You are on page 1of 3

Hội nhập kinh tế quốc tế: Cơ hội và thách thức đối với Việt Nam

12:00 -
Thứ hai,
Theo MOI 26/02/2007

Ngày nay, toàn cầu hóa đang là một trong những xu thế phát triển tất yếu
của quan hệ quốc tế hiện đại. Đại diện cho xu thế toàn cầu hóa này là sự ra
đời và phát triển của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO).

Việt Nam là quan sát viên của GATT (Hiệp định chung về thuế quan và
thương mại) và chính thức nộp đơn gia nhập WTO ngày 4/1/1995.
Ngày 22/8/1996, Việt Nam đã gửi Bị vong lục về chế độ ngoại thương
của Việt Nam tới WTO. Tháng 7/1998, Việt Nam tiến hành phiên họp đa phương đầu tiên tới
Nhóm công tác về minh bạch hóa các chính sách kinh tế thương mại. Cho tới nay, Việt Nam
đã thực sự hoàn tất về cơ bản giai đoạn minh bạch hóa chính sách và đang ở giai đoạn đàm
phán rất quan trọng về mở cửa thị trường một cách toàn diện. Gia nhập WTO đã đem lại
nhiều cơ hội thuận lợi cho Việt Nam, điều này được thể hiện ở các điểm sau đây:

Thứ nhất, Việt Nam trở thành thành viên của WTO sẽ khắc phục được tình trạng bị phân biệt
đối xử trong buôn bán quốc tế. Ví dụ như sự đối xử tối huệ quốc (MFN) không điều kiện,
thuế quan thấp cho hàng xuất khẩu của Việt Nam, thúc đẩy việc thâm nhập thị trường cho
hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam, cải thiện cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại với các
nước, sự đối xử theo hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập và củng cố cải cách kinh tế Việt
Nam. Đặc biệt, các Hiệp định của Vòng đàm phán Uruguay đã đem lại cho Việt Nam các lợi
ích như: Đẩy mạnh thương mại và quan hệ của Việt Nam với các thành viên khác trong WTO
và đảm bảo nâng cao vai trò quan trọng của Việt Nam trong các hoạt động kinh tế và chính
trị toàn cầu như là một thành viên của WTO.

Thứ hai, gia nhập WTO sẽ tạo điều kiện mở rộng thị phần quốc tế cho các sản phẩm Việt
Nam và thúc đẩy thương mại phát triển. Việt Nam sẽ có cơ hội xuất khẩu những mặt hàng
tiềm năng ra thế giới nhờ được hưởng những thành quả của các vòng đàm phán giảm thuế
và hàng rào phi thuế, tăng cường tiếp cận thị trường của WTO, đặc biệt trong các lĩnh vực
hàng dệt may và nông sản. Cơ hội xuất khẩu bình đẳng sẽ có những ảnh hưởng tích cực đến
hoạt động của các doanh nghiệp trong nước, sản xuất sẽ được mở rộng và tạo nhiều công
ăn việc làm cho người lao động. Việc bãi bỏ Hiệp định đa biên (MFA) về hàng dệt sẽ tạo điều
kiện cho xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam. Các nhà xuất khẩu Dệt -May Việt Nam sẽ
được đảm bảo trong vòng 10 năm sau khi trở thành thành viên của WTO, đồng thời, các
nước nhập khẩu sẽ không có các hạn chế MFA đối với hàng dệt may của Việt Nam. Đối với
các mặt hàng nông sản, là nước xuất khẩu gạo đứng thứ 3 trên thế giới, Việt Nam sẽ có
nhiều thị trường xuất khẩu mặt hàng này hơn vì hạn ngạch nhập khẩu gạo và các nông sản
khác sẽ được thay thế bằng thuế và thuế sẽ phải được cắt giảm theo Lộ trình quy định của
WTO. Việt Nam có lợi nhiều khi các thị trường gạo mở cửa, đặc biệt là các thị trường Nhật
Bản và Hàn Quốc. So với các nước đang phát triển khác, Việt Nam sẽ có lợi hơn từ các Hiệp
định của Vòng Uruguay vì theo quy định của WTO, hàng xuất khẩu dưới dạng sơ chế của các
nước đang phát triển sang các nước phát triển thường không phải chịu thuế hoặc thuế thấp.
Việt Nam là nước xuất khẩu nhiều hàng sơ chế, sẽ rất có lợi từ quy định này.

Bên cạnh việc mở rộng xuất khẩu hàng hóa trong nước, Việt Nam còn tận dụng được cơ hội
từ nhập khẩu như lựa chọn nhập các loại hàng hóa có kỹ thuật cao, công nghệ tiên tiến để
nhanh chóng phát triển các ngành có công nghệ cao, ngành mũi nhọn, nhanh chóng đuổi
kịp các nước phát triển trên thế giới.

Thứ ba, Việt Nam sẽ có lợi từ việc cải thiện hệ thống giải quyết tranh chấp khi có quan hệ
với các cường quốc thương mại chính. Việc tham gia WTO sẽ cho phép Việt Nam cải thiện vị
trí của mình trong các cuộc đàm phán thương mại, có điều kiện tiếp cận các quy tắc công
bằng và hiệu quả để giải quyết các tranh chấp thương mại. Những nguyên tắc của WTO đối
với các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam cũng sẽ có lợi vì sẽ nhận được một số ưu
đãi đặc biệt như được miễn trừ sự ngăn cấm trợ cấp xuất khẩu. Tuy nhiên, nếu hàng hóa
thuộc loại cạnh tranh, sự miễn trừ này sẽ bị loại bỏ trong thời gian 8 năm.

Thứ tư, Việt Nam sẽ có lợi gián tiếp từ yêu cầu của WTO về việc cải cách hệ thống ngoại
thương, bảo đảm tính thống nhất của các chính sách thương mại và các bộ luật của Việt
Nam cho phù hợp với hệ thống thương mại quốc tế. Các quy định của WTO sẽ loại bỏ dần
những bất hợp lý thương mại, thúc đẩy cải thiện hệ thống kinh tế và đẩy nhanh quá trình
chuyển đổi từ hệ thống kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường.

Thứ năm, Việt Nam sẽ có điều kiện thu hút vốn, kinh nghiệm quản lý và công nghệ mới…
của nước ngoài. Trong những năm qua, khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực sự
đã trở thành một trong những động lực tăng trưởng sản xuất công nghiệp Việt Nam. Đầu tư
nước ngoài đã tác động mạnh mẽ tới tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Nguồn
đầu tư trực tiếp nước ngoài có vai trò quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam, chiếm gần
30% vốn đầu tư xã hội, 35% giá trị sản xuất công nghiệp, 20% xuất khẩu và giải quyết việc
làm cho hàng vạn lao động. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã góp
phần chủ yếu vào việc chuyển giao công nghệ, đầu tư nghiên cứu và phát triển ở Việt Nam
trong những năm qua. Sự xuất hiện của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cũng có tác
động tích cực như: tăng mức độ cạnh tranh trên thị trường, giúp các doanh nghiệp và các
nhà quản lý doanh nghiệp trong nước học hỏi thêm về cách thức quản lý sản xuất, tiếp thị,
tiếp thu công nghệ, kiểu dáng sản phẩm, phục vụ khách hàng…

Sáu là, nâng cao khả năng cạnh tranh và tính hiệu quả trong nền kinh tế, đồng thời tạo ra
môi trường cạnh tranh bình đẳng cho các doanh nghiệp Việt Nam. Tự do hóa thương mại
của WTO sẽ tạo điều kiện cho hàng hóa của các nước thành viên dễ dàng thâm nhập vào thị
trường Việt Nam. Điều này gây sức ép buộc các doanh nghiệp Việt Nam phải chấp nhận mức
độ cạnh tranh khốc liệt, làm cho họ trở nên năng động hơn trong việc tạo sản phẩm mới, cải
tiến các dịch vụ, hạ giá thành sản phẩm…

Bên cạnh những cơ hội đó, Việt Nam đồng thời cũng phải đương đầu với các thách thức sau
khi gia nhập WTO. Bởi lẽ, so với thế giới, Việt Nam còn là một trong những nước nghèo với
mức GDP đạt 372 USD/người/năm, hệ thống chính sách kinh tế-xã hội đang trong quá trình
hoàn thiện, chưa đồng bộ, trình độ kỹ thuật, trình độ quản lý… có sự chênh lệch lớn so với
các nước phát triển.

Bên cạnh đó, Việt Nam còn phải thực thi đầy đủ các cam kết của mình, đặc biệt là các cam
kết trong một số lĩnh vực như dịch vụ, sở hữu trí tuệ, các biện pháp đảm bảo thương mại
công bằng, an toàn vệ sinh thực phẩm, vệ sinh dịch tễ, kiểm dịch động thực vật và hàng rào
kỹ thuật thương mại…, nên việc thực thi sẽ rất khó khăn. Điều này không chỉ yêu cầu Việt
Nam phải thông qua các luật lệ, quy định phù hợp với WTO và nền kinh tế thị trường, mà
còn đòi hỏi tình hình thực tiễn phải đáp ứng được các yêu cầu của WTO. Cụ thể, Việt Nam
phải nâng cao đáng kể năng lực cho các cơ quan có liên quan cũng như thay đổi cơ bản về
quản lý và tổ chức, đầu tư đáng kể cho nguồn nhân lực, hợp lý hóa công tác tổ chức thương
mại và phân bổ ngân sách. Nếu không, sẽ phát sinh hai vấn đề: Thứ nhất, Việt Nam không
thể thực hiện các nghĩa vụ WTO của mình và thứ hai là Việt Nam không thể tận dụng được
hết các cơ hội khi gia nhập WTO, từ đó sẽ dẫn đến những hậu quả hết sức nghiêm trọng, có
thể gây tổn hại cho nền kinh tế.

Để sớm đạt mục tiêu gia nhập WTO nhằm mở rộng thị trường cho hàng hóa, doanh nghiệp
Việt Nam được đối xử bình đẳng, thu hút vốn và công nghệ, đòi hỏi có sự phối hợp chặt chẽ
đồng bộ của tất cả các bộ, các ngành từ khâu chuẩn bị đàm phán và đổi mới cơ chế chính
sách cho phù hợp với các cam kết quốc tế, đến sự chuẩn bị cho nền kinh tế sẵn sàng đương
đầu với các thách thức, sự vươn lên vượt bậc của các doanh nghiệp với sự hỗ trợ của Nhà
nước và sự tranh thủ thái độ thiện chí của các nước thành viên WTO để đưa ra những yêu
cầu hợp lý phù hợp với điều kiện Việt Nam.

You might also like