You are on page 1of 16

3.

3 Ngôn từ nghệ thuật


Nếu như xem mỗi tác phẩm văn học là một công trình nghệ thuật hoàn
chỉnh hằn in dấu vết thời đại bên cạnh cá tính sáng tạo của chính nhà văn thì
ngôn từ - chất liệu đặc trưng của sản phẩm tinh thần đặc biệt đó – sẽ là nhân
tố thứ nhất của sự kết tinh thay đổi của đặc trưng thể loại của văn học trước
mỗi bước ngoặc chuyển mình của lịch sử - xã hội. Và hệ thống ngôn từ nghệ
thuật trong văn học thiếu nhi thời Đổi mới cũng không nằm ngoài quy luật
ấy. Trước hết là chủ tâm, nỗ lực đời thường hóa ngôn ngữ văn học, đưa
những sáng tác nghệ thuật lại gần với trẻ con hơn. Song song với nó làviệc
sử dụng biện pháp tu từ với tần số cao cùng với hệ thống ngôn từ mang sắc
thái địa phương đã góp phần mang lại nhiều mĩ cảm, sức mạnh tạo hình, giá
trị biểu cảm của các hình tượng nghệ thuật và đặc biệt hơn là để lại dấu ấn
văn hóa của từng vùng miền trong lòng mỗi độc giả.
Bằng lối so sánh giản đơn và tế nhị, người viết đã khắc họa được
chính tính cách nhân vật qua vóc dáng, cử chỉ và hành động rất đỗi thân
quen. Điều gây ấn tượng với người đọc đầu tiên là lối viết sử dụng hình ảnh
đặc trưng, dân dã của người gắn bó với làng quê khi nhắc đến hình ảnh
người bà: “măt tròn trịa như phiến lá sen, làn da bánh mật bọc các lóng
xương, hai ống quần lúc bên thấp, bên cao chạm nhau loạt xoạt mỗi khi bà đi
lại, nói lên thói quen tất tả, muốn dứt dóng chóng vánh mọi việc”. Cả đến
cách dùng từ liên tưởng cũng thật đặc biệt: “Và cái hơi sương u ám đọng ở
trong nhà đã làm nhòe đi hương sắc của bó sen hôm nào bà tôi đặt mua trên
bàn thờ ông nội tôi”.
Ma Văn Kháng với tập tự truyện “Côi cút giữa cảnh đời” mang một
hơi hướng mới, thổi hồn làm ấm lại không khí sum vầy giữa cảnh đời của ba
thế hệ: bà nội – mẹ - con trai trong một mái ấm còn đơn chiếc, thiếu vắng
bàn tay của người đàn ông trụ cột. Nhưng dẫu sao ở đó vẫn còn sự vui vẻ,
hạnh phúc vì có sự sẻ chia và đùm bọc lấy nhau. “Tôi cù kì, tôi béo tai bà.
Tôi hát theo bài mẹ dạy. Tôi đọc theo bà một bài đồng dao nhỏ với hàng loạt
câu hỏi rất ngây ngô: Bà ơi sao răng bà lại nhuộm đen? Bà ơi, sao bà lại vấn
khăn? Sao mẹ cháu lại không vấn khăn như bà? Sao đuôi tai bà lại có lỗ
thủng hả bà? Xuất hiện cùng với giọng điệu pha trò và hóm hỉnh với những
cái tên thật ngộ và khó quên như cụ Hồn Nhiên, cô Đại Bàng… đã góp phần
tạo nên sự thành công của tác phẩm và để lại dấu ấn trong lòng bạn đọc.
Bằng ngòi bút sắc sảo của mình, các nhà văn đã khắc họa được một cuộc
sống trong thời buổi bao cấp khốn khó lúc bấy giờ. Cái nghèo khó đã không
làm băng hoại giá trị của con người, khiến họ thò đầu rụt cổ và trái lại còn
cho họ một sức sống mãnh liệt hơn để chống lại những bất công, nhiễu
nhương của cuộc đời. Thế nhưng lại chính cái giàu có, xa xỉ mà thiếu đi sự
giáo dục đã làm hư những đứa trẻ tưởng chừng rất ngây thơ. Điển hình nhất
là 2 chị em Vàng Anh, Vành Khuyên, thằng Kim Phú mới tí tuổi đầu mà hỗn
xược, xếch láo với ngay cả chính mẹ đẻ mình, xem đồng tiền là trên hết thì
chúng ta tự thử hỏi xem giàu có để mà làm gì?
3.3.1 Sự lên ngôi của hệ thống ngôn từ mang sắc thái địa phương
Nỗ lực đáng trân trọng của người viết trên phương diện ngôn ngữ văn học có
thể dễ dàng nhận thấy ở sự khai thác thế mạnh của ngôn ngữ mang sắc thái
địa phương, vùng miền để tạo dư vị, sức hút cho tác phẩm. Nó cũng mang
sắc thái địa phương, bản địa nhưng không phải là cái gì lập dị, trái khoáy và
khó nghe mà ngược lại lại rất chân thật và gần gũi. Nhờ vậy, “thực đơn” của
văn học đương đại cho thiếu nhi có cảm giác không còn độc tôn như trước
mà đa dạng hơn, đậm đà dư vị và khó quên hơn. Cũng chính vì vậy, với tấm
lòng tri ân trân trọng, nhà văn có ý thức trách nhiệm làm thể nào để “bồi bổ”
tiếng nói dân tộc phải "giàu thêm mãi về cả chữ dùng, cả cách nói của ngôn
ngữ Việt”. Mỗi khi cầm bút, các ông trải cái vốn từ phong phú mà mình
chiếm lĩnh ra để chọn lấy một từ chính xác và trong sáng nhất, nhưng cũng ít
người dùng nhất, đặt đúng vị trí trong câu văn để toát lên cái thần thái của
ngôn từ. Người đọc khi bắt gặp thì lập tức phản xạ liền với cái vốn quen
dùng của mình mà rung lên đầy xúc cảm, khắc vào ký ức như biết thêm một
từ thần, như nhớ thêm một câu thơ hay, một cách dùng độc đáo, mà học theo
để nâng dần năng lực ngôn ngữ của mình.
Từ một mảng đề tài muôn thuở như chiến tranh, lịch sử hay cách
mạng nhưng bằng tài năng và tình cảm của mình, Phùng Quán đã biết tìm
cho mình một lối đi riêng cho tác phẩm của mình – Tiểu thuyết “Tuổi thơ dữ
dội” là một trong số đó. Xuất hiện với một dáng dấp mới lạ, hấp dẫn người
đọc nhờ những sắc thái địa phương của chính quê hương mình – xứ Huế
mộng mơ với sông Hương, núi Ngự cùng truyền thống đấu tranh quật cường
và không đời nào chịu khuất phục của người dân nơi đây. Chúng ta sẽ dễ
dàng bắt gặp cái nắng như đổ lửa, cái mưa dầm dề xuống dòng Hương
Giang – nó được xem như là một điểm nhấn bộc lộ tâm huyết của nhà văn
suốt bề dài tiểu thuyết. “Tuổi thơ dữ dội” còn là bức tranh đời sống sinh
động thể hiện qua những món ăn dân dã với những nét đẹp trong văn hóa ẩm
thực, là cách sinh hoạt, lời ăn tiếng nói hằng ngày của người dân nơi đây.
Hơn hết là hơn tám mươi tên đất, tên làng sống động, chân thực với những
sự kiện , những chiến công của quân nhân thành Huế nhân hậu, thủy chung
và rất đỗi quật cường. Với 1346 từ địa phương trên gần 800 trang sách – một
con số không nhỏ thể hiện rõ sự dụng công và ý đồ nghệ thuật của người
viết. Người đọc dễ dàng bắt gặp bản sắc văn hóa vùng miền qua từng tiếng
xưng hô nhẹ nhàng mà thân thuộc Chằng hạn như : răng(sao), rứa(thế),
mô(nào), vô(vào), tau – mi, chi, hè, nớ, ni, xê ra, nói thiệt, ngó bộ, đẹp dữ ri,
tọng, trước tê, cất, tùng tiệm(tiết kiệm), hí, nói mớ, chao ơi, chớ, chừ biết
làm răng hè…Bằng cách sáng tạo và sử dụng khéo léo hệ thống phương ngữ
này, Phùng Quán đã tạo nên những hiệu quả đặc biệt lôi cuốn người đọc say
mê vào từng trang sách. Nhờ sức mạnh của bút pháp trần thuật có nghề,
bằng sự nặng lòng với Huế, bằng chính vốn sống và kí ức tuổi thơ sống
động, rất tươi mới của nhà văn…, Tuổi thơ dữ dội đã trở thành một trường
thiên tiểu thuyết rất có hồn vừa mang đậm chất sử thi, vừa trĩu nặng tình đất,
tình người. Với tình cảm của một con người xa quê và bằng tài năng của một
nhà văn nhạy cảm với cuộc sống, Phùng Quán đã sử dụng linh hoạt các yếu
tố mang sắc thái địa phương để nó trở thành một trong những yếu tố tạo nên
những giá trị đích thực của tác phẩm. Cũng chính nhờ vậy mà tuy Tuổi thơ
dữ dội mang đậm “chất Huế” nhưng người đọc không thấy khó chịu, nhàm
chán mà trái lại như một liều thuốc tinh thần kích thích mạnh mẽ hơn nữa lật
sang những trang kế tiếp. Và họ không ngừng cảm thấy hứng thú trên các
hành trình xuyên suốt tám trăm trang của tác phẩm. Phùng Quán hóa thân
vào đời sống của từng nhân vật, vào thế giới trẻ thơ lung linh đầy màu sắc.
Ngôn từ giản dị, mộc mạc nhưng thực sự rất đắt giá phù hợp với tâm lý các
đối tượng người đọc. Xuyên suốt tác phẩm là cuộc trò chuyện và đối thoại
của các chú lính “tí hon” cùng một loạt các từ ngữ vừa dễ thương vừa tinh
nghịch. Chỉ giản đơn là một câu nói thề ở cửa miệng mà dùng một loạt các
từ địa phương: “Tớ mà bịa thì tớ chết không kịp ngáp! Cậu mô không tin
chạy vô mà coi”. Ngôn từ được sử dụng đặc sắc và rất độc khi so sánh các
khẩu đại bác là “ông già bảy lăm” đang “ho” dồn dập gấp mấy những đêm
trước. Lúc ông ho thì cả đội, các chú lính đều thức, nằm im nhẩm đếm theo
từng phát một. Từng tiếng “mạ” được chú bé Mừng nhắc đến trong nghẹn
ngào và trìu mến mang lại một hơi hưởng địa phương không lẫn đâu được
với Huế - mảnh đất miền Trung đầy nắng và gió. Ngoài Tuổi thơ dữ dội
được nhắc đến ở trên, chúng ta còn bắt gặp ngôn từ mang bản sắc địa
phương của Huế trong Cha và con của Hồ Phương qua giọng nói lanh lảnh,
ngọt ngào của Quý Phượng: “Răng mà giá lại như ri?”. Những chữ như răng,
rứa, mô, tê tạo thành một bản hợp ca mang dấu ấn vùng miền rất đậm nét và
sâu lắng biết bao!Không chỉ thiên vị khi nhắc đến mỗi mảnh đất Huế, ngôn
từ mang sắc thái địa phương còn xuất hiện thấp thoáng trong “Bí mật hồ cá
thần” qua cách nói của người miền Bắc mà khó có thể lẫn với bất cứ vùng
miền nào. Khi nghe đứa cháu nội bảo là lão Bương đem bức tượng phật về
nhà để làm củi thì bà liền kêu lên hai tiếng: “Giời phạt! Giời phạt” hay là
“thư thư ít ngày”.
3.3.2 Sự gia tăng chất liệu ngôn từ mang đậm dấu ấn của cuộc sống hiện
đại
Cuộc sống đang thay đổi từng ngày, đi cùng với nó là dấu ấn của cuộc sống
hiện đại đó. Những mặt của đời sống hiện tạo dường như được phản ánh một
cách trung thực vào từng trang viết của các nhà văn, nhà thơ. Những tưởng
bấy lâu nay, thứ ngôn ngữ đó chỉ xuất hiện trong những tác phẩm viết cho
người lớn, chứ không nằm trong các câu chuyện viết cho lứa tuổi nhỏ như
truyện cổ tích, truyện thần kì. Nhưng từ giai đoạn 1986 trở đi, chất liệu ngôn
từ đang có chiều hướng gia tăng về chất lẫn về lượng mang đậm dấu ấn của
cuộc sống hiện đại. Chính những cái tên đã nói lên một phần của cuộc sống
kèm những biệt hiệu và biệt danh thật ngộ nghĩnh và đáng yêu của những
chiến sĩ tí hon : Tư dát, Vịnh sưa, Quỳnh sơn ca, Bồng da rắn, Vệ to đầu,
Kim điệu, Châu sém, Đồng râu, Lượm sứt… Chúng ta có thể dễ dàng nhận
ra điều này khi đọc đến hai tác phẩm là Chó Bi- đời lưu lạc và Côi cút giữa
cảnh đời của Ma Văn Kháng. Cả hai đều nói đến cuộc sống của người dân
trong thời buổi bao cấp tiến lên chủ nghĩa xã hội cuộc sống của người dân
đang còn cơ cực. Như một sự cộng hưởng với âm thanh và sắc màu cuộc
sống đa dạng và phong phú, địa hạt dành cho dòng văn học thiếu nhi hôm
nay có những sắc diện, những biến điệu và dư vị riêng của nó. Sự trở về và
sáng tạo độc đáo của lớp lớp tác giả ra đời sau này đã mang lại cho tiểu
thuyết viết cho thiếu nhi từ 1986 đến nay nét mới mẻ, hấp dẫn riêng, gợi
cảm xúc mạnh mẽ trong khi vẫn không ngừng bám sát những sinh hoạt gần
gũi của trẻ thơ. Nhịp sống hối hả của hiện đại đã thổi hồn vào những trang
giấy khiến nó hiện lên một cách sống động và chân thực nhất. Một nét mới
nữa trong ngôn ngữ tiểu thuyết thiếu nhi hơn hai mươi năm qua là sự “đa
dạng, mới mẻ trong giọng điệu”. Không còn là hình thức đơn âm, thiên về
ngợi ca, hào sảng về truyền thống anh hùng như giai đoạn trước nữa, lúc này
giọng điệu của các sáng tác cho trẻ em như là một bản hòa âm của rất rất
nhiều cung bậc của cuộc sống: có đùa vui bông lơn của con trẻ, có xót xa
tiếc nuối về những việc đã qua, có hồn nhiên thơ trẻ nhưng cũng lắm lúc
nặng lòng day dứt…Chất hiện đại ở đây còn là những gì gần gụi, quen thuộc
với con trẻ trong thời buổi hôm nay để đưa chúng ta vào cuộc hành trình
khám phá thú vị của những bài học về cuộc đời khuất sau con chữ. Ngôn
ngữ đặc sắc qua lối diễn tả một chú cún con cũng thật là hiện đại: “Ôi! Một
bụm tơ vàng. Một cái kén ngoại cỡ. Một khối nguyên sinh. Một sự sống nhỏ
nhoi. Một gã nhách. Một nhóc êu. Một cậu khuyển tí nhau.” Bên cạnh các
sản phẩm có gốc gác truyền thống là không ít câu bồ bã, bụi bặm của thời
mở cửa: “Dân ngu tối dạ, học giả yếu chim”, “Rằng giận thì giận mà thương
thì thương. Anh không lên giường thì em không ngủ được”(Chó Bi, đời lưu
lạc); “Vào thì bẩm bẩm thưa thưa – Ra thì văng tục có chừa ai đâu”, “ Thôi
tôi chẳng lấy ông đâu – Ông đừng cạo mặt, cạo râu tốn tiền”, “Vì quan đú
đởn nên dân nó nhờn”(Côi cút giữa cảnh đời), “To đầu mà dại, nhỏ dái mà
khôn”(Tuổi thơ dữ dội)hay “Tiên sư mày, tiền đâu mà tao nuôi thuốc mày
được mãi. Cút đi”, “Chết hay sống mặc mẹ mày”, “Đồ ăn hại”, “Chết dần
chết mòn”, “Có xẻo tai cậu ấy cũng không dậy chứ nói gì giúp ông”, “Đứng
như trời trồng”(Con quỷ gỗ)…Ở những tác phẩm ấy, ta còn thấy xuất hiện
một lớp ngôn từ được sử dụng trong thời kì kinh tế mở cửa mà trước đây
không có như có ông chủ tịch phường, công an tỉnh, chúa Đảo(Chó Bi đời
lưu lạc) hay là kẻ quái dị, tên khủng bố bằng chất dẻo, xe tăng gắn tên lửa,
khẩu súng phun lửa tối tân, vệ sĩ, những chiếc phi cơ muỗi, bom dịch hạch
mang tính hủy diệt con người hay là “Quả cầu sự sống” cứu sống con người
(Con quỷ gỗ)…hay là những câu nói đầy sức triết lý của ông Thuần là “Lịch
sử là một dòng chảy tự nhiên. Kinh tế tự nó mở đường đi. Chính trị là lợi
ích. Nếu chính trị thực sự là khoa học thì nó cũng được đối xử như khoa học,
tức là được phán xét, sửa chữa” hay câu nói của lão Mèo Cụt “Khi tinh thần
trong con người suy sụp thì vũ khí của anh ta trở nên vô dụng”/ “Tôi tin sẽ
có một Hiệp sĩ xuất hiện và tiêu diệt những tên độc ác trong bóng tối”. Theo
như lối kể chuyện của Nguyễn Quang Thiều đã thuật lại một cách chân thật
nhất. Qua ngòi bút thì đúng là khi cuộc sống hiện đại quá đầy đủ thì càng dễ
nảy sinh ra nhiều tệ nạn như hút chích ma túy, trò chơi bạo lực lan tràn làm
hư lớp trẻ. Hiệp sĩ Trán Dô xuất hiện với một diện mạo tươi mới làm sống
lại niềm tin và hi vọng vào công lý. “Trán Dô mặc áo giáp trắng, cầm một
thanh gươm tỏa những tia sáng, nhảy lên một con ngựa trắng và xông lên xứ
sở bóng tối”. Không cần viết ra là cuộc sống này hiện đại mà được thể hiện
qua đời sống vật chất đã cải thiện của người dân : “Thức ăn, đồ uống bày la
liệt trong nhà kho với đầy đủ các món ăn như chuối, lạc, ngô, cơm nguội,
một chiếc bánh mì nham nhở vết gặm, một khúc cá rán thò ra những chiếc
xương nhọn, một chiếc bánh ga tô dính đầy bụi, một cái cánh gà, mấy quả
trứng, những chiếc kẹo bọc giấy màu sặc sỡ và nhiều thứ khác”. Đó còn là
“Những buổi sáng của kì nghỉ hè cậu bé Nghĩa thường dậy rất muộn. Cả
ngày cậu rong chơi với những đứa trẻ cùng xóm trong cái công viên nhỏ của
thị xã. Thi thoảng cậu lại dùng tiền ăn sáng bố mẹ cho tiêu vào những trận
chiến đấu nảy lửa cho trò chơi điện tử. Ngoài ra, cậu thường lang thang qua
một số cửa hiệu bán đồ chơi để mua những con rô bốt mới…Đã gần hai
tháng hè rồi mà cậu không hề sờ đến sách vở”. Chúng ta còn bắt gặp những
câu nói đùa đại loại như “đạo đức là sự lười biếng và nhát gan của một số bộ
phận trong xã hội hiện đại”. Bằng lối kể chuyện hóm hỉnh và hài hước của
mình, Ma Văn Kháng đã đưa chúng ta đi tìm hiểu thực tế cuộc sống trong
giai đoạn bấy giờ: có thủ đoạn gian manh và xảo quyệt của những kẻ thời
cơ, có những trại khỉ nuôi nhằm mục đích thí nghiệm và giải trí, những vụ
thu hoạch thuốc phiện hay là việc mọi người đổ xô đi đãi vàng nhằm tìm ra
lối thoát khỏi cuộc sống nghèo khó…và còn nhiều, nhiều thứ khác nữa để
xây dựng nên một tác phẩm Chó Bi – đời lưu lạc rất riêng và ấn tượng –
không lẫn với bất cứ ai. Bên cạnh đó, còn là những câu nói chua chát của
những người trẻ tuổi suốt đời phấn đấu mà cái nghèo, cái khổ vẫn đeo bám
lấy họ: “Thật là kẻ ăn không hết, người lần không ra” hay là “Thật là chó
cắn áo rách, họa vô đơn chí”…Không chỉ có cái bất công, nhiễu nhương tồn
tại trong cuộc sống ấy đâu. Vẫn còn đó là giọng điệu hồn nhiên, ngây thơ
của con trẻ như bé Thảm và nhân vật tôi đã góp phần minh chứng cho niềm
tin vào lẽ sống. Chúng ta hãy cứ tin tưởng và hi vọng vào thế hệ trẻ bởi cuộc
sống sau này sẽ tốt đẹp hơn lên. Bởi lẽ chúng đã biết vượt qua thân phận bất
hạnh, cái hoàn cảnh khốn khổ của mình để vượt lên như là mầm non tươi
xanh, hồn nhiên mạnh mẽ như chính sức sống của tự nhiên là vậy. Đã kể đến
ngôn từ của cuộc sống hiện đại thì chúng ta không thể không nhắc đến sự
góp mặt của ngôn từ “lai căng”. Kể đến như tiếng Pháp phiên âm của những
tên việt gian, bán nước hay của người dân trong Tuổi thơ dữ dội : Góc- đơ-
bu, Pờ - rê- dăng-tê, Bông-dua mông li-ơ-tơ-năng, moa, Đôn-nê, Vê-giê, Ca-
bi-nê… hay là những thứ triết lý của cuộc sống hiện đại như thái độ chua
chát khi nhắc đến hai chữ đồng tiền. Chính cái thứ đó mà người ta quên hết
cả danh dự và giang sơn trong Cha và con.
Không chỉ dừng lại ở đó, ngôn từ hiện đại còn được thấy qua hàng
loạt từ ngữ như “nắm tiền lẻ nhàu nát” thể hiện sự nghèo khó, khốn đốn của
người dân xóm trại(Bí mật hồ cá thần). Hơn nữa, còn là những câu chửi thề
đầy bụi bặm: “Cá đầm sống thế chó nào được ngoài biển” hay là “Sợ quái
gì”. Nó còn là những câu mắng yêu gần gũi của bà : “Mai xẻo tai cũng
không chịu dậy” hay “Anh đừng có dại mồm dại miệng”. Ngoài ra, từ ngữ
sử dụng còn thể hiện được một khát vọng, ham muốn tột bậc đến cùng để
bắt được cá thần : “Họ kéo nhau ra bờ đầm. Họ giăng lưới và họ vó bè để bắt
được con cá” và cả “Con cá đụng lưới. Và nó không thoát được. Hàng chục
tấm lưới bao quanh nó. Những người đàn ông hò hét vang mặt đầm. Họ kéo
con cá lên một chiếc thuyền. Gần chục người đàn ông túm vào gỡ lưới ra.
Con cá dài gần bằng chiếc thuyền nan của dân xóm trại……Con cá thoát
lưới lao trên mặt đầm như một con tàu mở hết tốc lực. Tấm lưới bị xé tan dễ
dàng như bọn trẻ con xé những tàu lá chuối để làm kèn”. Lối so sánh cũng
thật đặc biệt, hiện đại và cực kì sinh động: “Người làng tưởng như thấy có
cả một đoàn trâu mộng đang đuổi nhau dưới Đầm Vực”. Ngôn từ hiện đại
còn nằm trong không gian tuổi thơ đầy màu sắc trong tâm thức của những
đứa trẻ con “Còn chúng tôi , lũ trẻ xóm trại mỗi lần nghe nói đến con cá là
trong kí ức tơ non của chúng tôi hiện lên một đêm trăng với cột nước rực rỡ
kỳ ảo khi con cá lướt trên mặt đầm cùng với sự bí mật đầy thổn thức của
ngôi chùa và vị sư già dưới đáy đầm nước.” Chất hiện đại còn được thể hiện
qua thú đi câu của những đứa bé con ở xóm trại. Tuy không xô bồ, bon chen
trong cuộc sống thị thành hiện đại nhưng vẫn mang một nét rất riêng “Mỗi
đứa trẻ xóm trại đến chọn cho mình một chỗ ngồi câu kín đáo. An hem tôi
vẫn đến địa điểm câu năm ngoái ở cạnh một gốc si già, xung quanh được che
kín bằng đủ các loại cây như cây vú bò, cây cứt lợn, cây tóc tiên và những
đám dây đậu dại. Hai anh em tôi chui vào giữa những bụi cây. Mặt nước
Đầm Vực chỗ chúng tôi ngồi sầm tối bởi bong tán lá si đổ xuống.” Khi cuộc
sống vốn yên bình ở làng chài ven đê không có gì để giải trí thì thay vào đó
là thú vui của con nít “Mùa hạ, lũ trẻ con xóm trại thường tập trung trên mặt
đê, sau đó chia nhau ra từng nhóm đi lấy trộm hoa quả ở các nhà trong xóm
trại. Đôi khi tôi dẫn lũ bạn lẻn vào vườn cắt cả buồng chuối xuống, phủ lá
xoan cho chóng chín. Sau này phát hiện ra, tôi bị bố đánh cho một trận.
Nhưng rồi, chúng tôi vẫn chứng nào, tật nấy. Bởi ở xóm trại heo hút này,
chúng tôi chẳng biết chơi trò gì vào những buổi tối của kỳ nghỉ hè ba tháng
dài vô tận. Ngòi bút diễn tả sao mà chân thực và sinh động đến như thế về
không chỉ của người lớn mà dành cho cả đời sống con nít xóm trại ven đê. Ở
đó còn có những kiểu nói của người dân nay “ngoắc tay nhau thề”, “nhổ vào
mồm cái nhà ông này”, “chết từ tám hoánh rồi” hay “chắc nó bỏ chúng tôi
nội nhật nay mai thôi”. Đó còn là lối dùng từ giàu hình ảnh, sống động “Cả
xóm trại bừng lên khi mùa xuân đến. Hoa tầm xuân dọc chân đê tỏa hương
ngào ngạt. Những cây mâm xôi đâm mầm mập mạp. Cả những cây dứa dại
lá cứng như thép và đầy gai cũng túa ra những chiếc lá non mỡ màng. Lũ trẻ
xóm trại rong ruổi với mùa xuân.”
3.3.3 Hệ thống ngôn ngữ gắn liền với yếu tố tâm thức của cộng đồng dân
tộc
Nhắc đến yếu tố tâm thức của cộng đồng dân tộc chúng ta không thể không
kể đến sự gia tăng chất liệu dân gian với hệ thống các câu tục ngữ, ca dao,
dân ca, sấm truyền….như một sự “lắp ghép” nhuần nhuyễn vào cấu trúc tác
phẩm cũng là một cách tân đáng ghi nhận của sáng tác cho trẻ em trong
những năm gần đây. Xuất hiện trong những tiểu thuyết có tiếng vang như
Bông sen vàng, Côi cút giữa cảnh đời, Chó Bi – đời lưu lạc…với tần suất
của văn hóa truyền miệng này khá cao và thực sự phát huy lợi thế của nó
trong thế giới nghệ thuật của tác phẩm. Đó là những câu hát ru từ lâu: “Ôi
Kim Lang, hỡi Kim Lang…Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây…”(Côi cút
giữa cánh đời). Việc vay mượn, sử dụng ngôn ngữ dân gian phần lớn đều rất
tự nhiên, không hề gượng ép do đặt đúng chỗ, đúng người và thường cô
đọng, hàm súc. Như là “ôn cố”, “búi tó củ hành”, “tiến tùng”, “sếnh sang”
(tiên sinh) trong Cha và con. Vì vậy, nhiều khi chúng có ưu thế hơn hẳn so
với cách nói hiện đại. Có những truyện, dung lượng lời ăn tiếng nói hẳng
ngày của quần chúng nhân dân như rất lớn và tỏ ra có hiệu quả thực sự đối
với sự phát triển của mạch câu chuyện, sự khắc họa tính cách nhân vật, hoàn
cảnh đặc thù…Có những câu thành ngữ, tục ngữ, ca dao được sử dụng
nguyên văn: “Sinh con sáng dạ làu làu – Nhớ mẹ ngày trước chăm lau đĩa
đèn”, “Sinh con quý tử khó nuôi – Trồng cây ngon trái lắm người lăm le”,
“Nhà có phúc sinh con giỏi lội – Nhà có tội sinh con hay trèo”, “Con dại cái
mang”, “Con hư tại mẹ, cháu hư tại bà”, “Oan hồn thì hồn hiện”, “Nghe như
vịt nghe sấm”, “Một miếng khi đói bằng một gói khi no”, “Mồ côi cha ăn
cơm với cá, mồ côi mẹ vét lá đầu đường”, “Bao giờ bánh đúc có xương -
Bao giờ mẹ ghẻ lại thương con chồng”, “Cha già con cọc”, “Không ai giàu
ba họ, chẳng ai khó ba đời”, “Dẫu thơm dẫu đẹp hoa lài - Đàn bà con gái
chớ cài lên khăn”, “Người hiền nuôi sói hóa nai - Người ác nuôi thỏ lại lai
lợn lòi”, “Sống mỗi người một nết, chết mỗi người một bệnh”, “Đưa con vô
Nội mất con - Phò mã tốt áo chẳng còn cố tri”,… (Bông Sen Vàng) hay là
“Sống tết, chết giỗ”, “nhom nhem như gà quáng manh”, “đừng có gắp lửa bỏ
tay người”. Ngôn ngữ mang dư âm dân tộc ngoài ra còn được thể hiện qua
hơi hướng tâm linh thần thánh trong “Bí mật hồ cá thần” là “ Tôi nghe nói cá
sống lâu năm và khôn như con này xả thịt kho với thuốc bắc là thành thuốc
thánh”. Có trường hợp được tái tạo lại dưới dạng lời dẫn gián tiếp – một
thành phần trong ngôn ngữ đối thoại của nhân vật: “Con nhà tông, giống
lông giống cả cánh”, “Ăn vóc học hay… Cái chữ cho con mắt còn cần hơn
cả miếng cơm cho cái miệng vậy”, “Ai đứt bữa, ai tối lửa tắt đèn, bà chìa
tay giúp đỡ trong tình lá lành đùm lá rách”, “Con nòi của giống, ông cha nói
nỏ có sai”, “Cậu là con nhà khoa bảng, con nhà thầy, nhà quan mà đến nhà
tui, phận bần hàn ni là rồng đến nhà tôm”, “Anh em mình nhỏ đầu nên dễ
chui, hai anh nhể”, “Con phải nhớ câu: “Nhịn miệng thết khách”. Không ai
lại làm cái việc: “Đãi khách nhẹ dầu tăm, mình ăn gắp nặng đũa”. Những kẻ
vô tâm mới cắm đầu ăn cho no bụng mình chẳng nghĩ đến phần ai. Nhà
mình tuy ít của nhưng biết có miếng ăn chia cho đều, có cái tình thì thương
cho khắp. Của ăn thì hết, của cho thì còn. Con nhớ kĩ cái điều ấy” (Bông Sen
Vàng)
Chiếm số lượng ít hơn là những câu đố như: “Thuyền gỗ, chèo sắt, đi
dắt về chèo” (cái hộp mực kẻ của thợ mộc); những cách chơi chữ dân gian
độc đáo: “Cớ sự vì sao mà cứ sợ - Dời chưng (chân) nỏ được hãy dừng chơi
“, “Rầu rĩ rầu ri, râu ria ra rậm rạp - Rờ râu râu rụng, răng rứa rõ ra ri”… Có
trường hợp nôm na, chân chất, mộc mạc nhưng cũng không ít lúc khởi phát
từ những câu nói hàm súc, thâm thúy của người học rộng: “Ẩm thủy tư
nguyên” (uống nước nhớ nguồn), “Hữu chí giả, sự cánh thành” (người có chí
thì việc ắt sẽ nên). Có câu dẫn ra để minh họa, đồng tình, nhưng cũng có lúc
chúng là nguyên cớ cho sự đối thoại, bộc lộ chính kiến, nội tâm nhân vật
như lời cậu bé Côn nói với mẹ: “Mẹ ơi, cái tục lệ coi bông hoa lài như cô gái
không đứng đắn, nó thế nào ấy? Lại còn gán cho những người đàn bà con
gái cài hoa lài lên khăn cho thơm cũng bị coi là người hư hỏng? Sao các cụ,
các thầy lại thích uống trà ướp hoa lài? Ồ! Tục lệ ấy ngẫm thấy không hay
mà còn dở nữa mẹ ạ” (Bông Sen Vàng).
Những đại diện ưu tú của văn học dân gian này vẫn tồn tại đẳng lập
bên cạnh những ngôn từ uyên thâm của Nho gia: “Hổ phụ sinh hổ tử”, “Dân
vi quý, quân vi khinh”, “Quốc dĩ dân lập”, “Dân dĩ quốc tồn”, “Cố quốc dân
tất ái quốc”; “Ngọc bất trác bất thành khí”, “Quân chi thị thần như khuyển
mã, tắc thần thị quân như khấu thù”, “Háo vấn, tắc dụ, tự dụng, tắc tiểu”,
“Thập thiên thụ mộc, bách tuế dục tài”, “Hoàng thiên bất phụ hảo nhân
tâm”, “Ngôn dĩ hành nan”v.v… (Bông Sen Vàng). Việc vay mượn, sử dụng
ngôn ngữ văn chương truyền khẩu phần lớn đều tự nhiên, không gượng ép
do đặt đúng chỗ, đúng người và thường cô đọng, hàm súc vì vậy nhiều khi
chúng có ưu thế hơn hẳn so với cách nói hiện đại. Chất dân gian đan xen
một cách hợp lí, với dung lượng vừa phải góp phần thể hiện rõ tính cách
nhân vật, khẳng định căn cốt của sự hình thành nhân cách con người phải từ
nguồn cội nước nhà. Điều đó cho thấy quan niệm nghệ thuật tiến bộ của
người viết: Con người, đặc biệt là những bậc vĩ nhân, luôn là sự lắng đọng
tinh hoa văn hóa của lịch sử cộng đồng; đó là điểm tựa của lí tưởng, lẽ sống,
nhờ thế lúc nào, ở đâu trong trong tâm hồn họ cũng hiện diện rõ ràng một
gương mặt quê hương.
Đến với Côi cút giữa cảnh đời chúng ta dễ dàng bắt gặp một loạt các
thành ngữ, quán ngữ mang sắc thái dân tộc, là những câu truyền khẩu nhau
trong cuộc sống thường ngày của người miền Bắc. Chẳng hạn như: Của bền
tại người; Ngưu tầm ngưu, mã tầm mã; mềm nắn rắn buông; ác giả ác báo;
nhà sạch thì mát, bát sạch ngon cơm; Tiên trắc trở, hậu mới thành; Bé không
vin, cả gãy cành; Phải duyên thì dính như keo, trái duyên đểnh đoảng như
kèo đục vênh; Còn trong Chó Bi đời lưu lạc cũng có những câu tục ngữ
được sử dụng nguyên văn: “Con chó mà có móng treo – Khỏi lo ăn trộm bắt
heo bắt gà”, “Ai mà nuôi chó một râu – Trời cho chủ nó sắp giàu đến nơi”,
“Tháng mười chưa cười đã tối”, “Đãi cứt sáo lấy hạt đa” hay
“ Nhà khó không ăn”, “Nghênh ngáo như cáo trông trăng”, “Chó đến nhà thì
giàu”, “Chó đến nhà thì sang”, “Miếng ăn là miếng nhục”. Còn trong Côi cút
giữa cảnh đời là “Chim chích mà ghẹo bồ nông – Đến khi nó mổ lạy ông tôi
chừa”, “Bốn giờ cắp nón ra đi – Mặt chó không biết mặt gà cũng không”,
“Tốt lễ thì dễ van”, “Trẻ thì bé dại thơ ngây, già thì lẫn lộn biết ngày nào
khôn”; “đên rủ rỉ rủ rì, tiếng nặng bằng bấc, tiếng chì bằng bông”, “Chém tre
phải dè đầu mặt”, “Thấy thầy đổ, tớ vội chuồn ngay”; “Dây thẳng mất lòng
cây gỗ queo” v.v…”.Có câu được tái tạo lại dưới dạng lời dẫn gián tiếp –
một thành phần trong ngôn ngữ đối thoại của nhân vật: “Rõ nghênh ngáo
như cáo trông trăng chưa kìa!”, “ Khổ, rắn đổ nọ cho lươn là thế!”(Chó Bi
đời lưu lạc); “Lợn lành trói cho chặt”, “Dò sông dò biển, dò nguồn. Biết sao
được bụng lái buôn mà dò”; “Ông thầy ăn một, bà cốt ăn hai, còn cái thủ, cái
tai thì đem biếu chú. Để chú, khi vui nước nước non non. Khi buồn thì giở
quân son bài ngà” (Côi cút giữa cảnh đời). Còn đó những lời sấm truyền có
tính chất dự báo, thể hiện niềm tin vào sức mạnh huyền vi: “ Cua đổi càng,
vàng lộ thiên”(Chó Bi đời lưu lạc); những cách chơi chữ dân gian rất độc
đáo: “ Nhà khoa học tập sự mải miết trên bàn học giờ đây trẩn văn cời, quần
xắn tới bẹn, suốt ngày cặm cụi với đường bào, lỗ đục”(chó Bi, đời lưu lạc), “
cớ sự vì sao mà cớ sự _ dời chưng (chân) nỏ được hãy dừng chơi”, “Rầu rĩ
rầu ri, râu ria ra rậm rạp – Rờ râu râu rụng, răng rứa rõ ra ri” (Bông sen
vàng)…Có trường hợp nôm na dân gian nhưng cũng không ít lúc khởi
nguồn từ những câu nói hàm súc của người có học “ Âm thủy tư
nguyên”(Uống nước nhớ nguồn), “ Hữu chí giả, sự cánh thành” (người có
chí thì ắt việc sẽ nên) (Bông sen vàng) , “ tiền trở hậu thành” (Chó Bi, đời
lưu lạc). Và đến cả chân dung nhân vật cũng lộ rõ dấu ấn dân gian : “Da ông
(Thuần) săn đỏ. Mắt ông sáng nhóng nhánh như hai ánh lửa. Ngoài chòm
râu cằm, ria mép ông mọc thêm, rậm rà một vệt đen nhánh, khiến mặt ông
thêm dữ dội và phong trần. Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao, súng
trên vai, đài Mẫu Đơn bên hông, cùng da, rìu, vị Tân Chúa đảo thật đáng bậc
mày râu, vừa oai phong khí phách, vừa ngang tàng cao ngạo, rất xứng với
thần thái câu thơ cổ: “ Tối thế thượng chi phong lưu, giang hồ khí cốt”(Chó
Bi, đời lưu lạc). Việc vay mượn, sử dụng ngôn ngữ dân gian phần lớn đều
tự nhiên như Ma Văn Kháng, để tạo ấn tượng cho nhân vật trung tâm – chó
Bi đời lưu lạc có nghĩa, cực kì thông minh và chung thủy – đã phải “tựa”
vào minh triết dân gian: “ Quen thân đến mức hình bóng chó có cả trong văn
thơ, trong các thành ngữ, tục ngữ của người nữa kia. Chó có váy lĩnh. Chó
đen giữ mực. Đánh chó ngó chủ. Chó gầy hổ mặt người nuôi. Giàu bán chó
khó bán con. Mèo đến nhà thì khó, chó đến nhà thì sang…”Chất dân gian
đan xen một cách hợp lí, đúng lúc, với dung lượng vừa phải góp phần thể
hiện rõ tinh cách nhân vật , khẳng định cái cốt của sự hình thành nhân cách
của con người phải từ cội nguồn dân tộc. Cái duyên của người viết ở đây là
biết cách vận dụng, cài đặt đúng chỗ, đúng người, đúng việc nhờ vậy mạch
truyện không hề bị đứt đoạn và cắt vụn mà rất liên hoàn, thuyết phục. Do đó,
tính giáo dục được nâng lên một mức cao hơn và đạt hiệu quả cao. Yếu tố
cộng đồng dân tộc còn được biết đến trong Bí mật hồ cá thần qua những lời
căn dặn của bà em Mon. Đó là truyền thống tín ngưỡng về thần linh là Ông
Cá, về những bài học cho con cháu…
Đến với tác phẩm Cha và con, cũng là một mảng đề tài viết về Bác như
Bông Sen Vàng nhưng lại được nhìn bằng con mắt khác dưới ngòi bút của
Hồ Phương. Cũng là sự kiện ấy, nhân vật ấy nhưng với chất liệu ngôn từ
được tạo ra từ hai bàn tay khác nhau tạo nên có dấu ấn rất riêng. Với chất
liệu dân tộc ở đây, chúng ta sẽ bắt gặp qua những câu hò ví dặm, những câu
hát đối rất hay và ý nghĩa của người Nghệ Tĩnh, Quảng Bình và Thừa Thiên
Huế trải dài trong suốt tập truyện. Những câu đối đáp xuất hiện giữa cha và
bé Côn:
“Một dạ trông mong đoàn sĩ tử
Đốt đèn lên dầu vương dầu ra đế” hay
“Ngàn năm căm uất lũ xâm lăng
Thắp nhang rồi gió quạt bay tàn”
Chúng ta sẽ còn văng vẳng bên tai câu ca :
Bao giờ hết cả trên đồng
Thì dân ta mới ngã lòng đánh Tây
Các loại hình văn hóa nghệ thuật dân gian cũng lần lượt trong tác phẩm qua
những câu từ đặc trưng của chèo miền Bắc, tuồng và hát phường vải. Ngoài
ngôn ngữ dân dã của chốn nông thôn thì còn đâu đấy hơi hưởng của thứ chữ
Nho: “Quan trường thị nô lệ trung chi nô lệ hựu nô lệ” (Quan trường là nô lệ
trong đám nô lệ, nên lại càng nô lệ)

You might also like