You are on page 1of 9

Phân tích và thiết kế mô hình mạng doanh nghiệp với thiết bị Cisco

Một hệ thống mạng đơn giản dựa trên giao thức TCP/IP sử dụng classful 32-bit IP address và distance vector.
Nhưng công nghệ thì liên tục thay đổi và phát triển yêu cầu hệ thống mạng cần phải có sự thay đổi, thiết kế lại,
hay xây dựng một mô hình mạng mới, việc tạo ra một hệ thống mạng với tính tuỳ biến cao là cần thiết.

Mở rộng là khả năng của hệ thống mạng đáp ứng yêu cầu ngày càng phát triển với trọng tâm là thiết kế lại và cài
đặt lại hệ thống. Nhưng việc phát triển của hệ thống mạng thì rất nhanh nhưng thiết kế lại hệ thống là một điều
không hề đơn giản. Đáp ứng yêu cầu giá cả, và sự đơn giản trong quá trình quản trị và bảo dưỡng hệ thống
mạng. Ngoài ra hệ thống mạng cần phải thiết lập sự ưu tiên cho những ứng dụng khác nhau.

Khi thiết kế hệ thống đáp ứng các yêu cầu phát triển trong tương lai bạn cần phải hiểu được cấu trúc vật lý và
các giao thức mạng để thiết kế triển khai một cách hợp lý dưới đây tôi sẽ trình bày.

Thiết kế mô hình mạng ba lớp:

Với một hệ thống mạng được thiết kế có cấu trúc phân lớp nhằm tránh sự phức tạp hoá trong mạng, việc chia ra
các lớp nhỏ giúp bạn nhóm những thiết bị, các giao thức kết nối, và tính năng cụ thể cho từng lớp một, giải quyết
các sự cố một cách nhanh nhất liên quan trực tiếp tới một lớp nào đó. Tối ưu hoá hệ thống mạng.

Cisco giới thiệu mô hình mạng ba lớp bao gồm

Core layer

Distribution layer

Access layer
Khái niệm mô hình mạng ba lớp dựa trên vai trò của từng lớp đó trong hệ thống mạng, nó cũng tương tự như
khái niệm mô hình mạng OSI chia ra dựa trên vai trò của từng lớp trong việc truyền dữ liệu.

Sử dụng mô hình mạng với cấu trúc phân lớp mang lại sự thuận tiện trong thiết kế, cụ thể trong triển khai, dễ
dàng để quản lý và giải quyết sự cố. Và cũng đáp ứng được yêu cầu về tính mềm dẻo cho hệ thống mạng.

Nhưng trong cùng một thời điểm rất khó có thể tách biệt hoàn toàn thiết bị này thiết làm việc tại lớp nào. Nhưng
mỗi lớp trong hệ thống mạng cũng có thể sẽ bao gồm các thiết bị như:

Router, Switch, Link, giải pháp tích hợp

Một vài hệ thống mạng có kết hợp các thành phần của hai lớp vào làm một để đáp ứng các yêu cầu riêng. Dưới
đây là vai trò của từng tầng trong mô hình mạng:

Core Layer

Lớp Core Layer cung cấp tối ưu hoá và độ tin cậy trong quá trình truyền tin với tốc độ rất cao (high speeds).
Nhưng không phải lớp Core Layer đáp ứng toàn bộ quá trình truyền thông tin trên mạng, nhưng đó có thể được
coi như đường đại lộ liên kết các đường nhỏ với nhau, đôi khi các giao tiếp chỉ thực hiện ở một lớp duy nhất mà
thôi. Lớp Core Layer đáp ứng các vai trò sau:

Kiểm tra Access-list

Mã hoá dữ liệu

Address translation

Các thiết bị hoạt động trong lớp Core Layer bao gồm các dòng:

12000, 7500, 7200, and 7000 series routers


Dòng 12000

Dòng 7000, 7200, 7500

Riêng dòng 12000 chỉ dành riêng cho các nhà ISP bởi giá cả và tính năng cao cấp của nó với mục tiêu hướng tới
các ISP.

Tại lớp Core Layer với vai trò mang lại tốc độ truyền cao với độ ổn định cao nên việc kết nối chủ yếu sử dụng
leased line như:

T1, T3, OC3, Anything better

Distribution Layer

Distribution Layer làm việc ở giữa Core Layer và Access Layer, với vai trò đáp ứng một số giao tiếp giúp giảm
tải cho lớp Core Layer trong quá trình truyền thông tin trong mạng. Với tác dụng của lớp này cung cấp danh giới
cho việc sử dụng access lists và các tính năng lọc khác để khi cần thiết sẽ gửi lên lớp core layer. Tuy nhiên lớp
này cũng là lớp định nghĩa các chính sách cho mạng. Một chính sách có thể áp dụng các dạng cụ thể sau:
Routing updates

Route summaries

VLAN

Address aggregation

Sử dụng các chính sách để bảo mật mạng và chống các giao dịch không cần thiết.

Nếu một hệ thống mạng bao gồm hai hoặc nhiều routing protocol, như Routing Information Protocol (RIP) và
Interior Gateway Routing Protocol (IGRP), toàn bộ các vấn đề trên làm việc tại lớp distribution.

Các thiết bị hoạt động tại lớp Distribution layer:

4500, 4000, and 3600 series routers

Dòng 4000

Dòng 3600

Access Layer

Mang đến sự kết nối của người dùng với các tài nguyên trên mạng hoặc các giao tiếp với lớp Distribution.
Access layer sử dụng Access lists để chống lại những kẻ xâm nhập bất hợp pháp, trong lớp Access layer cũng
mang đến các kết nối như WAN, Frame Relay, ISDN, hay Leased lines.

Các thiết bị hoạt động tại lớp Access Layer: 2600, 2500, 1700, and 1600 series routers
Dòng 2600

Dòng 1700

Một ít kinh nghiệm về thiết kế mạng của Cisco.

Về việc thiết kế mạng, Cisco đưa ra một mô hình phân tầng rõ ràng, phân chia theo nhu cầu
sử dụng và tính năng của sản phẩm và nhanh chóng được mọi người + các hãng khác chấp
nhận. Mô hình mà Cisco đưa ra bao gồm: Core Layer, Distribution Layer, Access Layer.

Access Layer (tầng truy cập): các thiềt bị bao gồm HUB, SWITCH thông thường, SWITCH
có VLAN... nói chung là các thiết bị từ Layer 2 của mô hình OSI trở xuống. Các thiết bị này
nói chung là tương đối rẻ hơn các thiết bị ở các Layer khác. Đây là vị trí kết nối với hầu hết
các thiết bị của End-user.

Distribution Layer (tầng phân phối): bao gồm các thiết bị như ROUTER, SWITCH LAYER
3, MULTI-SWITCH, FIREWALL .... ở tầng này, các thiết bị làm nhiệm vụ đưa lượng thông
tin tới nơi cần thiết (tức là phân phối í mà). Tuy nhiên, các thiết bị như Switch layer 3 hoặc
Multi-layer có tốc độ xử lý nhanh hơn Router và Firewall; thiết bị tầng này tiếp nhận các
luồng dữ liệu từ Access Layer tới và chuyển ra tầng cao hơn hoặc ra ngoài.

Ghi chú riêng: ở tầng này thường thì các Multi-layer Switch hoặc Switch Layer 3 sẽ được nối
với Server Farm để tăng tốc và các thiết bị này có khả năng xử lý dữ liệu rất cao.

Core Layer (tầng lõi): đây là các thiết bị rất quan trọng, có tốc độ xử lý cao, thường đảm
nhiệm việc quản lý tập trung. Ở tầng này hầu như không có bất kỳ một sự ràng buộc nào về
các Rules của Firewall hoặc VLAN, chỉ đơn giản là Forward dữ liệu đi mà thôi. Tầng Core
này là mắc tiền nhất vì có nhiều tính năng với các Card mở rộng và Module...
Đó là mô hình thiết kế cơ bản của Cisco. Hèm..hèm.. ai học môn BCMSN cũ của Cisco sẽ
biết nhiều về vấn đề này đó..

Tiếp theo phần thiết kế cơ bản là bắt đầu vào những thàhh phần thiết kế phức tạp hơn nè (cái
này nằm trong chương trình Switching của CCNP phiên bản cũ của cũ) có đề cập đến.

Mục tiêu của việc thiết kế là xác định lượng thông tin làm việc ở bên ngoài (Outside) nhiều
hay là bên trong (Inside) nhiều. Tỉ lệ của nguyên tắc là 80/20 Rule hoặc 20/80, nó thể hiện
lượng Inside/Outside giữa thiết kế cũ và mới. Theo thiết kế cũ thì 80% lượng thông tin nằm
trong Local (Inside) và 20% còn lại nằm phía ngoài (Outside); còn thiết kế mới thì ngược lại.
Giờ thì chúng ta bắt đầu tính toán việc thiết kế này một chút xíu nha.

Nguyên tắc 1: Nguyên tắc "hạn chế kẹt xe" .

Nguyên tắc này xây dựng dựa trên nhu cầu đi ra của hệ thống, trước hết là phải xem thử các
ứng dụng và lưu lượng trung bình ra ngoài của một phòng ban, hoặc User là bao nhiêu rồi
nhân với số lượng kết nối đã có. Chẳng hạn như một người kế toán bình thường thì lưu lượng
chỉ sử dụng trong Local là chính, và thường là máy tính trong phòng ban hoặc server nào đó,
còn lại là duyệt Web và chat chit như thế thì lưu lượng không cao lắm khoảng 1Mb thôi... Giả
sử switch nối với 10 người như thế thì lưu lượng ra ngoài chỉ có 10Mb.

Tiếp theo đó là xem Switch cao hơn (Distribution chẳng hạn), lượng thông tin từ Access
Layer tới Distribution (tức là đường ra của Access Layer) có đảm bảo lớn hơn 10Mb hay
không. Nếu lớn hơn thì OK còn ngược lại thì .... sẽ có nghẽn nội bộ.

Vấn đề ở đây là Distribution sẽ "bị" kết nối với quá nhiều Access Layer nên tổng dung lượng
từ Distribution tới Core Layer sẽ phải tính toán lại lần nữa (cách tính đơn giản như trên hen).

Nguyên tắc 1 được thông qua với hình thức là hạn chế nghẽn hoặc hạn chế kẹt xe. Nguyên tắc
1 nếu không đáp ứng được thì hầu như vô phương cứu chữa chỉ có thể dời kẹt vào thời điểm
này sang thời điểm khác thôi....

Nguyên tắc thứ 2: Yếu tố Hardware

Yếu tố này thiên về những thành phần hoạt động là chính, các tính năng chính của các thiết bị.
Việc này bắt đầu từ khả năng xử lý dữ liệu và được sắp xếp theo thứ tự tăng dần như sau:
HUB (cái này chậm nhất) < Modem < Firewall (IPS, Security Devices) < Router < Switch
(layer 2) < Switch Layer 3 ....

HUB chậm thì dĩ nhiên rồi vì nó chơi toàn broadcast ép người khác phải xử lý dữ liệu ,
Modem (loại Dial-up hoặc ADSL thì xử lý chậm rì)

Firewall và các thiết bị Security khác mặc dù được trang bị ngày càng mạnh nhưng vì nó phải
xử lý các luồng dữ liệu, càng ngày càng có nhiều Rules được thêm vào nên tính về hiệu suất
không thể bằng anh chàng Router nhà ta.

Router thì không bằng Switch được rồi, Router xử lý forward dữ liệu bằng phần mềm (thật ra
họ lập trình trên đó) nên chẳng thể so với Hardware của Switch được. Đó là lý do vì sao
những anh chàng Router "bự" con hay gắn thêm Module Switch là vậy. Để biết thêm những
vấn đề này, anh em ta có thể liên hệ với những người như sau: Alex (tên này học chung với
mèo, rất là cứng về Cisco), gà mờ (hắn nói thì khó mà hiểu nhưng đúng là nó hoạt động như
vậy) hoặc là thầy dạy Cisco cho mèo: thầy Đặng Viết Cường (nếu thầy chịu giảng thì hấp dẫn
lắm).

Rồi, nếu so sánh xong phần Hardware như thế thì chưa đủ đâu, phải tiếp tục tới phần
Hardware hỗ trợ thế nào nữa. Đầu tiên là nếu anh em nào muốn cấu hình Switch Cisco tăng
tốc bằng kỹ thuật EtherChannel thì chú ý rằng là nó không cho cấu hình nhiều hơn 6 dây đâu
đó (mèo nhớ thế), hoặc là Load Balancing trên Router cũng không thể quá 6 đường đâu nên
khi thiết kế phải chú ý.

Switching

Chuyển mạch (Switching) là một kỹ thuật rất quan trọng, nó quyết định sự kết nối được thực
hiện như thế nào và dữ liệu lưu chuyển được xử lý ra sao trong một mạng WAN. Dữ liệu gửi
qua PSTN hoặc các liên mạng có thể đi theo các con đường rất khác nhau từ nơi gửi đến nơi
nhận. Có ba kỹ thuật chuyển mạch cơ bản được sử dụng để chuyển tiếp dữ liệu qua liên mạng
là: chuyển mạch kênh (circuit switching), chuyển mạch thông báo (message switching) và
chuyển mạch gói (packet switching).

Circuit switching thực hiện sự kết nối giữa người gửi và người nhận bằng một đường truyền
vật lý trong suốt quá trình giao tiếp. Ngược lại message switching không thiết lập một đường
truyền dành riêng giữa hai trạm mà thay vào đó các thông báo (message) được lưu và chuyển
tiếp từ một thiết bị trung chuyển này đến một thiết bị khác cho tới đích. Packet switching tổ
hợp các ưu điểm của cả hai kỹ thuật trên bằng cách chia các thông báo dài ra thành từng phần
gọi là gói tin (packet). Packet switching là kỹ thuật chuyển mạch hiệu quả nhất trong việc trao
đổi dữ liệu. Sau đây ta sẽ xem xét từng kỹ thuật.

Circuit switching

Trong kỹ thuật chuyển mạch kênh, một đường truyền vật lý được dành riêng thực hiện liên
kết giữa trạm gửi và trạm nhận trong suốt quá trình giao tiếp.

PSTN ( mạng điện thoại công cộng ) là một ví dụ về chuyển mạch kênh.

Trước khi hai trạm có thể truyền dữ liệu, một kênh dành riêng phải được thiết lập giữa hai
trạm. Trạm gửi yêu cầu một liên kết tới trạm nhận, sau khi trạm nhận gửi tín hiệu báo nó sẵn
sàng để nhận dữ liệu, dữ liệu sẽ được gửi từ trạm nguồn đến trạm đích sau đó trạm đích gửi
tín hiệu báo nhận trở lại cho trạm nguồn. Khi kết thúc quá trình giao tiếp trạm nguồn gửi tín
hiệu tới trạm đích báo kết thúc quá trình giao tiếp để trạm đích giải phóng liên kết và đồng
thời trạm nguồn cũng tự giải phóng liên kết.

Ưu điểm nổi bật của kỹ thuật này là một kênh truyền được dành riêng trong suốt quá trình
giao tiếp do đó tốc độ truyền dữ liệu được bảo đảm. Điều này là đặc biệt quan trọng đối với
các ứng dụng thời gian thực như audio và video. Hơn nữa khi một kênh được thiết lập sẽ
không có độ trễ truy nhập, do kênh truyền luôn sẵn sàng nên việc yêu cầu kênh truyền lại là
không cần thiết.

Circuit switching cũng có những nhược điểm riêng, trước hết đây là sự sử dụng kênh truyền
không có hiệu quả do kênh truyền được dành riêng nên trong khi kênh truyền rỗi các thiết bị
khác cũng không thể sử dụng kênh truyền này, hơn nữa do các kênh truyền dành riêng thường
đòi hỏi thông lượng lớn hơn do đó phương tiện truyền thông có thể có giá thành cao và cuối
cùng kỹ thuật này có thể mất nhiều thời gian trễ cho việc thiết lập kênh truyền trước khi các
trạm có thể giao tiếp với nhau.
Message switching

Không giống circuit switching, message switching không thiết lập liên kết dành riêng giữa hai
thiết bị giao tiếp mà thay vào đó mỗi thông báo được xem như một khối độc lập bao gồm cả
địa chỉ nguồn và địa chỉ đích. Mỗi thông báo sẽ được truyền qua các thiết bị trong mạng cho
đến khi nó đến được địa chỉ đích, mỗi thiết bị trung gian sẽ nhận và lưu trữ thông báo cho đến
khi thiết bị trung gian kế tiếp sẵn sàng để nhận thông báo sau đó nó chuyển tiếp thông báo đến
thiết bị kế tiếp, chính vì lý do này mà mạng chuyển mạch thông báo còn có thể được gọi là
mạng lưu và chuyển tiếp (store-and-forward network).

Kỹ thuật này có thể được lập trình với các thông tin về cách chọn đường hiệu quả nhất cũng
như các thông tin về các thiết bị trung gian kế tiếp, có thể được sử dụng để chuyển tiếp thông
báo cho tới đích, chính vì lý do này và vì điều kiện của mạng luôn thay đổi các thông báo có
thể đi tới đích theo những con đường rất khác nhau. Thiết bị được sử dụng để thực hiện việc
chuyển mạch thông báo thông thường là các PC, PC phải được chuẩn bị về chỗ trống để lưu
giữ các thông báo cho đến khi các thông báo này được chuyển tiếp tới các thiết bị trung gian
kế tiếp. Các thông báo có thể được lưu giữ trong bộ nhớ trong hoặc bộ nhớ ngoài và số lượng
thông báo được lưu giữ phụ thuộc vào mức độ lưu thông qua nút đó. Một ví dụ điển hình về
kỹ thuật này là e-mail, nó được chuyển tiếp qua các nút cho đến khi tới được đích cần đến.

Message switching có những ưu điểm sau:

Cung cấp một sự quản lý hiệu quả hơn đối với sự lưu thông của mạng. Bằng cách gán các thứ
tự ưu tiên cho các thông báo ta có thể đảm bảo các thông báo có độ ưu tiên cao hơn sẽ được
lưu chuyển thay vì bị trễ do quá trình lưu thông trên mạng.

Giảm sự tắc nghẽn trên mạng. Các thiết bị trung gian có thể lưu giữ các thông báo cho đến khi
kênh truyền rỗi thay vì làm tăng thêm sự tắc nghẽn của mạng bằng cách cố truyền mọi thứ
trong thời gian thực.

Tăng hiệu quả sử dụng kênh truyền, với kỹ thuật này các thiết bị có thể dùng chung kênh
truyền, điều này làm tăng hiệu suất đường truyền do có số lượng dải thông có thể sử dụng lớn
hơn.

Cung cấp phương thức truyền thông dị bộ xuyên thời gian (across time zone). Thông báo có
thể được gửi mà không yêu cầu người nhận phải có mặt cùng lúc với quá trình gửi.

Nhược điểm của kỹ thuật này là độ trễ do việc lưu trữ và chuyển tiếp thông báo là không phù
hợp với các ứng dụng thời gian thực, điểm yếu thứ hai là các thiết bị trung gian có thể phải có
dung lượng bộ nhớ rất lớn để có thể lưu giữ các thông báo trước khi có thể chuyển tiếp nó tới
một thiết bị trung gian khác.

Packet switching

Kỹ thuật này được đưa ra nhằm tận dụng các ưu điểm và khác phục những nhược điểm của
hai kỹ thuật trên, đối với kỹ thuật này các thông báo được chia thành các gói tin, mỗi gói tin
bao gồm dữ liệu, địa chỉ nguồn, địa chỉ đích và các thông tin về địa chỉ các nút trung gian.
Các gói tin riêng biệt không phải luôn luôn đi theo một con đường duy nhất, điều này được
gọi là chọn đường độc lập (independent routing), phương pháp này có hai ưu điểm là:

Dải thông có thể được quản lý bằng cách chia nhỏ dữ liệu vào các đường khác nhau trong
trường hợp kênh truyền bận.
Nếu một liên kết bị sự cố trong quá trình truyền thông thì các gói tin còn lại có thể được gửi
đi theo các con đường khác.

Điểm khác nhau cơ bản giữa kỹ thuật chuyển mạch thông báo và kỹ thuật chuyển mạch gói là
trong kỹ thuật chuyển mạch gói các gói tin được giới hạn về độ dài tối đa điều này cho phép
các thiết bị chuyển mạch có thể lưu giữ các gói tin trong bộ nhớ trong mà không phải đưa ra
bộ nhớ ngoài do đó giảm được thời gian truy nhập và tăng hiệu quả truyền tin.

Anh Ngọc (Tổng hợp từ nhiều nguồn)

You might also like