản của khách hàng. Quy định
này phù hợp hơn với thông lệ áp dụng tại hầu hết các nước và một mặt giảm bớt được rủi
ro cho hệ thống ngân hàng, mặt khác cho phép các tổ chức tín dụng phi ngân hàng được
mở rộng phạm vi cung ứng các dịch vụ ngân hàng do các quy định về an toàn sẽ được áp
dụng ở mức độ thấp hơn.
Luật Các tổ chức tín dụng 2010 cũng quy định rõ những nghiệp vụ tổ chức tín dụng
đương nhiên được kinh doanh; những nghiệp vụ kinh doanh phải được phép của Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam, những nghiệp vụ khi thực hiện phải thành lập công ty con,
công ty liên kết và những nghiệp vụ tổ chức tín dụng không được thực hiện.
Đối với đảm bảo an toàn hệ thống:
Hoạt động của các tổ chức tín dụng có những tác động lớn đến sự ổn định xã hội, phát
triển kinh tế của đất nước, vì với tư cách là các trung gian tài chính, tổ chức tín dụng là
những doanh nghiệp có khả năng huy động và sử dụng nguồn vốn rất lớn trong xã hội.
Việc quản lý thiếu chặt chẽ có thể dẫn đến đổ vỡ tổ chức tín dụng, gây ra sự mất lòng tin
trong nhân dân và đe dọa sự ổn định của hệ thống các tổ chức tín dụng cũng như của cả
nền kinh tế. Do vậy, Luật Các tổ chức tín dụng 2010 đã có nhiều quy định để nâng cao
mức độ an toàn trong hoạt động của các tổ chức tín dụng trên cơ sở quán triệt quan điểm:
tổ chức tín dụng là các doanh nghiệp đặc biệt, cần được quản lý một cách đặc biệt và tiếp
cận sát với thông lệ quốc tế về các yêu cầu bảo đảm an toàn trong hoạt động ngân hàng
(các nguyên tắc của Uỷ ban Basel). Nội dung này được thể hiện như sau:
Một là, Luật Các tổ chức tín dụng 2010 đã quy định về cấp phép đối với các tổ chức tín
dụng theo hướng nâng cao các yêu cầu, tiêu chí, điều kiện để bảo đảm an toàn cho từng
tổ chức tín dụng và cho cả hệ thống các tổ chức tín dụng.
Hai là, Luật Các tổ chức tín dụng 2010 đã quy định theo hướng đại chúng hoá về
sở hữu đối với các tổ chức tín dụng cổ phần để hạn chế việc chi phối, lạm dụng quyền lực
do sở hữu tỷ lệ lớn cổ phần. Cụ thể, Luật đã quy định giới hạn tỷ lệ sở hữu cổ phần của
một cá nhân không được vượt quá 5% vốn điều lệ của tổ chức tín dụng, tỷ lệ sở hữu cổ
phần của một tổ chức không được vượt quá 15% vốn điều lệ của tổ chức tín dụng.
Ba là, Luật Các tổ chức tín dụng 2010 đã bổ sung nhiều quy định nhằm nâng cao yêu cầu
trong quản trị, điều hành, kiểm soát tổ chức tín dụng, đặc biệt là các quy định liên quan
đến tư cách, năng lực, trình độ người quản lý, kiểm soát, điều hành tổ chức tín dụng, các
quy định ràng buộc những người có liên quan với nhau về huyết thống hoặc tài chính, các
quy định về thành viên độc lập Hội đồng quản trị.
Bốn là, Luật Các tổ chức tín dụng 2010 đã đưa ra các quy định hạn chế và kiểm soát việc
tổ chức tín dụng mở rộng phạm vi hoạt động sang quá nhiều lĩnh vực không có liên quan
trực tiếp đến hoạt động chính của tổ chức tín dụng, vì việc này về lâu dài sẽ ảnh hưởng
đến năng lực cạnh tranh và sự an toàn của tổ chức tín dụng. Cụ thể, Luật quy định tổ chức
tín dụng được thành lập công ty con, công ty liên kết, góp vốn, mua cổ phần đối với
những lĩnh vực nào và trong giới hạn tỷ lệ sở hữu là bao nhiêu….
Năm là, Luật Các tổ chức tín dụng 2010 đã đưa ra các nhóm quy định nhằm hạn chế tập
trung rủi ro quá mức của tổ chức tín dụng vào một hoặc một nhóm khách hàng, Luật Các
tổ chức tín dụng 2010 có một điều chỉnh quan trọng so với Luật Các tổ chức tín dụng
năm 1997 là không xác định hạn mức tín dụng cho một khách hàng theo từng loại nghiệp
vụ tín dụng, mà đưa ra hạn mức cấp tín dụng tổng thể đối với một khách hàng. Đây là
quy định phù hợp nhằm hạn chế rủi ro cho các tổ chức tín dụng vì thực tế là rủi ro của tổ
chức tín dụng khi cấp tín dụng cho một khách hàng không phụ thuộc vào loại nghiệp vụ
tín dụng mà phụ thuộc vào rủi ro của chính khách hàng.
Sáu là, Luật Các tổ chức tín dụng 2010 đưa ra các quy định nhằm hạn chế các xung đột
lợi ích thông qua các quan hệ cấp tín dụng, góp vốn, mua cổ phần chéo, góp vốn, mua cổ
phần ngược giữa tổ chức tín dụng, công ty con, công ty liên kết, công ty kiểm soát.
Bảy là, để bảo đảm phòng ngừa, ngăn chặn sớm sự đổ vỡ của các tổ chức tín dụng, Luật
Các tổ chức tín dụng 2010 đã quy định bổ sung thêm 2 trường hợp mà một tổ chức tín
dụng có thể bị Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đặt vào tình trạng kiểm soát đặc biệt; đồng
thời, quy định theo hướng trao cho Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thẩm quyền lớn hơn
trong việc kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng như Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam có quyền yêu cầu chủ sở hữu tăng vốn, xây dựng, thực hiện kế hoạch tái cơ cấu
hoặc bắt buộc sáp nhập, hợp nhất, mua lại đối với tổ chức tín dụng được kiểm soát đặc
biệt...
Câu hỏi 6: Luật Các tổ chức tín dụng 2010 có những thay đổi chủ yếu nào về tổ
chức, quản trị, điều hành của các tổ chức tín dụng so với Luật Các tổ chức tín dụng
năm 1997?
Tổ chức, quản trị, điều hành các tổ chức tín dụng là nội dung thay đổi nhiều nhất, lớn
nhất tại Luật Các tổ chức tín dụng 2010. Luật Các tổ chức tín dụng năm 1997 thiếu các
quy định cụ thể, đặc thù về tổ chức, quản trị, điều hành, kiểm soát của các tổ chức tín
dụng, do vậy, trên thực tiễn đã phát sinh xung đột giữa các quy định hướng dẫn của Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam (có giá trị pháp lý thấp hơn so với các Luật) với các quy định
của Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Luật Chứng khoán, Luật Cạnh tranh, Luật Hợp tác
xã, Luật Phá sản.... Điều này đã ảnh hưởng lớn đến hiệu quả, hiệu lực của hoạt động quản
lý của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đối với các tổ chức tín dụng. Do vậy, Luật Các tổ
chức tín dụng 2010 đã quy định chi tiết, cụ thể, rõ ràng về tổ chức và công tác quản trị,
điều hành, kiểm soát của từng loại hình tổ chức tín dụng.
Mặc dù, các quy định về tổ chức, quản trị, điều hành đối với tổ chức tín dụng được xây
dựng trên cơ sở các quy định của Luật Doanh nghiệp, Luật Hợp tác xã nhưng vẫn có
nhiều điểm khác biệt so với các Luật này để phù hợp với đặc thù trong hoạt động của các
tổ chức tín dụng, trên nguyên tắc là đưa ra các yêu cầu cao hơn về tổ chức, quản trị, điều
hành tổ chức tín dụng so với các doanh nghiệp thông thường. Những nội dung có thể áp
dụng được Luật Doanh nghiệp, Luật Hợp tác xã thì không được quy định lại trong Luật
các tổ chức tín dụng để tránh trùng lắp và bảo đảm để những quy định chung vẫn có thể
được áp dụng khi có thay đổi trong Luật Doanh nghiệp, Luật Hợp tác xã.

PV1

You might also like