Professional Documents
Culture Documents
Động lực địa chất là phương thức tồn tại, cải biến và tiến hoá của môi
trường đia chất. Chúng diễn ra ngay cả khi không có mặt con người. Các quá
trình động lực địa chất chỉ trở thành tai biến khi có mặt con người, khi tốc độ
của các quá trình vượt quá khả năng thích nghi của cơ thể con người và khả
năng chống chịu của sản nghiệp (nhà cửa, cầu cống, đề đập...).
Các loại tai biến địa động lực:
Động đất và núi lửa - Đại diện cho tai biến địa động lực nội sinh:
Là những tai biến liên quan đến chuyển động trong lớp vỏ trái đất -
chuyển động của lớp choàng (manti) trong quá trình tiến hoá của vỏ trái đất.
Đây là quá trình tai biến nội sinh – hoàn toàn không phụ thuộc vào các hoạt
động trên bề mặt trái đất.
Động đất và núi lửa thường liên quan mật thiết với nhau về mặt không
gian, các vùng núi lửa thường hay đi kèm các vùng động đất. Các vùng động
đất và núi lửa thường gắn liền với các đới dịch chuyển kiến tạo, phân bố dạng
tuyến, tạo thành các đai động đất và các đai núi lửa trùng với các đai kiến tạo
ở quy mô hành tinh cho đến quy mô khu vực. Các đai núi lửa thuộc trường
ứng suất siết ép thường đi kèm với các đai động đất. Trong lúc các đai núi
lửa liên quan với các sông núi giữa đại dương (thuộc trường ứng suất tách
dãn) thường rất yên tĩnh.
Bên cạnh các tai biến sơ cấp (tai biến cấp 1), động đất và núi lửa còn
gây ra hàng loạt các tai biến thứ cấp (tai biến cấp 2) ở các quy mô khác nhau;
từ những tai biến có thể quan sát trực tiếp (như bệnh dịch, ô nhiễm), cho đến
các tai biến tiềm ẩn chỉ bộc phát khi có thêm sự tác động khác, dù thật nhỏ bé
(như trượt lở, sóng thần…).
Trượt lở - Sụp lún - Đại diện cho tai biến địa động lực ngoại sinh:
Trượt lở và sụp lún là những tai biến địa chất gây ra bởi sự dịch chuyển
của các khối đất đá trên bề mặt vỏ đất. Có thể phân biệt các kiểu trượt lở và
sụp lún sau :
Trượt lở và sụp lún có nguồn gốc ngoại sinh: Đây là những chuyển
động khối xảy ra do quá trình địa chất trên bề mặt trái đất – các quá trình ngoại
sinh. Đây là kiểu nguồn gốc phổ biến.
Trượt lở và sụp lún có nguồn gốc nội sinh: các vụ trượt lở liên quan đến
các vụ động đất, các khu vực bị lún do chuyển động nâng hạ kiến tạo.
rượt lở và sụp lún liên quan đến các họat động của con người: liên qua
trực tiếp và rõ nét với các hoạt động của con người, khi con người tác động
vào môi trường tự nhiên. Vd: trượt lở dọc sông Đồng Nai hoạt động khai
thác cát sông; hiện tượng lún các thành phố lớn ở Bangkok khai thác quá
mức nước dưới đất.
Ngoài ra còn các tai biến địa chất:
Nứt đất ngầm : khác với nứt đất bề mặt ở chỗ chúng phát triển từ dưới
sâu, lên bề mặt, do sự trượt êm không động đất của đứt gãy tạo ra. Cấu tạo
môi trường địa chất ở chỗ nứt gãy ngầm thường có 2 cấu trúc: móng đá
cứng(ở phía dưới) và nền đá bở rời ở phía trên. Móng đá cứng ở phía dưới bị
đứt gãy hiện đại chia cắt làm nhiều khối, các khối dịch chuyển tương đối với
nhau theo mặt đứt gãy, lôi kéo lớp phủ phía trên vào quá trình biến dạng. Các
khe nứt xuất phát từ đứt gãy dưới sâu, lan toả dần về phía trên, tạo thành
trùm nứt dạng cây. Do lớp đất mặt thường bão hoà nước và mềm bở nên nứt
đất ngầm chỉ bộc lộ ở những chỗ đất cứng hoặc vào cuối mùa khô, khi các
lớp đất mặt cứng lại. Các khe nứt xuất hiện trên mặt đất tạo thành những tập
hợp rất đặc trưng về mặt sinh thái.
Lũ quét (hay còn gọi là lũ bùn đá) : Đó là những trận lũ lớn, bất ngờ,
duy trì trong một thời gian ngắn và có sức công phá lớn, có sự tham gia của
nước chảy tràn cùng các vật liệu tảng, cuội, bùn cát, cây cối lẫn lộn trong
nước. Lũ quét có vận tốc dòng chảy rất lớn, kèm theo những đợt sóng tràn do
dòng nước bị sức ép của khối vật chất ở trong nước được mang mỗi lúc mỗi
nhiều. Tất cả các kiểu lũ quét đều có một đặc tính chung là vận động chảy rối.
Thổi mòn và cát bay : Còn gọi là xói mòn do gió. Đây là một tai biến
đáng ngại ở các vùng khô hạn (sa mạc và bán sa mạc) và vùng cồn cát ven
biển. Điều kiện để xói mòn gió là kết cấu hạt đất dễ bị phá huỷ và gió mạnh
thường xuyên.
Xói lở bờ biển : Nguyên nhân chính là do sự dâng lên của mực nứơc
biển. Sự nóng dần lên toàn cầu do hiệu ứng nhà kính đã làm mực nước đại
dương tăng lên do nước bị dãn nởn do tan băng ở hai địa cực và tan băng hà
ở núi cao. Ngoài ra còn do sự sụp hạ kiến tạo ở các vùng ven biển, sụp hạ do
hút nứơc ngầm và tháo khô đầm lầy. Tốc độ sụp hạ do nhân sinh có khi lớn
hơn tốc độ sụt hạ tự nhiên hang chục lần. Hiện nay 73% bờ biển bán đảo
Malaya đang bị xói mòn dữ dội. Ở Việt Nam có nơi có tốc độ xói mòn lên tới
25m/năm (Hải Hậu). Ở cửa sông Bạch Đằng mỗi năm xói lở mất 37ha rừng
ngập mặn, 31ha triều thấp, luồng lạch bị bồi tụ bất thường từ nguồn cát xỏi lở
triều.
biến khác, đều có ảnh hưởng từ các hoạt động nhân sinh, và con người hoàn
toàn có thể phòng chồng được.
Phòng chống tai biến trượt lở : Có 2 hướng : làm tăng lực kháng trượt
và làm giảm lực trượt.
Làm tăng lực kháng trượt : Tháo khô nước ở sườn dốc ; tăng cường
độ ổn định của bờ vách bằng lớp phủ thực vật, bằng lớp phủ đá, bằng
bơm phụt xi măng.
Làm giảm lực trượt : Dỡ bỏ tải trọng trên bờ vách ; Làm giảm dốc
nghiêng của mái dốc và làm giảm chênh lệch địa hình; Làm giảm sự phá
huỷ chân bờ vách.
Phòng chống sụp lún : Do hoạt động con người là một nhân tố quan
trọng trong việc hình thành tai biến sụp lún, nên các biện pháp quản lý giữ vai
trò rất quan trọng:
Quy hoạch, giám sát chặt chẽ việc khai thác khoáng sản theo phương
thức hầm lò.
Quản lý việc khai thác nước dưới đất, dầu mỏ và dầu khí trên đất
liền.
Xây dựng quy phạm giám sát công tác tháo khô khi thi công các
công trình ngầm.
Quản lý quy hoạch, thiết kế cấu trúc, nhà cửa theo đặc điểm của nền
đất.
Phòng chống lũ quét.
Trồng rừng bảo hộ, bảo vệ rừng, xây dựng các công trình sinh thái
phòng hộ ở lưu vực xảy ra lũ quét, xây dựng hồ điều tiết nhỏ trên
thượng nguồn các con suối.
Ở những nơi xuất phát lũ quét cần xây dựng các công trình ngăn lũ,
vừa hạn chế tốc độ dòng chảy, vừa chống lại xâm thực dật lùi, gây xói
lở mạnh đất trên sườn núi, ngăn chặn lũ quét tiếp tục tái diễn.
Tránh định canh, định cư trong vùng có nguy cơ ngập lũ.
Việc xây dựng công trình, nhà cửa, cầu cống cần có kết cấu và sự bố
trí thích hợp, tránh việc ngăn dòng, phủ bêtông lan tràn làm giảm tính
thấm của mặt đất.
Khai thông lòng dẫn.
Phổ biến biện pháp phòng chống lũ cho cộng đồng.
Phòng chống thổi mòn và cát bay : cần hướng về việc kiểm soát các
hoạt động thâm canh:
Gây dựng các hàng cây cản gió, ngằn ngày nhưng có chiều cao.
Trồng xen các khoanh hay dải thảm cỏ chịu gió xen với các giải cây
lương thực, thực phẩm khác.
Tính toán thời vụ và cây trồng sao cho vào mùa gió chướng, các cay
đã khép tán. Vụ thu hoạch trùng với kì gió nhẹ.
Tính toán lượng gia súc có sừng chăn thả phù hợp với ngưỡng chịu
tải của lãnh thổ. Sự chăn thả quá mức sẽ tàn phá thảm thực vật vốn hiếm
hoi và thưa thớt ở vùng khô hạn.
3.Các biện pháp khắc phục hậu quả.
Hậu quả mà các tai biến địa chất để lại thật không thể nào kể hết được.
Vậy chúng ta phải làm gì, để khác phục các hậu quả đó? Đó không phải là
công việc của 1 vùng, của một quốc gia, mà đó là vấn đề mà cả thế giới cần
quan tâm.
Sau khi các tai biến xảy ra, cần tổ chức thật tốt các hoạt động cứu hộ,
nhằm giảm thiểu tốn thất vế nhân mạng.
Tổ chức tiêm phòng, và công tác y tế để chống lại các dịch bệnh có thể
phát sinh.
Tuyên truyền, vận động tổ chức các hoạt động cứu trợ, nhằm khôi phục
lại các thiệt hại về mặt vật chất.
Phân bố mỏng các thiệt hại do tai biến lên một cộng đồng lớn hơn thông
qua các hình thức bảo hiểm.