You are on page 1of 26

Báo cáo kết quả nghiên cứu nhóm – Bộ môn Tài chính quốc tế

`Lêi më ®Çu

Chính sách tỷ giá là những hoạt động của chính phủ ( mà đại diện thường là
NHTW ) thông qua một chế độ tỷ giá nhất định ( hay cơ chế điều hành tỷ giá ) và hệ
thống các công cụ can thiệp nhằm duy trì một mức tỷ giá cố định hay tác động để tỷ giá
biến động đến một mức cần thiết phù hợp với mục tiêu chính sách kinh tế quốc gia.

Vai trò của chính sách tỷ giá tới tăng trưởng kinh tế
1. Đối với cán cân thanh toán
Khi tỷ giá hối đoái (TGHĐ) tăng (đồng nội tệ xuống giá) sẽ làm tăng giá trong nước
của hàng nhập khẩu và giảm giá ngoài nước của hàng xuất khẩu của nước đó, cải thiện
sức cạnh tranh quốc tế của hàng trong nước. Kết quả là xuất khẩu tăng, nhập khẩu giảm
làm cán cân thanh toán được cải thiện.
2. Với lạm phát và lãi suất
Khi các yếu tố khác không đổi, TGHĐ tăng làm tăng giá các mặt hàng nhập khẩu tính
bằng nội tệ. Các hộ gia đình,các nhà sản xuất sử dụng đầu vào nhập khẩu phải tiêu
dùng hàng nhập khẩu với mức gia tăng. Kết quả mức giá chung trong nền kinh tế trở
nên cao hơn đặc biệt là nền kinh tế mở cửa với thế giới bên ngoài có xuất khẩu và nhập
khẩu chiếm tỷ lệ cao so với GDP. Nếu TGHĐ tiếp tục có sự gia tăng liên tục qua các
năm có nghĩa là lạm phát đã tăng. Nếu lãi suất tăng ở mức vừa phải có thể kiểm soát sẽ
kích thích tăng trưởng nhưng nếu lạm phát tăng quá cao sẽ tác động làm lãi suất tăng
làm giảm đầu tư ảnh hưởng không tốt đến đời sống kinh tế.
3. Với sản lượng và việc làm
Đối với các lĩnh vực sản xuất chủ yếu dựa trên nguồn lực trong nước thì khi TGHĐ
tăng, sự tăng giá hàng nhập khẩu sẽ giúp tăng khả năng cạnh tranh cho các lĩnh vực này
giúp phát triển sản xuất từ đó tạo thêm công ăn việc làm giảm thất nghiệp, sản lượng
quốc gia có thể tăng lên và ngược lại.
4. Đối với đầu tư quốc tế
- Đầu tư trực tiếp: TGHĐ tác động tới giá trị phần vốn mà nhà đầu tư nước ngoài đầu
tư hoặc góp vốn liên doanh. Bên cạnh đó tỷ giá còn có tác động tới chi phi sản xuất và
hiệu quả các hoạt động đầu tư nước ngoài. Do đo sự thay đổi TGHĐ có ảnh hưởng nhất

Nhóm thực hiện 1


Báo cáo kết quả nghiên cứu nhóm – Bộ môn Tài chính quốc tế

định tới hành vi của các nhà đầu tư nước ngoài trong việc quyết định có đầu tư vào
nước sở tại hay không.
- Đầu tư gián tiếp: là loại hình đầu tư thông qua hoạt động tín dụng quốc tế cũng như
việc mua bán các loại chứng khoán có giá trên thị trường. Khi TGHĐ tăng, tổng lợi tức
từ khoản vay bằng ngoại tệ lớn hơn lãi suất trong nước sẽ xảy ra hiện tượng luồng vốn
chảy ra nước ngoài và ngược lại khi TGHĐ giảm luồng vốn sẽ đổ vào trong nước.
5. Với nợ nước ngoài
Các khoản vay nợ nước ngoài thường được tính theo đơn vị tiền tệ nước đó hoặc những
đồng tiền mạnh nên khi TGHĐ tăng lên cũng đồng nghĩa với sự tăng lên của gánh nặng
nợ nước ngoài của quốc gia.

Ngày nay khi sự luân chuyển vốn quốc tế ngày càng tự do thì các nước, đặc biệt các nước
đang phát triển như Việt Nam càng cần phải thận trọng hơn trong chính sách tỷ giá để
đảm bảo tăng trưởng và khả năng trả nợ nước ngoài.
Nhãm thùc
hiÖn

I. S¬ lîc vÒ chÝnh s¸ch tû gi¸ hèi ®o¸I cña ViÖt Nam qua c¸c
thêi kú tõ 1955 ®Õn nay
Nhóm thực hiện 2
Báo cáo kết quả nghiên cứu nhóm – Bộ môn Tài chính quốc tế

Tiêu chí phân chia giai đoạn: dựa vào cơ chế xác định tỷ giá và cơ chế can thiệp lên tỷ
giá mà quốc gia đó áp dụng.
Từ đó có thể phân chia chính sách tỷ giá của Việt Nam kể từ khi có đồng tiền Quốc gia
(1955) cho đến nay thành bốn thời kỳ như sau :

1. Giai đoạn trước 1989: Cố định và đa tỷ giá


1.1. Bối cảnh kinh tế:
- Trong giai đoạn này, nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế đóng cửa và hướng nội. Đây
là thời kỳ của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp.
- Các bạn hàng chủ yếu là các nước XHCN trong Hội đồng tương trợ kinh tế. Hình
thức trao đổi thương mại chủ yếu là hàng đổi hàng giữa các nước theo một tỷ giá đã
được thoả thuận trong hiệp định ký kết song phương hay đa phương.

1.2. Chính sách tỷ giá (phương pháp xác định, chính sách quản lý)
• Tỷ giá trong giai đoạn này được xác định dựa trên việc so sánh sức mua giữa hai
đồng tiền, sau đó được qui định trong các hiệp định thanh toán được ký kết giữa các
nước XHCN.
- Tỷ giá của Việt Nam lần đầu tiên được công bố vào ngày 25/11/1955 là tỷ giá
giữa đồng Nhân dân tệ (CNY) và VND. 1CNY=1470VND. (Tỷ giá này được xác định
bằng cách chọn ra 34 đơn vị hàng hóa cùng loại, thông dụng nhất, tại cùng một thời
điểm tại thủ đô và có tham khảo thêm giá cả ở một số tỉnh khác để qui đổi ra tổng giá cả
của 34 mặt hàng đó theo hai loại tiền của 2 nước.)
- Sau đó, khi Việt Nam có quan hệ ngoại thương với Liên Xô, tỷ giá giữa VND
và đồng Rúp (SUR) được tính chéo nhờ tỷ giá giữa CNY và SUR đã có từ trước. 1 SUR
= 0.5 CNY ⇒ 1 SUR = 735 VND.
• Tỷ giá hối đoái trong giai đoạn này được giữ cố định trong một thời gian dài.
• Một đặc trưng nữa của tỷ giá trong giai đoạn này là “đa tỷ giá” tức là việc tồn tại
song song nhiều loại tỷ giá: tỷ giá chính thức, phi mậu dịch, kết toán nội bộ.
- Tỷ giá chính thức: (còn gọi là tỷ giá mậu dịch) là tỷ giá do ngân hàng nhà nước
công bố và dùng để thanh toán mậu dịch với Liên Xô và các nước XHCN khác. Đây là
tỷ giá dùng trong thanh toán có liên quan đến mua, bán hàng hóa, dịch vụ vật chất giữa
các nước trong phe XHCN.
- Tỷ giá phi mậu dịch: là tỷ giá dùng trong thanh toán chi trả hàng hóa hoặc dịch
vụ vật chất không mang tính thương mại. Như: chi về ngoại giao, đào tạo, hội thảo, hội
nghị …
- Tỷ giá kết toán nội bộ: được tính trên cơ sở tỷ giá chính thức cộng thêm hệ số
phần trăm nhằm bù lỗ cho các đơn vị xuất khẩu. Tỷ giá này không công bố ra ngoài mà
chỉ áp dụng trong thanh toán nội bộ. Nó thoát ly tỷ giá mậu dịch nhằm bù đắp những
khoản thua lỗ trong kinh doanh xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp nhà nước. Đây
thực chất là một hình thức bù lỗ có tính chất bao cấp thông qua tỷ giá.
Nhóm thực hiện 3
Báo cáo kết quả nghiên cứu nhóm – Bộ môn Tài chính quốc tế

1.3. Tác động đến nền kinh tế


• Thực ra trong giai đoạn này do quan hệ thương mại đầu tư của Việt Nam và khối
SEV là quan hệ hàng đổi hàng, mang nặng tính chất viện trợ, việc di chuyển, chuyển
giao về ngoại tệ là không có nên việc quy định tỷ giá hối đoái giữa VND và các ngoại tệ
khác chỉ mang tính hạch toán.
• Quan hệ về cung cầu ngoại hối trên thị trường đã không được phản ánh đúng đắn
trong tỷ giá. Biểu hiện rõ nhất của tình trạng này là việc tồn tại một thị trường “chợ đen”
với một tỷ giá khác xa tỷ giá chính thức.
• Do đồng tiền Việt Nam được định giá quá cao so với các đồng tiền tự do chuyển
đổi nên:
- Cán cân thương mại bị thâm hụt nặng, xuất khẩu gặp nhiều bất lợi trong khi
nhập khẩu thì có lợi và thường xuyên tăng lên. Hậu quả là hàng nội bị hàng ngoại chèn
ép, sản xuất trong nước bị đình đốn.
- Nhà nước phải áp dụng tỷ giá kết toán nội bộ để bù lỗ cho các đơn vị sản xuất
hàng xuất khẩt nhưng chưa đáp ứng được nhu cầu và chưa đủ bù đắp chi phí sản xuất.
- Cán cân thanh toán bị bội chi, dự trữ ngoại tệ bị giảm sút, phản ứng của chính
phủ lúc này là tăng cường quản lý ngoại hối, bảo hộ mậu dịch và kiểm soát hàng nhập
khẩu. Nhưng từ đó nảy sinh tình trạng khan hiếm vật tư, hàng hóa, nguyên vật liệu cần
thiết khiến cho tốc độ tăng trưởng chậm lại, sản xuất trong nước trì trệ, đình đốn lại càng
trở nên tồi tệ, sức ép lạm phát tăng vọt.

2. Thời kỳ 1989-1991 : “Thả nổi” tỷ giá hối đoái

2.1. Bối cảnh kinh tế.


• Đông Âu, Liên Xô sụp đổ.
• Quan hệ ngoại thương được bao cấp với các thị trường truyền thống bị gián đoạn,
khiến chúng ta phải chuyển sang buôn bán với khu vực thanh toán bằng đồng Đô-la Mỹ.
• Quá trình đổi mới kinh tế thực sự diễn ra mạnh mẽ bắt đầu từ năm 1989. Chính phủ
cam kết và thực thi chiến lược ổn định hóa nền kinh tế - tài chính – tiền tệ, trong đó vấn
đề tỷ giá được coi là khâu đột phá, có vai trò cực kỳ quan trọng đối với quá trình cải
cách, chuyển đổi cơ chế và mở cửa kinh tế.

2.2. Chính sách tỷ giá và tác động


• Nghị định 53/HĐBT ra đời ngày 26/03/1988, qui định về việc tách hệ thống
Ngân hàng Việt Nam từ một cấp thành hai cấp, bao gồm ngân hàng nhà nước thực hiện
chức năng quản lý vĩ mô và hệ thống ngân hàng thương mại thực hiện chức năng kinh
doanh tiền tệ và tín dụng. Tỷ giá mua bán của các ngân hàng được phép dựa trên cơ sở
tỷ giá chính thức do NHNN công bố cộng trừ 5% và chênh lệch giữa tỷ giá mua bán quy
định là 0,5%.

Nhóm thực hiện 4


Báo cáo kết quả nghiên cứu nhóm – Bộ môn Tài chính quốc tế

• Nghị định 161/HĐBT về “Điều lệ quản lý ngoại hối” ban hành ngày
18/10/1988 quy định “Tỷ giá áp dụng trong việc thanh toán, mua, bán và chuyển đổi
ngoại tệ được thực hiện theo tỷ giá kinh doanh của Ngân hàng ngoại thương hoặc ngân
hàng được ủy quyền công bố trên cơ sở tỷ giá do NHNN VN công bố”
• Quá trình xóa bỏ chế độ tỷ giá kết toán nội bộ diễn ta cùng lúc với việc điều
chỉnh giảm giá mạnh nội tệ ( không khác gì thả nổi).

2.3. Tác động đến nền kinh tế.


• Kim ngạch xuất khẩu tăng. Năm 1990 tăng 18,8% ; 1991: 48,63%.
• Trong khoảng thời gian này, tỷ giá VND/USD có khuynh hướng tăng và được nhà
nước điều chỉnh sát với giá thị trường tự do, điều này chứng tỏ nhà nước bắt đầu thả
nổi tỷ giá, quan hệ cung cầu ngoại tệ đã được quan tâm đầy đủ hơn, tuy nhiên sự thả
nổi tỷ giá đã: kích thích tâm lý đầu cơ ngoại tệ nhằm mục đích hưởng chênh lệch
giá; tình trạng tỷ giá thường xuyên đột biến và thiếu ngoại tệ đã gây nên những cơn
sốc USD làm mất ổn định nền kinh tế; chính phủ không kiểm soát được lưu thông
ngoại tệ.
• Đồng Việt Nam liên tục bị mất giá so với Đô la Mỹ làm giá cả hàng nhập khẩu
tăng nhanh. Chi phí đầu vào cho quá trình sản xuất tăng lên là điều kiện thúc đẩy lạm
phát. Tỷ lệ lạm phát của nước ta tăng trở lại: từ 34,7% năm 1989 lên 67,5% trong hai
năm 1990 và 1991.
Trước tình hình đó, từ năm 1992 chính phủ đã chọn con đường thay đổi cách quản lý
ngoại tệ và đổi mới cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái VND/USD với nội dung chính :
+ Thay thế biện pháp hành chính, bắt buộc các đơn vị kinh tế quốc doanh có ngoại tệ
phải bán cho ngân hàng theo tỷ giá ấn định băng biện pháp kinh tế: mở trung tâm giao
dịch ngoại tệ để cho các doanh nghiệp và ngân hàng trao đổi mua bán ngoại tệ với
nhau theo giá thoả thuận.
+ Bãi bỏ hình thức quy định tỷ giá nhóm hàng trong thanh toán ngoại thương giữa ngân
sách với các tổ chức kinh tế tham gia xuất nhập khẩu. Thay vào đó, trên cơ sở tỷ giá
hình thành tại các phiên giao dịch ngoại tệ, ngân hàng nhà nước công bố tỷ giá chính
thức.
Cơ chế hình thành và quản lý tỷ giá hối đoái mềm dẻo như vậy cộng với sự can thiệp
điều tiết của ngân hàng nhá nước đối với lượng ngoại tệ mua bán tại các phiên giao
dịch đã giải toả được tâm lý đầu cơ ngoại tệ, ngăn được xu hướng tăng quá mức giá
Đôla Mỹ trên thị trường (cuối năm 1991 tỷ giá VND/USD có lúc lên tới 14.500 đến
tháng 3/1992chỉ còn 11.550 VND/USD và tiếp tục giảm cho đến cuối năm 1992)

Nhóm thực hiện 5


Báo cáo kết quả nghiên cứu nhóm – Bộ môn Tài chính quốc tế

3. Thời kỳ 1992-2/1999

3.1. Bối cảnh kinh tế


• Thị trường với các nước XHCN cũ bị thu hẹp một cách đáng kể. (năm 1991 là 357.0
triệu USD đến năm 1992 chỉ còn 91,1 triệu USD)
• Về phương diện thanh toán quốc tế, Việt Nam đứng trước một tình thế vô cùng khó
khăn. Bên cạnh hệ thống thanh toán đa biên đã bị tan rã, tất cả các nước CNXH đều
đồng loại chuyển đổi đồng tiền thanh toán với Việt Nam bằng ngoại tệ tự do chuyển đổi
(chủ yếu là USD). Việc chuyển đổi đồng tiền thanh toán có ảnh hưởng lớn đến khả năng
thanh toán của Việt Nam bằng ngoại tệ vì trước đó, hầu hết nguồn thu ngoại tệ của Việt
Nam đều bằng đồng Rúp chuyển nhượng, chỉ có một lượng nhỏ bằng ngoại tệ tự do
chuyển đổi.
• Điều đó đã dẫn đến cán cân vãng lai và cán cân thương mại thâm hụt lớn, nhập khẩu
gấp 3 lần xuất khẩu. sự thiếu hụt trong cán cân thương mại được bù đắp bằng các khoản
viện trợ, cho vay của các nước CNXH mà chủ yếu là Liên Xô.

2.3.2. Chính sách tỷ giá.


a) Thời kỳ 1992-1994: tỷ giá chính thức hình thành trên cơ sở đấu thầu tại trung tâm
giao dịch ngoại tệ.
• Trong thời gian này, NHNN đề nghị với chính phủ thành lập Quỹ điều hòa ngoại tệ
tại NHNN để có thể can thiệp vào thị trường ngoại hối nhằm ổn định tỷ giá. Chính phủ
ủy quyền cho Thống đốc được toàn quyền điều hành quỹ một cách linh hoạt.
 Có thể nói, việc thành lập quĩ ngoại tệ tại NHNN đã làm dịu những biến động thất
thường của tỷ giá trên thị trường. NHNN đã sử dụng quỹ một cách rất linh hoạt và hiệu
qua. Quỹ tạo cho NHNN một lực thực sự để can thiệp nhằm ổn định tỷ giá, đáp ứng nhu
cầu thiết yếu của nền kinh tế về ngoại tệ.
• Tháng 9/1991 ngân hàng nhà nước đã thành lập một trung tâm giao dịch ngoại tệ tại
thành phố Hồ Chí Minh và tháng 11/1991, một trung tâm giao dịch thứ hai ở Hà Nội
cũng ra đời.
Đối tượng tham gia giao dịch trên các trung tâm này là các ngân hàng được phép
kinh doanh ngoại tệ, các tổ chức XNK kinh doanh trực tiếp với nước ngoài và NHNN.
Ngoài ra các ngân hàng được phép tập hợp các yêu cầu mua bán ngoại tệ của khách
hàng không trực tiếp mua bán tại trung tâm.
Trung tâm hoạt động theo nguyên tắc đấu giá từ thấp đến cao hoặc ngược lại để
đạt được cân bằng cung cầu về ngoại tệ.
• Tỷ giá chính thức của đồng Việt Nam được xác định có căn cứ vào tỷ giá đóng cửa
tại các phiên giao dịch ở các trung tâm theo nguyên tắc tỷ giá mua vào không được vượt
quá 0.5% so với tỷ giá ấn định tại phiên giao dịch trước.
 Việc thành lập hai trung tâm giao dịch ngoại tệ là bước ngoặt đầu tiên của hệ thống
ngân hàng trong quá trình đổi mới thực sự theo hướng thị trường. Thông qua hoạt động
Nhóm thực hiện 6
Báo cáo kết quả nghiên cứu nhóm – Bộ môn Tài chính quốc tế

của hai trung tâm, với vai trò là người tổ chức và điều hành, NHNN đã kịp thời nắm bắt
cung cầu ngoại tệ trên thị trường để điều hành chính sách tiền tệ cũng như tỷ giá phù
hợp với tín hiệu thị trường.
b) Thời kỳ 1995-1999: tỷ giá được hình thành trên cơ sở tỷ giá liên ngân hàng.
• Ngày 20/09/1994, Thống đốc Ngân hàng nhà nước ban hành quyết định số 203 / QĐ
- NH9 về việc thành lập thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, Ngân hàng Nhà nước thực
hiện vai trò là người mua bán cuối cùng trong ngày. Có qui mô lớn hơn, hoạt động linh
hoạt hơn nên tỷ giá hối đoái ngày càng phản ánh đầy đủ hơn quan hệ cung cầu thị
trường. Qua thị trường liên ngân hàng, ngân hàng nhà nước nắm bắt dấu hiệu thị trường
về tỷ giá hối đoái, công bố tỷ giá chính thức hàng ngày và biên độ giao dịch cho các
ngân hàng thương mại.
• Có thể nói toàn bộ việc điều hành tỷ giá hối đoái của NHNN từ năm 1990 đến trước
tháng 3/1997 là áp dụng chính sách tỷ giá cố định có điều tiết nhẹ của Nhà nước,
chủ yếu dựa vào neo giữ và quy đổi VND theo USD qua một rổ ngoại tệ hẹp (chủ
yếu là USD, DEM, FRF, GBP, JPY), trong đó USD chiếm tỷ trọng lớn. Thực tiễn
đã chứng tỏ chính sách này chỉ phù hợp với giai đoạn tiền tệ chưa ổn định, xuất
khẩu còn yếu, nhập khẩu khá ồ ạt, dự trữ ngoại tệ quốc gia mỏng. Những bất hợp lý
đã nêu sớm được nhìn nhận và bằng vào hai quyết định (tháng 3/1997 và tháng
10/1997) NHNN đã nới rộng biên độ giao dịch hối đoái cho các ngân hàng thương
mại so với tỷ giá chính thức của NHNN công bố, lần lượt lên 5% rồi 10% từ mức
0,5% - 1% từng áp dụng suốt hai năm 1995, 1996.
• Từ tháng 7/1997, do chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á,
đồng Việt Nam chịu áp lực giảm giá mạnh đã khiến cho thị trường ngoại hối rơi vào tình
trạng đầu cơ, tích trữ ngoại tệ, cầu ngoại tệ luôn lớn hơn cung. Trong hai năm 1997-
1998, nhà nước đã nhiều lần chủ động điều chỉnh tỷ giá VND/USD.
Tính toán cho thấy NHNN thông qua tỷ giá chính thức thấp (11.175 VND/USD) và
biên độ khống chế 10% đã buộc các ngân hàng thương mại phải giao dịch với tỷ giá ở
mức tối đa (sát trần) mà vẫn thấp hơn 10% (13.567/12.293) so với thực tế (vì chưa tính
tương quan sức mua đô la Mỹ). Sự bất hợp lý này chỉ giải quyết được bằng cách điều
chỉnh tỷ giá hối đoái danh nghĩa, chứ nới rộng thêm nữa biên độ giao dịch tỷ giá (mức
10% đã là quá cao) là hết sức nguy hiểm. NHNN đã ý thức được hiểm hoạ đó và quay
trở lại điều chỉnh tỷ giá hối đoái chính thức tăng khoảng 5,6%, từ 11.175 lên 11.800
VND/USD (theo Quyết định 37 ngày 14/2/1998 của Thủ tướng Chính phủ). Bước cải
tiến này vừa có lợi thế về thanh toán đối ngoại là giảm bớt mức độ VND bị đánh giá
quá cao, vừa tạo điều kiện rút ngắn khoảng cách chênh lệch về tỷ giá giữa thị trường
ngoại tệ liên ngân hàng và thị trường tự do
Sau một số tháng áp dụng Nghị định 37, trong nước xuất hiện căng thẳng trở lại về
cung cầu ngoại tệ. Bởi vậy, vào ngày 7/8/1998 bằng một chỉ thị của Thủ tướng Chính
phủ tỷ giá chính thức đang từ 11.810 VND/USD được đưa lên bằng với tỷ giá thị
trường ngoại tệ liên ngân hàng là 12.990 – 12.998 VND/USD, đồng thời biên độ giao
Nhóm thực hiện 7
Báo cáo kết quả nghiên cứu nhóm – Bộ môn Tài chính quốc tế

dịch tỷ giá thị trường ngoại tệ liên ngân hàng bị thu hẹp từ 10% xuống còn 7. Cùng
thời gian này một Nghị định quan trọng khác cũng được ban hành, đó là Nghị định
63/1998/NĐ - CP ngày 17/8/1998 của Chính phủ về quản lý ngoại hối. Theo đó, tỷ giá
hối đoái của đồng Việt Nam so với các ngoại tệ khác được hình thành dựa trên cơ sở
cung cầu ngoại tệ trên thị trường có sự điều tiết của Nhà nước. Hàng ngày, NHNN
công bố tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng giữa VND
với USD trên các phương tiện thông tin đại chúng. Căn cứ vào mục tiêu của chính sách
tiền tệ trong từng thời kỳ mà NHNN quy định biên độ giao động so với tỷ giá giao dịch
bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng để các ngân hàng thương mại được
phép xác định tỷ giá mua, tỷ giá bán giữa VND với USD.
Như vậy, NHNN đã sử dụng khá linh hoạt hai công cụ điều hành tỷ giá là tỷ giá
chính thức do NHNN công bố (từ cố định trong thời gian dài trước đây sang công bố
hàng ngày và tương đối uyển chuyển theo cung cầu ngoại tệ, theo định hướng thị
trường của Nhà nước) và biên độ giao động (từ cứng nhắc đến khá mềm dẻo, từ chỉ có
tăng biên độ tới cả có giảm biên độ). Điều chỉnh tỷ giá chính thức và biên độ giao dịch
những năm 1997 – 1998 đã thu hẹp khoảng cách giữa thị trường tự do và thị trường
ngoại tệ liên ngân hàng. Điều này đã tạo tiền đề quan trọng cho bước tiếp theo, thống
nhất tỷ giá chính thức và tỷ giá liên ngân hàng vào tháng 2/1999.

3.3. Tác động đến nền kinh tế.


• Cuối giai đoạn, trong thời kỳ xảy ra khủng hoảng tài chính ở khu vực, tỷ giá tăng
lên do điều chỉnh của chính phủ là để tăng cao sức cạnh tranh của hàng hóa Việt
Nam.
• Việc tỷ giá của Việt Nam không tăng quá nhanh như của các nước khác trong khu
vực có tác động tích cực vì không tạo tâm lý hoang mang cho người dân, không gây ra
một sức ép lớn lên nợ nước ngoài và không gây nhiều thiệt hại cho nhập khẩu.
• Tuy nhiên, đối với những doanh nghiệp, đặc biệt là những doanh nghiệp nhập khẩu
lớn thì mỗi lần điều chỉnh tỷ giá là một lần đem lại cho họ nỗi kinh hoàng (Ví dụ:
SÀI GÒN PETRO sau khi điều chỉnh tỷ giá từ lãi 60 tỷ sang lỗ hàng chục tỷ).

4. Giai đoạn 1999 đến nay: thả nổi có điều tiết

4.1. Bối cảnh kinh tế


• Tỷ giá đã dần đi vào ổn định.

4.2. Chính sách tỷ giá


Tháng 2/1999, với sự ra đời của quyết định 64/QĐ-NHNN7, cơ chế tỷ giá Việt Nam đã
có một bước cải cách triệt để hơn. Nhà nước không ấn định và công bố tỷ giá chính
thức như trước nữa mà chỉ “thông báo” tỷ giá giao dịch bình quân liên ngân hàng. Xét
về mặt lý thuyết, đây là bước cải cách có ý nghĩa rất lớn vì nó chuyển từ cơ chế tỷ giá

Nhóm thực hiện 8


Báo cáo kết quả nghiên cứu nhóm – Bộ môn Tài chính quốc tế

xác định một cách chủ quan theo ý chí của NHNN sang một cơ chế tỷ giá xác định
khách quan hơn theo quan hệ cung cầu, đó là cơ chế tỷ giá thả nổi có điều tiết.
Từ tỷ giá đó, các NHTM xác định tỷ giá kinh doanh:
TGKD = TGBQLNH +(-) BĐDĐ
• Kể từ ngày 26/02/1999, Quyết định số 65/1999/QĐ –NHNN có hiệu lực, ngân hàng
nhà nước chấm dứt tỷ giá chính thức và giảm biên độ giao động tỷ giá xuống còn 0,1%.
Từ đó, tỷ giá được ngân hàng nhà nước công bố theo tỷ giá giao dịch bình quân trên thị
trường liên ngân hàng của VND so với đồng đô la Mỹ. Các NHTM được phép xác định
tỷ giá mua bán đối với USD không được vượt quá +0.1% so với tỷ giá bình quân liên
ngân hàng của ngày giao dịch trước đó.
• Từ ngày 1/7/2002, NHNN quyết định nới rộng biên độ quy định tỷ giá của các Tổ
chức tín dụng trong giao dịch mua bán ngoại tệ đối với khách hàng lên ± 0,25% so với
mức ± 0,10% trước đó đối với nghiệp vụ giao ngay; lên ± 0,50% so với mức ± 0,40%
của nghiệp vụ giao dịch kỳ hạn 30 ngày; lên ± 2,5% so với mức 2,35% của nghiệp vụ
giao dịch kỳ hạn trên 90 ngày... Đối với các ngoại tệ khác không phải là USD, các
NHTM được quyền chủ động tự định tỷ giá giữa VND và ngoại tệ đó.
• Như vậy, yếu tố thả nổi trong tỷ giá kinh doanh là đại lượng TGBQLNH, còn yếu tố
điều tiết là đại lượng BĐDĐ.

4.3. Ưu điểm và hạn chế


Những ưu điểm nổi bật của cơ chế tỷ giá này là:
• Tạo quyền chủ động của NHTM trong việc quy định tỷ giá với các ngoại tệ
khác.
• Tỷ giá được xác định một cách khách trên quan hệ cung cầu, các doanh
nghiệp chủ động hơn đồng thời đảm bảo được vai trò kiểm soát của nhà nước.
• Những biến động có thể tạo ra khoảng cách giữa tỷ giá thị trường tự do và tỷ
giá của các NHTM sẽ khó xảy ra.
• Giảm bớt tâm lý hoang mang dao động, giảm đầu cơ.
• Do được hình thành trên cơ sở thị trường nên tỷ giá linh hoạt hơn, mềm dẻo
hơn, phù hợp với thông lệ quốc tế , góp phần tăng cường sự hòa nhập của nền kinh
tế nước ta vào nền kinh tế thế giới.

Những hạn chế của cơ chế tỷ giá này:


• Tỷ giá được xác định từ ngày hôm trước nên nó chưa là cơ sở vững chắc để tỷ
giá chính thức thực sự có ý nghĩa kinh tế.
• Biên độ dao động được đánh giá còn là hẹp, nếu có đột biến cung cầu thì sẽ
dẫn đến sai lệch tỷ giá là quá lớn, giao dịch ngày hôm đó có thể đình trệ hay đóng
băng.

Nhóm thực hiện 9


Báo cáo kết quả nghiên cứu nhóm – Bộ môn Tài chính quốc tế

• Thị trường tiền tệ liên ngân hàng còn kém phát triển, chưa hoàn hảo, dự trữ
ngoại tệ hạn hẹp nên can thiệp của NHNN vào thị trường ngoại tệ chỉ trong một
giới hạn nhất định mà thôi.

II. Thùc tr¹ng chÝnh s¸ch tû gi¸ ViÖt Nam hiÖn nay
1.Điều hành chính sách tỷ giá thời hội nhập
Trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới, trên nền tảng cơ chế tỷ giá đã lựa
chọn, việc điều hành chính sách tỷ giá phải theo hướng ngày càng linh hoạt hơn.
NHNN đang thực thi lộ trình linh hoạt hóa tỷ giá kể từ năm 2004 qua nhiều bước.
Trước hết là bãi bỏ các trần cố định về tỷ giá kỳ hạn để thay bằng chênh lệch lãi
suất (tháng 5-2004). Tiếp đến là thừa nhận tính tự do chuyển đổi của các ngoại tệ
mạnh, cho phép chuyển đổi giữa các ngoại tệ không cần chứng từ, chính thức áp dụng
quyền chọn ngoại tệ (tháng 11-2004). Các ngân hàng thương mại tiến hành thí điểm
quyền chọn đô la Mỹ và tiền đồng trong điều kiện được tự do thỏa thuận phí quyền
chọn (tháng 6-2005). Bỏ biên độ giao dịch đô la Mỹ tiền mặt, cho thí điểm cơ chế mua
bán ngoại tệ mặt theo giá thỏa thuận (tháng 7-2006). Những bước đi này có dụng ý để
thị trường tự điều chỉnh tỷ giá chừng nào mà Việt Nam chưa thể áp dụng cơ chế tỷ giá
thả nổi hoàn toàn (independent floating ). Rõ ràng trong điều hành chính sách tỷ giá,
NHNN luôn coi trọng tính thị trường, đã cung ứng cho thị trường nhiều công cụ để xác
lập tỷ giá cân bằng.Có thể nói trong “dung dịch thả nổi có điều tiết” của cơ chế tỷ giá
đã lựa chọn thì “nồng độ thả nổi” ngày càng tăng lên và vai trò “điều tiết” đích thực
của NHNN chỉ là tạo điều kiện cho thị trường có được một kỳ vọng hợp lý.

2. Thời kỳ “hậu WTO”


Ngày 7/11/2006, Việt Nam đã được kết nạp vào Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO).
Gia nhập WTO với những cơ hội và thách thức mới cho Việt Nam khi hội nhập kinh tế
quốc tế. Trước những cơ hội và thách thức đó, lựa chọn những bước đi đúng đắn và
phù hợp trong cơ chế điều hành chính sách tỷ giá là điều vô cùng quan trọng.

CHẾ ĐỘ TỶ GIÁ Ở VN
Các lần điều chỉnh biên độ tỷ giá
Số quyết định Ngày ký Ngày hiệu lực Tỷ giá BQLNH BĐ DĐ
được
phép
65/1999/QĐ –NHNN 25/02/1999 25/02/1999 + 0.1 %
679/2002/QĐ -NHNN 01/07/2002 01/07/2002 +/- 0.25%
2554/QĐ-NHNN 31/12/2006 02/01/2007 16 101 +/- 0.5%
Nhóm thực hiện 10
Báo cáo kết quả nghiên cứu nhóm – Bộ môn Tài chính quốc tế

3039/QĐ-NHNN 24/12/2007 25/12/2007 16 113 +/- 0.75%


504/QĐ-NHNN 07/03/2008 10/03/2008 16 025 +/- 1%
1436/QĐ-NHNN 26/06/2008 27/06/2008 16 451 +/- 2%
2635/QĐ-NHNN 06/11/2008 07/11/2008 16 511 +/- 3%
672/QĐ-NHNN 23/3/2009 24/03/2009 16 980 +/- 5%
2666/QĐ-NHNN 25/11/2009 26/11/2009 16 961 +/- 3%
Thông tư 10/02/2010 11/02/2002 17 941 lên 18 +/- 3%
03/2010/TT- 544
NHNN
17/08/2010 19/08/2010 18 544 lên 18 +/- 3%
932

2.1 Năm 2007, đã có những biến động lớn trong chính sách điều hành tỷ giá của Ngân
hàng Nhà nước thể hiện ở những nội dung sau:
- Nới rộng biên độ tỷ giá: Ngày 02/01/2007, NHNN đã nới rộng biên độ tỷ giá ngoại tệ
từ + 0,25% lên +0,5% so với tỷ giá liên ngân hàng. Việc điều chỉnh này được cho là
mở đường cho sự giảm giá của VND so với USD.
Sự can thiệp vào chính sách tỷ giá của NHNN: Trong ngày 2 và 3 tháng 01 năm 2007,
NHNN đã mua ngoại tệ của các NHTM với số lượng nhiều hơn nhằm giảm bớt tình
trạng thừa USD trên thị trường. Ước tính trong 2 ngày, NHNN đã mua vào trên 140
triệu USD.
- Động thái mới nhất từ phía Ngân hàng Nhà nước nhằm kiểm soát lạm
phát trong năm 2008 là quyết định nới rộng biên độ tỷ giá VND/USD từ +/-0,5% lên
+/-0,75% ngay trong những ngày cuối năm 2007 (ngày24/12/2007) nhằm tăng khả
năng thanh khoản cho thị trường và tăng cường sự linh hoạt của tỷ giá trong bối cảnh
nguồn vốn đổ vào Việt Nam ngày càng lớn, tạo điều kiện cho dòng vốn ra và vào nhịp
nhàng hơn. Theo NHNN, việc mở rộng biên độ lần này nằm trong chủ trương tạo điều
kiện để nền kinh tế Việt Nam thích nghi với mức độ mở cửa, hội nhập nền kinh tế thế
giới.

Theo quy định trước đây, các ngân hàng thương mại chỉ được ấn định tỉ giá mua bán giữa VND với
USD trong biên độ cộng trừ 0,5% so với tỉ giá bình quân liên ngân hàng do Ngân hàng Nhà nước
thông báo.

Các chuyên gia cho rằng với biên độ mới lên tới cộng trừ 0,75%, các ngân hàng thương mại sẽ có
điều kiện ấn định tỉ giá mua bán linh hoạt hơn và sát với cung-cầu ngoại tệ trên thị trường.

Cơ chế tỉ giá ngày càng linh hoạt hơn sẽ đòi hỏi các ngân hàng thương mại và thành viên tham gia thị

Nhóm thực hiện 11


Báo cáo kết quả nghiên cứu nhóm – Bộ môn Tài chính quốc tế

trường ngoại hối phải nâng cao khả năng phòng ngừa rủi ro về biến động tỉ giá, nhằm đảm bảo hiệu
quả sản xuất kinh doanh.

2.2. Năm 2008,


 Bối cảnh :
- Kinh tế thế giới có nhiều diễn biến phức tạp. Tăng trưởng kinh tế toàn cầu sụt giảm
đáng kể do tác động lan truyền của khủng hoảng cho vay bất động sản dưới chuẩn của
Mỹ. Các nền kinh tế phát triển đều rơi vào suy thoái.
- Trong đó, biến động của các luồng vốn đầu tư, đặc biệt là luồng vốn gián tiếp đã ảnh
hưởng mạnh tới cung cầu ngoại tệ và tỷ giá. Trong năm 2008, luồng vốn đầu tư gián
tiếp đã liên tục biến động, khiến cho cung cầu ngoại tệ mất cân đối. Luồng vốn này gia
tăng đáng kể trong ba tháng đầu năm, gây áp lực tăng giá VND, sau đó có dấu hiệu đảo
chiều làm tăng cầu ngoại tệ khi tình hình kinh tế thế giới tiếp tục khó khăn, kinh tế
trong nước đối mặt với lạm phát, nhập siêu tăng cao. Sau khi có dấu hiệu tăng nhẹ trở
lại do kinh tế vĩ mô Việt Nam diễn biến khả quan, trong các tháng cuối năm, tình trạng
khủng hoảng thị trường tài chính quốc tế lại khiến cho các nhà đầu tư có xu hướng rút
vốn về nước để bảo đảm thanh khoản của các tổ chức ở chính quốc.

 Chính sách :
Đối phó với những diễn biến khó lường đó, NHNNVN đã điều hành tỷ giá linh hoạt,
thực hiện được các mục tiêu của chính sách tỷ giá, đảm bảo thanh khoản ngoại tệ, góp
phần kiềm chế lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô, cụ thể là:
• Để giảm bớt áp lực cho các ngân hàng trong bối cảnh cung ngoại tệ thừa , có
điều kiện ấn định tỷ giá theo cung cầu vốn thực tế, ngày 07/3/2008 NHNN đã
mở thêm biên độ tỷ giá thêm một khoảng là +/- 0,25% so với mức +/-0,75%
trước đây, tức là cho phép các ngân hàng được tự đưa ra tỷ giá trong "phạm vi
cho phép" là +/-1% so với tỷ giá chính thức liên ngân hàng.

• Vào giai đoạn cuối tháng 6.


- Điều chỉnh tỷ giá bình quân liên ngân hàng tăng 2% để phản ánh sát hơn cung cầu thị
trường.
Ngày 26/6/2008 NHNN ban hành quyết định số 1346 mở rộng biên độ tỷ giá giao dịch
USD/VND từ mức ±1% lên mức ±2% so với tỷ giá bình quân liên ngân hàng do
NHNN công bố.
Tăng cường bán ngoại tệ cho các NHTM để đáp ứng nhu cầu ngoại tệ của nền kinh tế,
đáp ứng tối đa các nhu cầu thiết yếu như nhập khẩu xăng dầu, thuốc chữa bệnh, thuốc
bảo vệ thực vật, phân bón, thiết bị y tế, đồng thời hỗ trợ ngoại tệ cho các ngân hàng có
phục vụ nhu cầu trả nợ vay hoặc thanh toán L/C đến hạn, các nhu cầu ngoại tệ hợp
pháp của cá nhân và hỗ trợ trạng thái cho các NHTM;

Nhóm thực hiện 12


Báo cáo kết quả nghiên cứu nhóm – Bộ môn Tài chính quốc tế

- Từ ngày 7/11/2008, biên độ tỉ giá giao dịch USD/VND được mở rộng từ mức 2% lên
3% so với tỉ giá bình quân liên ngân hàng do NHNN công bố (Quyết định số 2635/QĐ-
NHNN ngày 6/11/2008).
- Thực hiện Nghị quyết số 30/2008/NQ-CP ngày 11/12/2008 của Chính phủ về những
giải pháp “để chủ động ngăn chặn suy giảm kinh tế, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh, đẩy
mạnh xuất khẩu, kích cầu đầu tư và tiêu dùng, bảo đảm an sinh xã hội, phấn đấu tăng
trưởng kinh tế năm 2009 ở mức khoảng 6,5%”, trên cơ sở dự báo tình hình kinh tế thế
giới và trong nước năm 2009, NHNN đã điều chỉnh tỷ giá bình quân trên thị trường
ngoại tệ liên ngân hàng áp dụng cho ngày 25/12/2008 lên mức 16.989đ/USD. Mặt bằng
tỷ giá mới sẽ góp phần hỗ trợ xuất khẩu, kiểm soát nhập siêu và đảm bảo sự bền
vững của cán cân thanh toán quốc tế, đồng thời hạn chế tâm lý kỳ vọng tỷ giá sẽ
tăng cao, tạo điều kiện cho doanh nghiệp chủ động xây dựng phương án sản xuất
kinh doanh ổn định. NHNN sẽ áp dụng các biện pháp cần thiết để giữ ổn định mức tỷ
giá này.
 Với các biện pháp đồng bộ của NHNN, thị trường ngoại hối đã ổn định trở lại.

2.3. Năm 2009 có thể coi là năm “tiền tệ” tại Việt Nam. Tỷ giá USD/VND tăng mạnh,
nhập siêu cao, lạm phát đứng trước áp lực tăng trở lại, khan hiếm cục bộ USD, giá
vàng sốt nóng, lãi suất ngân hàng lên kịch trần…
Hình 1: Tỷ giá USD/VND 2008 - 2009

Nguồn: Global Financial Data, Ngân hàng Nhà nước và tổng hợp của Trường Fulbright.

Hình 1 cho thấy thị trường ngoại hối luôn căng thẳng.

• Nguyên nhân :
- Tình trạng thâm hụt cán cân thanh toán ngày một trở nên trầm trọng
Bảng 1: Cán cân thanh toán của Việt Nam (2007-2009) - Đơn vị: triệu USD

Nhóm thực hiện 13


Báo cáo kết quả nghiên cứu nhóm – Bộ môn Tài chính quốc tế

2009
2007 2008
Quý 1 Quý 2 Quý 3
Cán cân tài khoản vãng lai (không
-5.692 -7.966 121 -2.442 -3.544
kể vàng)
- Thương mại -9.000 -10.042 -208 -2.597 -3.528
- Kiều hối 6.180 6.804 1.488 1.469 1.243
- Khác -2.812 -4.728 -1.159 -1.314 -1.259
Cán cân tài khoản tài chính (kể cả
15.891 8.439 -964 -306 1.446
vàng)
- “Cơ bản” 14.917 11.449 1.211 1.840 3.013
- Chính thức 2.045 993 322 470 484
- Tư nhân (FDI, FPI, tín dụng
12.872 10.456 889 1.370 2.529
thương mại)
- “Không cơ bản” 974 -3.010 -2.175 -2.146 -1.567
- Tài sản nước ngoài ròng của ngân
2.623 677 -688 -265 1.500
hàng thương mại
- Vàng -1.300 -2.740 2.530 70 0
- “Sai số và thiếu sót” -349 -947 -4.017 -1.951 -3.067
Cán cân tổng thể 10.199 473 -843 2.748 -2.098
Nguồn: Ngân hàng Nhà nước và Quỹ Tiền tệ Quốc tế.
Từ số liệu về cán cân thanh toán trong Bảng 1, có thế thấy rằng thâm hụt cán cân thanh
toán của Việt Nam là do phần “không cơ bản” trong cán cân tài khoản tài chính gây ra,
“sai số và thiếu sót” lại quá lớn, khiến việc giải thích tình trạng thâm hụt của cán cân
thanh toán trở nên khó khăn.

- Cầu ngoại tệ căng thẳng, ngoài nguyên nhân chính là cán cân thanh toán chung, một
phần còn từ hoạt động đầu tư vàng và USD của nhiều người dân. Chỉ trong vòng một
tuần qua, quyết định thu gom USD của người dân có thể lãi 5% – 6%, một tỷ lệ hấp
dẫn và lôi kéo nhiều người chạy theo món lợi này hơn.Và chính vì USD hấp dẫn và bị
đầu cơ càng đẩy cầu ngoại tệ chính thức trở nên căng thẳng. Nhiều người không gửi
ngoại tệ ở ngân hàng mà tìm lợi nhuận trên thị trường tự do. Trong khi đó, tỷ giá chính

Nhóm thực hiện 14


Báo cáo kết quả nghiên cứu nhóm – Bộ môn Tài chính quốc tế

thức niêm yết của các ngân hàng thương mại vẫn thấp hơn nhiều so với thị trường tự
do, mua vào bán ra ở mức 18.882 đồng/USD (ngày 24.11).

• Chính sách :
- Tỷ giá chính thức giữa USD và VND trong năm 2009 đã trải qua hai lần điều chỉnh,
một lần vào tháng 3 (+2%) do tăng biên độ giao dịch từ 3% lên 5% và lần gần nhất là
vào tháng 11 (+3,4%). Ngày 26/11/2009 tỷ giá bình quân liên ngân hàng được điều chỉnh lên mốc
17.961 đồng ăn một đôla, tăng thêm 5,44% so với hôm trước (theo quyết định 2666/QĐ – NHNN).
Đồng thời, biên độ tỷ giá giảm từ 5% xuống còn 3% (khống chế tỷ giá kinh doanh tại các ngân hàng
không được cao quá hoặc thấp hơn 3% so với tỷ giá liên ngân hàng do Ngân hàng Nhà nước công bố
hằng ngay). Tính chung cả việc tăng tỷ giá liên ngân hàng và giảm biên độ, qua đó cho đưa trần tỷ giá
kinh doanh tại các ngân hàng thương mại lên 18.500 đồng

Mặc dù sau mỗi lần điều chỉnh, tỷ giá chính thức đều lên kịch trần nhưng tỷ giá trên
thị trường không chính thức (tỷ giá thị trường tự do) vẫn luôn nằm ngoài biên độ cho
phép của Ngân hàng Nhà nước.
- Vì khó nới biên độ tỷ giá lên cao hơn nữa, Ngân hàng Nhà nước một lần nữa đang gỡ
bài toán khó bằng phương án kết hối ngoại tệ (doanh nghiệp có ngoại tệ phải bán ngay
một phần hoặc toàn bộ cho ngân hàng). Theo đó, Ngân hàng Nhà nước sẽ yêu cầu một
vài tổng công ty lớn bán ngoại tệ cho ngân hàng. Dự tính, khoảng 5 – 6 tỉ USD sẽ được
bán ra trong thời gian tới, sẽ làm dịu đi cơn “khát” USD và “dập tắt” cơn sốt trên thị
trường tự do. Tuy nhiên, chưa rõ tỷ lệ và thời gian kết hối là bao nhiêu và bao lâu.

• Tác động :
- Theo ông Huỳnh Bửu Sơn, chuyên gia kinh tế, một lượng ngoại tệ không nhỏ bị tỷ
giá cao trên thị trường tự do lôi kéo và nằm ngoài hệ thống ngân hàng. Một hệ lụy khác
là các nhà nhập khẩu phải điều chỉnh giá bán hàng hóa, nguyên liệu, thiết bị nhập về ra
thị trường để cân đối theo tỷ giá, mà nơi đến là người tiêu dùng cuối cùng.
- Theo TS. Vũ Thành Tự Anh, chính sách tỷ giá hiện nay tác động lớn đến nền kinh tế.
Theo đó, xét về mặt vĩ mô, có rủi ro về tỷ giá và rủi ro về dự trữ ngoại hối.
+ Khi tỷ giá chính thức thấp hơn tỷ giá ngoài thị trường tự do, đến một lúc lượng cầu
lớn hơn lượng cung có trên thị trường, thì luôn có sức ép đẩy tỉ giá tới tỷ giá thật. Khi
thị trường ngoại hối căng thẳng, Ngân hàng Nhà nước “bơm” ngoại tệ ra, và “bơm” ra
bao nhiêu thị trường lại “hút” hết bấy nhiêu. Việc này làm cho dự trữ ngoại hối giảm,
nhưng lại không làm bớt căng thẳng thị trường ngọai hối
+ Rủi ro kế tiếp là ở doanh nghiệp. Phần lớn hoạt động sản xuất kinh doanh của nhiều
doanh nghiệp liên quan hoạt động xuất nhập khẩu. Trong chuỗi các giá trị đó, khi tỷ giá
bấp bênh, người xuất khẩu không bán USD, người nhập khẩu không mua được USD,
thì không nhất thiết thị trường mất cân bằng cũng đưa đến sự căng thẳng.
+ Một rủi ro nữa là rủi ro về tỷ giá hiện nay là lớn, trong khi phần lớn doanh nghiệp
không phòng vệ được, đưa đến sản xuất hoạt động kinh doanh bị hạn chế một phần.
Nhóm thực hiện 15
Báo cáo kết quả nghiên cứu nhóm – Bộ môn Tài chính quốc tế

2.4. Đầu năm 2010 cho đến nay :


- Ngày 10/2/2010, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) quyết định điều chỉnh tỷ giá giữa
VND và USD liên ngân hàng. Theo đó, tỷ giá bình quân liên ngân hàng điều chỉnh từ
mức 17.941 đồng/USD lên 18.544 đồng/USD, tăng khoảng 3,3%.
- Gần đây nhất, Nhằm góp phần kiềm chế nhập siêu, ngày 17/8/2010 Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam thực hiện điều chỉnh tỷ giá bình quân liên ngân hàng giữa đồng Việt
Nam với Đô la Mỹ áp dụng cho ngày 18/8/2010 từ mức 18.544 đồng/USD lên mức
18.932 đồng/USD, tăng 2%. Biên độ tỷ giá giữ nguyên ở mức +/-3%. Với những giải
pháp này, thị trường ngoại tệ, thị trường vàng đã từng bước bình ổn, tỷ giá chính thức
so với tỷ giá trên thị trường tự do được thu hẹp, từng bước lành mạnh hóa các giao dịch
vốn trong xã hội.
 Kết quả : Với biên độ tỷ giá hiện nay là +/-3%, tỷ giá giao dịch tối đa mà các tổ
chức tín dụng được áp dụng là 19.100 đồng/USD. Theo NHNN, mục đích của việc
điều chỉnh tỷ giá là nhằm cân đối hài hòa cung - cầu ngoại tệ, góp phần kiểm soát
nhập siêu và ổn định kinh tế vĩ mô. Ngay sau khi quyết định được ban hành, các ngân
hàng thương mại (NHTM) đã điều chỉnh tỷ giá lên mức khá cao.
 Đánh giá :
- Việc điều chỉnh này có mặt tích cực, nó đã đưa tỷ giá USD của ngân hàng về gần
hơn với mức giao dịch của thị trường tự do. Trong khuôn khổ hành lang tỷ giá mới với
mức trần là 19.100 VND/USD, chênh lệch tỷ giá giữa thị trường chính thức và tự do
giảm xuống còn 100-500 đồng/USD (chênh lệch 0,8-2,5%), người nắm giữ ngoại tệ có
thể sẽ tăng bán USD cho ngân hàng, tăng cung trên thị trường chính thức.
- Thế nhưng, trên thực tế, song song với việc điều chỉnh giá USD của các ngân hàng,
giá USD trên thị trường tự do cũng tăng cao tương ứng. Mặc dù đã điều chỉnh giá mua
USD lên mức rất cao, các ngân hàng vẫn gặp nhiều khó khăn trong việc thu mua đồng
tiền này. Trong khi đó, tại hầu hết các điểm thu đổi ngoại tệ, giá USD đã tăng hơn, lần
lượt là 19.300 đồng/USD (mua vào) và 19.600 đồng/USD (bán ra). Bên cạnh đó cũng
có không ít chuyên gia cảnh báo về những phản ứng tiêu cực sau khi điều chỉnh tỷ
giá. Bởi bối cảnh của điều chỉnh tỷ giá lần này có thể gây nên những hoài nghi về các
chính sách ổn định tỷ giá của NHNN trong thời gian trước. Trước những diễn biến trên,
nhiều chuyên gia lo ngại việc điều chỉnh tỷ giá của NHNN đúng nhưng chưa đủ và
chưa “trúng” thời điểm.
 Tác động :
Việc NHNN liên tục nới rộng tỷ giá VND/USD có những tác động đa chiều đến các
chủ thể kinh tế và các biến số kinh tế vĩ mô.
- Về mặt lý thuyết, việc phá giá đồng nội tệ sẽ giúp cho hàng hoá nước đó có sức cạnh
tranh tốt hơn hàng của nước ngoài, điều này sẽ hỗ trợ kích thích xuất khẩu và hạn chế
nhập khẩu bằng việc sử dụng hàng nội địa có giá thấp hơn. Mặc dù vậy, đối với lợi thế

Nhóm thực hiện 16


Báo cáo kết quả nghiên cứu nhóm – Bộ môn Tài chính quốc tế

có được từ sự can thiệp của Nhà nước này cần hết sức lưu ý đến Luật chống bán phá
giá tại các nước sở tại.
Thời gian gần đây, các vụ kiện chống bán phá giá hàng Việt Nam trên một số thị
trường xuất khẩu chủ yếu đang rộ lên và việc điều chỉnh tỷ giá (chỉ nâng mà không
giảm) liên tục sẽ có khả năng tạo "cớ" cho các đối thủ cạnh tranh vận động hành lang
cho các vụ kiện, nhất là trong bối cảnh các quốc gia đang có xu hướng bảo vệ kinh tế
và việc làm nội địa bằng các chính sách bảo hộ phi thuế quan khác nhau.
- Nợ nước ngoài: Gánh nặng thuộc về doanh nghiệp
Thời điểm thay đổi tỷ giá, có một quan điểm thú vị khi cho rằng việc thay đổi này
không làm gia tăng áp lực đối với các khoản nợ nước ngoài của chính phủ vì việc tăng
tỷ giá kích thích xuất khẩu, từ đó làm gia tăng nguồn ngọai hối thu về để thanh toán nợ.
Tuy nhiên, việc nới lỏng tỷ giá vừa qua cũng đã khiến cho các doanh nghiệp có các
khoản vay bằng ngoại tệ gặp nhiều khó khăn trong hoạt động sản xuất kinh doanh,
thậm chí có nhiều doanh nghiệp lợi nhuận làm ra cả năm không đủ bù đắp khoản chênh
lệch tỷ giá đối với khoản vay ngoại tệ của mình, mà đôi khi, vấn đề này còn phụ thuộc
vào chế độ hạch toán kế toán. Tiêu biểu cho trường hợp này là Công ty cổ phần nhiệt
điện Phả Lại trong năm 2008-2009: Công ty đã phải trích lập quỹ dự phòng do trượt tỷ
giá giữa đồng Yên (Nhật Bản) với Đồng Việt Nam với giá trị vượt 30% so với lợi
nhuận sản xuất kinh doanh cả năm 2008.
- Tỷ giá chính thức và tỷ giá thị trường tự do
Nhìn vào khoảng thời gian qua, dường như chính sách tỷ giá của NHNN chỉ nhằm rút
ngắn khoảng cách giữa tỷ giá chính thức và tỷ giá tự do, thu hút lượng ngọai hối về
ngân hàng để phục vụ mục tiêu điều hành của Chính phủ.
Lần điều chỉnh đầu tiên tạo khoảng cách chênh lệch là 1.000 VND/USD. Cũng trong
thời điểm này, có nhiều đánh giá cho thấy lượng tiền USD của các tổ chức, cá nhân gửi
tại Ngân hàng lên tới 20 tỷ USD, tuy nhiên sau khi rà soát lại thì lượng tiền của các Tập
đoàn kinh tế quốc doanh chỉ có 1,9 tỷ USD gửi các kỳ hạn tại Ngân hàng. Khi cung cầu
ngọai tệ căng thẳng, Thủ tướng đã quyết định bắt buộc các Tập đoàn, Tổng công ty
Nhà nước bán ngoại tệ hiện có của mình cho Ngân hàng để bình ổn cung cầu. Tuy
nhiên điều này không được thực hiện một cách triệt để.
Việc tiếp tục nới lỏng tỷ giá VND/USD lần thứ hai làm củng cố tâm lý tiếp tục găm giữ
ngọai tệ và thị trường lại khan hiếm dòng vốn ngọai tệ luân chuyển, ngân hàng tiếp tục
nâng tỷ giá và ....khép kín một vòng tròn luẩn quẩn.
Dù thế nào thì việc tỷ giá niêm yết biến động mạnh với tần suất cao, không có tín hiệu
cho trước để "đuổi theo" tỷ giá tự do cũng sẽ là một trong những hệ quả xấu của chính
sách. Mặt khác, quyết định hành chính này cũng đẩy mạnh kỳ vọng của người cầm tiền
USD vào những biến động trong tương lai của tỷ giá.

Nhóm thực hiện 17


Báo cáo kết quả nghiên cứu nhóm – Bộ môn Tài chính quốc tế

Chính sách tỷ giá có tác động quan trọng đến cán cân thương mại (hoạt động
XNK) của VN. Vì vậy, chúng ta đi sâu phân tích thêm tác động của chính sách tỷ giá
đên CCTM VN

1. Tác động của tỷ giá thực song phương lên cán cân thương mại.

Để giải quyết hạn chế của tỷ giá danh nghĩa song phương (NER) là không phản ánh được tương quan
sức mua giữa VND và USD, ta đi tìm mối quan hệ giữa phá giá và sức cạnh tranh thương mại quốc tế
của Việt Nam thông qua chỉ số tỷ giá thực eR và tỷ lệ giá trị xuất khẩu /giá trị nhập khẩu3.

Đồ thị 1 : Mối quan hệ giữa RER và cán cân thương mại

Nguồn:http://www.adb.org/Documents/Books/Key Indicator/2008/Pdf/vie:pdf )

Theo lý thuyết, khi chỉ số tỷ giá thực eR>1, nghĩa là tỷ giá thực tăng, VND giảm giá thực và sức cạnh
tranh thương mại quốc tế của Việt Nam được cải thiện. Ngược lại, khi chỉ số tỷ giá thực eR<1, nghĩa
là tỷ giá thực giảm, VND lên giá thực và sức cạnh tranh thương mại quốc tế của Việt Nam bị xói
mòn. Mặc dù từ năm 1992-2007, cả chỉ số xuất và nhập khẩu đều lớn hơn 1, điều này chứng tỏ giá trị
xuất và nhập khẩu đều tăng qua các năm. Như vậy, chúng ta chưa thể biết được liệu sức cạnh tranh
thương mại quốc tế của Việt Nam được cải thiện hay xói mòn. Vấn đề này sẽ được phân tích chi tiết
dưới đây:
Đồ thị 1 cho thấy tỷ giá RER(VND/USD) được chia làm 3 giai đoạn:

- Giai đoạn 1: từ năm 1993-1999, tỷ giá thực giảm.

Nhóm thực hiện 18


Báo cáo kết quả nghiên cứu nhóm – Bộ môn Tài chính quốc tế

+ Từ năm 1992-1996, tỷ giá thực giảm liên tục dưới 1đv, đạt giá trị thấp nhất là 0.818 vào năm 1996,
đã làm xói mòn sức cạnh tranh thương mại quốc tế do tốc độ tăng giá trị nhập khẩu nhanh hơn tốc độ
tăng giá trị xuất khẩu, (tỷ lệ X/N cũng giảm mạnh trong thời gian này) đã làm cán cân thương mại liên
tục thâm hụt. nguyên nhân là do trong thời gian này tỷ lệ lạm phát của VN rất cao (tb 10.88%/ năm),
tỷ lệ lạm phát của Mỹ thấp và ổn định (tb chỉ 2.84%/năm). Trong thời gian này, chính sách tỷ giá hối
đoái được điều chỉnh để chống lạm phát và thu hút đầu tư nước ngoài. Để thực hiện mục tiêu chống
lạm phát, chính sách tỷ giá được điều hành cố gắng duy trì sự ổn định của tỷ giá hối đoái danh nghĩa.

+ Từ năm 1997-1999, tỷ giá thực tăng, sức cạnh tranh thương mại quốc tế của Việt Nam bắt đầu đươc
cải thiện, thể hiện ở chỉ số tỷ giá xuất khẩu lớn hơn chỉ số tỷ giá nhập khẩu và thâm hụt của cán cân
thương mại giảm. Đặc biệt, trong năm 1999, lần đầu tiên cán cân thương mại thặng dư. Nguyên nhân
là do tháng 10/1997, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã quyết định mở rộng biên độ giao dịch giữa tỷ
giá chính thức và tỷ giá giao dịch tại các thị trường liên ngân hàng từ (+) (-) 5% lên (+) (-)10%. Nới
rộng biên độ giao dịch đã làm cho tỷ giá thị trường tăng mạnh. Việc điều chỉnh tỷ giá của NHNN trên
đây đã có tác động tích cực đối với xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu của Việt Nam, giảm nhập siêu
trong các năm 1997-1999. Ngoài ra, giá cả trên thị trường biến động không đáng kể cũng là một nhân
tố góp phần cải thiện cán cân thương mại của Việt Nam.

- Giai đoạn 2: từ năm 2000-2005, chỉ số tỷ giá thực eR>1 nghĩa là tỷ giá thực tăng. Từ năm 2000-
2005, mặc dù tỷ giá thực tăng nhưng không cải thiện được sức cạnh tranh thương mại quốc tế của
Việt Nam vì tốc độ tăng trưởng của nhập khẩu lớn hơn tốc độ tăng trưởng của xuất khẩu. Nguyên
nhân là do chịu tác động của hai yếu tố giá và lượng của một số mặt hàng chủ lực như xăng dầu, sắt
thép, phân bón do bị ảnh hưởng của tình hình kinh tế, chính trị có nhiều biến động4, chiến tranh Irắc,
căng thẳng về chính trị đặc biệt ở Trung Đông, dịch bệnh SARS vv…

- Giai đoạn 3: từ năm 2006-2008, tỷ giá thực giảm do eR<1 đã làm xói mòn sức cạnh tranh thương
mại quốc tế, thể hiện ở tốc độ tăng trưởng của xuất khẩu thấp hơn tốc độ tăng trưởng nhập khẩu.

2. Tác động của tỷ giá thực đa phương (REER) lên cán cân thương mại.
REER được tính thông qua rổ tiền tệ gồm 11 đồng tiền các nước có quan hệ thương mại với Việt
Nam: Singapore, Nhật Bản, Mỹ, Anh, Úc, Trung Quốc, Liên minh Châu Âu, Malaysia, Thái Lan, Hàn
Quốc và Indonexia. Kết quả như sau:
Đồ thị 3 : Mối quan hệ giữa REER và cán cân thương mại

Nhóm thực hiện 19


Báo cáo kết quả nghiên cứu nhóm – Bộ môn Tài chính quốc tế

(Nguồn: Adb.org, wordbank.org, econstat.com, epp.eurostat.ec.europa.eu và thống kê tài chính quốc


tế tháng 5/2008)
Qua chỉ số REER tính được ở từng năm, có thể nhận thấy rằng, trong giai đoạn 1999-2003, REER có
xu hướng tăng, đã làm cho cán cân thương mại trong giai đoạn này được cải thiện, thậm chí là thặng
dư chút ít trong một số năm.
Tuy nhiên, trong giai đoạn 2004-2007, REER có xu hướng giảm. Tỷ giá thực giảm làm cho sức mua
đối ngoại của VND tăng, VND lên giá thực. VND lên giá thực làm xói mòn sức cạnh tranh thương
mại quốc tế của Việt Nam, thể hiện ở cán cân thương mại trong giai đoạn này thâm hụt rất lớn. Đến
đây, có một điều cần lưu ý là: tại năm 2004, REER giảm sẽ làm xói mòn sức cạnh tranh thương mại
quốc tế của Việt Nam (theo lý thuyết) nhưng thực tế, tại năm này đường chỉ số xuất khẩu nằm cao
hơn đường chỉ số nhập khẩu, nghĩa là sức cạnh tranh thương mại quốc tế của Việt Nam được cải
thiện. Điều này có thể được xem là do độ lệch về thời gian tác động của tỷ giá lên xuất nhập khẩu
(giai đoạn trước REER tăng).
Như vậy, khi tỷ giá REER giảm chứng tỏ giá hàng xuất khẩu trở nên đắt hơn và giá
hàng nhập khẩu trở nên rẻ hơn một cách tương đối, điều này sẽ góp phần làm giảm giá
trị kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Nói cách khác, nếu không điều chỉnh chính
thức một cách hợp lý sẽ không có lợi cho cán cân thưong mại của Việt Nam

 Bài học rút ra:


- Có thể nói, tác động tới kỳ vọng của thị trường thông qua từng bước điều chỉnh tỷ giá
USD/VND đóng vai trò quan trọng trong việc cân đối lại danh mục nắm giữ tiền của
người dân và DN. Tuy điều chỉnh tỷ giá có thể làm tăng nợ nước ngoài, đặc biệt là đối
với các DNNN, nhưng chính sách này là cần thiết vì lợi ích toàn cục của nền kinh tế.
Hơn nữa, việc điều chỉnh tỷ giá cũng phát đi tín hiệu buộc các DNNN phải thận trọng
hơn khi vay USD. Như vậy, thực tế chứng minh sự thành công của chính sách vĩ mô
phụ thuộc không chỉ vào sự đúng đắn của chính sách, mà còn bị chi phối rất nhiều bởi
niềm tin của các tác nhân thị trường vào cơ quan quản lý vĩ mô. Khi các cơ quan này
có được niềm tin của thị trường, điều đó đồng nghĩa với việc hiệu lực của các chính

Nhóm thực hiện 20


Báo cáo kết quả nghiên cứu nhóm – Bộ môn Tài chính quốc tế

sách vĩ mô trở nên rõ ràng hơn. Muốn vậy, một thái độ thực sự cầu thị cùng hệ thống
chính sách đúng đắn, nhất quán và một cơ chế giao tiếp thông tin chính xác, kịp thời
với người dân, DN, thị trường là những điều kiện tiên quyết.
- Những thay đổi chính sách tỷ giá vừa qua, có thể đem lại những tác dụng tức thời
nhằm khơi thông nguồn cung cầu trên thị trường ngọai tệ, nhưng sự can thiệp của Ngân
hàng Nhà nước vào thị trường bằng quyết định hành chính sẽ để lại cho xã hội tâm lý
bất an khi sở hữu đồng nội tệ. Những người làm chính sách cần phải có xem xét toàn
diện hơn khi triển khai những quyết định thay đổi tỷ giá bất ngờ, không thể ra quyết
định chỉ phục vụ giải quyết tình huống mà quên đi những tác động có tính dài hạn hơn.

III. ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP VỀ CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI
NHẰM HỖ TRỢ SỰ PHÁT TRIỂN CỦA NỀN KINH TẾ VÀ CÁC DOANH
NGIỆP.

1. Chính sách tỷ giá hối đoái hiện nay

Chính sách tỷ giá hối đoái hiện nay nặng về quản lý tỷ giá hối đoái danh nghĩa, thiếu
các phân tích và đánh giá thường xuyên về tỷ giá hối đoái thực và mức độ tác động đến
lạm phát, xuất khẩu … để có chính sách điều chỉnh thích hợp.

Chính sách tỷ giá hối đoái neo chặt vào USD về cơ bản ổn định (mức độ phá giá không
quá 1%/năm) trong khi lạm phát khá cao. Điều này tạo ra nhiều hiệu ứng phức tạp, cụ
thể:

- Doanh nghiệp có thói quen ỷ lại vào tỷ giá ổn định, tận dụng lợi thế về tài nguyên và
lao động rẻ, ít chú ý đến đổi mới công nghệ và giá trị gia tăng của sản phẩm, không
quan tâm phòng ngừa rủi ro hối đoái; không lựa chọn các đồng tiền thanh toán có lợi
thế. Vì vậy, doanh nghiệp thường có phản ứng thái quá khi VND lên giá nhẹ

- Do tỷ giá hối đoái căn bản ổn định (không có rủi ro hối đoái) nên các nhà đầu tư dễ
dàng tận dụng chênh lệch lãi suất nội tệ và ngoại tệ; chênh lệch lãi suất trong nước và
quốc tế để đầu cơ tiền tệ, khiến cho thị trường biến động mạnh, tình trạng thừa, thiếu
ngoại tệ rất khó dự báo, ảnh hưởng xấu đến hiệu quả chính sách tiền tệ của Ngân hàng
Nhà nước. Trong điều kiện thắt chặt tiền tệ, với chính sách tỷ giá như trên cũng làm
tăng xu hướng các ngân hàng thương mại vay vốn ngắn hạn từ nước ngoài (kể cả ngân
hàng nước ngoài) mà chủ yếu để tài trợ nhập khẩu. Điều này cũng làm tăng đáng kể rủi
ro đối với an toàn hệ thống ngân hàng (giống như tình hình Thái Lan trước khủng
hoảng 1997).

Nhóm thực hiện 21


Báo cáo kết quả nghiên cứu nhóm – Bộ môn Tài chính quốc tế

- Giao dịch tài khoản vốn về cơ bản đã được tự do hóa ngoại trừ một số hạn chế kỹ
thuật và các giới hạn tỷ lệ nắm giữ cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài. Điều này đòi
hỏi chính sách tỷ giá hối đoái cần được linh hoạt hơn và sự phối hợp chính sách lãi suất
của Ngân hàng Nhà nước cần chặt chẽ hơn. Chính sách tỷ giá hối đoái càng linh hoạt
(biên độ tỷ giá hối đoái càng rộng) thì hiệu ứng của các công cụ lãi suất của Ngân hàng
Nhà nước càng mạnh mẽ.

2. Một số giải pháp kiến nghị về chính sách tỷ giá hối đoái hỗ trợ phát triển kinh
tế và doanh nghiệp

- Cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái

Chính sách nới lỏng biên độ tỷ giá hối đoái hiện nay là đúng hướng, tuy nhiên mức độ
nới lỏng quá ít và lộ trình nới lỏng quá chậm chạp không phù hợp với mức độ tự do
hóa giao dịch tài khoản vốn. Vì vậy, cần nới lỏng biên độ tỷ giá hối đoái. Với biên độ
tương đối rộng vừa giảm sức ép lạm phát, vừa giảm mức độ cần phải can thiệp của
Ngân hàng Nhà nước, đồng thời tạo điều kiện cho thị trường tự điều chỉnh theo quan hệ
cung cầu ngoại tệ. Ví dụ, hiện nay thâm hụt thương mại đang rất lớn, vì vậy thị trường
sẽ điều chỉnh tỷ giá hối đoái tăng lên, tỷ giá hối đoái tăng có tác dụng làm giảm thâm
hụt thương mại; nhưng do biên độ hẹp và do can thiệp bán ra của Ngân hàng Nhà nước,
nên hiệu ứng điều chỉnh nói trên của thị trường không thể đạt được, kết quả là thâm hụt
thương mại có thể còn kéo dài.

- Thay thế chế độ tỷ giá gắn với USD bằng chế độ tỷ giá gắn với một rổ tiền tệ.

Theo đó tỷ giá hối đoái được xác định theo quan hệ cung cầu trên thị trường ngoại hối
và xu hướng biến động của các đồng tiền chủ chốt có thể từ 3 đến 5 đồng tiền có tỷ
trọng thương mại lớn nhất. Các đồng tiền này sẽ tham gia vào rổ tiền tệ với trọng số
theo quan hệ thương mại và đầu tư vào VN. Các trọng số và đồng tiền được điều chỉnh
tùy theo sự thay đổi của thương mại và đầu tư và được giữ bí mật. Ví dụ, Singapore
đang thực hiện theo cách này với rổ tiền tệ gồm 3 đồng tiền nhưng họ giữ bí mật đồng
tiền nào và trọng số được tính trong rổ là bao nhiêu.

- Cần phân tích sâu hơn về tỷ giá hối đoái thực hiệu quả gắn với một rổ tiền tệ xác định

Như đã đề cập ở trên, nhằm xác lập được mức tỷ giá cân bằng trung tâm (central
parity) làm cơ sở để điều hành tỷ giá và biên độ thích hợp trong từng giai đoạn cụ thể.
Mức cân bằng trung tâm là mức mà tỷ giá hối đoái danh nghĩa cần đạt được để tỷ giá
hối đoái thực cân bằng tính theo cùng một năm gốc.

- Hệ thống lãi suất của Ngân hàng Trung ương – công cụ điều chỉnh tỷ giá hối đoái

Nhóm thực hiện 22


Báo cáo kết quả nghiên cứu nhóm – Bộ môn Tài chính quốc tế

Chú trọng sử dụng hệ thống lãi suất của Ngân hàng Trung ương như là công cụ điều
chỉnh tỷ giá hối đoái ngoài việc mua vào, bán ra qua dự trữ ngoại tệ của Ngân hàng
Nhà nước. Để làm được điều đó lãi suất của Ngân hàng Trung ương phải phản ánh đầy
đủ mức độ tăng giảm của cung tiền nội tệ. Đến lượt nó mức tăng giảm cung tiền phụ
thuộc vào dự báo lạm phát. Ngân hàng Nhà nước chỉ mua vào và bán ra ngoại tệ trong
trường hợp cung cầu không cân bằng tại mức tỷ giá cân bằng trung tâm.

- Một số chính sách hỗ trợ khác

+ Cần cho phép các ngân hàng thương mại (được phép kinh doanh ngoại tệ) mua bán
ngoại tệ hai chiều một cách bình thường với tất cả các nhu cầu giao dịch (như đã thí
điểm tại EXIMBANK). Trên cơ sở đó, cùng với việc nới rộng biên độ tỷ giá hối đoái
tạo ra thị trường hối đoái thông suốt, liên tục bao gồm cả thị trường giao ngay, hoán
đổi và kỳ hạn. Một thị trường hối đoái với sự đa dạng của loại hình và công cụ giao
dịch sẽ làm tăng khả năng cân bằng cung cầu, hạn chế đầu cơ, găm giữ ngoại tệ tạo ra
niềm tin đối với công chúng và nhà đầu tư về khả năng tiếp cận thị trường.

+ Cần để lãi suất hình thành theo nguyên tắc thị trường đảm bảo cấu trúc kỳ hạn và cấu
trúc rủi ro của lãi suất. (Ở Mỹ hiện nay, lãi suất huy động của các ngân hàng lớn từ
3,25 – 3,75%/năm; trong khi đó các ngân hàng thương mại nhỏ huy động phổ biến từ
4,25% – 5%/năm. Các ngân hàng nhỏ cho vay ra với lãi suất cao hơn các ngân hàng
thương mại lớn, đối tượng cho vay chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ theo phân
khúc thị trường). Đây là giải pháp then chốt nhằm thu hút vốn vào ngân hàng và cho
vay hiệu quả với rủi ro thấp (ngân hàng là một tổ chức tín dụng chuyên nghiệp). Tránh
tình trạng đầu cơ vào vàng và nguyên vật liệu nhập khẩu làm trầm trọng thêm thâm hụt
thương mại. Mặt khác, chỉ trên cơ sở lãi suất thị trường thì tác động của nó đến tỷ giá
hối đoái mới đồng thuận với mục tiêu thắt chặt tiền tệ chống lạm phát.

+ Giám sát và có biện pháp quản lý hữu hiệu đối với các khoản vay ngắn hạn từ nước
ngoài của các ngân hàng hoặc vay ngắn hạn của ngân hàng có bảo lãnh từ ngân hàng,
các khoản trái phiếu bằng ngoại tệ kể cả của chính phủ. Các khoản vay ngắn hạn
thường tăng lên rất nhanh gắn với tài trợ L/C nhập khẩu. Đây là yếu tố làm cho cung
cầu ngoại tệ biến động mạnh và bất thường, gây khó khăn lớn cho việc điều hành tỷ giá
hối đoái và lãi suất ngoại tệ – cũng như nội tệ.

+ Trong những năm tới, dự báo luồng vốn đầu tư nước ngoài vào VN vẫn còn rất lớn.
Trong điều kiện chưa thả nổi tỷ giá hối đoái thì việc mua ngoại tệ vào và trung hòa tiền
tệ vẫn phải tiếp tục thực hiện. Vì vậy, tình trạng mua cao bán thấp vẫn còn là áp lực lớn
đối với dòng tiền của Ngân hàng Nhà nước. Ngoài các biện pháp đang áp dụng như: (1)
Duy trì dự trữ bắt buộc ở mức tương đối cao; (2) phát hành tín phiếu NHTW với lãi

Nhóm thực hiện 23


Báo cáo kết quả nghiên cứu nhóm – Bộ môn Tài chính quốc tế

suất thị trường; (3) nới rộng hơn nữa biên độ tỷ giá hối đoái, cần áp dụng thêm các biện
pháp khác. Cụ thể là,

· Ủy thác đầu tư với số lượng lớn ngoại tệ (hàng tỷ USD) cho một số ngân hàng quốc tế
lớn với mức lãi suất thỏa thuận, cao hơn lãi suất tiền gửi thông thường.

· Một số nước như Trung Quốc, Ả Rập thành lập quỹ kinh doanh chứng khoán quốc tế
(Trung Quốc có quỹ 300 tỷ USD) từ ngoại tệ dự trữ nhằm tạo ra thu nhập cao hơn so
với lãi suất tiền gửi. Tuy nhiên đây là biện pháp phức tạp đòi hỏi nhân lực có kỹ năng
đầu tư quốc tế tốt.

+ Biện pháp quản lý vốn vào. Trước mắt thị trường chứng khoán đang giảm mạnh, do
vậy việc quản lý vốn vào chưa cần thiết. Tuy nhiên, về lâu dài cần nghiên cứu để áp
dụng một số biện pháp quản lý vốn vào trong những trường hợp cần thiết. Một số biện
pháp đã áp dụng ở một số nước như chính sách tỷ giá hối đoái kép (tỷ giá mua bán
ngoại tệ để đầu tư chứng khoán khác với tỷ giá thương mại); các biện pháp quản lý
định lượng như hạn mức mua ngoại tệ đối với đầu tu chứng khoán; dự trữ bắt buộc đối
với tiền đầu tư chứng khoán; phong tỏa tài sản lưu ký một năm; đánh thuế cân bằng lãi
suất (thuế chênh lệch lãi suất nội địa và quốc tế)… Tuy nhiên, các biện pháp thuế như
thuế giao dịch ngoại tệ kinh doanh chứng khoán; thuế lợi tức kinh doanh chứng khoán
và thuế cân bằng lãi suất tỏ ra có hiệu quả hơn cả. Ở VN, kinh doanh chứng khoán trên
tài khoản mở tại ngân hàng thương mại, nên việc áp dụng chính sách thuế càng thuận
lợi.

- Đối với doanh nghiệp

Tỷ giá hối đoái tăng có lợi cho các nhà xuất khẩu và hạn chế tình trạng nhập siêu, đồng
thời cũng có tác dụng giảm sức ép lạm phát. Tuy nhiên, trong ngắn hạn sẽ gây ra một
số khó khăn cho doanh nghiệp như các quyết định đầu tư sẽ phải tính đến rủi ro hối
đoái, đặc biệt các doanh nghiệp tham gia xuất nhập khẩu. Vì vậy, để giảm thiểu những
rủi ro này các doanh nghiệp cần phối hợp với ngân hàng thương mại thực hiện các
công cụ phái sinh như hợp đồng forwad, futures, swaps. Cũng cần lưu ý rằng những
biến động tỷ giá hối đoái thường lớn hơn biến động về lãi suất vì vậy việc tiết giảm chi
phí phòng ngừa rủi ro hối đoái trong ngắn hạn là vô cùng quan trọng.

Về dài hạn, các doanh nghiệp cần tập trung vào những tác động kinh tế thực sự của
việc biến đổi tiền tệ và cần thiết xây dựng một chiến lược quản lý rủi ro hối đoái, cùng
với các chiến lược như marketing, sản xuất và quản lý tài chánh thích hợp để đối phó
với những tác động kinh tế của việc biến động tỉ giá hối đoái. Bởi vì, sự biến động tỉ
giá hối đoái kéo theo sự thay đổi giá bán sản phẩm làm ảnh hưởng đến khả năng cạnh
tranh của công ty. Vì vậy, ban điều hành cần điều chỉnh quá trình sản xuất, kế hoạch
Nhóm thực hiện 24
Báo cáo kết quả nghiên cứu nhóm – Bộ môn Tài chính quốc tế

marketing -mix để tạo ra tương quan giá mới để đảm bảo lợi nhuận lâu dài. Các công ty
có thể ngăn ngừa những rủi ro dựa vào thu chi ngoại tệ đã được dự trù trước, nhưng
ngược lại, những rủi ro cạnh tranh, – vấn đề này xuất phát từ sự cạnh tranh với các
công ty dựa vào loại tiền tệ khác- là lâu dài, khó để định lượng và không thể giải quyết
đơn thuần thông qua những kỹ thuật phòng ngừa giản đơn.

Nhóm thực hiện 25


Báo cáo kết quả nghiên cứu nhóm – Bộ môn Tài chính quốc tế

Lêi kÕt

Dï ®· cã nhiÒu cè g¾ng song b¸o c¸o cña chóng em kh«ng thÓ


tr¸nh khái nh÷ng thiÕu sãt vµ cßn nhiÒu h¹n chÕ . Nhãm thùc hiÖn
chóng em mong nhËn ®îc sù quan t©m cïng nh÷ng ý kiÕn ®ãng
gãp cña C« gi¸o vµ c¸c b¹n.

Chóng em xin ch©n thµnh c¶m ¬n!

Chóc c¸c b¹n Thµnh c«ng trong k× thi cuèi kú s¾p tíi!

Chóc C« gi¸o lu«n lµ ngêi dÉn ®êng nhiÖt thµnh vµ xuÊt s¾c cho
chóng em!

Hµ Néi , ngµy 24 th¸ng


10 n¨m 2010

Nhãm thùc hiÖn

NhËn xÐt cña gi¶ng viªn


................................................................................................
................................................................................................
................................................................................................
................................................................................................
................................................................................................
................................................................................................
................................................................................................
................................................................................................
................................................................................................
................................................................................................
................................................................................................
................................................................................................

Nhóm thực hiện 26

You might also like