You are on page 1of 59

Tự luyện thiết sa chưởng 1

Tự Luyện Thiết Sa Chưởng


GS Hàng Thanh

Phương Thái Không Đại Sư

Nhà Xuất Bản Võ Thuật

- 1972 -
Tự luyện thiết sa chưởng 2

Lời Tựa
Rừng văn, biển võ… Người có chí đến mấy học hết trăm năm chưa gọi là
cùng. Một vị Thiền Sư nói với các môn đệ rằng : « Về võ học, học ít biết ít,
học nhiều biết nhiều, vô cùng vô tận ». Xem thế quả kiến văn của ông
vượt hẳn nhiều vị võ sư đồng đạo hiện thời.

Xét lại nhân tài đưng thời quả khó phân khó định, kẻ cao chiêu này, người
giỏi thế nọ, bài bản, môn trường dị biệt. Học trò ai khen thầy nấy là lẽ
thường. Nhưng gẫm công phu hàm dưỡng cho có căn bản thì mấy ai được
mười phần hiểu biết hay sở luyện đến nơi đến chốn để có thể làm rạng
danh môn phái bằng con đường chân chánh.

Sách xưa có dạy luyện quyền đến già đời mà không luyện công phu thì
đến cũng coi như chỉ đạt được có mấy thành. Đến nay điều dạy bảo nầy
được chứng nghiệm quá rõ, nhiều vị lão sư thân hữu đã thú nhận rằng
mình lão nhược lắm rồi phải chi lúc nhỏ chịu luyện công phu thì lúc già đời
cũng còn hữu dụng.

Tình cảnh các võ sư VN cũng trong hoàn cảnh như thế, chẳng mấy người
có công phu để mà dưỡng lão. Về phần truyền bá lại càng ít ỏi hơn, trong
khoảng 40 đến 50 cuốn sách viết về võ học các môn phái trong đó có
Quyền sư Phan Chấn Thanh, Giáo sư Hàng Thanh đã chiếm hơn 3O quyển
rồi, các tàc giả khác hoặc viết hoặc dịch thuật mỗi người một hai quyển,
tất cả đều cũng chỉ chuyên chú trình bày cách thức luyện tập các bài bản
Thập bát ban võ nghệ, tuyệt không thấy trình bày một bộ môn luyện tập
công phu chân truyền. Âu đó cũng là một thiếu sót lớn lao cho nền võ học
nghệ thuật bản xứ và thế giới nói chung.

Vì nhận thấy chỗ khiếm khuyết có lẽ còn lâu mới có người bổ túc tôi mạo
muội đứng ra thu góp trình diện cùng đồng đạo chút tài liệu, ý những
mong sự đóng góp nầy làm được lợi ích phần nào cho chư huynh đệ đồng
đạo võ lâm trên đường học luyện võ nghệ thênh thang.

Đó là việc trình bày PHƯƠNG PHÁP LUYỆN THIẾT SA CHƯỞNG, môn công
phu rất dễ luyện, hợp với tất cả môn sinh mọi môn phái, mà sự thành
công trên phương diện công phu đả thương được coi như hoàn toàn hiệu
quả mỹ mãn. Người luyện thành công phu nầy ắt là không đến nỗi mang
tiếng là uổng phí cuộc đời luyện tập như những vị võ sư cao niên thường
than phiền.

Một điều đáng lưu ý để tránh sự hiểu lầm, cuốn sách nầy một phần công
lao phải kể là của Hồ quyền sư xứ Hương Cảng, thứ đến tôi soạn lại và
thêm thắt đôi điều, bớt đi đi chỗ cho được như ý và tiện việc cùng bổ ích
trong lúc nghiên cứu học hành của môn sinh. Tôi nghĩ với

tôn chỉ nhằm giúp đời truyền bá nghệ thuật nên không ngần ngại cho ấn
hành trong lúc chưa kịp diện kiến cùng Hồ võ sư để thảo luận. Tôi mong
rằng chư huynh đệ và Hồ tiên sinh niệm tình bỏ điều chê trách.
Tự luyện thiết sa chưởng 3

PHƯƠNG THÁI KHÔNG Đại sư

Cẩn bút
Tự luyện thiết sa chưởng 4

MỤC LỤC
1.- Nguồn gốc môn Thiết Sa Chưởng

2.- Sự quan hệ giữa luyện quyền và luyện công

3.- Sự quan hệ về tuổi tác khi luyện Thiết Sa Chưởng

4.- Cách dùng thuốc khi luyện Công phu

5.- Ba yếu tố quan thiết cần biết khi khởi sự luyện công

6.- Các trường phái Thiết Sa Chưởng

7.- Chương trình 100 ngày luyện Thiết Sa Chưởng

a. Phép hành công :

1) Phách pháp

2) Xuất pháp

3) Thiết pháp

4) Án pháp

5) Điểm pháp

b. Phép dùng thuốc :

1) Kỵ yếu

2) Dư công

3) Thi công

8.- Bí quyết và cách sử dụng chưởng :

1) Phách chưởng

2) Xuất chưởng

3) Thiết chưởng

4) Ấn chưởng

5) Chỉ, điểm

9.-Hổn nguyên chưởng pháp


Tự luyện thiết sa chưởng 5

1) Cách luyện Hổn nguyên chướng pháp

2) Hành công

10.- Khẩu quyết chưởng pháp :

1) Khí chí đan điền thố

2) Toàn lực chú chưởng tâm

3) Án thực thủy đụng lực

4) Thố kinh tuy khai thanh

5) Thôi nghi triều thượng khởi

6) Khẩn bức đoạn mã đăng

7) Tam tự : triêm, ấn, thố

8) Đô dụng tiểu thiên tinh

11.- Bí quyết dùng thuốc khi luyện chưởng :

(Gồm 9 bài thuốc ngâm tẩm)

12.- Cách khám và trị người luyện công bị thương :

1) Nội thương

2) Ngoại thương

13.- Phần thắc mắc quan trọng của môn đồ võ lâm khi luyện thiết sa
chưởng
Tự luyện thiết sa chưởng 6

CHƯƠNG I

NGUỒN GỐC MÔN THIẾT SA CHƯỞNG

Tính đến nay, nhân tài thành tựu về môn Công phu Thiết Sa Chưởng có
đến như cát sông Hằng Hà bên Ấn Độ hay sông Cửu Long VN, nhưng tuyệt
nhiên chưa bao giờ cũng như chưa có ai biết đích xác thời đại và ông tổ
sáng lập môn phái. Dù vậy những kết quả chứng nghiệm được đã làm cho
môn sinh thành tựu vang danh trong chốn giang hồ đã cho giai cấp võ sĩ
hăng say rèn luyện. Trong khi đó nhiều giả thuyết, tích được lưu truyền
như nguồn lịch sử của bản môn.

Các võ gia hữu học thường căn cứ vào những tài liệu như bản thảo, sách
bí lục Nội Công, Dịch Cân Kinh, vv… của Thiếu Lâm tự : (quyển Chân kinh
nầy khắc trên gỗ vào đời của Gia Khánh nhà Thanh) trong sách có đoạn
dạy cách luyện Thủ Công (tức công phu đôi tay) và cũng ghi kỷ lưỡng
cách luyện đôi chưởng. Với tài liệu này giới Võ Thuật xem như một khám
phá xa xưa nhất về Võ học được viết bằng văn tự nói về cách luyện đôi
Chưởng.

Một đoạn trong sách mộc bản ghi... “Sau khi hành công, đến phần luyện
tay, phương pháp này thường phải dùng nước đun (nấu) nóng, rồi cho tay
vào mà ngâm luyện. Ban đầu nước chỉ hơi ấm ấm, dần dà thời gian sau
nước được nóng hơn, đến sau cùng nước nấu sôi vẫn cho tay vào tẩm
luyện.

Khi rút tay ra khỏi cho nước sôi dùng ngâm luyện thời những giọt nước
còn đọng lại trên da không được lau khô đi, cứ để cho nước tự rút khô trên
tay. Và khi luyện công thần phải yên tĩnh, ý chí tập trung chuyển ra bàn
tay rồi ra các đầu ngón tay. Đó gọi là Pháp môn gây sinh lực cho đôi
chưởng.

Ngoài ra còn phương pháp dùng đậu đen và đậu xanh đổ chung vào chảo
lớn rồi cũng đun nóng dần như nước, cũng chọc tay vào luyện công cho
đôi chưởng.

Phương pháp thứ nhất dùng nước sôi ngâm luyện đôi chưởng được coi như
làm điều hoà khí huyết trong châu thân.

Phương pháp thứ nhì với hai thứ đậu, theo lời truyền tụng có tánh chất
khử độc hỏa do luyện công mà sinh. Nói chung có hai phương pháp chủ
đích vẫn là rèn luyện cho đôi tay trở thành sắt thép.

Cũng theo sách xưa truyền lại thì cả hai phương pháp luyện chưởng trên
nếu người năng luyện tập trong thời gian lâu dài thì khí tích sẽ dồn về hai
tay, do đó tay sẽ rắn chắc như sắt thép, gân cốt cứng cáp vô cùng.
Nhưng, điều cần thiết để công phu không bị suy giảm là phải năng luyện
tập và sử dụng.
Tự luyện thiết sa chưởng 7

Khi trui luyện đôi tay đến mức độ tinh vi thì tự nó cứng chắc có thể chọc
lủng tường gạch, vách cây, làm tan đá lớn, và trong cuộc giao đấu không
thể có nhân sự đón đỡ nổi. Sức mạnh khủng khiếp đó là tự phát sinh trong
xương cốt do sự trui luyện có phương cách mà ra ...”

Xem đoạn văn trích từ bản Dịch Cân Kinh ta thấy môn công phu luyện cho
tay cứng chắc thường được người đời gọi là Thiết Sa Chưởng, âu cũng là
từ chỗ gốc Thiếu Lâm sinh ra. Tuy nhiên cũng còn những dữ kiện khó mà
xác định cho khỏi phần lệch lạc.

Riêng ý kiến của tôi (Phương Thái Không) thì cây có cội nước có nguồn. Võ
học cổ cựu khởi sự phát sinh từ Ấn Độ và bành trướng và thăng hoa tại
Trung quốc mấy ngàn năm, trong thời gian lịch sử vàng son của nền võ
thuật môn Thiếu Lâm do Bồ Đề Đạt ma truyền có nhiều lai lịch. Chính nơi
cửa Thiền đã đào tạo cho đời nhiều anh tài kiệt liệt và cũng đã sản xuất
nhiều vị Đại Tăng tài trí hơn đời. Có thể chính nơi môn phái có nhiều lai
lịch nầy đã truyền lại cho đời môn công phu hữu dụng nầy.

Và sau hết có điều tôi muốn mọi người ghi nhận là dù thế nào đi nữa (lịch
sử đúng hay sai cũng không quan hệ) thì việc cố công rèn luyện thành
công pháp Thiết Sa Chưởng vẫn là điều cần thiết và hữu ích nhất trong
mọi trường hợp và mọi thời đại.

Sở dĩ tôi thêm mấy câu dường như ngoại ý là vì thời đại 1972 tại nước VN
chúng ta, trong mọi lãnh vực người ta thường mang một thứ bệnh không
chữa được, đó là “Bệnh nói nhiều mà không làm được”. Mà theo như bản ý
cũng là lời dạy của Tổ sư thì người luyện võ : “Nói nhiều không bằng luyện
nhiều, luyện nhiều không bằng suy nghĩ nhiều”. Nói như thế có nghĩa,
trước phải rành lý thuyết, kế tập tinh hoa những gì học được, sau hết
quán tưởng những điều đã học để thấu đáo tận gốc, hiểu theo Khổng
Khâu tiên sinh là Trí Tri, thế mới gọi là đến nơi đến chốn trong đạo nghề
võ mà Tổ sư tâm truyền.

Mong rằng sách nầy ra đời thì có hậu sinh đọc được và làm được những gì
đã nói trên đây và sau đây. Được như thế thì người bỏ công soạn sách và
tiền nhân đã vui lắm rồi vậy.
Tự luyện thiết sa chưởng 8

CHƯƠNG II

SỰ QUAN HỆ GIỮA LUYỆN QUYỀN VÀ LUYỆN CÔNG

Ngạn ngữ có câu :

Luyện quyền bất luyện công

Đáo lão nhất trường không

Có nghĩa là luyện quyền chưởng mà không chú tâm luyện công lực thì dù
có tập đến già đời cũng trở thành vô dụng.

Trong võ học, Quyền là kỹ thuật nhằm chú trọng sự khéo léo của tay
chân, còn Công lực mới chính là căn cơ để quyết định khi ứng dụng mọi
thế võ mọi bài quyền.

Như vậy, nếu có chút kỹ thuật quyền cước thì tất phải có chút ít công lực
để hổ trợ làm tăng hiệu quả công phu võ học, và chính chỗ đó mới mong
chế ngự được kẻ đối thủ cường địch.

Cho nên nếu chỉ học quyền thôi, chỉ múa men không có công lực thì cầm
bằng hữu danh vô thực, không ích lợi gì trong việc cứu mình giúp đời, suốt
đời chỉ biết múa men huê dạng cbo người xem chơi.

Vì chỗ tối yếu của Công lực mà từ xưa đến nay các võ gia, danh sư hữu
học đều chú trọng cả hai, luyện quyền và luyện cả Công lực, cũng như
suốt đời không dám xao lãng.

Vậy Công phu là gì ?

Theo danh từ võ học lược giải của Giáo sư Hàng Thanh thì : Công phu hay
Công lực gồm có Nội Công và Ngoại Công hay còn gọi là Nhuyễn Công và
Ngạnh Công. Nội Công là phép luyện vô hình dẫn lực, Ngoại Công là phép
luyện hữu hình hữu lực...

Nói rõ hơn, Nội Công vô hình lấy việc luyện khí làm cốt yếu, tức luyện dẫn
khí trong cơ thể. Ví như môn Tọa thiền của Thiếu Lâm, môn Đạo Dẫn của
Võ Đang v.v… Môn võ học cao tuyệt này rất thâm thúy khó học, không có
danh sư hướng dẫn khó bề luyện tập thành tựu được. Môn Ngoại Công hay
Ngạnh Công là môn võ Hữu hình, lấy việc luyện kình lực làm chủ đích, tức
luyện cho gân cốt bên ngoài cho đặng cứng chắc, đó cũng là môn võ học
mang tên Thiết Sa Chưởng tôi đang trình bày.

Cả hai môn võ học tối thượng nầy khi luyện thành đến chỗ tinh diệu của
nó thì khi vận chuyển hơi khí thì toàn thân sẽ thành cứng rắn như tường
đồng vách sắt không hề sợ gươm đao chạm vào da thịt.

Như dẫn giải trên, Nội Ngoại công chia ra làm hai trường phái : Nhuyễn
công và Ngạnh công. Đối với việc tập luyện thì Nhuyễn Công khó luyện
hơn, lối tập luyện nầy được coi là luyện Âm Kình, khi luyện thành lúc đả
Tự luyện thiết sa chưởng 9

thương thì bên ngoài chẳng thấy đấu tích gì nhưng bên trong bị tan nát
gân thịt, phế phủ. Đôi khi xuất thủ chưa đụng đến thân mà đối phương đã
bị thương trầm trọng hoặc đã tán mạng rồi. Sự lợi hại âm kình của Nội
công hay Nhuyễn công là như thế. Môn võ công nầy được tiêu biểu trong
phép luyện Khinh thân Công pháp, và võ công Chu Sa Chưởng v.v... rất
khó luyện.

Riêng Ngạnh công thì rất dễ luyện, bởi vì loại công phu nầy thuộc về
Dương kình. So bề lợi hại về sức tàn phá của môn Dương kình thì không
bằng âm kình, nhưng sự lợi hại về sức tàn phá của Dương kình cũng rất
khủng khiếp.

Một điều đáng mừng cho độc giả (môn sinh không có thầy) là môn Dương
kình rất dễ luyện, dù rằng không có chân sư chỉ dạy mà chỉ cần đọc sách
rồi chuyên tâm trì chí luyện tập lâu ngày sẽ tbàlth công. Vì lẽ giản dị dễ
học như thế nên môn sinh của học phái Dương kình rất đông ví như Thiết
bích công, Tiên nhơn chưởng, v.v…

Riêng Thiết Sa Chưởng là môn Ngạnh công, tuy nhiên trong cách tập công
như khi thành tựu, lúc phát kình Dương lực có mang phần nào tánh Âm
kình thành thử dưới mắt võ lâm cao nhân môn võ học rất được mọi người
khen ngợi và cổ súy rèn luyện.

Một câu chuyện được giới võ thuật tại Trung Quốc thường nhắc đến như
một giai thoại võ học, chúng tôi xin kể ra đây để độc giả thấy sự lợi hại về
công lực của phép luyện Kình khi đã đến chỗ thành tựu.

Vào năm Dân quốc thứ 17 (1929), một đanh sư võ học tên Cố Mi Chương
một hôm dạo chơi xứ Quảng Đông gặp một lực sĩ người Nga to lớn đang
bày trò mãi võ tại đất Quảng mà con ngựa của người Nga là một võ sĩ rất
lợi hại. Người Nga đại lực sĩ rất tự đắc dẫn con thần mã giới thiệu với quần
chúng, đây là con ngựa thần rất hung dữ, không ai có thể hàng phục nó
được mà chỉ có Đại lực sĩ Nga là khống chế nó dễ dàng, ngay trong lúc nó
nổi điên. Thật ra thì ngựa nào chủ nấy, hắn đã huấn luyện con ngựa dữ đã
thuần theo ý hắn, con ngựa biết tránh né và phản kích với đối thủ của nó,
và luôn luôn tỏ ra hung hăng ngoại trừ chủ nó. Cho tới buổi hôm đó tại
đất Hồ Quảng đã có nbiều vị võ sư xứ Quảng đã bị ngựa đá trọug thương.
Cố Mi Chương mang mối bất bình, phần động lòng tự ái quê hương. Cố Mi
Chương vào trường đấu với ngựa dữ. Con ngựa quả tinh khôn và kiêu
dũng, võ sư Cố Mi Chương cùng ngựa thần quần thảo đến ba phút, và một
thoáng nhanh như điện, vị võ sư đã phát vào lưng ngựa một chưởng làm
ngựa thần hí lên một tiếng khủng khiếp rời ngã khụy xuống đất, chẳng
mấy chốc nó trào bọt mép và chết hẳn. Người Nga biết mình không địch
lại vị võ sư lỗi lạc này nên nhân lúc bộn rộn thu gọn hành trang lẫn đi mất
dạng. Người ta xem xét xác ngựa thì bên ngoài chẳng thấy dấu tích chi để
khẳng định là ngựa đã thọ thương, người ta mang ngựa xẻ ra mới hay lá
gan ruột con ngựa đã nát bấy vì phát chưởng của vị võ sư họ Cố. Bấy giờ
người ta mới biết rõ là võ sư họ Cố đã dùng môn võ học Âm Kình thượng
thừa để giết ngựa, bảo vệ danh dự cho xứ Quảng. Trong trường hợp nầy
nếu dùng Dương Kình đả thương ngựa thì bên ngoài tất có dấu vết dập bể,
Tự luyện thiết sa chưởng 10

mà bên trong xương cốt ngựa cũng bể nát. Xem thế mới biết Âm Kình rất
đổi lợi hại khó dễ đo lường.
Tự luyện thiết sa chưởng 11

CHƯƠNG III

SỰ QUAN HỆ VỀ TUỔI TÁC KHI LUYỆN THIẾT SA


CHƯỞNG

Thầy dạy võ xưa thường bảo : « Tập luyện võ công cốt ở chỗ trường kỳ cố
gắng, lâu ngày ắt được thành công. Bởi thế tuổi tác không phải là hạn chế
hay cốt yếu mà điều cần biết được coi là bền chí theo đuổi lâu dài ».

Tuy nhiên trong võ học có vài môn công phu cũng cần một vài điều kiện
tiên quyết, như việc luyện tập môn « Tráng khí công ». Muốn luyện môn
công phu nầy phải là một đồng nam, và tuổi không quá 20 thì việc rèn
luyện mới thành tựu được.

Lý do chánh yếu cần đến tuổi đồng nam vì trong tuổi đồng nam tâm hồn
còn trong sạch không có nhiều tạp niệm, trừ việc ăn ngủ (thanh niên bây
giờ, nhất là nơi thành thị và các nước văn minh, thị dục và sinh lý đa số
phát triển sớm và được xã hội tệ hại hướng dẫn nên thường hư hỏng ngay
từ thuở 14, 15, hạng nầy không thể luyện được bất kỳ thứ võ công nào)
nên dễ luyện Tráng khí công. Hơn nữa với tuổi đồng nam cơ thể con trẻ
còn Thuần Dương, tâm trí dễ tập trung vào một nơi khiến cho thần khí
sung mãn càng dễ đạt kết quả trong việc tu tập môn võ công nầy.

Những người thành niên (Âm Dương điều hòa) bởi bị thất tình ngoại cảm,
lục dục nung nóng nội tâm khiến cho tạng phủ bị ảnh hưởng không tốt
thành dễ vấp phải chứng « ngoại ma, nội tà, tâm hồn không thuần khiết,
tất là khó luyện thành môn công phu Tráng khí ». Đây là trường hợp ngoại
lệ có giới hạn tuổi tác.

Phép luyện Nội công trước nhất là diệt lòng tà niệm (nghĩ bậy) để tâm hồn
trở nên tỉnh táo sáng sủa sau đó mới thi bành những tư thế qui nạp khí
lực. Bởi chỗ tâm hồn không mấy trong sạch, trí não bận việc buồn vui nên
người thành niên khó bề luyện thành môn Nội công. Nhưng nếu kẻ có
chân tu trường kỳ tĩnh luyện cho tâm hồn trở nên thuần khiết, ý tưởng tập
trung, bỏ được tạp niệm thì công việc tu luyện tiếp phần nội công cũng
không phải là điều khó. Một ví dụ là Giáo Sư Hàng Thanh, đệ nhị đại đồ đệ
của Thiền sư Thiện Tâm, hiện mang đẳng cấp đệ thất đẳng huyền đai, lúc
gặp chân sư thì đã gần 30 tuổi, thế mà sau sáu năm tu tập môn Khí công
đã chứng nghiệm được kết quả đáng kinh ngạc : cánh tay của GS đưa ra
mềm mại không dẫn lực thế mà hơn sáu bảy người có trình độ vẫn không
thể làm cho cánh tay gập lại. Chúng tôi đã được GS biểu diễn cho xem
trong kỳ đại hội của Tổng Hội Dịch Lý Việt Nam năm 1972. Ngoài việc GS
thổ nạp chân khí thiên niên để có sức mạnh vạn năng, nghe đâu GS còn
tập được nhiều công phu cao thượng mà đời nay cho đến người tuổi tác
vẫn chưa ai đắc ngộ. Đó cũng là một kỳ duyên hạnh ngộ cho Giáo sư.
Theo chỗ được biết qua những sư huynh đệ của Giáo Sư thì Giáo sư
thường trường trai và tĩnh luyện, đời sống thật là đơn giản.

Thí dụ trên cho chúng ta thấy cuộc đời và thành quả của một cao thủ (GS
Hàng Thanh) đã thành tựu môn Nội công lúc tuổi tác trên dưới 40, như
Tự luyện thiết sa chưởng 12

vậy việc tu tập nội công cũng có thể thành tụ được đối với những người
lớn tuổi dù rằng hơi khó.

Tuy nhiên, việc tu luyện về công phu thì rất dễ dàng, không đòi hỏi tâm
hồn hiệp nhất, việc tập trung tinh khí thần. Người thanh niên lại càng dễ
thâu nhận kết quả hơn những người đồng nam hay nữ. Vì, việc tu luyện
môn Ngạnh công đòi hỏi thể chất phát triển đúng mức. Và nhờ cơ thể đã
phát triển hoàn bị nên dễ chịu đựng được những khổ hạnh trong lúc luyện
công mà không hoặc đã có ít ảnh hưởng đến sự phát triển sinh lý có hại
cho cơ thể tuổi vị thành niên.

Cổ nhân thường bảo : « Phàm nhân hữu khí tức hữu lực, hữu lực tức năng
luyện công giả », nghĩa là phàm con người có hơi thì có sức, mà có sức thì
có thể rèn luyện võ công được ».

Đối với những người thường hay đau yếu, cơ thể bẩm sinh suy nhược thì
cũng không thể luyện Ngoại công được vì như thế sẽ có điều di hại cho
sức khỏe không ít. Như vậy cũng là đáng buồn cho những người bẩm sinh
căn cơ không có, nhưng cũng có thể từ từ mà cải biến thể chất bằng cách
rèn luyện cơ thể điều dưỡng cho thân thể được tráng kiện bằng thuốc
thang hoặc ẩm thực trị liệu, sau đó tập dần dần, dù lâu hơn người bình
thường nhưng rồi cũng có ngày đạt được thành quả đáng ngạc nhiên. Nếu
không có những trường hợp như thế thì câu « Có chí thì nên » hoặc « Có
công mài sắt có ngày nên kim » hóa ra không đúng sao.

Đối với tác giả thì :

Hữu sinh tất hữu diệt

Mà hữu luyện tất hữu thành. Ngẫm nghĩ xưa nay mọi việc đều không
ngoài ý ấy. Vậy độc giả đừng lo ngại vì mình yếu ốm quá để bắt đầu luyện
tập môn Thiẽt Sa Chưởng. Hãy bắt đầu từ từ và trường kỳ luyện tập. Mức
thành công chỉ với một tầm tay không có gì là khó.
Tự luyện thiết sa chưởng 13

CHƯƠNG IV

CÁCH DÙNG THUỐC KHI LUYỆN CÔNG PHU

Luyện công tức là làm một môn thức nào đó cho thân thể mỗi ngày tăng
thêm phần tráng kiện, cho nên một khi con người đã đủ tráng kiện thì việc
luyện công là thừa hay phản lại tự nhiên. Đó là lý luận thông thường, đối
với nghề võ có khác, người luyện võ đi tìm những điều mới lạ gần tự nhiên
trong những điều mất tự nhiên. Ví như việc tập Thiết Sa Chưởng, người
luyện lấy chỗ mềm yếu của da thịt để thi thố cùng cái dẻo, cứng của sa
sắt.

Vì lẽ đó khi hành công luyện pháp không có sự hổ trợ của thuốc thang thì
làm sao tránh khỏi những thương tích làm trở ngại cho việc tu luyện
thường xuyên. Nhờ có thuốc thang, máu không bị ứ đọng, nhưng tụ, da
thịt không bị sưng bầm đau đớn thái quá. Nếu người tập xuẩn động không
chịu biết đến thuốc thang thì máu huyết ngưng tụ nơi tay làm cho hai tay
bị thương tổn, dần dà bị hủy hoại hoặc thương tổn đến tạng phủ vì sự
chấn động do tập luyện sai sách.

Để có thể thành tựu môn công phu chân chính Thiết Sa Chưởng, người
luyện phải dùng những dược liệu chân truyền, xoa hoặc ngâm đôi tay theo
những giờ khắc nhất định để cho dược chất đủ ngấm vào bên trong da
thịt, để có những va chạm mãnh liệt từ bên ngoài tới đôi tay đã được dược
liệu hổ trợ đề kháng những tệ hại có thể xảy ra như tay khỏi sưng bầm, tụ
máu, rách da, trật xương.

Sau khi luyện công còn phải ngâm tay vào dược chất để cho da thịt xương
cốt cứng chắc thêm lên và sự thành công mau đến hơn.

Đối với người luyện Thiết Sa Chưởng, thuốc là yếu tố tối cần thiẽt, không
thể thiếu trong mỗi buổi luyện công. Trái lại sẽ gặt hái những hậu quả vô
cùng tai hại.

Theo võ thư, võ dược chia làm ba loại :

1) Dược tửu (thuốc rượu)

2) Dược xú (thuốc dấm)

3) Dược thang (thuốc thang).

Theo kinh nghiệm của tôi trong nhiều năm dùng thuốc thì loại dấm thuốc
tay tốt nhưng vì là loại chua, dễ nhuyển hóa chất vôi nên có hại cho
xương. Vì thế trong nhiều trường hợp các võ sĩ vì lạm dựng thuốc dấm khi
đấu quyền, công phá đã bị gảy xương tay, hoặc cong.

Và cho đến nay những bài thuốc ngâm rượu vẫn là sở thích của các nhà
luyện võ chân chính. Đối với rượu có công dụmg chỉ thống nghĩa là làm
giảm bớt sự đau nhức, tan máu bầm, không ảnh hưởng làm hư hại chất
vôi trong cơ thể.
Tự luyện thiết sa chưởng 14

Thuốc thang thường cũng đánh tan máu bầm, ứ nhưng chỉ thông cấp thời
không thể nào sánh được với dược tửu. Do đó bao giờ cũng vậy, rượu
thuốc vẫn là món hảo hạng dùng hổ trợ cho sự luyện công.

Tuy thế không phải nghe thuốc rượu là tốt rồi cứ lạm dụng hoặc dã bạ
thang dược nào cũng mang ngâm rượu mà dùng thì chẳng những không
thâu nhận được kết quả tốt đẹp nào còn đôi khi bị hại nữa là khác. Vì thế
tác giả có lời khuyên độc giả hãy cẩn thận, bằng cách nghiên cứu kỷ sau
khi đã biết chắc là thang dược chân truyền mới dùng. Có như thế thì việc
dùng thuốc mới không di hại cho bản thân.
Tự luyện thiết sa chưởng 15

CHƯƠNG V

BA YẾU TỐ QUAN THIẾT CẦN BIẾT KHI LUYỆN CÔNG

Hành công luyện chưởng có ba điều tối cần phải lưu tâm kẻo mai hậu có
mắc phải những tệ hại nguy hiểm thì khó bề cứu chữa :

- Tuần tự nhi tiến (tiến bộ dần dần, không nên đi mau).

- Hằng tâm (trì chí luyện tập không bỏ dở).

- Giảm tham nhục dục (tiết dục, hạn chế việc động phòng).

Nói chung, những người chưa bao giờ luyện tập võ nghệ thì toàn hệ thống
mạch lạc gân cốt trong thân thể nếu không đến nỗi khờ khạng không được
linh hoạt thì ít ra cũng không được linh mẫn tinh minh như những người
đã có trình độ võ công. Và đối với những người chưa bao giờ luyện võ thì
việc khởi sự luyện Thiết Sa Chưởng không phải là chuyện thành tựu dễ
dàng. Nếu như muốn luyện thì phải tuần tự từ dễ đến khó, theo sát từng
chi tiết chỉ dẫn, lâu dần gân cốt mạch lạc được linh hoạt thì con đường
thành công mới thấy ở đằng xa. Bằng vô tâm liều mạng ỷ sức tập đại càng
ý mong mau thành đạt thì chỉ rước lấy tai hại mà thôi. Trong những
trường hợp ấy nếu bị thương nhẹ nơi bên ngoài đôi tay thì chỉ gây cho
người tập những tê liệt từng bên hay cả cánh tay, nhược bằng bị thương
nặng, máu huyết tích tụ bên trong gây nên những biến chứng bên trong
cơ thể gọi là bị nội thương, còn gọi là bị ám thương (những thương tích
không lộ ra ngoài). Trong trường hợp cực nặng được mô tả như chấn động
đến tạng phủ thì tánh mạng coi như chỉ mành treo chuông.

Đời nay không thiếu chi những người trai trẻ khí huyẽt cường mạnh hàm
bồ luyện đại Công phu mà không biết đúng sai để rồi thu được kết quả
đáng thương hại là cơ thể bị lao thương, có khi cả đời mang toàn tật bệnh.
Trong những trường hợp như thế nhiều người kém hiểu bảo là con trẻ tập
nhầm môn tà công, võ bất chánh v.v… mà dáng ra chỉ nên trách con trẻ
hoặc người luyện tập thiếu thầy hay hoặc thiếu hiểu biết cách thức luyện
tập tiệm tiến mới ra nông nỗi.

Thuở nhỏ tác giả luyện công chung với người bạn họ Vương, một hôm
người bạn dư sư (dòm lén) luyện chưởng rồi về nhà bắt chước luyện tập.
Sau tôi phát giác là Vương chỉ biết hành công dùng sức mạnh mà chẳng
biết phép vận Kình (sức). Vương chỉ biết gồng cứng tay rồi dang cố lì đập
mạnh vào bao cát, tuyệt nhiên Vương không hiểu là phải làm thong thả từ
từ, buông sức và vổ nhẹ để từ từ tiến đến thành công. Sau vài tuần Vương
đã chặt gảy gạch thẻ, y lại càng đắc ý cho là mình tập đúng sách nên
càng cố chí hỏa tốc rèn luyện ngày đêm. Sau đó hơn tháng Vương ngã
bệnh, phủ tạng bị nội thương, tim bị suy nhược, thầy thuốc khám nghiệm
và cho biết như thế. Thế là Vương nghỉ tập, thế mà thời gian khá lâu sau
bệnh trạng cũng chỉ thuyên giảm một cách hết sức chậm chạp. Và theo lời
y sĩ, Vương sẽ còn phải trải qua nhiều năm tháng mới có thể lấy lại được
sức bình thường như hồi chưa khởi sự luyện Công phu. Thế mới biết cái
liều mạng trong vấn đề võ học thật chẳng có chi là lợi, tác giả chỉ mong
Tự luyện thiết sa chưởng 16

rằng độc giả đừng bao giờ coi việc tập luyện võ công như một trò chơi giải
trí hay một canh bạc. Vì rằng cuộc đời trăm tuổi dù chẳng bao lâu trước
tạo hóa vô cùng nhưng với chừng năm tháng ấy mà biết HƯỞNG thì nghĩ
rằng cũng thú lắm rồi. Việc tu tập tuần tự trăm năm để thành công cũng
không phải là quá lâu đối với con người biết kiên nhẫn.

Cho nên dù đã nắm yếu quyết chân truyền trong tay và biết rõ chìa khóa
Tiệm tiến, Hằng tâm cũng cần phải có chân sư chỉ điểm mới có thể nắm
phần chắc trong việc luyện tập mà những trở ngại mới chắc chắn không
xảy tới một cách đáng thương tâm.

Đến như trong khi tập, hành công thấy khó mà lùi bước, thấy lạ mà ham
mê thái quá, hoặc lấy đầu này ráp đuôi nọ, nửa chừng bỏ dở thì kết quả
cũng chỉ như kẻ chưa hề biết đến công phu là gì vậy thôi.

Mỗi khi tôi tiếp xúc với người ngoài để đàm luận về điều này thì nhận thấy
mười phần đã hết tám chín thuộc về những hạng người trên. Số người
Hằng Tâm để gia công tập luyện cho đến thành công thì thật là hiếm có,
trăm người không được một. Đó là tại bởi đâu ? Võ công khó luyện quá mà
nên chăng ? Không, đó tại vì kẻ học không hằng tâm mà thôi. Nếu họ có
tâm luyện thì họ có học nội hay ngoại công thì cũng « Tam niên tiểu
thành, thập niên đại thành » chứ không để họ đi không rồi lại về không
bao giờ.

Ngoài việc tiệm tiến và hằng tâm ra còn một điều cũng rất là quan trọng,
rất là khó trừ, đó là lòng Dục. Sắc dục là một điều rất có ích cho thân thể,
nếu không biết tiết chế thì tai hại không khác chi mãnh thú, bão lực. Mãnh
thú và bão lụt còn có thể tránh được nhưng sắc dục không biết đường mà
tránh né, người đời lại còn ham mê theo đuổi nữa. Nhất là những người
luyện qua võ nghệ thì tinh khí sung túc lại càng run động trước sắc dục
cho nên khó lòng tránh được. Người bình thường còn có thể tiêu tinh
huyết bằng cách thanh tâm tiết dục, phân tán thần khí để làm nhược thân
thể đi. Còn người tập võ thì Tinh Khí Thần kết tụ nên càng phải tránh điều
sắc dục.

Ba điều trên là ba yếu điểm mà người mới hành công cần lưu lâm, nếu đã
biết rồi mà không tránh khỏi, không làm được, thì thà rằng đừng tập luyện
còn hơn. Chớ có công giây lát cũng không ích được gì cho sự nghiệp lâu
dài.
Tự luyện thiết sa chưởng 17

CHƯƠNG VI

CÁC TRƯỜNG PHÁI THIẾT SA CHƯỞNG

Mỗi cơ thể đều có sự giống và khác nhau, do đó sự luyện tập cũng cần có
chỗ sai biệt để đạt tới thành công. Sự sai khác đó đã làm nẩy sanh nhiều
phái biệt Thiết Sa Chưởng do những kinh nghiệm, chiêm nghiệm các lối
hành công và thành quả khác nhau.

Cận đại, việc nghiên cứu về Thiết Sa Chưởng cho thấy rằng các mô thức
gia truyền tuy có khác nhau mỗi mỗi, nhưng xét kỷ thì thấy người ta luyện
tập theo hai trường phái khác nhau mà thôi.

- Phái thứ nhất chủ việc trực tiếp hành công.

- Phái thứ nhì chủ về gián tiếp hành công.

Người luyện theo phái trực tiếp thì hơi giống phép luyện tay trong Dịch
Cân Kinh. Phương pháp nầy dùng một thùng lớn trong chứa đậu xanh và
đậu đen chừng hơn 10 cân. Khi luyện đứng thế Tôn Mã (ngồi chồm hổm)
bên thùng đậu, rồi hai bàn tay xòe ra thành thế cương đao đoạn ra sức
chuyển gân đâm thẳng vào thùng đậu, nếu có thể đâm đến đáy chậu thì
càng tốt. Khi đâm tới đáy thùng thì dùng sức co ngón tay lại móc đậu lên,
từ từ buông rơi những hạt đậu trong nắm tay xuống trong lúc vận sức vỗ
mạnh chưởng xuống. Như thế là hoàn tất một động tác. Người mới tập
điều thích nghi nhất là mỗi tay không nên tập quá ba kỷ động tác. Hành
công xong nên dùng thuốc ngâm rửa hai bàn tay. Nếu định thời gian tập
Sáng, Chiều, Tối thì hơn một năm đậu xanh và đen trong thùng phần
nhiều đã nát hết rồi. Và phải đổ ra rồi cho vào một nửa đậu xanh và đậu
đen cùng phân nửa thiết sa, tiếp tục luyện công trong một năm nữa thì
phân nửa đậu trong thùng cũng nát hết rồi. Thay đi, lần thứ ba nầy thùng
chứa đầy thiết sa. Luyện thêm một năm công lực đã tiểu thành. Nếu muốn
luyện thêm phải chuẩn bị số thiết sa có cạnh nhọn, gai mới tốt.

Nếu luyện theo phép trực tiếp này thì khi thành công đầu các ngón tay
đều có cục chai nhìn vào biết liền là thuộc người luyện Ngạnh công (Ngạnh
là cứng).

Phép luyện gián tiếp thì khác xa lối trên :

Dùng vải dầy may một chiếc túi (hai lớp vải), dài 9 tấc Tây (bằng ba thước
Ta), rộng 6 tấc Tây, trong chứa đầy đậu xanh và đậu đen (mỗi thứ một
nửa). Khi luyện tập lấy dây treo lên giữa phòng, đứng mã bộ, trước hết
dùng lòng bàn tay vỗ vào bao đậu, sau đến mu bàn tay như vậy gọi là
một kỷ động tác (đánh lòng bàn tay một cái rồi lật lưng bàn tay một cái).
Người mới tập không nên quá 8 kỷ động tác. Tập xong dùng thuốc rửa
bàn tay. Nếu định giờ tập là Sáng và Tối thì hơn một năm đậu đã nát, đổ
ra lấy thêm đậu mới phân nửa bao là thiết sa, phân nửa là đậu xanh và
đậu đen. Tiếp tục tập đến khi đậu nát hết thì lấy ra thay toàn thiết sa.
Luyện hơn năm nữa thì chưởng công đã khá rồi. Phép này nếu luyện tiếp
tục lâu thêm lên nữa đến khi thành đạt vẫn không thấy da chai, trông vào
Tự luyện thiết sa chưởng 18

không biết có tập Thiết Sa Chưởng. Ngoại trừ những cao thủ trong võ lâm
thì mới nhận ra sau khi đã để tâm quan sát kỷ. Phép luyện nầy tuy là
Ngoại công Thiết sa nhưng so với phép trực tiếp thì phép này tốt hơn hết.

Độc giả đã lượt qua hai cách luyện Thiết sa chưởng hẳn có vị đã thấy như
không có gì lạ và ghê gớm trong cách luyện tập như nhiều người mô tả.
Thật ra là như thế, phép luyện không có gì cầu kỳ hay huyền bí mà chỉ có
chừng ấy. Với những cố gắng thường xuyên và tiết chế mọi dục vọng mà
tuần tự tiến tới như chương trình thì nhất định thành công không khó chi
cả.

Và trong vạn hữu một cá nhân tập luyện không thành thì tại người ấy
chưa hiểu được cái lý của phương pháp mà thực hành sai đi mà ra. Còn
phương pháp bao giờ cũng đúng.
Tự luyện thiết sa chưởng 19

CHƯƠNG VII

CHƯƠNG TRÌNH 100 NGÀY LUYỆN THIẾT SA CHƯỞNG

Hành Công luyện chưởng phải để tự nhiên làm chủ yếu và mới chóng có
kết quả mà không có hại.

Môn võ công nầy thoát thai từ môn luyện chưởng gián tiếp và hoàn toàn
hơn. Ngoài việc luyện lòng bàn tay (chưởng) và lưng (mu) bàn tay, còn
luyện cạnh bàn tay (chưởng trác), chưởng căn (đầu cườm tay), đầu ngón
tay, đầu các khớp ngón tay khi co lại.

Kình lực cũng đề cập đến phách kình (sức vỗ), ấn kình (sức nhấn, ấn
xuống), suất kình (sức quật xuống), thiết kình (sức chặt, chém) điểm kình
(sức điểm, chấm tới) vv... chớ không chỉ riêng tập Phách kình và Suất
kình không thôi. Nhờ phương pháp tổng hợp có hệ thống hóa nên việc
luyện tập 100 ngày chương trình này bằng 2 năm kết quả của lối tập theo
lối cũ. Với phương pháp hệ thống hóa khi tập luyện thành công da tay vẫn
không bị chai.

A.- PHÉP HÀNH CÔNG

TRANG BỊ : Dùng loại vải dày khó rách may một túi vải hai lớp (túi vuông)
dài 6 tấc Tây, rộng 3 tấc Tây. Trong chứa đầy thiết sa vụn (vụn sắt nhỏ)
nếu không có thiết sa dùng một nửa đậu xanh phân nửa đậu đen trộn
cũng được. Một ghế bằng gỗ cao ngang rốn (rún), mặt ghế bằng ngang,
phẳng, dài và rộng, kích thước phải hơn túi thiết sa. Khi tạo được đủ dụng
cụ nầy và một bình thuốc (xem Chương 11) thì bắt đầu tập Thiết sa
chưởng được rồi.

HÀNH CÔNG : Hành công (luyện) phải lựa chỗ yên tĩnh không quấy phá, ở
phòng riêng là hay nhất. Trước tiên bỏ túi thiết sa nằm thẳng thóm trên
mặt ghế, lập tấn trang nghiêm đối diện và vừa tầm tay. Tấn kỵ mã (xuống
Trung bình tấn) hai nắm tay thu quyền bên hông, thân mình buông lỏng
tự nhiên, tâm yên bình, khí trầm đan điền (điều nầy người mới tập võ hay
tập lâu mà không nghiên cứu thì khó hiểu, nhưng cứ tưởng là mọi nguồn
hơi thở vừa hít được từ mũi đã tụ lại dưới rún, ban đầu thấy khó sau quen
dần) chăm chú nhìn vào bao thiết sa chốc lát hoặc tâm trí đặt chỗ hư
không giây lát (quên mọi việc trước cũng như sau và cả hiện tại). Đoạn
hành công theo phép sau đây :

1. Phách Pháp : (phép vỗ bằng lòng bàn tay, chưởng)

Đang trụ tấn Kỵ mã, bàn tay nhấc cao ngang mày (mắt) (Hình 1) Cánh
tay vô lực để buông rơi chưởng úp xuống bao thiết sa. Nghĩa là toàn thân
mình mềm mại khí huyết lưu thông, cả cánh tay đều để tự nhiên không
gồng lấy sức. Bàn tay tự nhiên buông rơi và vỗ lên bao thiết sa như một
vật tự nó rơi vào lòng đất bởi trọng lực của tự nó và sức hút của quả địa
cầu. (Hình 2)
Tự luyện thiết sa chưởng 20

2 . Suất Pháp : (phép quật bằng mu bàn tay)

Sau khi bàn tay rơi trọn vẹn trên bao thiết sa, nghĩa là bàn tay đã vỗ trọn
vẹn, hoàn tất động tác, thì nhấc bàn tay lên ngang lông mày (vị trí ban
đần). Rồi buông cho bàn tay tự nhiên rơi xuống, nhưng lần nầy bàn tay
xòe và lật ngửa lòng bàn tay lên trời, mu bàn tay đập (quật trên bao thiết
sa). Ý buông xả của động tác nầy cũng giống như cái vỗ trong Phách
pháp. (Hình 3)

3. Thiết pháp : (phép chặt, chém, bằng cạnh bàn tay)

Suất pháp đã hoàn tất trọn vẹn, nhấc bàn tay lên sao ngang mày như ban
đầu, tưởng tượng cạnh bàn tay cứng rắn như đã gồng lên (sự thật thì
không gồng), như người đã thành công trong võ học thì hiểu là ý lực đã
được dồn tới cạnh bàn tay, mà ý tới tức lực tới rồi. Nghiêng bàn tay cho
rơi xuống tự nhiên, cạnh bàn tay chém thẳng xuống bao thiết sa mà toàn
cánh tay cũng như toàn thân thể đều đặt trong trạng thái tự nhiên không
gò bó hay cố gắng nào. (Hình 4)
Tự luyện thiết sa chưởng 21

4. Ấn pháp : (phép nhấn (in) xuống)

Thiết pháp đã hoàn tất, nhấc tay lên ngang mày, rồi buông tay cho rơi
xuống, lần này bàn tay hơi dựng đứng lên chỉ để đầu cườm tay chạm
xuống bao thiết sa. Ý tưởng cũng như những động tác đã học trên. (Hình
5)

5. Điểm pháp : (phép chấm, chỉa, điểm)

Ấn xong nhấc tay lên, bàn tay cao ngang mày, các ngón tay cong lại như
móng chim ưng hay móng mèo xòe ra vồ mồi, tưởng tượng sức đã đầy và
cứng ở các đầu ngón tay, buông tay cho năm ngón tay rơi xuống điểm
trên bao thiết sa. (Hình 6)
Tự luyện thiết sa chưởng 22

Năm phép vừa trình bày trên tuần tự kết thành là một Kỷ động tác. Bắt
đầu luyện tập nên lượng sức mình. Phải định thời gian nhất định phải tập
buổi sáng, chiều và tối, hoặc sáng tối cũng được. Mỗi buổi tập một lần,
mỗi lần tập chừng (5) nărn kỷ động tác. Luyện xong rồi hành dược công
(ngâm hoặc thoa rửa tay bằng thuốc rượu) xong rồi mới tiếp tục tập luyện
tay kia. Những người tập một tay thì chỉ tẩm thuốc tay luyện mà thôi.

Ngày nay, trước trào lưu tân tiến nhiều nhân tài xuất hiện sáng lập nhiều
bang phái võ thuật mới rất tiện ích cho thanh niên nhưng không tránh
khỏi vài chỗ sai lầm vì thiếu sót một vài chi tiết trong việc chỉ dạy võ sinh.
Ấy một phần họ ỷ lại vào sức mạnh tráng niên, cho võ sinh tập quá bạo
cho chóng có kết quả đề quảng cáo, họ cũng chẳng biết về cơ thể học và
y lý nên đã vô tình đưa hàng vạn môn sinh dần về chỗ nguy khốn mà
không hề hay biết. Nếu những vị ấy chịu khó học hỏi nghiên cứu thêm
chút ít về y lý, y dược, thì chắc là hay cho lớp hậu tấn biết mấy.

Tôi có dịp nhìn qua những môn sinh nhỏ tuổi đầy lòng hăng hái, say sưa
luyện tập, chân đá tay đấm tận lực vào những trụ tập bao cát v.v... mà
đến khi sưng tay trật xương chỉ biết đem đi nhà thương, bệnh nhẹ thì cứ
bóp muối. Trong những buổi dạo chơi như thế lòng tôi rất phấn khởi vui
mừng vì thấy thanh niên ham mê võ thuật, nhưng lại chợt buồn vì thấy
người ta hướng dẫn chưa được vẹn toàn để đa số thanh niên đều mang
bệnh hậu, và trình độ tiến bộ về công chỉ đạt được có phần sơ đẳng rồi
không thể nào vượt được cao hơn. Tôi soạn cuốn sách này là có ý giúp
ngầm cho thanh niên võ sinh mọi môn phái đó.

B.- PHÉP DÙNG THUỐC (Dược Công)

Nllư đã nói ở những chương trước, tập luyện không thuốc thang thì chớ
nên tập, vì có thành tựu đôi chút mà thân thể đã hóa ra bệnh hoạn rồi. Mà
có thuốc để đó nhưng không biết cách dùng cũng chẳng lợi ích bao nhiêu.
Vậy nên trước khi bắt đầu rèn luyện môn Thiết sa chưởng nên biết rõ ràng
cách Hành công, rồi đến cách sử dụng Dược công, có như thế mới mới đạt
được kết quả mà vô hại. Sau đây là cách xài thuốc rượu (thuốc ngâm
trong rượu) :
Tự luyện thiết sa chưởng 23

Trước mỗi buổi luyện tập (hành công) lấy bình thuốc rượu ra để bên sân
phòng tập, cho tay vào bình ngâm cho thấm đều tay rồi lấy tay ra (đậy
nắp bình lại cho kín hơi) dùng tay còn lại xoa nắn cho nóng toàn diện bàn
tay, xong lại ngâm và xoa bàn tay còn lại. Sau khi đã thi hành dược công
rồi mới bắt đầu tập Thiết Sa chưởng.

Sau khi tập đủ 5 kỷ cho một tay thì cũng phải hành dược công tay đã tập
xong. Kế đến mới bắt đầu tập tay bên, khi xong cũng làm như bàn tay đã
tập trước.

(Ngoài cách dùng rượu thuốc còn cách dùng dấm thuốc và thang thuốc,
xin xem chương 11).

Ngoài việc dùng thuốc và biết phép hành công cho đúng phương thức, còn
cần biết vài điều thiết yếu trong lúc đang tập và san khi tập xong. Những
điều phụ thuộc nầy cũng cần yếu không thể thiếu được trong mỗi buổi
tập, do đó võ sinh chờ chễnh mãng xem thường mà đôi khi gặp phải
những chuyện không hay.

Ba điều kỵ khi tập Thiết Sa chưởng :

1) Không được mở miệng trong khi tập, hoặc thở bằng miệng.

Vì lúc tập bụi của thiết sa bay lên, nếu hít vào phổi qua miệng rất nguy
hiểm. Nên khi tập Thiết sa chưởng cần phải có tấm vải sạch trùm mũi và
miệng để che những bụi sắt có hại.

Một vài vị võ sư kinh nghiệm cho biết trong thời gian tập Thiết Sa chưởng
thì cách chừng vài ngay nên ăn một lần huyết heo nấu, luộc chín, để tinh
khiết dạ dày và ruột. Điều nầy không bắt buộc vì nếu chúng ta bịt khăn
che bụi sắt thì đã che đi phần nguy hại rồi, và người dùng chay thì cũng
không thể nào áp dụng nguyên tắc ăn huyết heo được.

2) Kỵ dùng sức nơi cánh tay :

Khi hành công luyện chưởng không nên dùng sức cả cánh tay mà phải để
tự nhiên. Và điều nên nhớ là không bao giờ vận dụng sức mạnh để tập 5
thức Thiết Sa chưởng : Phách, suất, thiết, ấn, điểm.

3) Kỵ tinh thần bất tập trung :

Luyện chưởng hành công thần bất tập trung và chú ý thì Tắc ý bất chi (tới
nơi), ý bất chi tắc khí bất hành, khí bất hành tắc kình bất quán (tức không
dồn đến được như ý), kình bất quán tắc chưởng lực tất lưu chuyến ra
ngoài.

Điều phải làm sau buổi tập (Dư Công)

Trong suốt buổi tập xuống tấn kỵ mã nên sau khi tập xong trước khi bước
đi nên lấy tay xoa hai đầu gối cho nóng lên rồi định thần lại rồi mới bước
đi từ từ vài vòng, đồng thời duỗi, xòe các ngón tay, nhún chân lên xuống
Tự luyện thiết sa chưởng 24

vài lần để làm dãn các bắp thịt, gân cốt và thông huyết khí tránh những di
hại về sau.

Kiểm chứng thành quả (Thứ Công)

Sau 100 ngày luyện Thiết Sa Chưởng có thể dùng gạch tiểu để đo lường
kết quả.

Khởi đầu lấy gạch tiểu vừa đừng cứng lắm, sắp làm ba viên chồng lên
nhau ngay ngắn, dùng Ấn chưởng, trụ tấn Kỵ mã vận sức toàn thân ấn
xuống giữa viên gạch. Gạch gãy thì tiếp tục thử Thiết chưởng, Phách
chưởng, Suất chưởng. Nếu có ván mỏng 5 phân Tây cũng dùng thử như
trên.

Mỗi một tác động đủ làm gạch, gỗ tan vở là coi như đã đạt trình độ sơ
thành, đủ dùng vào những việc tự vệ thông thường. Muốn đạt trình độ cao
hơn phải thêm thời gian và công phu luyện tập. Điều nầy đã nói ở phần
trên cuốn sách.
Tự luyện thiết sa chưởng 25

CHƯƠNG VIII

BÍ QUYẾT VÀ CÁCH SỬ DỤNG CHƯỞNG

Bất luận Nội gia hay Ngoại gia quyền, ai ai cũng đều chú trọng đến
chưởng pháp. Đó cũng chỉ vì sự biến hóa vô cùng của nó. Trong mỗi cái
vận chuyển chớp mắt chưởng có thể biến hóa nhiều lắm rồi, có thể Điểm,
Nã, Ấn, làm đối thủ thật khó lòng tìm được cách đón ngăn.

Ngoại gia (người tập về ngoại công) thường đắc ý với đòn “liễu diệp
chưởng”. Nội gia (trường phái tập nội công) thì sở trường ngón “ấn
chưởng”.

Dù rằng những danh từ và cách ra chiêu thức có na ná khác đi đôi chút


đều không ra ngoài môn “Song thôi chưởng pháp” của Nhạc Võ Mục, Song
thôi chưởng của Võ tiên sinh danh trấn giang hồ nhờ cái lý biến hóa như
sau :

- Khuyên (chưởng chuyển động thành vòng tròn)

Khuyên lại phân biệt : Trường (dài), Đoạn (ngắn), Âm, Dương, Trực
(thẳng tới), Hoành (ngang), Kỳ (có chính có phụ).

- Thế tác thành hồi hoàn hộ loan (quay tròn trở về che chở).

- Hình như độc xà triền tuyền (như rắn độc cuốn xoáy).

Hai thứ Thế, Hình tương ứng khó đón khó ngăn (thần kỳ mạn trắc). Còn
Trường khuyên tốt nhất dùng đễ triền (vấn quanh) ví như hình loại “Lâu
thủ khuyên” trong “Lâu tất ảo bộ” của môn Thái Cực Quyền (Lâu là ôm,
choàng, dắt, dẫn. Tất là đầu gối).

Đoạn khuyên dùng để che đỡ (lan) tốt nhất. Thí dụ như Hình loại “Phiên
Cách Khuyên” trong Hoành quyền của môn Hình Ý Quyền.

Trực khuyên, tốt nhất dùng đỡ công (đánh), ví như hình loại “Xung Kích
Quyền” trong Băng quyền của môn Hình Ý Quyền.

Hoành quyền, tốt nhất dùng để thủ, ví dụ như hình loại Khuyên trong
“Vân Thủ” của môn Thái Cực Quyền.

Các thức trên có thể tìm thấy trong các cuốn quyền phổ phổ thông có bán
ngoài hiệu sách. Còn về phần biến hóa thì không thể nói vài lời là có thể
thấu hiểu được.

Nếu dùng chưởng phát lực, thì phát lực từ đan điền quán chú (dồn) vào
lòng bàn tay là việc thích đáng nhất. Vì phát lực có ngũ đình (có năm chỗ
ngưng) :

1) Lực ngưng ở vai


Tự luyện thiết sa chưởng 26

2) Lực ngưng cùi chỏ (chẩu)

3) Lực ngưng ở uyển (đầu cổ tay)

4) Lực ngưng ở chưởng (lòng bàn tay)

5) Lực ngưng ở ngón tay (đầu ngón tay, chỉ)

Phép quán (dồn sức), Kình.

Một là dùng khí hoặc dùng kình.

Thiết sa chưởng chuyên vận kình quán quán (dồn sức liên tục) nghĩa là
vận được sức vừa dồn được sức tới nơi mình muốn.

Có thể, nếu luyện hết chương trình Trăm ngày nếu đúng phép có thể vận
Kình qua ngũ quan. Lúc phát chưởng công địch có thể tùy ý mà phát kình,
không còn sự ngăn trở nào cả.

Lời dặn khi chiến đấu :

Khi giao chiến không nên dùng chưởng nắm chặt lấy người hoặc áo quần
hay binh khí nào của địch. Vì, bất thật tất hư năng hư bất biến hóa (ý nói
chưởng được rảnh không bận bịu thì biến hóa linh hoạt tùy ý).

Khi ra tay nên dùng đầu ngón tay do xét hư thật, khi ngón tay biết là thật
(chạm địch) thì chưởng Ấn tới nhả Kình. Như vậy nhất định trúng không
thể sai được.

Về phép đánh thì trên không được cao hơn vai, dưới không thấp quá rốn.

Khi phát tay trái thì tay phải thong thả trợ lực.

Khi phát tay phải thì thâu tay trái về để làm tăng kình lực tay công.

Hai tay như thoi đưa, như xé bông gòn : trên, dưới, trái, phải.

Sự vận dụng được tuyệt diệu là nhờ ở tâm.

Khi lãnh hội được lý thì bất luận song chưởng đều xuất : độc chưởng độc
tấn, tâm quan sát tình thế, rồi thế mới dùng Kình. Có như thế thì phần
thắng mới có thể về ta được.

Sau đây là cách sử dụng các kình của Bách nhật chưởng công :

1. Phép sử dụng phách chưởng :

Giả như ta đang đối đầu với một đối thủ :

- Địch bước tới tấn công ta bằng quyền phải ngang trung bộ.
Tự luyện thiết sa chưởng 27

- Thừa khi quyền địch đang lao tới, tay phải ta nắm lấy tay áo địch (chỗ
phía ngoài cùi chỏ) kéo mạnh cho địch về phía sau ta đồng thời phối hợp
chân phải tiến lên phía bên phải địch. Trong lúc địch đang nghiêng người
tới ta vận kình vào lòng bàn tay trái phách đúng huyệt “phượng hoàng
động” ở kẻ hai xương bả vai, nếu trúng địch sẽ thổ huyết ngã xuống ngay
vì huyệt này nằm ngay đầu lá phổi lại bị ta dùng Thiết Sa chưởng hạ thủ
thì việc xảy ra là tất nhiên.

2. Phép sử dụng suất chưởng :

Giả như ta đang đấu với địch :

- Địch tiến lên dùng phách chưởng chém bên phải ta.

- Thừa lúc tay địch đang chém xuống chưa tới, ta dùng hướng thượng
xuyên chưởng để gạt chưởng địch ra đồng thời tấn bộ gấp tới, tay trái vận
kình ấn vào tim địch.

Giả như tay ta chưa đánh trúng mà địch đã dùng cầm nã thủ tay mặt hắn
nắm đúng cùi chỏ trái ta. Ta vận dụng sức ở eo lưng phối hợp với sức ưởn
về sau của eo trái, vận kình vào mu bàn tay trái đánh một phát suất kình
vào giữa mặt hắn.

3) Thiết chưởng :

Giả như ta đang đấu với địch :

- Địch tấn bộ dùng quyền phải công ta ngay trung bộ.

- Thừa lúc quyền địch chưa tới, chưởng trái ta vận đầy kình đón thế tấn
của địch vỗ mạnh vào phía ngoài cùi chỏ tấn công của địch, cánh tay của
địch bị đánh trúng bị tê liệt ngay, hoặc trật khớp. Nếu muốn bồi thêm thì
né qua trái hắn, chân phải bước tới sau chân phải địch đồng thời vận đầy
kình vào tay chém vào cổ, huyệt Thiên trụ, thế là hết đời.

4) Ấn chưởng :

Giả thiết ta đang đối đầu một đối thủ :

Ta thấy bên phải địch bị hở, ta lập tức tấn bộ bên phải, xuất quyền bên
trái đánh vào huyệt Kỳ môn bên phải địch, nếu quyền ta đánh sắp đến nơi
liền bị tay trái địch gạt ra lại dùng tay phải đánh vào huyệt Kỳ môn ta
thì...

- Thừa lúc địch chưa kịp đánh tới, ta rút lẹ tay trái về, kế tay trái chuyển
ra chụp tay phải địch đồng thời chân trái hoành thoái (lùi ngang) về phía
sau, tay phải vận đầy kình ở chưởng phối hợp nương theo bước lùi ấn vào
huyệt Kỳ môn bên ngực bên trái địch làm địch bị trọng thương. (Huyệt Kỳ
môn nằm giữa xương sườn từ 8 và 9, thuộc can kinh nằm dưới huyệt Nhủ
căn).
Tự luyện thiết sa chưởng 28

5) Chỉ, điểm :

Giả như ta và địch đang đấu :

- Giả như địch tấn công Thiết chưởng vào huyệt Thiên trụ bên phải ta, ta
dùng tay phải để đỡ tay trái địch, đồng thời vận dụng sức nơi eo lưng chặt
lại vào huyệt Thiên trụ của địch. Lúc này nhứt định địch dùng tay phải đễ
gạt tay trái ta, như thế lúc địch đang chủ ý lo đỡ tay trái ta thì tay phải ta
buông xuống, thu về đồng thời tấn bộ sang trái địch lẹ làng, tay phải vận
kình nơi hai ngón trỏ và giữa (song chỉ) điểm vào huyệt Thiên đột dưới
trái cổ địch, làm địch té xỉu, mạnh có thế thiệt mạng.
Tự luyện thiết sa chưởng 29

CHƯƠNG IX

HỔN NGUYÊN CHƯỞNG CÔNG

Luyện Thiết Sa Chưởng 100 ngày xong, tuy công đã thành nhưng bất tiện
là không thể rời khỏi bao Thiết sa được vì nếu không luyện tập thường
xuyên công lực sẽ mất dần.

Nếu có thể hành công phu Hổn nguyên chưởng công thì chẳng những công
lực không mất mà còn tăng thêm phần Nhu công rất có lợi.

1.- CÁCH LUYỆN HỔN NGUYÊN CHƯỞNG PHÁP :

a) Dự bị :

Đứng thẳng, hai bàn chân khít nhau, mắt nhìn thẳng về trước thấy chỗ hư
không, mũi hô hấp đều đặn.

b) Thức thứ nhất :

Lòng bàn lay trái hướng lên trời, mũi bàn tay hướng về bên phải trên đỉnh
đầu, từ bên trái tay trái nâng lên (thác thiên) nâng trời. Cánh tay phải để
xuôi theo thân mình, lòng bàn tay úp xuống đất, mũi bàn tay chỉ về bên
phải, tay án đại (ấn xuống mặt đất).

Ý câu Thác thiên án địa, mang ý nghĩa tay nâng trời, tay đè địa cầu, mà
khi tập ý tưởng cũng phải như thế.

Khi làm hết sức, đến cực điểm không còn chỗ để nâng và đè thì thở ra (hít
vô gọi là hấp khí, thở ra gọi là hô khí), buông lỏng tất cả châu thân. (Hình
7)

c) Thức thứ hai :


Tự luyện thiết sa chưởng 30

Tiếp thế trên, thân không đổi, tay trái tay phải phối hợp hô hấp án thác 3
lần rồi đổi tay cũng án thác 3 lần phối hợp hô hấp. Xong chuyển sang thức
kế tiếp (Hình 8)

d) Thức thứ ba :

Tiếp thức trên, tay trái không đổi, tay phải để xuống thế đứng nghiêm rồi
phối hợp hấp khí song chưởng từ hai bên hướng lên trời, có nghĩa là cả hai
tay đồng Thác thiên. Khi nâng lên hết tay thì hô khí, buông lơi toàn thân.
(Hình 9)

Phối hợp hô hấp Song chưởng Thác thiên ba lần.

e) Thức thứ tư :
Tự luyện thiết sa chưởng 31

Tiếp theo thức thứ ba, thân không đổi hai tay, song chưởng từ trên Án địa.
Khi chưởng án hết tay thì hô khí, buông lỏng toàn thân. (Hình 10). Phối
hợp hô hấp Án xuống ba lần rồi buông lỏng toàn thân.

2.- HÀNH CÔNG :

Sau đây là tám (8) điều trọng yếu cần ghi nhớ khi hành công không được
quên hoặc là trái ngược.

Điều thứ nhất :

Khi tay cử động phổi phải phối hợp hô hấp đồng thời lực quán chưởng
tâm.

Điều thứ hai :

Hô hấp vẫn như bình thường, duy chỉ cần trầm mặc, nhu tĩnh và lâu dài,
không nên thở hít quá gấp gáp.

Điều thứ ba :

Bất luận án xuống hay Thác lên cùi tay đều hướng ngoại, năm ngón tay
phải khít nhau và thẳng.

Điều thứ tư :

Khi Án và Thác đầu gối phải gồng thẳng thì khí mới thúc (làm cho) máu từ
đơn điền dồn lên hai bên sườn rồi từ hai bên sườn theo hai động mạch lên
đến song chưởng.

Điều thứ năm :

Khi án hay Thác đều gồng sưc ở hai bàn tay (chưởng) như vẻ tay nâng trời
đang sập xuống, tay án như thể đang đè núi muốn đảo lại (phiên địa).
Tự luyện thiết sa chưởng 32

Điều thứ sáu :

Khi luyện công thần phải ngưng (chăm chú), khí phải tĩnh, ý phải quán.

Điều thứ bảy :

Sau khi luyện công phải hành dư công (tản bộ. v.v...) để khí huyết điều
hòa như Thiết Sa chưởng vậy.

Điều thứ tám :

Pháp này động tác tuy ít, nhưng mỗi ngày sáng tối luyện một lần là đủ
không nên quá nhiều.
Tự luyện thiết sa chưởng 33

CHƯƠNG X

GIẢI THÍCH NGHĨA CỦA TÁM CÂU THIỆU CHƯỞNG


PHÁP

(Chưởng pháp ca quyết thích nghĩa)

Bát Thiềm Đại Sư của Thiếu Lâm rất tinh về chưởng pháp, người đã khổ
luyện 20 năm không ngừng. Vì cần mẫn luyện tập nên Đại Sư ngộ ra được
chưởng pháp ca quyết để truyền đời sau. Nay tác giả mạng phép tiền
nhân mang ra giải thích, chú nghĩa những chỗ quan trọng trong ca quyết,
ý những mong giúp ích hậu tấn phần nhỏ nào đó thôi.

Bài ca quyết gồm tám câu, ngoài ra không biết còn nữa không nhưng tác
giả chỉ thu thập được bấy nhiêu, hiện không nghe ai nói thêm được điều gì
mới.

1) CHÍ KHÍ ĐAN ĐIỀN THỐ

Huyệt đan điền vị trí cách dưới rốn 1 tấc rưởi còn có tên là Khí hải, nằm
trên đường Nhâm mạch, theo nhà võ thi Đan điền là trung tâm của thân
thể. Khi mà tụ được ở đây thì bộ vững, sức chỉnh, tâm tĩnh, mà ba điều ấy
nhà võ Nội Ngoại đều chú trọng. Thố có nghĩa là phát ra. Toàn câu có
nghĩa là : “Khí tụ lại nơi Đan điền, Kình lực từ Đan điền phát xuất...”

2) TOÀN LỰC CHÚ CHƯỞNG TÂM

Dùng chưởng có thể tạo nên sức, nhưng dùng chưởng có thể dồn sức vào
chưởng mới là hay. Quán kình (dồn sức) nhà võ có hai phép : Nội gia
luyện khí để dẫn kình. Ngoại gia luyện kình để đạo dẫn kình. Thiết Sa
chưởng là luyện Kình quán Kình.

3) ÁN THỰC THỦY DỤNG LỰC

Bí quyết dùng chưởng là trước thử rồi tới Án sau mới Phát. Nếu dùng được
đầu ngón tay đụng được (Thám, thử) hư thực của địch thì bèn dùng
chưởng Án lấy để nó không biến hóa rồi mới dùng sức ở chưởng căn phát
ra hạ địch.

4) THỐ KINH TUY KHAI THANH

Khi phát kình tấn công địch cần phải phối hợp với khí thế. Tiếng hô có hai
tiếng : “Hừ) và “Há”. “Hừ” dùng để thâu Kình. “Há” dùng để phát Kình.
Thư (chậm chạp, vừa phải) khí có thể trợ giúp Kình lực. Như đột nhiên hét
lên (hô) và phát Kình đánh địch có thể làm cho địch bỗng giật mình, phân
thần trong giây phút, chút xíu thời gian đó đủ để ta nhả chưởng lực đánh
trúng y rồi.

5) THÔI NGHI TRIỀU THƯỢNG KHỞI


Tự luyện thiết sa chưởng 34

Dùng chưởng đánh địch muốn cho địch bay bổng lên ngã ra sau (ngã
ngửa) thì thích nghi nhất là đánh vào khoảng từ tim xuống tới rún.

Trước nhất hãy thám xem thực hư, rồi thu thân hạ thấp tấn bộ, hạ hai cùi
tay xuống thấp, song chưởng Án thực, vận sức nơi chưởng căn, hô to một
tiếng “Há" trợ khí, chưởng căn hướng lên phía trên Thôi (đẩy) lên. Trúng
địch thì địch sẽ bay lên ngã về sau. Nhưng nều muốn địch ngã ngửa thôi
thì Thôi từ cổ họng xuống tới tim địch thôi.

6) KHẨN BỨC ĐOẠN MÃ ĐĂNG

Khẩn bức là địch Tấn ta Thối, địch Thoái ta Tấn. Đoạn mã là bộ (bước tấn)
áp gần nhau. Khẩn bức thì xuất chưởng có sức, đoạn mã thì có thể tự cố.
Đăng là chỉ trong lúc ra chưởng phát sức phối hợp với sức hậu mã bộ, vì
tấn nầy mạnh mẽ.

7) TAM TỰ : TRIÊM, ÁN, THỐ

- Triêm là dùng ngón tay dò thám

- Án là dùng chưởng đè lên chỗ dò thám thấy thực

- Thố là phát kình lực ra

8) ĐÔ DỤNG TIỂU THIÊN TINH

Tiểu thiên tinh là chỗ đầu cườm tay còn gọi là chưởng căn, khi dựng đứng
bàn tay lên thì đầu các ngón tay là ngọn, thì cuối bàn tay là gốc tức là
Tiểu thiên tinh.

Tiểu thiên tinh dùng tấn công tốt nhất vào các huyệt :

Cửu vĩ, Kỳ môn v.v... đều dùng Tiểu tinh tức Liễu Diệp chưởng pháp, Ấn
chưởng của nội gia là dùng chưởng tâm đánh địch mới là chánh tông.
Tự luyện thiết sa chưởng 35

CHƯƠNG XI

BÍ QUYẾT DÙNG THUỐC KHI LUYỆN CHƯỞNG

Ở chương bảy phần B có dẫn cách dùng thuốc khi luyện chưởng, ở đây
không cần nhắc tới những điều đã bàn rồi mà trực tiếp trình bày những
bài thuốc và cách pha chế ngâm tẩm. Còn phần sử dụng thì tùy thích của
mỗi người, muốn dùng thang dược nào cũng được, vì thế mới có nhiều toa
nhiều thang.

Có điều cần nhắc lại cùng độc giả là bao giờ cũng phải theo đúng nguyên
tắc chế luyện và hành dược công phép mới tránh những tai hại và đoạt
thành kết quả.

Nơi chương nầy có tổng cộng là 9 bài thuốc, trong đó về thang dược gồm
có một bài, thuốc ngâm giấm gồm 5 bài và 3 bài ngâm rượu.

1) BÀI THUỐC THANG :

DƯỢC LIỆU : Địa cốt bì và muối bột (cả thảy 2 vị)

CÁCH CHẾ : Dùng 2 vị trên bằng nhau 10 lượng mỗi thứ, mang nấu chung
bằng nồi đất.

CÁCH DÙNG : Trước và sau khi luyện công, nhúng hai bàn tay vào nồi
thuốc còn ấm ấm để khí huyết được điều hòa và da thịt được mềm mại.
Cứ mỗi lần trước giờ luyện công mang hâm nóng xong mừng ra xài, xài
đến khi cạn nước thi đổ thêm. 30 ngày thay thuốc một lần, tức đổ bỏ
thuốc trong nồi cho vào thuốc mới bổ.

2) BÀI THUỐC NGÂM GIẤM :

DƯỢC LIỆU : 1. Xuyên ô – 2. Thảo ô – 3. Nam tinh – 4. Xà xàng tử - 5.


Bán hạ - 6. Bá hộ. - 7. Hoa tiêu - 8. Long độc - 9. Thấu cốt thảo - 10. Lê
lưu – 11. Long cốt – 12. Mẫu lệ - 13. Địa cốt bì – 14. Tử hoa – 5. Địa đinh
-16. Lưu hoàng – 17. Lưu kỳ nựu.

Mỗi vị một lượng.

Muối xanh (muối biển sống) 4 lượng.

CÁCH CHẾ : Tất cả 18 vị trên bỏ vào nồi đất lớn, đổ vào 5 tô giấm thanh,
nấu lửa riu riu còn lại 7 chén.

CÁCH DÙNG : Trước khi tập ngâm tay vào thuốc giấm còn ấm ấm, xong
lau khô để bắt đầu luyện. Sau buổi tập cũng phải ngâm tay vào thuốc lần
nữa. Thời gian luyện là 100 ngày với thang này. Đúng 33 ngày thì thay
thang thuốc mới.

3) BÀI THUỐC NGÂM GIẤM LUYỆN THIẾT SA CHƯỞNG


Tự luyện thiết sa chưởng 36

DƯỢC LIỆU: 1. Da voi – 2. Xuyên sơn giáp (sao) - 3. Bán hạ - 4. Xuyên ô


– 5.Thảo ô - 6. Toàn đương qui – 7. Tòng bì – 8. Tiêu túc - 9. Hoa tiêu –
10. Bá diệp – 11. Thấu cốt thảo – 12. Tử hoa – 13. Địa đinh - 14. Muối
bột.

14 vị trên mỗi vị ba lượng, cộng với một đôi chân quạ.

CÁCH CHẾ : Tất cả các món trên đổ chung vào một chiếc hủ (khạp) đất,
sành (đồ gốm), đổ vào 8 lít giấm và 8 lít nước lạnh để ngâm.

CÁCH DÙNG : mỗi lần tập múc ra một lượng (một chén nhỏ cũng được)
vừa đủ rửa tay, trước và sau khi tập. Còn thì đổ chung vào nước ấm ấm
để ngâm tay sau khi tập cho tay được mềm mại.

4) BÀI THUỐC NGÂM GIẤM LUYỆN THIẾT SA CHƯỞNG

DƯỢC LIỆU: 1. Xuyên ô – 2. Thảo ô – 3. Nam tinh – 4. Xà xàng tử - 5.


Bán hạ - 6. Địa cốt bì – 7. Hoa tiêu – 8. Lê lưu – 9. Bá hộ - 10. Phù hải
thạch – 11. Lang độc -12. Thấu cốt thảo -13. Sài hồ -14. Long cốt -15. Rễ
cao lương (móng rồng) – 16. Mộc thông – 17. Móng cọp (bát sơn hổ) –
18. Địa đinh – 19. Tử quyển -20. Lưu hoàng -21. Muối xanh.

Tất cả là 21 vị. Mỗi vị một lượng.

CÁCH CHẾ : Tất cả các vị trên cho vào một nồi đất lớn rồi đổ vào 3 lít
giấm và 3 lít nước lạnh, nấu lửa than riu riu.

CÁCH DÙNG : Trước và sau buổi luyện công ngâm tay vào thuốc nấu ấm
ấm. Dùng càng nhiều càng tốt.

5) BÀI THUỐC NGÂM GIẤM LUYỆN THIẾT SA CHƯỞNG

DƯỢC LIỆU : 1. Xuyên ô – 2. Thảo ô – 3. Nam tinh – 4. Xà xàng tử - 5.


Bán hạ - 6. Bá hộ (mỗi thứ trên đều nhau một chỉ) - 7. Hoa tiêu - 8. Lang
độc – 9. Thấu cốt thảo – 10. Lê lưu – 11. Long cốt – 12. Hải nha - 13. Địa
cốt bì – 14. Tử hoa – 15. Địa đinh (các vị trên mỗi thứ một lượng) - 16.
Lưu hoàng (một lượng) – 17. Lưu kỳ nựu (2 lượng) – 18. Muối xanh (4
lượng)

CÁCH CHẾ : Tất cả 18 vị mang ngâm với 4 lít giấm và 4 lít nước, xong
mang dùng nồi đất, lửa than sắc còn lại 6 lít thì vừa.

CÁCH DÙNG : Trước và sau giờ luyện tập ngâm tay vào thuốc còn ấm ấm
xong lao khô. Những bài thuốc chuyên hâm ấm ấm để dùng thì tốt hơn
hết nên dùng nồi đất lớn mà nấu thuốc rồi cứ để nguyên trong nồi đậy
kín, cứ mỗi lần mang ra hâm lại mà xài. Cũng có thể cứ nấu xong đổ vào
khạp sành, mỗi lần tập thì lấy ra một chén nhỏ đổ vào siêu đấu nấu cho
ấm ấm xài cũng được.

6) BÀI THUỐC NGÂM RƯỢU LUYỆN THIẾT SA CHƯỞNG


Tự luyện thiết sa chưởng 37

DƯỢC LIỆU : 1. Đương qui – 2. Hồng hoa – 3. Lưu kỳ nựu – 4. Xuyên tục
đoạn – 5. Chương mộc. (các vị trên mỗi vị hai lượng) – 6. Hương phụ – 7.
Nhũ hương – 8. Mộc dược (ba vị nầy mỗi vị một lượng rưỡi) – 9. Thần cân
thảo – 10. Ngũ gia bì – 11. Ngãi diệp (mỗi thứ ba lượng) – 12. Quế chi (1
lượng) – 13. Hành sống (1 cây)

CÁCH CHẾ : Mang tất cả 13 vị bỏ vào nồi đất nấu với 6 lít rượu trắng cón
lại 5 lít thì được.

CÁCH DÙNG : Thuốc rượu nấu xong vớt xác bỏ rồi đổ vào bình đậy kín,
mỗi lần tập luyện rót ra một chén nhỏ (ly uống cà phê xây chừng), nấu
cho ấm ấm rồi ngâm tay vào, xong lau khô chờ cho nhiệt độ nguội hẳn rồi
mới bắt đầu luyện tập. Sau khi hành công cũng ngâm tay vào thuốc 1 lần.
Nếu không làm cách đó thì để nguyên nồi lớn nấu âm ấm ngâm cả hai bàn
tay cũng hay nhưng mắc công nấu lâu. Cần nhất là phải đậy kín nồi kẻo bị
bay hơi nhiều quá mất kiến hiệu.

7) BÀI THUỐC NGÂM RƯỢU LUYỆN THIẾT SA CHƯỞNG

DƯỢC LIỆU : 1. Qui vĩ – 2. Hồng hoa – 3. Nhủ hương – 4. Mộc dược – 5.


Mộc hương – 6. Chỉ xác – 7. Kiết cánh – 8. Xuyên khung – 9. Đơn bì – 10.
Kinh giới – 11. Đào nhơn – 12. Chi tử – 13. Xích thược – 14. Huyết kiệt –
15. Hổ cốt – 16. Trầm hương

CÁCH CHẾ : tất cả 16 vị, mỗi vị 3 chỉ, tán nhuyễn thành bột ngâm chung
với hai lít rượu trắng, 7 ngày sau dùng được, càng lâu càng tốt.

CÁCH DÙNG : Trước khi luyện rót thuốc ra thoa bóp cho nóng hai bàn tay
xong mới luyện, sau khi luyện xong cũng hành dược công như thế. Khi
nào hết thuốc thì đi bổ thêm thang khác. Luyện công hành dược tữu đúng
100 ngày thì thuốc mới thấm vào tới xương làm xương, gân cốt cứng
mạnh vô cùng.

8) BÀI THUỐC NGÂM RƯỢU LUYỆN THIẾT SA CHƯỞNG

DƯỢC LIỆU : 1. Hắc chi mẫu – 2. Bạch trực – 3. Bạch tiển bì - 4. Bắc tế
tân – 5. Phòng phong – 6. Kinh giới – 7. Tiểu nha tạo – 8. Bạch thất lệ –
9. Đại qui vĩ – 10. Kim ngân huê (các vị trên mỗi thứ 2 chỉ) – 11. Huyền
sâm – 12. Huỳnh bá – 13. Dương khí thạch – 14. Hồng hoa – 15. Tiểu
xuyên liên (các vị trên mỗi thứ 1 chỉ) –16. Ngô công (hai con) – 17. Hồng
nương tử – 18. Nao sa (mỗi vị 1 chỉ) – 19. Bạch tín (5 phân) – 20. Ban
miêu trùng (3 chỉ) – 21. Trắc bá – 22. Càng lương (mỗi thứ một lượng) –
28. Thiết sa – 29. Chỉ thiên thục (mỗi vị 4 chỉ) – 5. Tả bì trùng – 26. Than
đá (mỗi vị 3 lượng) – 27. Huê thủy thảo (8 lượng)

CÁCH CHẾ : Tất cả cộng là 27 vị, riêng than đá và thiết sa bỏ vào chảo
sao cho nóng đỏ rồi bỏ chung vào 25 vị kia thêm vào 10 lít rượu trắng,
mang nấu còn lại 8 lít thì dùng được.
Tự luyện thiết sa chưởng 38

CÁCH DÙNG : Trước và sau khi tập phải ngâm tay vào thuốc sau đó lau
khô. Bình thuốc phải đậy kín hơi. Mỗi lần tập rót ra một chén nấu ấm ấm
mà dùng.

9) BÀI THUỐC NGÂM GIẤM LUYỆN THIẾT SA CHƯỞNG

DƯỢC LIỆU : 1. Nhủ hương – 2. Thảo xạ hương – 3. Kê ky tử – 4. Đuôi


sơn hổ. – 5. Hoài ngưu tất – 6. Hổ cốt – 7. Ma hoàng – 8. Ngoả hoa – 9.
Hoài hoa – 10. Kim anh tử – 11. Thạch lưu bì – 12. Phi tử – 13. Điạ cốt bì
– 14. Bì ma tử – 15. Mộc dược – 16. Mã liên thảo – 17. Tự nhiên đồng –
18. Xà xàng tử – 19. Quế chi – 20. Bán hạ – 21. Phúc bồn tử (các vị trên
mỗi vị 2 lượng) – 22. Ngũ gia bì – 23. Bì tiêu – 24. Câu đằng – 25. Thảo ô
– 26. Xuyên ô – 27. Thủy tiên hoa – 28. Bạch tiển bì – 29. Hổ cốt thảo –
30. Náo dương hoa – 31. Lạc đắc đả – 32. Đông hoa – 33. Tượng bì – 34.
Đại lực căn – 35. Ngũ long thảo – 36. Bát tiên thảo – 37. Ngô đồng hoa
(các vị trên mỗi vị 4 lượng) – 38. Tạng hồng hoa (6 lượng) – 39. Muối
xanh – 40. Sa cao bì – 41. Tứ hồng thảo (mỗi vị nửa cân) – 42. Nam tinh
– 43. Sài hồ – 44. Hoài điều – 45. Xuyên sơn giáp – 46. Sa tiền tử – 57.
Qua sơn long – 48. Hoàn qui thảo – 49. Hột đào bì – 50. Huỳnh kỳ (các vị
trên mỗi vị 3 lượng) – 51. Một đôi móng quạ – 52. Mộc qua (20 trái) – 53.
Bạch phụng tiển (20 trái) – 54. Một tổ ong – 55. Du tòng tiết (10 cái) –
56. Đại phù bình (24 cái).

CÁCH CHẾ : Tất cả 56 vị trên đổ vào 20 lít giấm, và 20 lít nước rồi cho vào
chiếc trả lớn (loại nổi đất lớn dùng để nấu bánh Tét hoặc bánh Chưng (để
ăn Tết), xong đem nấu, nước thuốc sắc lại còn chừng 30 lít thì đổ vào
trong khạp sành.

CÁCH DÙNG : Trước khi tập luyện nhúng cả hai tay vào khạp thuốc xong
lấy ra chà xát cho nóng rồi bắt đầu tập luyện . Sau khi hành công xong
cũng ngâm tay vào thuốc.

Trên đây là những bài thuốc hay dùng để luyện tập Thiết Sa chưởng. Môn
sinh thích bài nào thì hãy dùng bài thuốc đó đúng 100 ngày, có như thế
thì thuốc mới có đủ thời gian đễ ngấm vào xương cốt, bằng nay xài toa
này, mai kia lại xài thang khác, ấy cũng như luyện võ mà sáng luyện phái
này, chiêu nọ, chiều lại đổi thức đổi môn, không ngày nào tập giống ngày
nào thì có đến mãn đời cũng chưa thành đạt công phu nào. Nhưng về võ
bất quá là không thu thái được thì thôi đằng nầy thuốc không thể làm như
thế được, vì có khi còn bị tai hại là đằng khác. Môn sinh cũng nên nhớ là
thuốc không phải bài dài mà hay, ngắn ít vị là dở. Mà hay dở là ở chỗ
người dùng có đúng hay không mà thôi. Thật ra thì thuốc nào cũng hay,
nhưng người luyện lập không biết tập, không biết cái hay của nó để tập
cũng như đôi khi người ta dạy mà không biết cách dạy cái hay của võ
thuật cho môn sinh thì làm thế nào phân biệt được là hay dở ra làm sao.
Rốt cuộc rồi cái hay đâu chẳng thấy mà toàn thấy những thứ dở lan tràn
khắp thiên hạ.
Tự luyện thiết sa chưởng 39

Trên đây là bàn về những cái lý thông thường của thuốc và võ, chứ thật ra
trên đời từ xưa nay nếu nói đến hay hay dở thì người ta phải hiểu là hay
hay dở đối với ai, hay hơn cái nào, và dở hơn cái nào. Người biết được cái
đó mới gọi là kẻ trí, như tập võ phải biết suy xét thiệt hơn, biết lai lịch
(lịch sử) môn võ của mình và những chuyện hay dở thì có thời gian làm
thước đo rồi. Cái gì còn lại sau nhiều thế kỷ ấy là của thật, còn những cái
giả tạo, vá víu tạm thời thì trong thoáng giây phút hoặc đã vài năm, vài
mươi năm thì bị bỏ quên. Một tư tưởng hay 4.000 năm còn được người
nhắc tới, cuốn sách hay càng đọc càng hay, ấy mới gọi là hay.

Một người có tuổi nói : “Cũng thì một cuốn sách mà tuổi ấu thơ đọc thấy
thích, mà khi đã trưởng thành đọc thấy có ích và đến tuổi lão nhược đọc
lại thì thấy tâm hồn khoan khoái hân hoan thì quả thật là cuốn sách hay
thật.”

Hiện nay có những thứ thuốc xài một lần thấy hay xài hoài đâm quen
thuộc, dĩ nhiên là hết hay.

Có nhiều môn võ mới nghe qua cũng rất hay, xem kỹ thấy chẳng được
hay bao nhiêu, tập lâu không thấy tiến bộ thì còn phê phán vào chỗ nào
được nữa. Tác giả không dám lạm bàn việc riêng của từng phái hệ võ lâm
nhưng lúc cao hứng có hoa ngôn thì cũng là việc thường của người nhân
thế, chỉnh mong độc giả không thấy thế mà đâm ra có điều kỳ thị, võ lâm
như cây một cội, như nước một nguồn. Người mà còn phân chia, kỳ thị thì
dân tộc đó chưa phải là giống dân văn minh dù rằng dân đó có nền kinh tế
quân sự mạnh đến mấy.

Trở lại nguyên đề, thuốc dùng luyện Thiết Sa chưởng cũng như Phép luyện
và Ứng dụng Thiết Sa chưởng vào đời sống hàng ngày quả có phần cao
diệu. Thuốc thì xài hoài càng công hiệu thêm lên, càng thấm sâu vào
xương tủy, làm lành mạnh thể xác. Còn phép luyện thì càng luyện càng
thấy trình độ cao lên vượt bực, tư tưởng càng buổi càng thêm thuần lý, ý.
Thật là không biết đến đâu là cùng là hết. Luyện mãi luyện hoài thì tinh
thần càng minh mẫn, đạo đức lên cao. Thảo nào xưa kia các Thiền sư cao
tăng đều là những người tài cao học rộng. Âu là nhờ luyện võ thuật thứ
chính tông vậy.
Tự luyện thiết sa chưởng 40

CHƯƠNG XII

CÁCH KHÁM VÀ ĐIỀU TRỊ NGƯỜI LUYỆN CÔNG BỊ


THƯƠNG

Chương này chỉ cho ta cách nhận diện được những trường hợp người bị
Chưởng thương (luyện chưởng bị thương) có thể trị liệu được mà không
cần phải nhờ Y sĩ chuyên môn. Trong trường hợp bị người khác đả thương
bằng chưởng pháp cũng cùng một cách khám xét.

Trong trường bợp bị thương được ghi nhận là bị tấn công bằng Chưởng lực
có phần trầm trọng hơn cả. Và cứ như thực tế thì hầu hết người bị
Chưởng đánh trúng đều bị nội thương ít có trường hợp bị thương bên
ngoài.

Vì thế trong phạm vi chương 12 nầy đặc biệt dành để nghiên cứu về cách
điều trị Nội và Ngoại thương do Chưởng Lực đánh trúng cũng như hành
công phu sai trật mà bị nội thương.

1. NỘI THƯƠNG

Các triệu chứng :

a) Trường hợp bị nội thương Gan: Khi bị đánh một chưởng nơi gan thì, sau
khi thân thể ngã xuốg, sắc diện đổi khác, mặt tím đi, mắt đỏ ngầu và sau
đó thân thể phát nhiệt (nóng).

b) Trường hợp bị thương nơi Tim: Bị một chưởng nơi huyệt Cửu vĩ (vùng
tim) tức là tim bị thương rồi. Trước nhất người bị thương khụy xuống bất
tỉnh, mặt xanh, hơi thở yếu, đôi khi không chịu thở là trường hợp nặng
lắm. Nếu nạn nhân còn đi được mà thấy hơi đau vùng tim thì là bị thương
Tim nhẹ.

c) Bị thương Dạ dày: Bị một phát chưởng mà mắt nhắm lại không buồn
mở ra, hay chỉ lim dim mệt nhọc, Môi và Mũi thâm đen lại là đã bị đánh
trúng bao tử rồi.

d) Bị thương Thận: Bị đánh một chưởng phía sau eo lưng (thận du) mà cả
hai lỗ tai nghe lùng bùng không rõ, trán đen (hơi hơi) mặt phù lên màu
trắng bạch ấy là đã bị người ta đánh trúng Thận rồi.

e) Bị thương Ruột già (đại trường): Bị đánh vùng bụng, sau đó mặt đỏ hơi
hơi, hơi thở yếu, đi cầu phải vội vàng hơn lúc bình thường. Đó là bị đánh
trúng ruột già.

g) Bị thương Ruột non: Bị đánh bụng rnà mặt sưng lên, hơi thở không
thông, khò khè như suyễn, người nóng lên, miệng khô, đại tiểu tiện bị
nghẹn đau. Tức là đã bị đánh trúng ruột non.

h) Bị thương vùng Ngực và Lưng: Võ sinh học võ thường hay giao đấu, khi
trúng đòn thường hay ỷ lại sức khỏe nên lờ đi, đến thời gian đôi mươi
Tự luyện thiết sa chưởng 41

ngày, 10 bữa hay một tháng lại tự nhiên thấy ngày càng ốm yếu ra, mặt
trắng, người cứ lúc nào cũng hâm hẩm phát nhiệt. Đó là đã bị thương
vùng ngực hay lưng rồi. Vì vùng này có nhiều chỗ yếu.

i) Bị thương Ngực: Mặt hơi đen, người nóng, ngực và miệng thấy khó chịu,
lá đã bị người ta đánh trúng ngực bằng chưởng có kình Thiết Sa chưởng
rồi.

k) Bị đánh nội thương Phổi: Bị đánh một chưởng nơi vùng ngực mà thấy
thở không được điều hòa như bình thường, mặt trắng ra thiếu máu, thở
khò khè mà rất đau lúc nằm ngủ như ai lấy dao cắt ngực đau đớn chịu
không nổi. Ấy là bị đả thương nơi phổi rồi không có chi là lạ.

Trên đây là những triệu chứng bị nội thương nơi các tạng lớn và hễ thấy
có triệu chứng như thế thì người luyện chưởng phải quan tâm tìm cách
điều trị kẻo nguy hại đến tính mạng.

2. NGOẠI THƯƠNG :

Nội thương hơi khó khám nghiệm, ngược lại Ngoại thương thì dễ thấy hơn
vì nó thuộc bên ngoài cơ thể.

Tnước nhất xem coi bị thương bộ phận nào, và khi biết đích thị mới phân
biệt thương tích nặng hay là nhẹ.

a) Đầu là nơi lập trung mọi nguồn quan yếu điều khiển châu thân, khi bị
thương trị liệu có phần khó khăn nhất. Khi bị thương nơi đầu phần chết có
hơi nhiều so với hy vọng sống lành mạnh.

b) Ngực và Lưng: hai nơi nầy là phần che chở nội phủ (nôm na gọi là bộ
đồ lòng). Nếu bị đánh trúng, phần bên trong có thể bị thương.

c) Eo và Thân: đây là phần mềm dẻo, non yếu hơn nhiều bộ phận khác,
cũng dễ nguy hại đến tính mạng khi bị đả thương, cứu chữa cũng không
dễ dàng.

d) Chân và Tay: tứ chi là phần bên ngoài cơ thể đã chay đá cuộc đời, sần
sỏi vì tập luyện, nên bị thương chẳng đến nổi chết nhưng thường nếu quá
nặng thì đưa đến sự tàn phế tạm thời hay vĩnh viễn. Ấy cũng là việc mà
người đời rất ít ai hài lòng.

Tất cả trường hợp nào cũng phải quan sát thật kỷ rồi mới quyết định trị
liệu.

Thông thường, lối bị thương của người luyện công, nếu bị nhẹ sau khi xoa
nắn, ấn định được chỗ bị thương rồi đắp thuốc “CÔN NGUYÊN TÁN” (tên
toa thuốc có chỉ dẫn trang kế tiếp) thì lành sau đó đôi hôm. Nếu bị nặng
thì trong uống ngoài đắp thuốc CÔN NGUYÊN TÁN (thuốc uống có toa
trang sau). Nơi bị thương nhức nhối khó chịu thì uống thêm thuốc chỉ
thống “ ĐẠI THỐNG TÁN” (có toa trang sau). Nếu thụ thương hôn mê bất
tỉnh thì trước hết cạy miệng đổ thuốc “KHAI QUANG TÁN” (có toa ở sau),
Tự luyện thiết sa chưởng 42

thì nạn nhân tỉnh dậy ngay, kế đó mới khám nghiệm và định chỗ để trị
liệu. Trước hết xem xương cốt coi có trặc, gảy không, nếu không sao, cấp
tốc quan sát nội tạng, nếu không hề gì. Tuy nhiên nếu không phải là Y sĩ
chuyên môn, bác sĩ Tây y hoặc võ sư có tài y học có kinh nghiệm trong
nghề thì sự định liệu cũng hơi khó. Vậy để tránh sự giao động nạn nhân
nên cầm tay xem mạch cho kỷ rồi định liệu.

Ngày xưa, mỗi ông thầy võ chính tông đều kim nghề y sĩ ít ra cũng là y sĩ
cho chính ông ta và cho võ sinh của ông ta. Và như thế mỗi khi học trò có
ngộ nạn thì ông thầy có đủ cách chữa chạy khỏi phải nhờ người ngoài.

Ngày nay chắc chắn là không được bao nhiêu ông thầy võ trong hoàn cầu
biết kha khá về nghề thuốc. Âu là một thiếu sót lớn cho chính giai cấp
luyện tập công phu. Và chính họ đã không thể nào tự tin vào mình để có
thể rầy la học trò như những ông thầy ngày xưa.

Chữ Quân, Sư rồi mới Phụ Mẫu, ngày nay chắc là hơi kém phần vững chắc
để đám học trò cúi đầu vâng dạ hết lòng, đó cũng không phải là lỗi của
đám trẻ thơ. Mà chính là những người lớn đã đánh mất chỗ đứng của họ.
Ai còn hiểu biết gì nữa đâu để xứng đáng đứng trên ngồi trước để đám
mầm non kính ngưỡng cúi đầu. Và ngày nay hay ngày nào đó nhũng người
mang danh nghĩa cao quí trên phải tự xét lại mình cũng như những vị Sư
Tăng ngày xưa đã kiểm thảo lấy mình trước khi ra khỏi cửa Thiền để vào
đời dạy đạo. Ngày nay giáo điều còn đó mà mấy ai đã thực thi cho đúng
đường. Xã hội đảo điên không phải tại ai mà lầm lỗi chính là do nơi những
danh từ Tôn kính mà tự nó đã làm mất điều đáng tôn kính. Đó là người ta
đã quên nhìn mặt mình (bộ mặt thật) sau mỗi lần thức giấc trước buổi
bình minh.

Bực Thầy đáng tôn kính của người võ thuật hội đủ : Công phu căn bản,
biết tôn kính lịch sử, y lý, toán và lòng rộng thênh thang (trước đám môn
sinh của võ lâm và con người).

Chương nầy đặc biệt cống hiến cho đời (đồng đạo võ lâm) ba bài thuốc gia
bảo. Bảo rằng quí hơn tính mạng thì không dám nhưng quí thì thật là quí.
Giá lâu nay khi chưa ra sách mà con hoặc thân bằng quyến thuộc của một
vị đại tài chủ tập công phu thọ thương thập tử nhất sinh vô phương cứu
chữa, mà chợt có người giới triệu tới tôi (soạn giả), với ba bài thuốc nầy
cứu sống mạng đứa con cưng của ông triệu phú thì hiển nhiên là tôi đòi gì
được nấy và chắc chắn món tôi đòi là phải quí ghê lắm, ít ra giá trị cũng
bằng một mạng người. Tôi đố độc giả chứ nếu quả có trường hợp ấy thì tôi
có được như ý hay không ? Riêng tôi nghĩ chắc chắn được vì bằng không
thì đứa nhỏ chết liền. Điều mà tôi quả quyết được đó là tôi đã đòi khỏi tay
ông triệu phú Diêm Vương (gia tài Diêm Vương có hàng triệu linh hồn chất
trong kho đụng từ vua chúa bất nhân trên trần thế, các hào phú vô lương
và lớp người ngu dốt vì thiếu học v.v... ba hạng nầy chết xuống âm phủ bị
Diêm Vương chất chung một như chất gạo, chờ đi học lại một khóa làm
người rồi mới cho đầu thai trở lên cõi trần). Chắc độc giả thấy tôi diễn có
phần tối ý nên có vị muốn nói trắng ra là tôi nhờ ba bài thuốc hay mà cứu
được đứa con ông triệu phú nào đó và chính làm cho đứa nhỏ khỏi lọt vào
tay Diêm Vương tức là tôi đã đòi được một vật quí bằng một mạng người.
Tự luyện thiết sa chưởng 43

Quả nhiên quí vị độc giả bội phần cao kiến, tôi đây ngưỡng mộ vô cùng,
phải chi có dịp hội kiến mà cùng nhau yến ẩm vài chén trà sen cho thỏa
tình tri kỷ. Mà chư vị hiểu như thế còn một chút xíu nữa thì tới rồi (giống
như phi thuyền thứ mười mấy đó tôi đã quên bắn lên mặt trăng nhưng
gần tới nó lại hết sức nên ngưng lại, tức là quay chung quanh quỹ đạo mặt
trăng). Số là tôi vốn bản chất thanh tịnh, thường thích bụng trống mà an
nhàn, thường nghe lời phải, tiền bạc khó mua, thế nên hễ có người đến
hiện là kẻ hiền sĩ. Nay đột nhiên có khách triệu phú mà tôi bước ra cửa
chịu cứu trẻ con ấy là điều quí, cái quí có ở đời rất hiếm, thành thử kho
của Diêm Vương mới chất đống mấy triệu con người. Độc giả đã hiểu hết
rồi, khi tôi vừa nói đầu câu chuyện. Vì trên môi ai cũng thoảng một nụ
cười. Đời thật là vui, thật là sướng, bạn bè đông đảo, ai cũng thông minh,
cùng nhau câu chuyện, dù thấp dù cao, chưa nói hết nửa câu đã lọt hết ý
rồi. Nhẹ nhàng làm sao khi có người hỏi, tại làm sao mà được như thế ?
Thì xin thưa có gì đâu, lòng trống thênh thang. Có người nghe rồi suy
nghĩ.

Nhưng mà tôi quên nói rõ ra là ba thang thuốc nầy của tiên sinh Hồ Hoà
Minh cho bạn võ lâm chớ không phải của tôi, thật là thế ấy.

Toa thứ nhất tên là CÔN NGUVÊN TÁN, là thứ thuốc tán, vừa uống được,
đắp, bó ngoài vết thương được.

Hay lắm, hay lắm.

Tôi xin chép nguyên văn :

1) CÔN NGUYÊN TÁN

HIỆU NĂNG : Chuyên trị bị đánh gây nên thương tích, làm được bớt đau
nhức, bớt sưng và tiêu tan máu bầm.

DƯỢC LIỆU: 1. Qui vĩ – 2. Hồng hoa 3. Nhũ hương – 4. Mộc hương – 5.


Trầm hương – 6. Mộc dược – 7. Chỉ xác – 8. Kiết cánh – 9. Xuyên khung –
10. Đơn bì – 11. Kinh giới – 12. Đào nhơn – 13. La chi tử - 14. Xích thược
– 15. Huyết kiệt – 16. Hổ cốt (mỗi vị một chỉ).

Tất cả là 16 vị, tán nhuyễn thành bột hòa rượu mà uống khi bị thương.

BỊ THƯƠNG Ở ĐẦU : thêm 2 vị Xuyên khung và Thiên ma (mỗi vị 1 chỉ).

BỊ THUƠNG Ở TAY : thêm 2 vị Quế chi và Tục đoạn (mỗi vị 1 chỉ rưởi).

BỊ THƯƠNG Ở CHÂN : thêm 2 vị Ngưu tất và Gia bì (mỗi vị 2 chỉ).

BỊ THƯƠNG Ở LƯNG : thêm 2 vị Cương hượt và Độc hượt (mỗi vị 1 chỉ


rưởi).

BỊ THƯƠNG Ở TIM : thêm 3 vị Thần Sa, Hổ phát, Điền thất (mỗi vị 1 chỉ).
Tự luyện thiết sa chưởng 44

BỊ THƯƠNG Ở HÔNG : thêm 3 vị Ngưu tất, Tục đoạn, Đổ trọng (mỗi vị 1


chỉ rưởi).

BỊ THƯƠNG Ở 2 BÊN SƯỜN : thêm 3 vị Thanh bì, Kinh giới, Phòng phong
(mỗi vị 2 chỉ).

CÁCH DÙNG : Các vẽt thương : lấy ra 2 chỉ hòa chung với rượu để uống.

Bên ngoài : Lấy thuốc tán (nhiều ít tùy thương lớn nhỏ) trộn chung với
rượu, đem hấp nóng rồi bó lấy vết thương. Thuốc tán nên làm sẵn trong
nhà, cất vào hủ (keo) đậy kín phòng khi gặp nạn có dùng liền. Đi đâu nên
mang theo đề phòng bất trắc mới gọi là người biết phòng xa.

Đây là thang thuốc cứu mạng cho người luyện tập võ công đó.

2) THANG ĐẠI THỐNG TÁN

Thảng như trị rồi (trong uống ngoài thoa) mà còn thấy trong mình khó
chịu (khó ở) đau nhức rai rứt, từng hồi hay dây dưa thì hãy dùng thang
sau đây là chận đứng cơn họa hoạn. Nhớ phải tránh gió trong lúc trị
thương.

DƯỢC LIỆU : 1. Xuyên khung – 2. Thảo ô – 3. Bán Hạ (mỗi thứ 2 chỉ) – 4.


Ma hoàng (1 chỉ) – 5. Xìm xú (5 phân) – 6. Nam tinh (4 chỉ)

Cộng lại là 6 vị tán nhuyễn, bỏ vào bình kín, mỗi lần lấy ra một (1) phân
hòa với rượu uống.

3) THANG KHAI QUANG TÁN

HIỆU NĂNG : Trong trường hợp bị đánh bất tỉnh nhân sự, óc mê man,
hoặc trúng gió sôi đờm hay các chứng ngẹt thở chết giấc, đều dùng thang
dược nầy trị được lành.

DƯỢC LIỆU : 1. Nha tạo (5 chỉ) – 2. Bạch chỉ - 3. Tế tân - (3 chỉ) – 4. Đại
mai phiến – 5. Xạ hương (mỗi thứ 2 chỉ) – 6. Xìm xú (5 phân)

CÁCH CHẾ : Lấy nha tạo để trên miếng ngói mới, nướng thành than, hòa
với Tế tân và các vị khác cũng tán nhuyễn, xong bỏ vô chai. Khi hữu sự
mang ra dùng.

CÁCH DÙNG : Lấy thuốc bột nầy thổi vào lỗ mũi nạn nhân thì mọi cơ quan
trong cơ thể thức tỉnh và hoạt động trở lại bình thường.

Các thang thuốc trên người luyện võ bao giờ cũng nên làm sẵn mang theo
trong mình, hoặc để trong nhà phòng khi hữu sự mà dùng thì chẳng
những rất tiện lợi cho mình mà đôi khi dùng để cứu người khác cũng rất là
tiện lợi, có thể lấy cảm tình và làm tăng uy tín cho nghề nghiệp của mình.

Trong những trường hợp bị gảy xương, đứt thịt vì binh khí thì tốt nhất nên
tìm cách mang nạn nhân đến cơ quan chuyên môn điều trị vì trong thời
Tự luyện thiết sa chưởng 45

buổi tiện nghi chúng ta nên phân công làm việc sẽ đỡ mất nhiều thì giờ.
Nếu ở những nơi xa xôi thành phố, xa thầy thuốc chuyên nghiệp thì có thế
dùng những thang dược trị liệu về Kim sang vv… Tác giả sẽ trình bày
trong một cuốn sách khác chuyên về trị liệu.
Tự luyện thiết sa chưởng 46

CHƯƠNG XIII

NHỮNG THẮC MẮC CỦA MÔN ĐỒ VÕ LÂM KHI LUYỆN


THIẾT SA CHƯỞNG

1.- Ông THƯỢNG HÁN TRUNG, Nam Dương

HỎI : Đang học Thái Cực Quyền có thể vừa tập Thiết Sa chưởng, có hại gì
không ?

ĐÁP : Đang học Thái Cực Quyền lại tập Thiết Sa chưởng thì không được
thích lắm vì Thái Cực Quyền là Nội gia quyền còn TSC là Ngoại gia, hai
môn cùng tập một lúc đối với người mới luyện khó thâu thái được ý quyền.
Do đó mà khó thành công.

HỎI : Dùng Thiết Sa luyện Chưởng mau thành công hay dùng đậu ?

ĐÁP : Dùng Thiết sa tập mau có kết quả hơn, nhưng không có Thiết Sa
tạm dùng đậu cũng thành công như thường.

HỎI : Mỗi ngày tập hai buổi. Sáng và Tối thì tập trong thời gian bao lâu thì
có thể chặt hai viên gạch ?

ĐÁP : Cứ y như phép luyện mà hành thì trong vòng 50 ngày có thể phá vỡ
hai viên gạch tiểu, lâu hơn thì công phá được nhiều hơn.

HỎI : Chỉ tập một tay thôi có được không ?

ĐÁP :Theo phương pháp xưa người ta chỉ luyện tay trái vì thông thường
người ta quen sử dụng tay phải sợ rằng luyện tay phải vì thói quen dễ gây
ra tai nạn cho người khác. Nhưng theo phương pháp của tôi thì nên luyện
cả hai tay thì sự ích lợi nhiều hơn. Còn việc sợ lở tay thì ít khi, vì khi luyện
thành Thiết Sa chưởng thì sức lực tùy ý mà phát ra, nếu ý chẳng muốn
phát kình thì tay đâu có lực để đả thương người.

2.- Ông LÂM NHỨT THỐNG, Nam Dương

HỎI : Theo như phương thức luyện Thiết Sa chưởng khi đã thành công “Sơ
thành” muốn luyện thêm lên cao hơn thì có cách nào hay những điều kiện
gì đặc biệt không ?

ĐÁP : Đã luyện đến Tiểu thành thì cứ thế mà luyện thêm cho đến Đại
thànn, không có phương pháp nào khác nữa. Có là chỉ cách sử dụng, đó là
phần kỹ thuật không nằm trong phần luyện công.

3.- Ông LÝ NGÔ KIỆM, Nam Dương

HỎI : Nếu mua không được Thiết Sa có thể dùng bi sắt thay thế có được
không ?
Tự luyện thiết sa chưởng 47

ĐÁP : Nếu không có Thiết Sa có thể dùng phân nửa đậu xanh, phân nửa
đậu đen. Dùng bi sắt cũng được, nhưng mua đắt tiền.

4.- Ông HOÀNG HỚN TRUNG, Nam Dương

HỎI : Luyện Thiết Sa chưởng tại sao phải mang cái chụp mũi. Và ăn huyết
heo có ích lợi gì ?

ĐÁP : Đeo chụp mũi để tránh hít phải những bụi sắt li ti của Thiết Sa bay
lên có phương hại đến hệ tuần hoàn. Ăn huyết heo, nế có thể ăn được,
huyết heo có công dụng làm sạch ruột, dạ dà' và phổi, mà khi luyện vô ý
không tránh khỏi hít phải bụi cát.

5.- Ông HÀ LÊ DƯ, đảo MORRIS

HỎI : Luyện Thiết Sa chưởng và Phục Hổ Công cùng lúc có được không ?

ĐÁP : Luyện hai môn cùng lúc không phương hại gì cả, nhưng cần nhất là
phải chia thời giờ cho hợp lý để tránh sự mệt mỏi tán thần.

HỎI : Tập Thiết Sa chưởng, trước hay sau bữa ăn chính bao lâu ?

ĐÁP : Phải tập trước bữa hoặc sau bữa ăn chính tối thiểu là một gìờ. Điều
quan trọng là không khi nào luyện Thiết Sa Chưởng mà trong bụng không
có gì. Tốt nhất là trước khi khởi sự tập nên uống một ly vừa phải chất lỏng
bổ dưỡng, như sữa hay mật ong hoặc trái cây xay Nếu không thì ăn một
trái chuối cũng được.

6.- Ông TẠ PHỔ NGUYÊN, California Hoa Kỳ

HỎI : Dược liệu dùng luyện Thiết Sa chưởng có dùng âu dược được không
? Nếu được xin ông cho tôi xin toa.

ĐÁP : VÕ Thiết Sa chưởng và mọi ngành võ thuật cùng tư tưởng đều phát
xuất tại Đông Phương, do đó những thuốc men để hổ trợ cho việc luyện
tập võ thuật được cổ nhân nghiên cứu và đã dùng những thứ cây cỏ tại
Đông phương. Thuốc luyện Thiết Sa chưởng dùng dược liệu Trung Quốc.
Nhưng nếu khi nào khoa học Tây phương tìm ra những hợp chất so sánh
giống dược liệu Trung Quốc thì cũng có thể dùng thế được.

7.- Ông HOÀNG TỰ DlỆN, Nam Dương

HỎI : Tôi luyện Thiết Sa chưởng đã được một năm rồi sao ứng dụng phá
không nổi ba viên gạch ?

ĐÁP : Theo kinh nghiệm của tôi và nhiều danh sư khác thì muốn công phá
ba viên gạch tiểu vỡ thì chỉ cần khổ luyện Thiết Sa chưởng trong vòng 100
ngày thôi. Trường hợp của ông có lẽ ông tập không đúng phương pháp rồi.
Phải chi ông biên thư hỏi tôi trước hoặc một người nào đã thành công về
TSC thì đâu có bị mất thời giờ đến một năm.
Tự luyện thiết sa chưởng 48

8.- Ông LÝ DÂN THẮNG, Nam Dương

HỎI : Tập Thiết Sa chưởng mà không dùng thuốc cỏ hại gì không ? Sự


thành công và hậu quả như thế nào ?

ĐÁP : Tập Thiết Sa chưởng mà dùng thuốc không đúng đã gặp những điều
không hay về Hệ tuần hoàn rồi, nói chi đến tập liều mạng thì hậu quả còn
biết nói làm sao. May mà thành được Sơ thành chặt gảy vài viên gạch thì
trong minh đã bị nội thương rồi.

HỎI : Có người nói luyện thành công Thiết Sa chưởng thì hai bàn tay
cứng, chai thành cục, mất linh hoạt, viết chữ không được, có đúng thế
không ?

ĐÁP : Công chia làm hai loại : Nội tráng và Ngoại tráng, Tháp sa (dùng
tay đâm, xỉa vào cát) cũng có trực tiếp và gián tiếp. Phép luyện ngoại
tráng thành công thấy cứng cáp bên ngoài, khi luyện không biết vận sức
mà chỉ gồng tay cố làm cho mạnh, lâu ngày vì sự cọ xát với cát đá mà
thành dày da, gân máu co lại quăn queo như con trùng uốn khúc trên da,
gân cốt thành cứng đâu có lạ gì. Đấy là phương pháp chính yếu luyện trực
tiếp.

Nhưng phương pháp gián tiếp luyện Nội tráng không phải như thế, dù
cũng dùng tay đâm vào cát nhưng vận sức đúng phương cách lại dùng
thuốc đúng phương. Nên khi thành công thì gân xương bên trong cũng
cứng cáp mà bên ngoài thì không thô kệch, khi thường thì giống tay người
thường, nhưng khi dùng đến thì cứng cáp như đồng sắt, không chỗ nào là
không linh hoạt.

Phương pháp Bách Nhật Thiết Sa Chưởng thoát thai từ phương luyện Nội
Tráng mà ra, cho nên khi thành công không có hiện tượng chai da và cứng
tay.

9.- Ông LƯƠNG NGUYÊN, Hoa Kỳ

HỎI : Luyện Thiết Sa chưởng chỉ vổ nhè nhẹ lại quá mạnh như thế là
nghĩa thế nào vậy ? Nhà thể tháo cử tạ bốc cả trăm ký lô mà muốn công
phá cũng không bằng người luyện Thiết Sa, coi bên ngoài không có gì ghê
gớm, tại sao làm có sức mạnh như vậy ?

ĐÁP : Vì là hai trường phái khác biệt, nên khó có thể so sánh : một đàng
“lực sĩ”' chỉ cốt tập về cơ thể cho nở nang, các bắp thịt phát triển làm thân
hình cân đối đẹp đẽ. Tập lâu ngày bắp thịt cuồn cuộn trông rất đẹp mắt,
sức mạnh ngày cũng càng tăng, nhưng sức lực ấy bị phân đều trong các
bắp thịt, không tự tập trung vào một chỗ nào và cũng không điều khiển
được sức lực như ý muốn. Nói tóm lại là người tập tạ có sức nhưng không
thể điều khiển sức theo như nhà luyện tập Thiết Sa chưởng.

Người luện tập Thiết Sa chưởng quanh năm chuyên chú tập trung tinh
thần gom góp sức lực của thân thể vào một đòn, chiêu. Lâu dần thành tự
điều dụng được sức lực của mình và mỗi ngày một tăng thêm, và chỗ chịu
Tự luyện thiết sa chưởng 49

đựng nổi sức lực của toàn thân phát ra được tẩm luyện nên càng cứng
cáp. Do đó một cú đánh của người luyện Thiết Sa chưởng có tầm nguy
hiểm hơn người tập tạ. Ngược lại, nếu phải gánh vác khiêng vật nặng nề
thì người tập tạ làm hay hơn.

10.- Ông DƯƠNG LƯU, Hoa kỳ

HỎI : Dùng dược liệu như thế nào khi luyện tập Thiết Sa chưởng ?

ĐÁP : Trong cuốn sách nầy có chỉ dẫn cách dùng dược chất. Tuy nhiên
nếu trong giờ tập rủi bị thương, thấy đau nhức hay nhức mỏi quá, có thể
ngưng ngang sự luyện tập để lấy thuốc thoa bóp ngay chỗ đau, không cần
phải cố gắng chịu đau đến hết buổi tập.

11.- Ông TRẦN DU KHÁNH, Mã Lai Á

HỎI : Luyện Thiết Sa chưởng có cần một thân thể cường tráng không ?

ĐÁP : Luyện Thiết Sa chưởng công không nhất thiết phải có một thân thể
cường tráng mà người bình thường ai luyện cũng được. Nhưng nếu là
người bẩm sinh quá yếu ớt và hay đau yếu luôn, việc luyện TSC khó thành
công. Và người bệnh tim không nên luyện.

HỎI : Luyện theo phương pháp của ông khi thành công thì chưởng cứng
hay đầu ngón tay cứng ?

ĐÁP : Phương pháp Bách Nhật Thiết Sa chưởng khi luyện thành thì cả 5
nơi, chỉ, chưởng, uyển, thiết, v.v đều có sức cả.

HỎI : Tôi thấy ông Sơn Đông mãi võ dùng chưởng đánh gảy một phiến đá
nặng khoảng bảy tám mươi ký lô, cái đó có phải do công phu Thiết Sa
chưởng luyện mà thành công ? Theo phương pháp của ông sau có thể làm
được công phu đó không ?

ĐÁP : Cũng có thể ông ấy tập Thiết Sa chưởng, nhưng theo phương pháp
Trăm ngày (tiểu thành) thì chưa thực hiện nổi công phu đó, mà có thể tùy
người, chặt gảy từ 3 đến 4 viên gạch tiểu.

HỎI : Ông mãi võ chưởng lực tuy mạnh nhưng thân thể ông gầy nhom,
mắt lồi ra ngoài và không có thần. Đó có phải là triệu chứng thành công
trong môn TSC, hay là triệu chứng bị thương sau khi tập ?

ĐÁP : Luyện công phu TSC nến không có sách vở chân truyền và thuốc
thang đúng cách thì dễ bị nội thương. Nhất là những thanh thiếu niên thân
thể chưa nảy nở đủ sức nếu không có phương pháp đúng để học thì sau
lớn lên sẽ có nhiều chỗ sai lệch. Ông mãi võ đó có lẽ lúc thiếu niên luyện
về nội tráng TSC nên mới bị ảnh hưởng thân thể thư thế chứ không phải
triệu chứng của sự luyện TSC.

HỎI : Theo lời ông mãi võ nói thì ông đạt được thành quả đó sau ba năm
lập luyện không ngừng, không biết ông có nói thật không ?
Tự luyện thiết sa chưởng 50

ĐÁP : Nếu với tảng đá to như thế và không có bỏ thuốc chế luyện để làm
trò mà đánh gảy thuần bằng sức mạnh do chưởng lực công khu thì quả
phải cần đến thời gian khổ luyện như ông ta nói.

12.- Ông MÃ TIÊN QUAN, Nam Dương

HỎI : Nếu không có Thiẽt Sa để tập mà tập với đậu thì có cần đến thuốc
hay không ?

ĐÁP : Mục đích của dược công không những lưu thông khí huyết, tan máu
bầm, còn có thể trợ lực cho chưởng công nữa. Cho nên bất luận dùng
Thiết Sa hay đậu đều phải cần đến dược để hỗ trợ thêm.

13.- Ông BÀNG HƯỞNG, Mã Lai Á

HỎI : Theo phương dược của ông thì ngâm thuốc với rượu nào tốt nhất ?

ĐÁP : Dùng rượu trắng cũ (để lâu), loại rượu nấu bằng nếp tốt nhất, thứ
đến là rượu nấu bằng gạo, người bây giờ (dân nhậu) gọi là rượu Công Xi
cũng được.

14.- Ông TRẦN QUANG THÀNH, Hong Kong

HỎI : Ông tổ của môn Thiết Sa chưởng là ai và sáng lập bộ môn nầy từ
bao giờ ?

ĐÁP : Xin xem phần nguồn gốc môn Thiết Sa chưởng trong cuốn sách
nầy.

HỎI : Luyện Thiết Sa chưởng thì đôi tay cứng cáp phi thường, nhưng thân
mình có lợi gì không ?

ĐÁP : Thiết Sa chưởng là một ngành trong võ học, chỉ nhắm vào việc
luyện cho đôi tay có sức đả thương người, như vậy không chú trọng luyện
cả thân người, muốn được toàn diện nên học thêm những công phu khác.
Những môn võ bổ túc cho nhau là lẽ tự nhiên.

15.- Ông THÁI TÙNG CẨM, Hong Kong

HỎI : Nếu khòng mua được Thiết Sa có thể dùng bột sắt có được không ?

ĐÁP : Tốt hơn nên dùng hai loại đậu xanh và đen.

HỎI : Khi dùng rượu thuốc có cần hâm nóng không ?

ĐÁP : Không cần thiết.

16 - Ông TRƯƠNG THANH TUYỀN, Thái Lan


Tự luyện thiết sa chưởng 51

HỎI : Thuốc bột ông gởi cho tôi không biết vì quá lâu hay vì gói không kỷ
nên nhận được thấy ướt lên mốc và đóng cục không biết có còn xài được
không ?

ĐÁP : Thuốc đó dù đóng cục và lên mốc nhưng dược tính bất biến nên vẫn
còn ngâm rượu và dùng được như thường, nhưng khi đã ngâm thành
thuốc rượu phải đậy kín ngừa những chất nhẹ hơi như Mộc hương bay đi
hết.

17.- Ông NGÔ ÍCH CHI, Hoa Kỳ

HỎI : Nếu bị thương trầy da có thể dùng thuốc ông giới thiệu không ?

ĐÁP : Nếu tay bị thương nên dùng thuốc bó cho lành da rồi hãy tiếp tục
tập luyện.

18.- Ông VÔ DANH, Hong Kong

HỎI : Luyện Thiết Sa Chưởng có khi nào bị nội thương thổ huyết không ?

ĐÁP : Nếu không đọc sách kỷ và tập đúng phương thuốc thì rất tai hại,
nếu trong khi tập thấy phản ứng bất lợi về sinh lý thì nên ngừng tập nếu
không sẽ bị thương dù nặng, nhẹ vẫn không có trường hợp nào bị thổ
huyết. Trừ phi bị người khác dùng Thiết Sa chưởng đánh trúng.

HỎI : Thiết Sa chưởng thuộc công phu của Nội gia hay Ngoại gia ?

ĐÁP . Thiết Sa chưởng thuộc Ngoại gia công phu, nhưng nếu có thể nhu
luyện lâu năm thì cũng có thể vượt giới thành Nội gia công phu.

HỎI : Sau khi hành công có thể dùng nhưng thang dược thông thường hay
rượu thuốc bán ngoài chợ ngâm tẩm có được không ?

ĐÁP : Dùng đinh sét, hay sắt rỉ ngâm giấm để thay thế dược liệu chính
thống thì công hiệu đáng nghi ngờ cũng giống như những thứ thuốc không
biết ra sao chỉ thấy màu mè rao bán rẻ thì làm sao tin tưởng được. Chắc
chắn những thứ vừa kể sẽ không có lợi. Phải chú ý đừng nên dùng dược
liệu bậy bạ mà mang hại.

19.- Ông HÀ LÊ DƯ, đảo Morris

HỎI : Nhiều người nói rằng trong trăm ngày hành công Thiết Sa chưởng
không nên giao hoan (làm việc vợ chồng) và cũng không được mộng tinh
hay bất cứ lý do nào mà xuất tinh, nếu bị sẽ không thành công, có phải lời
ấy đúng không, và có cách nào trừ tiệt ?

ĐÁP : Trong chương trình tập luyện 100 ngày tôi không chủ trương cấm
ngặt việc giao hoan, tôi thấy hai việc giao hoan và luyện lập không phải là
việc trực tiếp. Nhưng nếu giảm tiết thì rất hay. Vì giao hợp nhiều tinh thần
kém cỏi và thể xác mệt mỏi, thì việc luyện tập cũng kém phần kết quả.
Tôi quan niệm sinh lý là việc tự nhiên của động vật, ngay cả giống người
Tự luyện thiết sa chưởng 52

vẫn thế, phải điều hòa. Nếu tinh tích tự đầy quá không có cơ hội bài tiết
thì tự nó cũng có cách chảy thoát ra ngoài bằng những mộng tưởng do ảo
giác thần kinh gây nên. Vi thế theo tôi nên điều hòa thân thể, cũng như
ăn cơm và ngủ vậy.

20 - Ông LÂM MƯU, Nam Dương

HỎI : Tôi không có căn bản về võ thuật vậy có nên tập luyện Thiết Sa
chưởng được không ?

ĐÁP : Không có căn bản về võ thuật tập TSC vẫn có ích lợi, hoặc đã thành
công Thiết Sa chưởng rồi mới học thêm chút ít võ nghệ phòng thân thì lại
càng hay. Trong đời có nhiều người chỉ biết chút ít võ công mà nhờ tay
chân cứng cáp cũng nổi danh trên chốn giang hồ xưa nay.

HỎI : Tập xong cỏ thể đi tắm ngay được không ?

ĐÁP : Tập xong phải hành dư công, xoa nắn chân tay xong tản bộ một
chút cho khí huyết lưu thông rồi hãy tắm.

21.- Ông HÀ NGHI, Mã Lai Á

HỎI : Theo như phương pháp đánh và vổ xuống bao Thiết Sa thì buông
sức ở cánh tay, vận sức ở ngón tay và chưởng, nhưng tôi cảm thấy rằng
nếu không dùng sức cánh tay thì đánh xuống không nhanh, và va chạm
lại yếu. Vậy sau khi luyện thành rồi lúc giao đấu thì cánh tay phải dùng
đến sức chứ không phải buông lơi được. Vậy phương pháp tường tận là
như thế nào ?

ĐÁP : Khi vổ và đánh, cánh tay cũng cần vận sức thì sau nầy mới hoàn
thành động tác được, nhưng phải chú ý là khi vổ và đánh có chủ động ở
Ngón hoặc Chưởng chớ không phải chọn ở cánh tay là chính. Khi thành
công chưởng pháp rồi thì công địch giống như cầm cục đất ném vào địch,
giữa cục sắt và người ném có sợi giây còn như gồng cả cánh tay lấy sức
thì giống như cầm một cây sắt giáng xuống thì không tạo được điểm lực
lớn. Mà điểm lực tập trung trầm mới là sức mạnh chánh yếu mà người tập
võ nghệ gia công học tập, để khi dùng nó mời là thượng sách.

(Trên đây Võ sư Hồ Hòa Minh trả lời những môn sinh võ lâm mà ông nhận
được thư đầu tiên trong thời kỳ ông chính thức mở trường truyền thụ môn
Thiết Sa Chưởng)

Và dưới đây là phần giải đáp những thắc mắc liên hệ đến môn Thiết Sa
Chưởng do Giáo sư Hàng Thanh đảm trách :

1.- Ông NGUYỄN CÔNG SÁNG, Bình Định

HỎI : Tôi nghe người ta truyền rằng nhiều vị võ sư ngày xưa có thể dùng
bàn tay đâm thủng cây chuối hột. Vậy có đúng không, và cách tập nó như
thế nào, xin Giáo sư cho biết ?
Tự luyện thiết sa chưởng 53

ĐÁP : Tôi theo thầy tôi học võ đã lâu, sau cộng tác báo VÕ THUẬT nên
được biết và nghe nhiều chuyện cũng như học hỏi được nhiều công phu có
thể biểu diễn làm vui mắt những người ham mộ như : Hành công chuyển
khí làm nhiều người không thể bẻ cong cánh tay, hoặc đã dùng cạnh bàn
tay chặt gảy nhiều viên gạch xây tường, hoặc dùng mũi bàn tay xỉa bể
sáu bảy phân ván có tách chất dòn. Cho đến nay vẫn chưa có tiến bộ hơn
trừ mặt quyền và binh khí Thập bát ban. Chuyện ông nghe nói tới thì hầu
hết những người biết võ tại nước nhà cũng biết và cũng như tôi nhiều vị
võ sư có tên tuổi trên thế giới và VN vẫn không ai thực hiện được. Nhưng
theo tôi nghĩ thì cũng có thể tập đến trình độ đó được nếu chịu cố gắng và
có phương tiện.

Còn về tập bằng cách nào thì ngay như tôi hay những người hiện đang có
trách nhiệm truyền bá võ thuật vẫn khó mà trả lời cho chắc chắn. Có thể
người xưa tập theo lối tập Thiết Sa chưởng trực tiếp đã trình bày trong
sách nầy. Vì rằng hầu hết những vị võ sư tên tuổi tại xứ ta đều học hai
thứ võ Việt Nam (Kinh) và võ Thiếu Lâm Vi Đà môn. Dó đó cách luyện
Thiết Sa chưởng của Thiếu Lâm hẵn được truyền bá sang Việt Nam cũng
trong cơ hội đó mà thôi.

2.- Cô HUỲNH THỊ CẨM BÀO, Gò Công

HỎI : Tôi nghe đồn có môn võ Đại Hàn đá cây gảy, đấm ngói gạch bể, vậy
có thật không, hay họ dùng thuốc gì làm cho cây mục, ngói bở trước khi
biểu diễn ? Nếu có công phu đó con gái học được không ?

ĐÁP : Võ Thái Cực Đạo Đại Hàn có làm được những việc ấy tùy theo trình
độ học lâu mau mà thực hành kết quả lớn hay nhỏ. Trình độ 2 năm tập
luyện học có thể chặt gảy 2 viên gạch tiể, 4 hay 5 năm thì có thể chặt gảy
3 viên, nhưng phải là thứ gạch cứng trung bình. Còn về cây thì họ có thể
đá bể từ 2 phân đến 4 phân trong 2 đến 4 năm tập luyện.

Công phu ấy là thật, không có chi giả dối. Về cách tập thì rất đơn giản,
tập quyền cho sức mạnh rồi tập chặt, đá vào những bao cát hay trụ cây,
tập tay chân, sau lâu ngày tay chịu đau quen thì có thể chặt gạch hay đá
gỗ được.

Các cô vẫn có thể tập được, nhưng chắc chắn sẽ không bằng nam giới, và
điều có thể nói trước mà không trật là nếu các cô tập công phá mà thành
thì hai bàn tay trông hết mỹ thuật. Cô muốn luyện thì mua sách về Thái
Cực Đạo hoặc đến trường dạy về môn võ nầy mà học.

3.- Cô TRƯƠNG THÚY LAN, Sài gòn

HỎI : Kính thưa Giáo sư, gần đây phim chưởng chiếu nhiều tại Saigon,
trong một vài phim đặc biệt đề cao môn Thiết Sa chưởng, vậy môn ấy có
những đặc điểm như thế nào. So sự lợi hại của người tập môn đó với môn
Thái Cực Đạo thì sao và như phận gái chúng tôi có thể nào học thành như
những cô nữ biệp ở trong phim không ?
Tự luyện thiết sa chưởng 54

ĐÁP : Môn Thiết Sa chưởng là môn công phu luyện tập cho đôi tay cứng
rắn có thể đánh gảy, bể những vật cứng, tùy theo thời gian luyện tập
người hành công có thể thực hiện được những kết quả, như có thể chặt
gảy một phiến đá lớn, làm tróc vỏ cây, và đối với người thì có thể đánh
gảy xương, đập nát một phần nào đó trên châu thân người. Vì bàn tay
cứng và biết cách tập trung sức nên rất lợi hại. Có những chuyện đồn đại
như sự thật, là người tập Thiết Sa chưởng có thể dùng chưởng vổ chết bò,
ngựa, hay trâu v.v...

Còn môn công phá của Thái Cực Đạo cách luyện tập tổng hợp không giống
môn Thiẽt Sa chưởng, nhưng cũng đạt những kết quả tương đối như cô
thấy, nhưng ở trình độ chuyên luyện thì hiện nay người công phá mạnh
nhất Đại Hàn có thể chặt gãy được 7 viên gạch cứng vừa phải và đá vở
tấm gỗ dày 8 phân tây.

Các cô học võ vẫn đạt được trình độ đáng cho người đời nể nang chứ sao
không. Ngày xưa nhiều bậc nữ lưu gầy dựng cơ nghiệp bằng vốn liếng võ
nghệ nay vẫn còn tên trong lịch sử.

Tuồng tích trong Ciné là nhờ kỹ thuật điện ảnh, thật ra thì những tài tử
hay minh tinh đó không có trình độ võ công đến như thế. Hiện nay cô đào
nào có bằng cấp đai đen của một môn võ là coi như đứng nhất rồi, như
vậy thì trình độ của các cô ấy cũng chỉ bằng một số ít môn sinh do tôi
hướng dẫn trong tám năm qua mà thôi. Mà con số nữ phái học võ ở trình
độ đó ở VN có khoảng gần trăm người. Như thế thì không có điều nào
khẳng định là cô không học võ để bằng các diễn viên trên màn ảnh.

Tuy nhiên muốn cho đủ tuồng tích, nào là kiếm, đao, thương, ném ám khí
v.v... thì phải tập võ lâm mới có. Còn việc đấu quyền làm hoa mắt khán
giả là họ có bài đấu. Những môn võ bành trướng tại nước VN trừ môn võ
lâm (18 bài La hán quyền) do Thiền sư Thiện Tâm dạy thì không môn nào
có bài đấu bài nữa. Binh khí cũng vậy. Cô muốn học võ đễ biểu diễn giống
như chiếu bóng thì chỉ có tìm các đại đồ đệ của Thiền sư mà thọ giáo là
được. Nhưng mà được thọ giáo với những vị ấy hơi khó. Còn Lão sư phụ
thì không còn nhận đồ đệ đã lâu rồi.

4.- Ông HUỲNH PHÚ VINH, Chợ lớn

HỎI : Kính thưa Giáo sư, gần đây phim chiếu bóng chiếu mấy tuồng trong
đó có đoạn trình bày Vương Vũ tập Thiết Sa chưởng, tay thọc vô chảo
nước sôi trong chứa phân trâu, phân ngựa và nước đái ngựa, như vậy có
đúng với cách tập Thiết Sa chưởng không ?

ĐÁP : Tôi không được hân hạnh xem phim khi chưa cắt xén nên không rõ
đoạn ấy nnư thế nào. Nhưng luyện tập Thiết Sa chưởng như thế thì không
đúng cách. Phân ngựa có nhiều vi trùng phong đòn gánh mà tập Thiết Sa
tay bị trầy lại cho vào phân ngựa thì thật là không biết gì về vệ sinh. Tôi
nghĩ người ta phiên âm sai hay người viết tuồng không thông võ học vô
tình hạ thấp lối hành công hay hành dược công.
Tự luyện thiết sa chưởng 55

Có thể như thế nầy : Người viết chuyện phim muốn trình bày lối luyện
Thiết Sa chưởng theo lối trực tiếp, dùng hai bàn tay xỉa, vổ, chặt, v.v…
vào thùng Thiết sa, sau đó hành dược công bằng cách cho tay vào chảo
nấu thuốc ấm ấm, đó là loại dược công ngâm giấm.

Nhưng Vương Vũ là một tài tử đóng phim, dù có học võ công chỉ đễ đóng
phim, không phải người chuyên nghiệp nên có làm vô ý những việc trên
cũng không có điều gì đáng chê trách. Ngoài đời còn nhiều chuyện đáng
chê trách hơn nhiều mà mấy ai thấy đâu. Có điều nên lưu ý là đừng khi
nào nghe lời hay tin những cái mà không sách vở nào đề cập tới một cách
đứng đắn.

5.- Ông TRẦN THÁI BÌNH, Gia Định

HỎI : Ở Saigon có trường nào dạy tập Thiết Sa chưởng không, tại sao
những võ sư VN không luyện tập môn võ công đó để biểu diễn ? Tập nó
khó quá phải không ?

ĐÁP : Tôi chưa nghe có vị võ sư nào mở trường dạy môn công phu Thiết
Sa chưởng tại Sài gòn. Còn vấn đề tập hay không là chuyện riêng và ý
thích của các vị ấy, tôi thường thì không để tâm và cũng không thích bàn
về chuyện của người khác. Môn Thiết Sa chưởng không khó mà cũng
không dễ, chỉ cần tập đúng và liên tục trì chí là thành công. Và như thế ai
tập cũng được.

6. - Ông NGUYỄN KHANH và các con, SG

HỎI : Nghe Giáo sư nhận dạy đặc biệt người lớn tuổi. Vậy tôi muốn luyện
Nội Công và các con tôi muốn luyện Thiết Sa chưởng, không biết Giáo sư
có dạy cho chúng tôi những môn đó không. Nếu không nhờ Giáo sư chỉ
giúp chúng tôi một chỗ để đến xin thọ giáo.

ĐÁP : Tôi có mở lớp nhận dạy tại tư gia mấy lúc gần đây nhằm theo lời
yêu cầu của nhiều vị thân hữu lớn tuổi và có chức phận, những người nầy
muốn học chút đỉnh võ công để tự vệ trong những trường hợp nguy biến.
Sẵn dịp tôi cũng nhận dạy cho các bà các cô nhà tử tế để phòng thân và vì
thế mà phải làm một chương trình huấn luyện. Chương trình đó nhằm
huấn luyện cấp tốc cho học viên biết cách phòng bị và phản công tự vệ
trong những trường hợp nguy nan. Thường thường trong ba mươi trường
hợp bị uy hiếp cướp giật tôi có nghĩ ra 90 cách giải trừ để huấn luyện trọn
khóa, và lấy việc luyện quyền và điểm huyệt làm chánh yếu. Vì thế nên
tôi không chú trọng phần nội công, đành rằng điểm huyệt cần phải có nội
công mới học được nhưng đối với tôi, những người mới học với tôi cũng có
thể học huyệt, duy có điều họ không thể điểm chết được đối phương,
nhưng chính nhờ biết điểm huyệt họ đã đánh ngả bất tỉnh kẻ định gia hại
họ, nếu cùng trong trường hợp ấy sự luyện quyền chưa đủ dùng, luyện nội
công lại càng mơ hồ hơn.

Đối với ông đề nghị, xin thưa rằng hiện nay tôi chưa định sẽ mở lớp hướng
dẫn về nội công kể cả ngoại công Thiết Sa Chưởng. Không phải tôi ích kỷ
giấu nghề mà thật ra tôi không có thì giờ. Và chính tôi còn cần rất nhiều
Tự luyện thiết sa chưởng 56

giờ để luyện tập công phu cho mỗi ngày một thêm xứng đán với sự
ngưỡng mộ của thanh niên nước nhà.

Đồng thời tôi cũng xin thưa với ông là tôi không thể giới tbiệu cùng ông và
các cháu một vị võ sư thân hữu để chu toàn nguyện vọng của ông vì hiện
nay rất ít người nghĩ đến vấn đề lâu dài đó, tức là luyện nội công.

7.- Ông TRẦN HỒNG KỲ, Cần đước

HỎI : Xin hỏi Giáo sư, tôi được danh GS từ lâu mà không hân hạnh được
gặp để nhờ chỉ dẫn nhiều điều về võ học, nay tôi có đôi điều thắc mắc về
một người tại quê nhà, xin GS giải đáp cho tôi thêm rộng đường hiểu biết.
Nguyên tại quê tôi Cần Đước nhiều người có đồn đại về một nhân vật võ
công cao lắm, một mình đánh năm sáu mươi người, ngón tay của ông có
thể bấu tróc văm ván gõ. Không rõ lời đồn đại ấy có đúng không, nếu quả
như thế thì xin Giáo sư cho tôi được biết người ấy học võ gì mà được như
vậy và nếu biết tên người ấy xin GS cho tôi biết luôn tôi rất cám ơn.

ĐÁP : Nghe qua tôi biết ông không phải người thường, thật tình tôi không
có điều gì hiểu biết hơn đời để có thể chỉ dạy cho những người hiểu biết,
ngoại trừ một vài công phu học hỏi được cũng để chỉ lại môn sinh ham võ
mà thôi. Còn về nhân vật nổi tiếng tại đất Cần Đước, nếu tôi là người địa
phương thì nhất định cũng hiểu về ông, nhưng tôi là người khác tỉnh thành
có nghe cũng chỉ nghe mà chưa có dịp gặp, điều đó nói ra ông đừng cười
tôi kém đường giao thiệp. Cách đây năm năm nhân một buổi uống trà ở
nhà một võ sư lớn tuổi, vui chuyện ông võ sư có nói về một nhân vật nổi
tiếng về võ Tàu tại Cần Đước, tên vị võ sư nổi danh nầy là ông Bảy Nếp,
không rõ tên thật là chi.Ông Bảy Nếp về tài nghệ thì như ông đã kể, còn
một đặc tính nữa là ông không treo Việt Gian mà cũng không theo Việt
Minh (1945), sau ông bị Việt Minh bắn chết tại Cần đước, lý do không
được nghe tới. Điều nữa được biết là ông bảy Nếp có dựa cá tâi chợ Cầu
Ông Lãnh Saigon, thường lên chơi và và được tay anh chị chợ Cầu Ông
Lãnh và chợ Cầu Muối phục lắm. Nếu điều nghe trên đây của tôi không
được đúng với sự thật xin ông cho tôi biết rõ thêm thì tôi cũng cám ơn ông
lắm.

8.- Ông LÊ ĐÌNH TRUNG, Bình Dương

HỎI : Kính thưa Giáo Sư, ở Bình Dương ngày xưa vùng Bà Trà, Tân Khánh
có nhiều vị võ sư khét tiếng đánh cọp, thưa Giáo sư võ đánh cọp có khác
võ đánh người không, và những miếng võ đó so với các đường quyền của
võ ngoại quốc bây giờ thì như thế nào. Tôi cũng nghe Giáo Sư luyện Thiết
Sa chưởng đã lâu, nhờ đứa cháu có duyên được Giáo Sư cho tiếp kiến, xin
hỏi là võ Ta tức Bà Trà, Tân Khánh có môn tập Thiết Sa chưởng không ?

ĐÁP : Thời biến loạn, nước mình tuy đường đất ngắn mà hóa dài, tôi đã có
dịp nghe danh các vị võ sư tại Tân Khánh từ lâu, nhưng chưa có dịp ghé
thăm thì các vị ấy vì cao niên mà qua đời hết rồi. Nhưng dù các vị ấy đã
chết nhưng những tên như ông Năm Dực, ông Tư Vi, ông Cả Đại, v.v...
vẫn còn nhiều người biết tới. Và nhiều giai thoại đánh cọp của các vị ấy
vẫn còn nhắc nhở luôn làm mọi người đều tỏ lòng ngưỡng mộ. Điều làm
Tự luyện thiết sa chưởng 57

tôi càng thêm kính phục những vị đó là những năm kháng chiến chống
Tây các vị ấy đứng ra dạy cho thanh niên những miếng võ GIẾT GIẶC,
trong số những môn sinh xuất sắc có hai người là Nguyễn An Ninh, Luật
sư, và GS Phan văn Hùm, cả hai người này đều đi vào lịch sử, có tên trên
bản đồ đường phố Sài Gòn.

Võ đánh cọp cũng đánh người được, dù cọp dữ nhưng trí hoá kèm, nên dù
dữ vẫn bị người hạ. Học võ đánh cọp không cần học nhiều, chỉ cần học 6
thế võ căn bản của môn đánh cọp là được rồi, đồng thời học những thói
quen của cọp để khi chiến đấu biết ý nó. Còn võ đánh người mới khó hơn,
vì người đánh người khó lắm, ai cũng có trí hoá, ai cũng có lương tâm, Bởi
thế đánh cọp chỉ cần vài thế võ của thợ săn là đủ mà người đánh người thì
võ không nào dễ biết hơn thua.

Nếu mang võ Bà Trà, Tân Khánh, tức Võ Vườn mà so với võ ngoại quốc thì
có chỗ đồng, chỗ dị về kỹ thuật cùng cho đến triết lý Nói nhiều sợ làm mất
thời giờ tôi xin tóm lược : Ví như võ Cao Ly thì cũng rất là hay, đánh
mạnh, đá cao, học trò võ sau năm ba tháng học thấy hùng dũng lắm, học
vài năm thấy có hơn. có giỏi và tự tin, chiến thắng địch thủ. Còn võ Bà Trà
hay Võ Vườn tức võ Ta, cũng như võ Kinh, tức võ của quân đội triều đình
xưa v.v... Về phần kỹ thuật cũng không thua kém chi võ Cao Ly, nhưng
thay vì sử dụng đòn dài thì võ Ta quấn quít, thượng ngăn, hạ chận, tiền,
hậu, tả, hữu, đều yểm, đều xung. Tinh thần thì đầm thắm hướng nội,
không như võ Cao Ly vọng ngoại nghĩa là học xong nghĩ là mình thắng
người khác. Võ Ta chính tông học xong nghĩ là mình thắng mình. Và nhờ
tinh thần đó mà các võ sư hay nhân tài Việt Nam xưa đã cả thắng được
hàng vạn, hàng mấy chục vạn quân giặc. Ấy không có gì là lạ, vì mấy
ngàn năm trước Triết lý Binh thơ đã có nói và dường như Phật Thích Ca
cũng có tuyên bố : “Tự thắng mình bằng thắng vạn quân ngoài mặt trận”.
Quả lời ấy không sai khi mang ra kiểm chứng qua lịch sử, một chứng minh
mới nhất là Hòa Thượng Thính Quảng Đức đã chứng minh điều đó lại Ngã
Tư Lê văn Duyệt - Phan Đình Phùng. Miếng võ Tự thắng của Hoà Thượng
đã thắng được vạn quân của chế độ vị Tổng Thống anh minh Ngô Đình
Diệm. Miếng võ hướng nội của Hòa thượng đã làm cho hàng vạn tín hữu
Phật giáo và ngoại đạo cúi đầu. Cái khác của miếng võ Việt Nam và Cao
Ly hay ngoại quốc là như thế ấy.

Về phần tôi, xin cám ơn ông đã có lòng nghĩ tới và mến mộ, xưa nay tôi
vốn vẫn thich rèn luyện võ công và cho đến nay thì có môn thành tựu và
cũng có môn chưa đi đến đâu. Riêng môn Thiết Sa chưởng thì cũng có
luyện đến mức tiểu thành, đồng thời cũng có học mấy miếng võ VN, do đó
được biết võ Ta không có môn Thiết Sa chưởng, nhưng bù lại cũng có
những công phu khác để luyện, và đến khi thành công rồi vẫn không thua
gì môn Thiết Sa chưởng. Điều nầy tưởng ông cũng đã biết rồi.

9.- Cụ HỒ HỮU HUÂN, Cố Đô Huế

HỎI : Hậu sinh khả úy sóng đại dương ngọn sau đè ngọn trước. Giáo sư
tuổi chưa lớn lắm mà đã có nhiều điểm hơn đời. Tôi nay lão hủ cũng
thường thích võ học, lúc thiếu thời có luyện bài quyền năm ba thế cước và
thường nghe các Cụ Cử nói nước ta có trường Anh Danh và Giáo Dưỡng là
Tự luyện thiết sa chưởng 58

hai trường đào tạo lắm nhân tài võ dũng làm quan giúp nước. Các cụ bảo
nơi đất thần kinh (tức Huế) là đầm Rồng có nhiều người giỏi võ hay văn,
về võ thì luyện đủ Thập bát ban, văn thì hay Thám hoa, Tiến sĩ, v.v… Nay
đã mấy mươi năm qua rồi tôi thường để tâm nghe ngóng mà dường như
chẳng thấy một ai tài giỏi gióng động gì. Hay là võ ta chẳng có gì hay. Tôi
muốn nhờ GS giải thích coi võ của Trường Vua hồi xưa và võ của thời nay
khác biệt nhau như thế nào v.v... Liệu bây giờ có thể làm gì được cho nền
quốc võ được chăng ?

ĐÁP : Thưa Cụ, Cụ quá thương mà có lời khen như thế, thật ra thì tôi tài
mạo cũng chẳng đến đâu và chẳng bao giờ dám nghĩ đến “sóng thủy triều
ngọn sau đè ngọn trước”. Đành rằng tre già thì măng mọc, trăng lặn thì
ánh dương lên, nhưng răng chưa mòn quá nửa, xương ống chưa rổng nửa
phần thì đâu dám ngước mắt nhìn cao. Nhưng đối với Cụ một vị Lão thành
đáng tôn kính có lời hỏi tới thì tôi không dám không thưa. Vậy có điều chi
không phải xin Cụ niệm tình.

Thưa Cụ, quả như tôi có đọc sánh thấy trường Anh Danh và Giáo Dưỡng là
hai trường dạy võ do triều nhà Nguyễn Gia Long lập nên tại Kinh đô Huế.
Chính hai trường này đã đào tạo nhiều vị võ phu giúp ích cho triều đình
đắc lực. Và quả nhiên những lời các vị tiền bối ấy không phải không đúng
nhưng xét vì thời cuộc biến chuyển bất lợi cho xứ sở gấn cả trăm năm nay
thì việc nhỏ như mở trường dạy võ, hay chi chi gọi là phục hưng nền học
thuật cổ truyền đâu dễ làm. Vì thế dù có nức lòng ngưỡng mộ các vị tiền
bối nhưng không dám thưa. Hậu sinh không dám thưa. Hậu sinh không
bao giờ dám nghi kỵ tài năng các bậc nhân tài ngày xưa, dù hiện nay
những người ấy không làm vì thì cũng đã như có làm rồi và nhờ những
khói trầm hương ấy mà quê hương vẫn còn đủ hai miền Nam Bắc, tuổi
hậu sinh còn nói tiếng Việt Nam. Đành rằng võ Thập Bát Ban, Thám Hoa,
Tiến Sĩ, đều là những gì cao quí nhưng mất đi cũng như cát biển bị nước
cuốn mà thôi, cát biển vẫn còn đầy trên bờ biển, những gì của quê hương
ngày qua đã mờ đi rồi ngày mai sẽ hiện lên rõ lại bằng hình thức nầy hoặc
dưới hình thức khác. Cụ thật quả là một đấng cha già VN đại diện cho
hàng vạn đấng cha già VN, cụ đã thấy hiện nay người trẻ Việt Nam hưởng
ứng các phong trào võ nghệ một cách rầm rộ, mà tôi tưởng chừng như
lịch sử VN chưa bao giờ rầm rộ đến thế. Ấy chẳng qua là truyền thống VN,
và giờ đây là lúc mà truyền thống ấy đã bộc lộ, đã sống lại. Giờ thì chỉ còn
chờ một luồng gió tư tưởng thật đứng đắn và thuần túy của các đấng cha
già thì các trường phái võ thuật trên quê hương sẽ trở thành trường Anh
Danh và Giáo Dưỡng.

Thưa Cụ, tôi có lẽ đã lắm lời và như vậy tất nhiên là không nên trước một
người già VN tôn kính. Sau đây tôi xin có ý kiến về câu hỏi chót của Cụ.

Thật ra thì tôn chỉ của võ trong mọi thời đại có chỗ giống nhau là đào tạo
cho con người cường tráng và biết nhân, lễ, nghĩa, trí, tín. Nhưng cũng có
chỗ khác biệt vì hoàn cảnh và thời gian, như Cụ tuổi đã 90 thì cuộc đời và
quan niệm đã khắc lúc đương thời 20, từ đó đến nay biết bao nhiêu biến
cố, v.v... Ngày nay riêng Võ Cổ Truyền dù được truyền cũng chỉ chú trọng
phần lớn vào Quyền. Về những môn khác như Binh khí, v.v... thì dường
như ít thích nghi, vì thế trong sự truyền bá có phần hời hợt.
Tự luyện thiết sa chưởng 59

Về phần kỹ thuật võ xưa và nay, riêng võ xưa như Cụ đã biết còn võ nay
phần nhiều chú trọng đến tính cách thể tháo nên đòn thế ít hiểm (nói
chung những môn võ được truyền bá rộng rãi tại VN và thế giới).

Sau hết là việc làm gì thì tôi đâu dám có ý kiến khi đứng trước bậc Trưởng
Lão, nhưng với nhiệt tâm tôi chỉ dám thưa, nếu có thể được cụ đứng ra hô
hào các bậc bô lão có tinh thần để lập nên một hội lấy tên là gì đó...
chẳng hạn như để chấn chỉnh lại nền quốc võ, hầu làm cho tinh thần V.N.
cổ truyền sống lại trong lòng mỗi thanh thiếu niên. Nếu được như thế thì
cây đuốc dân tộc tính trong mỗi cá nhân của lớp hậu sinh đang cháy âm ỉ
sẽ nhờ đó mà vụt bừng lên soi sáng trời Nam. Kính cẩn bái bút.

10.- Số đông Nữ Sinh trường Gia Long và Marie Curie.

HỎI : Chúng con rất ngưỡng mộ Thầy, mong Thầy nhận chúng con làm đệ
tử để chúng con được rèn luyện thể chất và tinh thần, hầu lớn lên chúng
con có đời sống yêu đời và hạnh phúc. Chúng con nguyện sẽ hết lòng học
tập và rèn luyện nhân cách để xứng đáng là học trò của Thầy...

ĐÁP : Các con có tâm chí hướng đến chân thiện mỹ thì thật là hay, ở đời
mà mong tìm sự thật thì sự thật sẽ đến. Thầy cũng muốn thu nhận các
con và nhiều người nữa nhưng hiện nay thì chưa được, vì Thầy còn nhiều
điều phải làm, sợ rằng khi nhận thì dễ mà hướng dẫn cho đến nơi đến
chốn sẽ đòi hỏi nhiều thì giờ. Với lại những điều kiện cá nhân của Thầy
còn khiêm tốn lắm, chừng nào Thầy có trụ sở lớn hơn, chừng đó Thầy mới
định liệu được. Thầy chúc các con sáng suốt bằng cách tự suy nghĩ về
mình trước ngày giờ gặp Thầy.

Còn rất nhiều thơ đọc giả viết cho tôi trong thời gian tôi phụ trách trên tờ
Võ Thuật, cũng như ngưỡng mộ tôi qua người khác giới thiệu, hoặc đọc
sách do tôi soạn thảo. Nhưng tôi không thể trả lời cho hết được, vì làm
như thế không tiện. Không một người đứng đắn nào lại lấy sách (địa hạt
chuyên môn) làm chỗ trả lời riêng tư. Do đó đành gát lại đợi dịp khác.
Mong đọc giả niệm tình.

HẾT

Cuốn sách này tôi dành tặng cho TheGioiEbook.com

You might also like