You are on page 1of 9

Tổng quan kinh tế Việt Nam năm 2009 và khuyến nghị chính sách cho năm 2010

GS.TSKH Lương Xuân Quỳ, GS.TS Mai Ngọc Cường, TS Lê Quốc Hội

Năm 2009, trước tình hình khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế thế giới, Việt Nam đã
chuyển sang mục tiêu ngăn chặn suy giảm kinh tế và giữ ổn định kinh tế vĩ mô. Kinh tế Việt Nam
năm 2009 bên cạnh những điểm sáng thể hiện thành tựu đạt được vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế
và thách thức. Việc đánh giá, nhìn nhận lại kinh tế Việt Nam năm 2009 để rút ra những bài học,
chỉ rõ những thách thức và giải pháp cho năm 2010 có ý nghĩa quan trọng đối với các nhà hoạch
định chính sách ở Việt Nam. Thực tế, có thể tiếp cận và đánh giá một nền kinh tế từ nhiều cách.
Trong bài viết này chúng tôi đánh giá bức tranh kinh tế Việt Nam 2009 từ góc độ vĩ mô dựa trên
diễn biến tình hình kinh tế trong năm và các chỉ số kinh tế vĩ mô cơ bản.

1.Tổng quan kinh tế vĩ mô Việt Nam năm 2009

Gói kích thích kinh tế

Trước những tác động tiêu cực của khủng hoảng tài chính toàn cầu và ngăn chặn suy giảm kinh
tế, từ đầu năm 2009, chính phủ đã đưa ra gói kích thích kinh tế. Gói kích thích kinh tế đã triển
khai được phân thành các cấu phần sau: (i) gói hỗ trợ lãi suất 4%; (ii) gói hỗ trợ tiêu dùng bao
gồm miễn thuế thu nhập cá nhân và hỗ trợ người nghèo ăn Tết; (iii) gói hỗ trợ đầu tư bao gồm
miễn, giảm, giãn thuế doanh thu, thuế VAT cho các doanh nghiệp và cho nông dân vay vốn
không lãi suất để mua thiết bị, máy móc sản xuất công nghiệp; (iv) đầu tư công bao gồm xây
dựng kết cấu hạ tầng, nhà ở cho sinh viên và khu chung cư cho người thu nhập thấp. Tuy chưa
được đánh giá một cách sâu sắc và toàn diện về hiệu quả của gói kích thích kinh tế, nhưng về
cơ bản nó đã đạt được mục tiêu đề ra là ngăn chặn được đà suy giảm kinh tế. Trong đó, các cấu
phần có tác động mạnh nhất là gói hỗ trợ lãi xuất 4% và chính sách miễn, giảm, giãn thuế cho
doanh nghiệp. Các gói này được xem như một liều thuốc “giải cứu” giúp nhiều doanh nghiệp vay
được vốn để phục hồi và duy trì sản xuất và giải quyết việc làm. Đồng thời, chúng còn góp phần
quan trọng làm cho hệ thống ngân hàng cải thiện được tính thanh khoản và duy trì khả năng trả
nợ của khách hàng. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả trên, gói kích thích kinh tế vẫn bộc lộ
nhiều tồn tại và hệ lụy. Thứ nhất, làm phát sinh tình trạng không công bằng giữa các doanh
nghiệp được vay và không được vay vốn hỗ trợ lãi suất, tạo ra môi trường kinh doanh bất bình
đẳng. Thứ hai, việc thực hiện cơ chế hỗ trợ lãi suất cùng với việc thực hiện chính sách tài khóa
mở rộng và chính sách tiền tệ nới lỏng làm cho tổng phương tiện thanh toán và tín dụng tăng ở
mức cao gây nguy cơ tái lạm phát, gây đột biến trên thị trường ngoại hối, thị trường vàng, thị
trường bất động sản. Thứ ba, hiệu quả của gói đầu tư công và cho nông dân vay vốn mua thiết
bị máy móc còn rất hạn chế do những khó khăn về nguồn vốn và thủ tục. Vì vậy, những thành
công và hạn chế của gói kích thích kinh tế quả thật là những vấn đề rất đáng được nghiên cứu
và đánh giá để đưa ra những chính sách phù hợp trong thời gian tới.

Tăng trưởng kinh tế

Cần khẳng định rằng dưới tác động mạnh của khủng hoảng kinh tế toàn cầu, quá trình suy giảm
kinh tế của Việt Nam đã không kéo dài và sự phục hồi tốc độ tăng trưởng đến nhanh. Hình 1 cho
thấy nền kinh tế chạm đáy suy giảm tăng trưởng trong quý I/2009 sau đó liên tục cải thiên tốc độ
ở các quý sau. Tốc độ tăng GDP quý II đạt 4,5%, quý III đạt 5,8% và dự đoán quý IV sẽ đạt
6,8%.

Hình 1: Tăng trưởng GDP theo quý


Các chỉ số tăng trưởng cho các ngành cũng thể hiện một xu hướng phục hồi rõ rệt. Giá trị sản
xuất công nghiệp quý I đạt 3,2%, quý II tăng lên 7,6% và quý III là 8,5%. So với khu vực công
nghiệp, thì khu vực dịch vụ chịu tác động ảnh hưởng của suy thoái kinh tế thế giới ở mức độ
thấp hơn. Nhìn chung, khu vực dịch vụ vẫn duy trì tăng trưởng khá cao, tốc độ tăng trưởng trong
quý I là 5,1%, trong quý II, 5,7% và 6,8% trong quý III. Căn cứ kết quả thực hiện 9 tháng đầu
năm và triển vọng các tháng tiếp theo, tốc độ tăng trưởng giá trị khu vực dịch vụ ước thực hiện
cả năm 2009 có thể đạt 6,5%. Đối với lĩnh vực nông nghiệp, do sản lượng lương thực năm 2008
đã đạt mức kỷ lục so với trước, nên ngành nông nghiệp tăng không nhiều trong năm 2009. Uớc
thực hiện giá trị tăng thêm ngành nông, lâm, thủy sản tăng khoảng 1,9%.

Như vậy xu hướng phục hồi tăng trưởng là khá vững chắc và đạt được ngay từ trước khi các gói
kích cầu được triển khai trên thực tế. Với mức tăng trưởng như vậy dự báo GDP cả năm 2009
sẽ đạt 5,2%, cao hơn so với mức tăng trưởng đáy trong 20 năm qua ở mức 4,77% của năm
1999. Đây là một thành tựu kinh tế nổi bật trong năm 2009 nếu đặt trong bối cảnh Việt Nam là
một trong số ít nền kinh tế trong khu vực và thế giới vẫn đạt mức tăng trưởng dương.

Đầu tư phát triển

Trong bối cảnh suy giảm kinh tế, những khó khăn trong sản xuất kinh doanh và hiệu quả đầu tư
kinh doanh giảm sút đã ảnh hưởng trực tiếp đến các hoạt động đầu tư phát triển. Trước tình
hình đó, Chính phủ đã thực hiện các giải pháp kích cầu đầu tư, tăng cường huy động các nguồn
vốn, bao gồm việc ứng trước kế hoạch đầu tư ngân sách nhà nước (NSNN) của các năm sau,
bổ sung thêm nguồn vốn trái phiếu Chính phủ, vốn tín dụng đầu tư, tín dụng xuất khẩu, tín dụng
đào tạo lại cho người lao động bị mất việc làm… Với những nỗ lực đó, nguồn vốn đầu tư toàn xã
hội năm 2009 đã đạt được những kết quả tích cực. Ước tính tổng đầu tư toàn xã hội năm 2009
đạt 708,5 nghìn tỷ đồng, bằng 42,2% GDP, tăng 16% so với năm 20081 . Trong đó, nguồn vốn
đầu tư nhà nước (gồm đầu tư từ ngân sách nhà nước, nguồn trái phiếu Chính phủ, nguồn tín
dụng đầu tư theo kế hoạch nhà nước và nguồn đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước) là 321
nghìn tỷ đồng, tăng 43,3% so với năm 2008; nguồn vốn đầu tư của tư nhân và của dân cư là
220,5 nghìn tỷ, tăng 22,5%. Những kết quả này cho thấy các nguồn lực trong nước được huy
động tích cực hơn. Tuy nhiên, trong khi các nguồn vốn đầu tư trong nước có sự gia tăng thì
nguồn vốn FDI năm 2009 lại giảm mạnh. Tổng số vốn FDI đăng ký mới và tăng thêm ước đạt 20
tỷ USD (so với 64 tỷ USD năm 2008), vốn thực hiện ước đạt khoảng 8 tỷ USD (so với 11,5 tỷ
USD năm 2008). Tổng vốn ODA ký kết cả năm ước đạt 5,456 tỷ USD, giải ngân đạt khoảng 3 tỷ
USD.
Tăng vốn đầu tư trong bối cảnh khó khăn kinh tế toàn cầu là một điểm sáng của kinh tế Việt Nam
năm 2009 để vượt qua tình trạng suy giảm kinh tế. Ty nhiên, những hạn chế trong hiệu quả đầu
tư đã xuất hiện từ nhiều năm nay và càng trở thành vấn đề cần giải quyết. Nếu như năm 1997,
chúng ta đạt được tốc độ tăng trưởng 8,2% với vốn đầu tư chỉ chiếm 28,7% GDP thì cũng với
tốc độ tăng trưởng xấp xỉ như vậy năm 2007 (8,5%) chúng ta phải đầu tư tới 43,1% GDP. Đến
năm 2009, trong khi tổng mức đầu tư toàn xã hội lên tới 42,2% GDP, thì tốc độ tăng trưởng lại
chỉ đạt 5,2%. Chỉ số ICOR năm 2009 đã tăng tới mức quá cao, trên 8 so với 6,6 của năm 2008 2.
Bên cạnh đó còn xảy ra tình trạng chậm trễ trong giải ngân nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà
nước và nguồn vốn trái phiếu Chính phủ, lãng phí, thất thoát vốn đầu tư ở tất cả các khâu của
quá trình quản lý dự án đầu tư. Những đặc điểm này là đáng báo động về cả trước mắt cũng
như lâu dài.

Lạm phát và giá cả

Nếu như năm 2008 là năm chứng kiến một tốc độ lạm phát cao kỷ lục trong vòng hơn một thập
kỷ qua thì năm 2009 lại chứng kiến một mức lạm phát ở mức dưới hai con số. Chỉ số giá tiêu
dùng (CPI) cả nước qua 10 tháng đầu năm chỉ tăng 4,49% so với tháng 12/2008. Đây là mức
tăng chỉ số giá tiêu dùng khá thấp so với những năm gần đây và là mức tăng hợp lý, không gây
ảnh hưởng lớn đến đời sống và sản xuất của người dân. Nhiều loại hàng hoá có ảnh hưởng
mạnh trong rổ hàng hoá để tính CPI tăng thấp. Chỉ số CPI lương thực tăng nhẹ trong 6 tháng
đầu năm (0,59%) nhưng lại có xu hướng giảm trong những tháng cuối năm. Như vậy, nếu như
lương thực, thực phẩm luôn là đầu tàu kéo lạm phát đi lên trong những năm 2007 và 2008 thì ở
năm 2009 nhân tố này không còn đóng vai trò chính nữa.

Hình 2: Diễn biến làm phát hàng tháng năm 2009

Duy trì tốc độ tăng lạm phát và giá cả của năm 2009 ở mức một con số là một điểm sáng nữa
trên bức tranh kinh tế Việt Nam trong bối cảnh kinh tế thế giới chưa thoát khỏi suy thoái kinh tế.
Thành tựu kiềm chế lạm phát trong năm 2009 có tác động tích cực đến ổn định kinh tế - xã hội
cũng như tạo thuận lợi cho việc triển khai các chính sách kích thích kinh tế nhằm thúc đẩy tăng
trưởng và đảm bảo an sinh xã hội. Mặc dù xu hướng tăng của giá tiêu dùng chưa có biểu hiện rõ
rệt, nhưng một số yếu tố chủ yếu có thể sẽ tác động làm tăng nguy cơ tái lạm phát cao trở lại.
Đó là tăng trưởng tín dụng đang ở mức cao 3 do thực hiện các chính sách tài chính, tiền tệ nhằm
ngăn chặn suy giảm kinh tế; giá của các mặt hàng nước ta nhập khẩu với khối lượng lớn trên thị
trường thế giới bắt đầu có xu hướng tăng cao do sự phục hồi của kinh tế toàn cầu, đặc biệt giá
xăng dầu. Mặt khác, những nguyên nhân cơ bản gây ra lạm phát cao ở Việt Nam năm 2008 vẫn
còn. Đó là sự thiếu kỷ luật tài chính trong đầu tư công và trong hoạt động của các doanh nghiệp
nhà nước (DNNN) và tập đoàn lớn. Do vậy, kích cầu đầu tư thông qua nới lỏng tín dụng cho các
DNNN và tập đoàn mà thiếu sự thẩm định và giám sát thận trọng chắc chắn sẽ kích hoạt cho
lạm phát trở lại.

Tỷ giá

Trong nhiều năm trở lại đây, Ngân hàng nhà nước (NHNN) kiên trì chính sách ổn định đồng tiền
Việt Nam so với đồng đô la Mỹ. Diễn biến tỷ giá trong năm 2009 là tương đối phức tạp. Mặc dù
NHNN đã điều chỉnh nâng tỷ giá liên ngân hàng và biên độ từ + 3% lên + 5% vào tháng 4/2009,
trên thị trường tự do giá ngoại tệ nhanh chóng áp sát mức 18.300 đồng/đô la Mỹ và đến tháng
11 đã lên trên 19.000 đồng/đô la Mỹ.

Hình 3: Diễn biến tỷ giá USD/VND 2008-2009

Hình 3 cho thấy càng về cuối năm tỷ giá càng biến động và mất giá mạnh, thị trường ngoại hối
luôn có biểu hiện căng thẳng, đồng thời USD tín dụng thì thừa, USD thương mại thì thiếu. Các
ngân hàng không có ngoại tệ để bán cho doanh nghiệp và nếu có bán thì mức tỷ giá cũng cao
hơn mức tỷ giá trần do NHNN quy định. Những bất ổn trên thị trường ngoại hối và tỷ giá hối đoái
đã tiếp tục gây ra những khó khăn cho hoạt động xuất nhập khẩu. Hơn nữa, đồng tiền mất giá
còn ảnh hưởng đến lạm phát trong nước do giá hàng nhập khẩu tăng mạnh. Trong bối cảnh lạm
phát có xu hướng gia tăng và tính không ổn định trên thị trường tiền tệ, đòi hỏi cần phải có sự
lựa chọn linh hoạt cơ chế điều hành tỷ giá để đạt được mục tiêu kiềm chế lạm phát và ổn định thị
trường tiền tệ.

Thu chi ngân sách

Năm 2009, các giải pháp miễn, giảm, giãn thuế kết hợp với giảm thu từ dầu thô và giảm thu do
duy giảm kinh tế đã làm cho nguồn thu ngân sách bị giảm mạnh. Uớc tính tổng thu ngân sách cả
năm đạt 390,65 nghìn tỷ đồng, xấp xỉ so với mức dự toán (389,9 nghìn tỷ) và giảm 6,3% so với
thực hiện năm 2008. Điểm sáng duy nhất trong hoạt động thu ngân sách năm nay là chỉ có thu
nội địa (không kể thu từ dầu thô) tăng so với năm 2008 (tăng 9,8 nghìn tỷ) còn các khoản thu
khác đều sụt giảm. Mặt khác, nhu cầu và áp lực chi tăng lên cho kích thích tăng trưởng và đảm
bảo an sinh xã hội. Tổng chi ngân sách ước đạt trên 533 nghìn tỷ đồng, tăng 8,5% so với dự
toán và 7,5% so với năm 2008. Tổng bội chi ngân sách ước khoảng 115,9 nghìn tỷ đồng, bằng
6,9% GDP, cao hơn nhiều so với mức 4,95% của năm 2008 và kế hoạch đề ra (4,82%). Trong
bối cảnh khủng hoảng tài chính toàn cầu, tình trạng khó khăn trong nước và áp lực phải tăng chi
để phục hồi kinh tế và ổn định đời sống nhân dân, tăng bội chi ngân sách là điều không tránh
khỏi. Tuy nhiên, bội chi ngân sách tăng trong bối cảnh chính sách tiền tệ nới lỏng luôn tiềm ẩn
nguy cơ lạm phát cao trở lại. Điều này cũng cảnh báo độ an toàn của ngân sách trong các năm
tiếp theo nếu như không chủ động có các biện pháp cải cách để tạo nền tảng tăng nguồn thu
cũng như tăng cường kỷ luật tài chính cho ngân sách.

Hình 4: Bội chi ngân sách 2005-2009

Xuất nhập khẩu và cán cân thương mại

Năm 2009, tình hình xuất nhập khẩu khẩu của Việt Nam gặp nhiều khó khăn do khủng hoảng
kinh tế toàn cầu dẫn đến sự đình trệ sản xuất và hạn chế tiêu dùng ở những nước vốn là thị
trường xuất khẩu lớn của Việt Nam như Mỹ, Nhật Bản, EU... Tổng kim ngạch xuất khẩu năm
2009 ước đạt khoảng 56,5 tỷ USD, giảm 9,9% so với năm 2008. Tình hình xuất khẩu như vậy
không đến nỗi quá xấu nếu chúng ta nhìn vào nguyên nhân của nó. Kim ngạch xuất khẩu giảm là
do giá cả thế giới giảm (riêng yếu tố giảm giá trong 9 tháng đầu năm làm kim ngạch xuất khẩu
giảm trên 6 tỷ USD) - một yếu tố ngoài tầm kiểm soát của chúng ta; trong khi đó khối lượng hàng
hoá xuất khẩu có sự tăng đáng kể giúp chúng ta giảm thiểu được đáng kể đến tốc độ tăng kim
ngạch xuất khẩu và xa hơn là giảm thiểu được tác động tiêu cực đến việc làm và thu nhập của
người lao động. Vấn đề tồn tại lớn nhất của xuất khẩu bộc lộ trong nhiều năm qua là việc vẫn
phụ thuộc nhiều vào các mặt hàng khoáng sản, nông, lâm, thuỷ, hải sản. Các mặt hàng công
nghiệp chế biến vẫn mang tính chất gia công. Như vậy, xuất khẩu chủ yếu vẫn dựa vào khai thác
lợi thế so sánh sẵn có mà chưa xây dựng được các ngành công nghiệp có mối liên kết chặt chẽ
với nhau để hình thành chuỗi giá trị gia tăng xuất khẩu. Trong thời gian tới, xuất khẩu của Việt
Nam sẽ chịu thách thức lớn hơn, nhất là trong bối cảnh tác động của khủng hoảng những rào
cản thương mại mới ngày càng nhiều với các hành vi bảo hộ thương mại tinh vi tại các thị
trường lớn sẽ dành cho các mặt hàng xuất khẩu, nhất là các mặt hàng chủ lực của Việt Nam
như khoáng sản, nông, lâm, hải sản.

Bảng 1: Hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam thời kỳ 2006-2009
Tổng kim ngạch nhập khẩu năm 2009 ước đạt 67,5 tỷ USD, giảm 16,4% so với năm 2008. Điều
này phản ánh những khó khăn của sản xuất trong nước do suy giảm kinh tế. Tuy nhiên, trong
các tháng cuối năm, nhu cầu nhập khẩu có thể tăng lên khi các biện pháp hỗ trợ sản xuất phát
huy tác dụng. Mặc dù cả kim ngạch xuất khẩu và kim ngạch nhập khẩu đều giảm sút, nhưng do
tốc độ giảm kim ngạch xuất khẩu chậm hơn tốc độ giảm kim ngạch nhập khẩu, nên nhập siêu
năm 2009 giảm xuống chỉ còn khoảng 11 tỷ USD, chiếm 16,5% tổng kim ngạch xuất khẩu. Như
vậy, so với những năm gần đây cán cân thương mại đã có sự cải thiện đáng kể, thể hiện quyết
tâm của chính phủ trong việc kiềm chế nhập khẩu những mặt hàng không cần thiết. Song mức
nhập siêu vẫn còn cao thể hiện việc phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ và chuyển dịch cơ
cấu hàng xuất khẩu vẫn còn chậm.

Bảo đảm an sinh xã hội

Chính phủ đã chỉ đạo thực hiện đồng bộ, có hiệu quả các chính sách giảm nghèo, trong đó có
chính sách hỗ trợ cho các hộ nghèo xây nhà ở, vay vốn sản xuất, kinh doanh, cho vay học sinh,
sinh viên, mua thẻ bảo hiểm y tế. Đồng thời, chính phủ cũng triển khai công tác hỗ trợ các hộ
nghèo, hộ bị ảnh hưởng thiên tai, bị thiệt hại về gia súc, gia cầm, vật nuôi để ổn định sản xuất và
đời sống. Ngoài ra, chính phủ cũng đã tích cực triển khai thực hiện Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP
của Chính phủ gắn với chương trình xây dựng nông thôn mới; tổ chức, động viên các doanh
nghiệp, các tổ chức và cá nhân hỗ trợ các huyện nghèo thực hiện chương trình này; ứng trước
vốn cho các huyện; triển khai các chính sách mới, trong đó có chính sách cấp gạo cho hộ nghèo
ở biên giới, thực hiện mức khoán mới về bảo vệ rừng, hỗ trợ học nghề, xuất khẩu lao động và
tăng cường cán bộ cho các huyện nghèo. Hoạt động chăm sóc người có công và các đối tượng
chính sách tiếp tục được duy trì và mở rộng.

Năm 2009 tổng số chi cho an sinh xã hội ước khoảng 22.470 tỷ đồng, tăng 62% so với năm
2008, trong đó chi điều chỉnh tiền lương, trợ cấp, phụ cấp khoảng 36.700 tỷ đồng; trợ cấp cứu
đói giáp hạt và khắc phục thiên tai 41.580 tấn gạo (riêng số gạo cứu trợ đợt đầu khắc phục hậu
quả bão số 9 là 10.300 tấn). Tổng dư nợ của 18 chương trình cho vay hộ nghèo và các đối
tượng chính sách do Ngân hàng Chính sách xã hội thực hiện ước đến cuối năm đạt 76 nghìn tỷ
đồng, tăng 45,3% so với năm 2008. Các doanh nghiệp đã hỗ trợ 62 huyện nghèo trên 1.600 tỷ
đồng. Kết quả các nỗ lực chung đó đã góp phần ổn định và cải thiện đời sống nhân dân, đặc biệt
là đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, các đối tượng chính sách, góp phần xóa đói,
giảm nghèo, giải quyết việc làm và giữ vững ổn định chính trị, xã hội.đặc biệt là đối với người
nghèo. Tỷ lệ hộ nghèo đến cuối năm 2009 giảm còn khoảng 11%. Tuy nhiên, tình hình suy giảm
kinh tế đã ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng giải quyết việc làm cho người lao động. Dự kiến
đến cuối năm 2009, có khoảng 1,51 triệu lượt lao động được giải quyết việc làm, đạt 88,5% kế
hoạch năm và bằng 93,2% so với thực hiện năm 2008. Số lao động đi làm việc ở nước ngoài
năm 2009 ước đạt 7 vạn người, giảm đáng kể so với con số 8,5 vạn người của năm 2008.

2. Những thách thức của kinh tế Việt Nam năm 2010 và khuyến nghị chính sách
Những thách thức của kinh tế Việt Nam năm 2010

Triển vọng kinh tế Việt Nam năm 2010 phụ thuộc vào 3 yếu tố chính: tình hình kinh tế thế giới,
sức mạnh nội tại của kinh tế trong nước và sự điều hành vĩ mô của Chính phủ. Tuy nhiên bên
cạnh những thời cơ, thuận lợi thì cũng đặt ra nhiều thách thức cho cả 3 yếu tố trên.

Trong ngắn hạn, năm 2010 sẽ chứng kiến sự phục hồi ở những nền kinh tế lớn nhất thế giới.
Hoạt động đầu tư và thương mại quốc tế sẽ được hồi phục sau khi có sự giảm sút mạnh năm
2009. Với tư cách là một nền kinh tế nhỏ có độ mở cao4, điều này tạo ra những ảnh hưởng tích
cực trực tiếp lên nền kinh tế Việt Nam để có thể đạt tăng trưởng cao hơn trong năm 2010. Tuy
nhiên, từ kinh nghiệm của những năm vừa qua, vấn đề đặt ra cho Việt Nam là cần phải xác định
và điểu chỉnh độ mở của nền kinh tế như thế nào cho phù hợp để tránh được các cú sốc do hội
nhập quốc tế mang đến.

Đối với trong nước, những bất ổn vĩ mô trong nội tại nền kinh tế vẫn còn tồn tại và trở thành
thách thức cho phát triển kinh tế năm 2010. Trước hết đó là áp lực bội chi ngân sách. Với mức
bội chi cao và nếu nguồn vốn bù đắp ngân sách chủ yếu từ thị trường vốn trong nước, mặt bằng
lãi suất sẽ chịu áp lực của nhu cầu vốn, mà đầu tiên là lãi suất tiền gửi ngân hàng. Cho đến nay,
các đợt phát hành trái phiếu chính phủ vẫn chưa thành công5 do sự chênh lệch giữa lãi suất thị
trường yêu cầu với lãi suất chào thầu của trái phiếu chính phủ nên các khoản vay nợ chính phủ
vẫn chưa có ảnh hưởng mạnh với thị trường vốn. Điều này phản ánh phần nào tình trạng căng
thẳng thanh khoản trên thị trường vốn hiện nay và cũng cảnh báo sự thiếu hụt nguồn để cân
bằng ngân sách. Như vậy, chính sách kích thích kinh tế thông qua việc mở rộng chi tiêu chính
phủ sẽ bị giới hạn ngay từ khâu tìm kiếm nguồn bù đắp. Trong bối cảnh thâm hụt, cơ cấu chi,
hiệu quả chi và khả năng kiểm soát chi thể hiện dấu hiệu thiếu bền vững của ngân sách bởi các
khoản chi tiêu của chính phủ không tạo nên nguồn thu trong tương lai và gây sức ép cho bội chi
mới.

Thách thức tiếp theo là áp lực lạm phát cao. Lạm phát không phải là là vấn đề của năm 2009,
nhưng năm 2010 hoàn toàn có thể là một năm làm phát bùng lên trở lại do các nguyên nhân gây
ra lạm phát bị tích lũy ngày càng nhiều trong năm 2009. Cụ thể, như các chính sách hỗ trợ lãi
suất làm tăng trưởng tín dụng, nới lòng kiểm soát giá một số mặt hàng như điện, nước, xăng
dầu, điều chỉnh tăng lương và có thể là cả những nỗ lực phát hành tiền mà không được công bố
chính thức. Nguy cơ lạm phát càng rõ ràng hơn nếu tiếp tục thực hiện gói kích thích kinh tế trong
điều kiện mà chưa có giải pháp dài hạn hơn để đảm bảo chắc chắn nguồn vốn đạt được hiệu
quả sinh lời cao và có khả năng tái tạo nguồn thu trong nước.

Về các công cụ điều hành kinh tế vĩ mô, hiện nay chúng ta dựa trên 3 công cụ chính để tác động
đến nền kinh tế, đó là chính sách tài khoá, chính sách tiền tệ và chính sách cán cân thanh toán.
Tuy nhiên, dư địa cho cả 3 nhóm chính sách này đều không còn nhiều. Do đặc trưng của kinh tế
Việt Nam năm 2009 là bội chi ngân sách lớn đi liền với thâm hụt thương mại, trong khi các dòng
ngoại hối hỗ trợ cho sự thâm hụt này là các dòng vốn đầu tư trực tiếp, gián tiếp và kiều hối đều
có khuynh hướng chững lại trong năm. Do vậy, mọi động thái chính sách trong 3 lĩnh vực chính
sách trên đều có liên quan và tự tạo ra các ràng buộc lẫn nhau.

Đối với chính sách tài khoá, nếu bù đắp thâm hụt ngân sách bằng biện pháp vay nợ trong nước
thì sẽ gây ra áp lực tăng lãi suất. Điều này đi ngược với mục tiêu của chính sách tiền tệ là giảm
dần lãi suất trong thời gian tới. Nhưng nếu bù đắp thâm hụt ngân sách bằng việc vay nợ nước
ngoài thì gặp phải áp lực gia tăng nợ nước ngoài mà đã ở tỷ lệ khá cao rồi. Đối với chính sách
tiền tệ, khoảng cách giữa lãi suất huy động và trần lãi suất cho vay hiện đã quá nhỏ. Do vậy, nếu
bỏ lãi suất trần thì sẽ làm thắt chặt tiền tệ quá sớm và ảnh hưởng đến phục hồi kinh tế. Mặt
khác, với lạm phát kỳ vọng cao trong thời gian tới, dường như không còn cơ hội cho thực hiện
nới lỏng tiền tệ để kích thích kinh tế.
Những đặc điểm trên sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc định hình nền kinh tế Việt nam trong
năm 2010. Tuy nhiên cũng cần phải nhận thấy một điểm tích cực là khả năng chống chọi với suy
thoái kinh tế và bất ổn vĩ mô của Việt Nam đã khá hơn. Thực tế cho thấy, dưới tác động mạnh
của khủng hoảng kinh tế thế giới và bất ổn kinh tế vĩ mô trong nước, quá trình suy giảm tăng
trưởng kinh tế trong năm 2009 không kéo dài và sự phục hồi đến nhanh hơn và không đến nỗi
“bi quan” và “nghiêm trọng” như những dự báo đầu năm 2009. Điều này một mặt cho thấy năng
lực chống đỡ của nền kinh tế đã được nâng lên, nhưng mặt khác cũng cho thấy khả năng dự
báo chính sách còn hạn chế và bất cập.

Khuyến nghị chính sách

Năm 2010 có tầm quan trọng đặc biệt với kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam, bởi
đây là năm cuối cùng nước ta thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế- xã hội 5 năm 2006- 2010.
Đồng thời cũng là thời cơ để Việt Nam thực hiện chương trình tổng thể tổ chức lại sản xuất theo
hướng nâng cao sức cạnh tranh, khắc phục những tồn tại yếu kém, tạo bước khởi đầu cho việc
xây dựng và triển khai kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm tiếp theo (2011- 2015). Vi thế,
cần có các giải pháp chính sách không chỉ cho năm 2010 mà còn cả trong những năm tiếp theo.

Thứ nhất, cần rút kinh nghiệm và bài học từ gói kích thích kinh tế đã thực hiện trong năm 2009.
Công việc này cần được thực hiện và đánh giá một cách độc lập và khách quan không chỉ từ các
cơ quan quản lý nhà nước mà còn từ các nhà khoa học dựa trên một hệ thống các tiêu chí và
chứng cứ qua việc tiếp cận với các đối tượng thụ hưởng. Điều này cũng quan trọng cho chính
phủ trong việc đưa ra những phương án chính sách phù hợp cho năm 2010. Tuy nhiên cũng cần
phải nhìn nhận rằng không có phương án nào là hoàn hảo tuyệt đối mà bao giờ cũng có sự đánh
đổi giữa cái được và cái mất. Vấn đề là cần xem xét và đánh giá chính xác được những các
được và mất đó trên các giác độ tổng thể kinh tế - xã hội cả trong ngắn hạn và dài hạn.

Thứ hai, cần nâng cao năng lực điều hành của chính phủ. Nhiệm vụ điều hành kinh tế vĩ mô
trong thời gian tới là rất phức tạp, khó khăn, đòi hỏi Chính phủ và các cơ quan chức năng phải
bám sát tình hình và có những chính sách, giải pháp chỉ đạo điều hành kịp thời, linh hoạt, phù
hợp trong thực thi chính sách tài chính, tiền tệ. Chính phủ cũng cần nâng cao năng lực dự báo
và tăng cường phối hợp trao đổi thông tin dự báo giữa các cơ quan dự báo của chính phủ với
các tổ chức nghiên cứu trong nước và quốc tế. Cần có cơ chế phối hợp đồng bộ, toàn diện hơn
nữa giữa các chính sách kinh tế vĩ mô, đặc biệt là sự phối kết hợp chặt chẽ ngay từ khâu hoạch
định chính sách tiền tệ, chính sách tài khoá, chính sách tỷ giá và các chính sách khác để giải
quyết và đạt được các mục tiêu kiềm chế lạm phát, ổn định thị trường ngoại tệ. Hơn nữa, nhà
nước cũng cần đánh giá, ghi nhận sự phản hồi sau một giai đoạn thực hiện chính sách để qua
đó có thể có những điều chỉnh cụ thể kịp thời.

Thứ ba, để giải quyết bài toán tài trợ ngân sách, có thể phối hợp nguồn tài trợ ngân sách từ
trong nước và nước ngoài. Nếu sử dụng chính sách vay nợ nước ngoài nhằm tạo nguồn cho các
khoản chi tiêu của chính phủ, thì các khoản nợ phải được sử dụng đúng mục đích và có hiệu
quả, đảm bảo nguồn trả nợ trong tương lai. Bên cạnh đó, cũng cần tính toán những ảnh hưởng
tiêu cực của chính sách vay nợ nước ngoài đến tỷ giá và cán cân thương mại vốn đã thâm hụt.
Đối với trong nước, cần cải cách lại cơ chế cấp phát ngân sách và kiểm soát chặt chẽ các khoản
chi nhằm đảm bảo chi ngân sách có hiệu quả.

Thứ tư, hiệu lực tác động của các chính sách kích thích kinh tế phụ thuộc vào hiệu quả sử dụng
và hấp thụ vốn đầu tư của nền kinh tế. Do vậy, cần tập trung vào tái cơ cấu doanh nghiệp Việt
Nam, đặc biệt là các doanh nghiệp nhà nước, cần rà soát lại hệ thống doanh nghiệp DNNN, kiên
quyết cắt bỏ các DNNN làm ăn thua lỗ. Bên cạnh đó, cần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu
tư, đặc biệt là nguồn đầu tư từ ngân sách. Cần nghiên cứu lại việc phân bổ và sử dụng nguồn
lực theo hướng nguồn lực cần phải được phân bổ đến những ngành có độ lan tỏa lớn, có giá trị
gia tăng tạo ra cao. Ưu tiên hỗ trợ những doanh nghiệp mới có phương án kinh doanh khả thi và
những doanh nghiệp có khả năng phát triển, có khả năng tiếp cận được với công nghệ hiện đại
để giúp họ trang bị lại thiết bị, cải tiến công nghệ nhằm bắt kịp với nền sản xuất của thế giới. Sau
khủng hoảng kinh tế toàn cầu, chúng ta thấy rõ được những điểm yếu của nền kinh tế và do vậy
đây là cơ hội để tái cấu trúc nền kinh tế. Tuy nhiên, tái cấu trúc không phải là một bài toán ngắn
hạn mà phải được xây dựng và tính toán cẩn thận dựa trên những luận cứ về thực lực của nền
kinh tế và những biến động của kinh tế thế giới.

Thứ năm, mức độ và hiệu quả của tái cơ cấu nền kinh tế lại phục thuộc vào việc giải quyết các
“nút thắt” của nền kinh tế, đó là cơ sở hạ tầng, nguồn nhân lực, công nghệ và bộ máy quản lý
hành chính. Thực tế cho thấy, việc thực hiện các chính sách để giải quyết các nút thắt này luôn
mang lại những tín hiệu tốt cho dài hạn và không làm méo mó toàn bộ nền kinh tế. Do vậy, một
khi nền kinh tế đã khôi phục trở lại, cần chuyển sang ưu tiên đầu tư để giải tỏa các nút thắt trên.

Cuối cùng, trong điều kiện suy giảm kinh tế cần quan tâm bảo đảm an sinh xã hội. Điều này
không chỉ có ý nghĩa kinh tế mà còn có ý nghĩa chính trị sâu sắc. Về mặt nguyên tắc, toàn bộ các
tầng lớp dân cư phải là đối tượng được hưởng thụ an sinh xã hội. Tuy nhiên, trong điều kiện
hiện tại có lẽ nên quan tâm nhiều hơn đến nông dân, đối tượng chính sách và các nhóm đối
tượng yếu thế, rủi ro hay chịu thiệt thòi... Việc quan tâm bảo đảm an sinh xã hội cho những đối
tượng này không những góp phần kích thích, phục hồi tăng trưởng kinh tế mà còn bảo đảm ổn
định về mặt xã hội.

You might also like