You are on page 1of 8

Đọc thêm: Tổng cầu, tổng cung và cân bằng kinh tế vĩ mô

2.1.Tổng cầu.
2.1.1. Khái niệm.
Tổng cầu (AD aggregate demand) là tổng khối lượng hàng hoá và dịch vụ mà các tác nhân kinh
tế có khả năng và sẵn sàng mua trong một thời kỳ nhất định. Trong một nền kinh tế mở, tổng cầu
bao gồm bốn nguồn yêu cầu về hàng hoá và dịch vụ: tiêu dùng của hộ gia đình (C:
Consumption), đầu tư của các doanh nghiệp (I: Investment), mua hàng hoá chính phủ (G:
Government expenditures),
và xuất khẩu ròng (NX: Net Export) là chênh lệch giữa xuất khẩu ( EX: export)
và nhập khẩu ( IM: import).
AD = C + I + G + NX
2.1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến tổng cầu.
- Mức giá trung bình của hàng hoá và dịch vụ (P)
- Thu nhập của các chủ thể kinh tế (NI).
- Chính sách thuế và chi tiêu của chính phủ (Tax).
- Khối lượng tiền tệ cung ứng (Ms), lãi suất (r)…
2.1.3. Đường biểu diễn tổng cầu.
Trong điều kiện các nhân tố khác không đổi, tổng cầu sẽ thay đổi ngược chiều với giá cả trung
bình. Đường AD là đường biểu diễn mối quan hệ giữa tổng mức cầu và mức giá chung .
AD = F(P)
Tính chất của đường tổng cầu.
Đường tổng cầu có độ dốc âm phản ánh mức giá chung có ảnh hưởng âm đến tổng cầu. Độ dốc
âm của tổng cầu được giải thích bởi các nguyên nhân sau:
 Mức giá và tiêu dùng - hiệu ứng của cải: ảnh hưởng tức thì của sự giảm giá là làm tăng giá
trị thực tế của số tiền mà dân cư nắm giữ. Nếu như người ta giữ một khối lượng tiền nhất định,
khi mức giá chung giảm, họ sẽ có thể mua được nhiều sản phẩm hơn trước.
 Mức giá và đầu tư - Hiệu ứng lãi suất: khi giá cả giảm, các hộ gia đình cần giữ ít tiền hơn để
mua hàng hoá và dịch vụ mà họ muốn. Do đó họ sẽ giữ ít tiền hơn và cho vay nhiều hơn. Điều
này làm giảm lãi suất và có tác động khuyến khích các doanh nghiệp vay tiền để đầu tư nhiều hơn
vào máy móc, thiết bị.
 Mức giá và xuất khẩu ròng - Hiệu ứng thay thế quốc tế: trong nền kinh tế mở, sự giảm giá
của hàng trong nước làm cho hàng nội trở nên rẻ tương đối so với hàng ngoại. Điều này có tác
dụng khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu.
Cả ba hiệu ứng này hàm ý rằng, với mọi yếu tố khác giữ nguyên, có một mối quan hệ ngược
chiều giữa mức giá và khối lượng hàng hoá dịch vụ được yêu cầu. Nói cách khác đường tổng cầu
có độ dốc âm.
Những thay đổi của tổng cầu.
Chúng ta vừa thấy GDP thực yêu cầu nghịch biến với mức giá. Những tác động của GDP thực
yêu cầu được biểu thị bởi một chuyển động dọc theo đường tổng cầu, không tạo ra một thay đổi
nào đối với đường tổng cầu trên đồ thị và biểu tổng cầu. Nhưng trong thực tế biểu tổng cầu và
đường cầu không phải là cố định. Có nhiều yếu tố tác động làm thay đổi tổng cầu:
- Sự dịch chuyển phát sinh từ tiêu dùng. Bất cứ một sự kiện nào làm thay đổi tiêu dùng tại một
mức giá nhất định cũng làm dịch chuyển đường tổng cầu. Một trong những chính sách có ảnh
hưởng đến tiêu dùng là mức thuế. Khi chính phủ cắt giảm thuế, mọi người có xu hướng tiêu dùng
nhiều hơn, làm cho đường tổng cầu dịch chuyển sang phải. Khi chính phủ tăng thuế mọi người
tiêu dùng ít hơn, làm cho đường tổng cầu dịch chuyển sang trái.
- Sự dịch chuyển phát sinh từ đầu tư. Bất cứ sự kiện nào làm thay đổi đầu tư của các doanh
nghiệp tại mỗi mức giá nhất định cũng làm dịch chuyển đường tổng cầu. Nếu các doanh nghiệp
hoặc các nhà đầu tư lạc quan trong tương lai họ sẽ tăng đầu tư làm cho đường tổng cầu dịch
chuyển sang phải. Nhưng khi các doanh nghiệp thấy bi quan thì đầu tư sẽ giảm lúc này tổng cầu
sẽ dịch chuyển sang trái.
- Chính sách thuế cũng có ảnh hưởng đến tổng cầu thông qua đầu tư. Nếu chính phủ giảm thuế
khi các doanh nghiệp chi tiêu đầu tư thì sẽ làm tăng lượng cầu về hàng đầu tư của các doanh
nghiệp tại mỗi mức giá. Do đó, đường tổng cầu sẽ dịch chuyển sang phải. Việc hủy bỏ chính sách
giảm thuế đầu tư làm giảm đầu tư và đường tổng cầu dịch chuyển sang trái.
Chính sách khác có thể ảnh hưởng đến tổng cầu là cung ứng tiền tệ. Sự gia tăng trong cung ứng
tiền tệ sẽ làm cho lãi suất giảm trong ngắn hạn. Chi phí đi vay cho đầu tư giảm đi khiến đường
tổng cầu dịch chuyển sang bên phải. Khi cung ứng tiền tệ giảm, lãi suất tăng lên, làm cho nhu cầu
đầu tư giảm xuống và đường tổng cầu dịch chuyển sang trái.
- Sự dịch chuyển phát sinh từ chi tiêu chính phủ. Một trong những cách trực tiếp mà các nhà
hoạch định chính sách có thể làm dịch chuyển đường tổng cầu là thông qua chi tiêu chính phủ.
Chính phủ cắt giảm chi tiêu thì tổng cầu sẽ dịch chuyển sang trái. Ngược lại chính phủ tăng chi
tiêu thì tổng cầu sẽ dịch chuyển sang phải.
- Sự dịch chuyển phát sinh từ xuất khẩu ròng. Bất cứ biến cố nào làm thay đổi xuất khẩu ròng tại
một mức giá nhất định đều làm cho đường tổng cầu dịch chuyển. Khi xuất khẩu ròng tăng do
bùng nổ kinh tế ở nước ngoài, tỷ giá hối đoái giảm làm cho đường tổng cầu dịch chuyển sang
phải. Một biến cố làm giảm xuất khẩu ròng như suy thoái ở nước ngoài, tỷ giá hối đoái tăng đẩy
đường tổng cầu dịch chuyển sang trái

2.2. Tổng cung.


2.2.1. Khái niệm.
Tổng cung trong nền kinh tế là tổng khối lượng hàng hoá, dịch vụ mà các doanh nghiệp có khả
năng và sẵn sàng cung ứng ra thị trường trong một thời kỳ nhất định.
2.2.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến tổng cung.
- Các nguồn lực: Lao động; Tài nguyên thiên nhiên; Tư bản (máy móc, thiết bị và các công trình
kiến trúc phục vụ cho quá trình sản xuất); và Công nghệ. Các nhà kinh tế sử dụng khái niệm sản
lượng tiềm năng để phản ánh mức sản lượng mà nền kinh tế tạo ra khi các nguồn lực được sử
dụng đầy đủ.
- Mức giá chung.
- Chi phí sản xuất: Phụ thuộc vào giá các yếu tố đầu vào như tiền lương, giá nguyên liệu nhập
khẩu…
2.2.3. Đường tổng cung.
Đường tổng cung là đường biểu diễn mối quan hệ giữa tổng mức cung và mức giá của nền kinh
tế trong điều kiện các nguồn lực và giá cả các yếu tố đầu vào cho trước.
Hàm của đường tổng cung biểu diễn mối quan hệ giữa mức giá chung và đường tổng cung.
AS = f ( P )
2.2.3.1. Đường tổng cung dài hạn (LAS).
Theo các nhà kinh tế cổ điển, giá cả các yếu tố sản xuất là linh hoạt cho nên thị trường sẽ tự điều
chỉnh để sử dụng hết các yếu tố sản xuất. Do đó, sản lượng không phụ thuộc vào tổng cầu mà chỉ
phụ thuộc vào khối lượng tư bản, lao động và công nghệ hiện có (tổng cung). Nền kinh tế luôn
cân bằng tại mức sản lượng toàn dụng các nguồn lực. Tổng cầu thay đổi chỉ làm thay đổi giá cả
chứ không ảnh hưởng tới sản lượng quốc gia.
Đường tổng cung của phái cổ điển là một đường thẳng đứng ứng với một mức sản lượng toàn
dụng các nguồn lực gọi là sản lượng tiềm năng (Yp: Potential output).

Sản lượng tiềm năng là mức sản lượng mà quốc gia đạt được trong tình trạng nền kinh tế toàn
dụng các nguồn lực (tồn tại một mức thất nghiệp gọi là thất nghiệp tự nhiên). Đường tổng cung
thẳng đứng cho thấy sản lượng không phụ thuộc vào mức giá.
Sự dịch chuyển của đường tổng cung dài hạn Bất kỳ yếu tố nào trong nền kinh tế làm thay đổi
mức sản lượng tự nhiên cũng làm dịch chuyển đường tổng cung dài hạn. Các yếu tố làm thay đổi
mức sản lượng tự nhiên là:
- Lao động: Một nền kinh tế có sự gia tăng làn sóng nhập cư từ nước ngoài, do đó có nhiều lao
động hơn, lượng cung về hàng hoá và dịch vụ tăng lên. Kết quả là đường tổng cung dài hạn dịch
chuyển sang bên phải. Ngược lại, nếu nhiều công nhân rời bỏ nến kinh tế để ra nước ngoài,
đường tổng cung sẽ dịch chuyển sang trái. Ngoài ra thất nghiệp tự nhiên cũng ảnh hưởng đến
tổng cung dài hạn. Nếu tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên tăng và sản lượng giảm làm cho tổng cung dài
hạn dịch chuyển sang trái, và ngược lại.
- Tư bản: sự gia tăng khối lượng tư bản làm tăng năng suất, do đó làm tăng lượng cung về hàng
hoá và dịch vụ. Tổng cung dài hạn dịch chuyển sang phải. Ngược lại , sự suy giảm trong khối
lượng tư bản làm giảm năng suất, giảm lượng cung về hàng hoá và dịch vụ, làm cho đường tổng
cung dài hạn dịch chuyển sang trái.
- Tài nguyên thiên nhiên: Nền sản xuất của một quốc gia phụ thuộc vào nguồn tài nguyên thiên
nhiên của nó như đất đai, khoáng sản thời tiết…việc khám phá ra một mỏ khoáng sản có thể làm
cho đường tổng cung dài hạn dịch chuyển sang bên phải. Sự thay đổi thời tiết có thể làm cho hoạt
động canh tác khó khăn hơn và đường tổng cung dài hạn dịch chuyển sang trái.
- Tri thức công nghệ: Có lẽ lý do quan trọng nhất để hiện nay chúng ta sản xuất ra nhiều hàng hoá
và dịch vụ hơn thế hệ trước là sự tiến bộ trong tri thức công nghệ. Việc phát minh ra máy tính đã
giúp chúng ta sản xuất ra nhiều hàng hoá và dịch vụ với lượng lao động, tư bản và tài nguyên
thiên nhiên như cũ kết quả là điều này làm dịch chuyển đường tổng cung sang phải.
2.2.3.2. Đường tổng cung ngắn hạn (SAS)
Trong ngắn hạn đường tổng cung có hướng dốc lên. Nghĩa là trong vòng một hay hai năm, sự gia
tăng trong mức giá chung có xu hướng làm tăng lượng cung về hàng hoá và dịch vụ trong nền
kinh tế và sự giảm sút mức giá có xu hướng làm giảm lượng cung về hàng hoá.
Đường tổng cung ngắn hạn là một đường đi lên, song tương đối thoải ở mức sản lượng thấp, và
rất dốc khi sản lượng vượt quá mức tiềm năng. Điều này đã đưa đến câu hỏi tại sao đường tổng
cung ngắn hạn dốc lên?

Khi mức giá vượt quá mức dự kiến, sản lượng sẽ vượt quá mức tự nhiên và khi mức giá thấp hơn
mức dự kiến, sản lượng giảm xuống dưới mức tự nhiên của nó. Trong ngắn hạn một sự giảm giá
từ P1 xuống P2 làm tổng cung giảm từ Y1 xuống Y2. Mối quan hệ này có thể do nhận thức sai
lầm, tiền lương cứng nhắc, hay giá cả cứng nhắc. Theo thời gian, nhận thức, tiền lương và giá cả
điều chỉnh, do đó mối quan hệ thuận này chỉ có tính tạm thời.
Lý thuyết nhận thức sai lầm: theo lý thuyết này, sự thay đổi trong mức giá chung có thể tạm thời
làm cho các nhà cung cấp nhận thức sai lầm về tình hình diễn ra các thị trường cá biệt mà họ bán
sản phẩm của mình. Do nhận thức sai lầm của mình trong ngắn hạn, các nhà cung cấp phản ứng
lại những thay đổi trong mức giá bằng cách cắt giảm sản lượng cung hàng hoá và dịch vụ khi
thấy giá giảm hay họ sẽ tăng cung hàng hoá và dịch vụ khi thấy giá tăng, phản ứng này dẫn đến
đường tổng cung dốc lên trong ngắn hạn.
Lý thuyết tiền lương cứng nhắc: cách lý giải thứ hai cho đường tổng cung ngắn hạn dốc lên là lý
thuyết tiền lương cứng nhắc. Lý thuyết này cho rằng đường tổng cung ngắn hạn dốc lên vì tiền
lương danh nghĩa điều chỉnh chậm chạp hay “cứng nhắc” trong ngắn hạn. Sự điều chỉnh chậm
chạp của tiền lương là do ràng buộc của các hợp đồng giữa người lao động và doanh nghiệp, do
các quy phạm xã hội hay do cảm nhận về sự công bằng. Tất cả những nguyên nhân này ảnh
hưởng đến quy định tiền lương và chỉ thay đổi chậm chạp theo thời gian.
Do tiền lương không thay đổi ngay theo sự thay đổi của giá, nên mức giá thấp hơn làm cho việc
làm và sản xuất đem lại ít lợi nhuận hơn và điều này làm cho các doanh nghiệp giảm lượng cung
về hàng hoá và dịch vụ.Trái lại, sự gia tăng mức giá làm giảm tiền lương thực tế, làm cho chi phí
thuê lao động trở nên rẻ hơn. Tiền lương thực tế thấp hơn làm cho các doanh nghiệp thuê thêm
lao động, lao động thuê thêm tạo ra nhiều sản lượng hơn.
Lý thuyết giá cả cứng nhắc: Lý thuyết này nhấn mạnh rằng giá cả hàng hoá và dịch vụ cũng chậm
điều chỉnh đáp lại các điều kiện kinh tế thay đổi. Sự thay đổi chậm chạp trong giá cả một phần là
do chi phí để điều chỉnh giá cả, gọi là chi phí thực đơn (những chi phí này bao gồm chi phí in và
phân phối các catalô và thời gian để thay đổi các nhãn giá…) Vì lý do này giá cả và tiền lương có
thể cứng nhắc trong ngắn hạn.
Do không phải tất cả các loại giá cả đều điều chỉnh ngay lập tức khi điều kiện kinh tế thay đổi,
nên sự giảm sút bất ngờ trong mức giá có thể làm cho một số doanh nghiệp có giá bán cao hơn
mức mong muốn và điều này làm giảm số lượng hàng hoá và dịch vụ mà các doanh nghiệp sản
xuất.
Mối quan hệ tỷ lệ thuận giữa mức giá và sản lượng hàm ý đường tổng cung dốc lên trong khi tiền
lương danh nghĩa chưa điều chỉnh.
Sự di chuyển và dịch chuyển của đường tổng cung ngắn hạn.
Sự di chuyển dọc đường tổng cung phản ánh sự thay đổi của tổng mức cung do sự thay đổi của
mức giá chung.
Sự dịch chuyển của đường tổng cung phản ánh sự thay đổi tổng mức cung do sự thay đổi của giá
cả các yếu tố đầu vào hay là sự thay đổi các nguồn lực trong nền kinh tế. Các trường hợp sau đây
làm dịch chuyển đường tổng cung:
- Sự dịch chuyển phát sinh từ lao động: Sự gia tăng của lượng lao động hiện có (tỷ lệ thất nghiệp
tự nhiên giảm) làm dịch chuyển đường tổng cung sang phải.
Sự giảm sút lượng lao động hiện có (tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên tăng ) làm dịch chuyển đường tổng
cung sang trái.
- Sự dịch chuyển phát sinh từ tư bản: sự tăng khối lượng lao động hiện có hoặc vốn nhân lực làm
dịch chuyển đường tổng cung sang phải. Sự giảm sút khối lượng tư bản hiện vật hoặc vốn nhân
lực làm dịch chuyển đường tổng cung sang trái.
- Sự dịch chuyển phát sinh từ tài nguyên thiên nhiên: sự gia tăng tài nguyên thiên nhiên có làm
dịch chuyển đường tổng cung sang phải. Sự suy giảm của tài nguyên thiên nhiên hiện có làm dịch
chuyển đường tổng cung sang trái.
- Sự dịch chuyển phát sinh từ công nghệ: tiến bộ trong tri thức công nghệ làm cho đường tổng
cung dịch chuyển sang phải. Sự giảm sút của công nghệ (do quy định của chính phủ) làm cho
đường tổng cung dịch chuyển sang trái.
- Sự dịch chuyển phát sinh từ mức giá dự kiến: sự giảm sút của mức giá dự kiến làm dịch chuyển
đường tổng cung ngắn hạn sang phải. Sự gia tăng của mức giá dự kiến làm dịch chuyển đường
tổng cung ngắn hạn sang trái.

2.3. Cân bằng kinh tế vĩ mô


Cân bằng kinh tế vĩ mô là trạng thái cân bằng trên thị trường hàng hoá được xác định tại giao
điểm của các đường tổng cung và tổng cầu. Tại đó, chúng ta xác định được mức sản lượng và giá
cả cân bằng hay tổng khối lượng hàng hoá yêu cầu bằng tổng khối lượng hàng hoá được cung
ứng.

- Nếu mức giá cao hơn P* thì tổng cung lớn hơn tổng cầu, dư cung. Các xí nghiệp sẽ giảm giá
bán cho đến khi thị trường hấp thu hết lượng cung thặng dư.
- Nếu mức giá thấp hơn P* thì tổng cung nhỏ hơn tổng cầu, dư cầu. Các xí nghiệp sẽ tăng giá
bán cho đến khi thị trường cân bằng lượng cung và cầu.
Ba trường hợp cân bằng kinh tế vĩ mô:

Cân bằng khiếm dụng: GDP thực nhỏ hơn GDP tiềm năng, nền kinh tế có chênh lệch suy thoái.
Cân bằng toàn dụng: GDP thực bằng GDP tiềm năng nền kinh tế đang ở trạng thái toàn dụng
nhân công. Cân bằng trên toàn dụng: GDP thực lớn hơn GDP tiềm năng, nền kinh tế có chênh
lệch lạm phát.
Sự thay đổi của trạng thái cân bằng.
Cú sốc cầu: Khi đường tổng cung có độ đốc dương, các cú sốc ngoại sinh tác động đến tổng cầu
sẽ gây ra sự dao động của sản lượng và giá cả. Điều này thường được coi là tốn kém và không
mong muốn.Vì chính phủ có thể ảnh hưởng đến tổng cầu thông qua các chính sách kinh tế vĩ mô,
do đó chính phủ có thể cân nhắc việc sử dụng các chính sách này để ổn định nền kinh tế.
Các cú sốc cung: các cú sốc cung xảy ra do sự thay đổi giá cả các yếu tố đầu vào hay sự thay đổi
các nguồn lực trong nền kinh tế. Các cú sốc làm giảm tổng cung được gọi là cú sốc bất lợi (thời
tiết xấu, OPEC tăng giá dầu thế giới…).
Ngược lại, các cú sốc làm tăng tổng cung được gọi là cú sốc cung có lợi.

You might also like