Professional Documents
Culture Documents
(a) Dân số
Để sản xuất hay kinh doanh, các nhà quản trị cần phải sử dụng đến nguồn nhân lực, để
bán được hàng họ cần đến khách hàng. Để hoạch định chiến lược phát triển của mỗi công
ty, người ta phải xuất phát từ cả hai yếu tố ảnh hường này. Nói một cách khác, dân số và
mức gia tăng dân số ở mỗi thị trường, ở mỗi quốc gia luôn luôn là lực lượng có ảnh
hưởng rất lớn đến tất cả mọi hoạt động về quản trị sản xuất và quản trị kinh doanh ở mỗi
doanh nghiệp.
Thông thường các nhà quản trị phải phân tích cơ cấu dân số trên cơ sở giới tính, tuổi tác
để phân khúc và xác định thị trường mục tiêu, phải xác định được nhu cầu thực tế về sản
phẩm hàng hoá của mình và dựa vào đó để quyết định kế hoạch sản xuất và tiêu thụ sản
phẩm của doanh nghiệp.
Sự dịch chuyển dân số từ vùng này sang vùng khác; từ địa phương này sang địa phương
khác cũng là những yếu tố tác động đến các hoạt động hoạch định về các chiến lược và
chính sách quản lý nguồn nhân lực, chiến lược thị trường và các chiến lược sản xuất kinh
doanh hỗ trợ khác trong vùng không gian kinh doanh hiện có. Chẳng hạn sự di chuyển
dân cư từ nông thôn ra thành thị nhanh đã làm bùng nổ các nhu cầu nhà ớ, mở rộng
đường xá, các hàng hóa tiêu dùng v.v... Chính những điều này đến lượt nó lại buộc các
nhà hoạch định chiến lược và chính sách kinh doanh phải có những chủ trương và chính
sách kinh doanh cho phù hợp.
Các yếu tố chính trị, pháp luật, lãnh đạo và quản lý của Nhà nước
Thập kỷ 80-90 có nhiều sự biến động cả về chính trị lẫn kinh tế trên thế giới. Một qui luật
được thấy rất rõ trong thời kỳ này là: sự định hướng đúng đắn và sự ổn định về chính trị
là những điều kiện cần thiết khách quan để phát triển toàn bộ nền kinh tế ở mỗi nước và ở
mỗi doanh nghiệp. Chúng ta đã từng thấy các chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà
nước về khoán 10, về phát triển kinh tế thị trường có định hướng XHCN, về phát triển
kinh tế tư bản, tư nhân v.v... là những đòn bẩy tạo đà cho sự phát triển rất mạnh mẽ của
các doanh nghiệp ngày nay. Nói một cách khác, các chủ trương chính sách của Đảng và
Nhà nước trong từng thời kỳ trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế và xã hội có những ảnh
hưởng gián tiếp hoặc trực tiếp rất lớn đến toàn bộ tiến trình kinh doanh và quản trị kinh
doanh ở mọi doanh nghiệp.
Đối với các hoạt động về quản trị kinh doanh ở các doanh nghiệp, Chính phủ đóng vai trò
khá quan trọng: vừa có thể thúc đẩy vừa có thể hạn chế việc kinh doanh. Chính phủ có
thể thúc đẩy bằng cách khuyến khích việc mở rộng và phát triển hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp thông qua việc trợ cấp cho các ngành công nghiệp được lựa chọn, ưu
tiên về thuế trong những hoàn cảnh nhất định, bảo vệ một vài ngành kinh doanh thông
qua những biểu thuế suất đặc biệt, hay bằng cách trợ giúp việc nghiên cứu và triển khai.
Nhà nước cũng có thể hạn chế và điều chỉnh việc kinh doanh thông qua các bộ luật, nghị
định, thông tư và các quyết định như bộ Luật Lao Động, Luật Thương Mại, Luật Doanh
Nghiệp, Luật Đầu tư, Luật Thuế xuất nhập khẩu, Luật Bảo Vệ Môi Trường v.v... Các
chính sách về lương bổng, tài chính, tiền tệ (chính sách quản lý tiền mặt, chế độ thu chi
và sử dụng ngân sách, cán cân thanh toán, nguồn cung cấp tiền, việc kiểm soát về khả
năng tín dụng thông qua chính sách tài chính) đều có những ảnh hưởng rất lớn đến các
hoạt động về kinh doanh nói chung và quản trị kinh doanh nói riêng ở tất cả mọi doanh
nghiệp.
Trong những ảnh hưởng từ chính sách của nhà nước, thì các chính sách về thuế có ảnh
hưởng trực tiếp nhiều nhất đến việc cân đối thu chi, lời lỗ và chính sách kinh doanh ở mỗi
doanh nghiệp. Mọi hoạt động về quản trị nói chung và quản trị tài chính nói riêng ở mỗi
doanh nghiệp đầu bị chi phối không trực tiếp thì gián tiếp từ các chính sách về thuế của
nhà nước. Thí dụ như nếu các khoản thuế về lợi nhuận kinh doanh quá cao, thì sự khuyến
khích đi vào kinh doanh hoặc tiếp tục kinh doanh sẽ có xu thế giảm xuống, và những nhà
đầu tư sẽ tìm kiếm chỗ khác để họ đầu tư. Nếu các khoản thuế được đánh vào việc bán
hàng, thì giá cả sẽ tăng lên và dân chúng sẽ có xu hướng mua ít đi, điều này cũng có ảnh
hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Như vậy công việc quản trị
kinh doanh ở các doanh nghiệp cần phải chấp hành đầy đủ các chủ trương chính sách của
Đảng và Nhà nước và nghiêm chỉnh tuân thủ những quy định hiện hành của pháp luật là
một đòi hỏi mang tính tất yếu khách quan.
Khách hàng
Là người tiêu thụ sản phẩm và dịch vụ của doanh nghiệp, khách hàng là một yếu tố quyết
định đầu ra của sản phẩm. Không có khách hàng các doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn trong
tiêu thụ các sản phẩm và dịch vụ của mình. Như vậy khách hàng và nhu cầu của họ nhìn
chung có những ảnh hưởng hết sức quan trọng đến các hoạt động về hoạch định chiến
lược và sách lược kinh doanh của mọi công ty. Tìm hiểu kỹ lưỡng và đáp ứng đầy đủ nhu
cầu cùng sở thích thị hiếu của khách hàng mục tiêu sống còn cho mỗi doanh nghiệp nói
chung và hệ thống quản trị của nó nói riêng.
Sự tín nhiệm của khách hàng là tài sản có giá trị lớn lao của doanh nghiệp. Sự tín nhiệm
đó đạt được do biết thoả mãn các nhu cầu và thị hiếu của khách hàng so với các đối thủ
cạnh tranh.
Một vấn đề mấu chốt khác liên quan đến khách hàng là khả năng trả giá của họ. Người
mua có ưu thế có thể làm cho lợi nhuận của ngành hàng giảm bằng cách ép giá xuống
hoặc đòi hỏi chất lượng cao hơn và phải cung cấp nhiều dịch vụ hơn. Người mua có thế
mạnh nhiều khi họ có các điều kiện sau:
- Lượng mua chiếm tỉ lệ lớn trong khối lượng hàng hoá bán ra của doanh nghiệp.
- Việc chuyển sang mua hàng của người khác không gây nhiều tốn kém.
- Người mua đưa ra tín hiệu đe doạ đáng tin cậy là sẽ hội nhập về phía sau với các bạn
hàng cung ứng như các hảng sản xuất xe ô tô thường làm.
- Sản phẩm của người bán ít ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm của người mua.
Nếu sự tương tác của các điều kiện nói trên làm cho doanh nghiệp không đạt được mục
tiêu của mình thì doanh nghiệp phải cố thay đổi vị thế của mình trong việc thương lượng
giá bằng cách thay đổi một hoặc nhiều điều kiện nói trên hoặc phải tìm khách hàng có ít
ưu thế hơn.
Các doanh nghiệp cũng cần lập bảng phân loại khách hàng hiện tại và tương lai. Các
thông tin có được từ bảng phân loại này là cơ sở định hướng quan trọng cho việc hoạch
định chiến lược, nhất là các chiến lược liên quan trực tiếp đến marketing. Các yếu tố
chính cần xem xét là những vấn đề địa dư, tâm lý khách hàng v.v