You are on page 1of 56

Lạc Việt độn toán – Nguyễn Vũ Tuấn Anh 1

LẠC VIỆT ĐỘN TOÁN PHẦN 1

Tác giả: Nguyễn Vũ Tuấn Anh – Trung tâm nghiên cứu Lí học Đông
phương – Việt Nam

MỤC LỤC
Lời giới thiệu Trang 2

Lời giới thiệu Trang 4

Phần 1: Nguyên lí lí thuyết của Lạc Việt độn toán

1) Sự ra đời của Lạc Việt độn toán Trang 6

2) Những di sản còn lại: Bát môn độn giáp và Lục Nhâm Đại độn Trang 7

3) Năng lượng cực lớn Trang 12

4) Nguyên lý căn đế của Lạc Việt độn toán. Trang 13

5) Lạc Thư hoa giáp nguyên tắc ứng dụng trong Lạc Việt độn toán Trang 20

6) Nguyên lý của Lục Nhâm và Hậu thiên Lạc Việt trong Lạc Việt độn toán. Trg 23

7) Bát môn và Lục Nhâm cấu thành phương pháp Lạc Việt độn toán Trang 25

Phần 2: Phương pháp độn quẻ Lạc Việt độn toán Trang 27

Phần 3: Ý nghĩa của quẻ Lạc Việt độn toán Trang 34

Phần 4: Phương pháp luận quẻ Lạc Việt độn toán Trang 43

Phần 5: Khả năng và giá trị của Lạc Việt độn toán Trang 54

1
Lạc Việt độn toán – Nguyễn Vũ Tuấn Anh 2

Lời giới thiệu

Nguyễn Vũ Tuấn Anh


Trung tâm nghiên cứu Lý học Đông Phương

Cho đến nay chúng ta đã biết khả năng tiên tri của các phương pháp trong Lý
học Đông phương về những gì mà trí tuệ hiện đại chưa đạt đến đuợc đã chứng
tỏ sự chính xác cao hơn bất cứ một phương tiện dư báo khoa học hiện đại nào...

Là người đã có gần 20 năm tìm hiểu về văn hoá cổ Lạc Việt và Lý học
Đông Phương - Tôi xin trình bày một phương pháp dự báo đã được
chứng nghiệm qua nhiều năm mà sau nhiều lần chỉnh sửa được đặt
tên chính thức là Lạc Việt độn toán.

Như các môn tiên tri khác thuộc Lý học Đông phương, chỉ cần biết phương pháp độn Lạc
Việt độn toán thì cũng độn và toán được chuyện của thế nhân. Phần phương pháp độn của
Lạc Việt độn toán rất dễ hiểu vì nó là sự kết hợp những phương pháp độn toán đơn giản
còn lưu truyền trong dân gian, được bổ sung và hiệu chỉnh của cả một hệ thống lý thuyết
phục hồi lại từ văn minh Lạc Việt, trên cơ sở nguyên lý Hậu Thiên Lạc Việt phối Hà
Đồ. Bởi vậy, những di sản độn toán đơn giản còn lưu truyền trong dân gian như Lục
Nhâm Đại độn và Bát môn độn giáp được bổ sung, hiệu chỉnh phối hợp trong Lạc Việt
độn toán đã trở thành một môn dự báo vi diệu, có khả năng tiên tri trên xem thiên văn,
dưới xét địa lý, nhân sự, xã hội vạn sự đều có thể dự báo, không thua kém gì các môn dụ
báo đã lưu truyền hàng ngàn năm trong xã hội Đông phương cổ. Điều này đã chứng
nghiệm từ gần 20 năm qua. Kể từ năm 2004 những dự báo nhân danh Lạc Việt độn toán
đã chứng tỏ khả năng của nó trên website tuvilyso.com qua lời dự báo sóng thần tại
Indonesia và Philippine. Cùng với rất nhiều các hiện tượng xã hội, thiên tai, cuộc
sống được dự báo đều đặn hàng năm từ 2004 đến nay với hiệu quả dự báo cao, kể cả
những việc được quan tâm trên thế giới. Phương pháp dự báo Lạc Việt độn toán được
chính thức công bố và truyền đạt thử nghiệm lần đầu tiên trên website vietlyso.com. Nay
Lạc Việt độn toán được hoàn chỉnh và tổng hợp nâng cao về cả phương pháp lẫn lý
thuyết và đồng thời được công bố trên trang web chính thức của Trung tâm nghiên cứu lý
học Đông phương để mọi người đều có thể tham khảo ứng dụng.
Lạc Việt độn toán là hệ quả nghiệm chứng trong hệ thống lý thuyết của thuyết Âm
Dương Ngũ hành, được phục hồi nhân danh nền văn hiến Việt trải gần 5000 năm lịch
sử. Nó nhằm chứng tỏ nhân danh tiêu chí khoa học cho yếu tố tiên tri của một lý
thuyết được coi là khoa học.

Ứng dụng được môn này, ngoài việc tự giúp mình còn phải có tâm hồn khoáng đạt,
thánh thiện giúp ích được cho đời. Những ai sử dụng phương pháp độn toán này, hãy

2
Lạc Việt độn toán – Nguyễn Vũ Tuấn Anh 3

tôn vinh tổ tiên của người Lạc Việt từ thời Hùng Vương đã tạo dựng nên một nền văn
hiến vĩ đại với giá trị tri thức siêu việt, đầy chất nhân bản và tình yêu con người.

Hàng năm vào những ngày lễ Tết, những ai đang học hỏi tìm về cội nguồn của nền
minh triết Đông phương, hãy ngắm nhìn chiếc bánh Chưng, bánh Dày và chiêm
nghiệm sẽ thấy được ý nghĩa vi diệu sâu lắng trong tâm linh. Bốn sợi Lạc Hồng buộc
trên chiếc bánh chưng - hình thành cửu cung nguyên thuỷ cho tất cả các môn độn
toán Đông phương và sự vi diệu của Lạc Việt độn toán cũng bắt đầu từ cửu cung này.

Nguyễn Vũ Tuấn Anh

3
Lạc Việt độn toán – Nguyễn Vũ Tuấn Anh 4

Lời tựa
Nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh, tên thật là Nguyễn Vũ Diệu, có nickname thường sử
dụng trên các diễn đàn lý học Đông phương là Thiên Sứ. Ông sinh năm 1949 tại Hà nội, hiện nay
là Giám đốc Trung Tâm Lý Học Đông Phuơng, có trụ sở tại TP HCM thuộc Hội nghiên cứu khoa
học Việt Nam – ASIA.

Trong quá trình tìm hiểu nhằm chứng minh một thực tế khách quan về nền văn minh
Lạc Việt trải gần 5000 năm văn hiến, dựa trên những nguyên lý lý thuyết được phục
hồi của thuyết Âm Dương Ngũ hành và Bát quái là ký hiệu siêu công thức của học
thuyết này, ông đã kết tập hai phuơng pháp độn toán còn lưu truyền trong dân gian
là “Lục nhâm tiểu độn"(Có sách viết "Lục Nhâm đại độn”) và “Bát môn độn giáp” để
hiệu chỉnh và phục hồi lại môn Lạc Việt độn toán của tổ tiên.Lạc Việt độn toán không
phải là sự kết hợp khô khan giữa hai môn dự báo đơn giản nói trên. Lạc Việt Độn
Toán chính là hệ quả của tính hoàn chỉnh và thống nhất của thuyết Âm Dương Ngũ
Hành với nguyên lý nhất quán là Hậu Thiên Lạc Việt phối Hà Đồ và nhân danh những
tiêu chí khoa học hiện đại.

Từ một giả thuyết ban đầu về cội nguồn Kinh Dịch, cho đến phương pháp Lạc Việt
độn toán đã được nghiệm đúng và kiểm chứng về cả lý thuyết lẫn thực hành trên
thực tế từ gần 20 năm nay cho chính tác giả là ông Nguyễn Vũ Tuấn Anh và cho
những người tìm hiểu và ứng dụng môn này trong những năm gần đấy. Lạc Việt độn
toán ngày càng hoàn thiện về nhiều mặt trong quá trình tìm hiểu và tiến tới phục hồi
hoàn chỉnh thuyết Âm Dương Ngũ hành . Với chút duyên may khi đến với Lạc Việt
Độn Toán, tôi đuợc ông Nguyễn Vũ Tuấn Anh - nguời đã có công phục hồi lại phuơng
pháp độn của tổ tiên Lạc Việt giao cho công việc biên soạn cuốn sách từ khối luợng
đồ sộ những bài viết mà thời gian qua ông đã rất tận tình truyền tải kiến thức và
kinh nghiệm tới học viên lớp Lạc Việt độn toán và tới các bạn đọc giả quan tâm.
Nhiều, rất nhiều những dự đoán của ông và các học viên đã ứng nghiệm trong thời

4
Lạc Việt độn toán – Nguyễn Vũ Tuấn Anh 5

gian qua trong thực tế đã chứng tỏ phuơng pháp Lạc Việt Độn Toán rất dễ hiểu và có
tính ứng dụng thực tiễn rất cao .

Nhu cầu muốn biết truớc, dự đoán việc, nắm bắt thông tin để mong gặp đuợc điều
tốt, tránh đuợc điều dữ là lòng mong muốn chính đáng của con nguời. Cuốn Lạc Việt
Độn toán phuơng pháp và ứng dụng đuợc viết ra chính là thể theo yêu cầu ngày càng
cao của bạn đọc khăp nơi, nhằm giới thiệu một cách có hệ thống phần cơ bản
phương pháp và cách ứng dụng .

Tiến sĩ Phạm Thị Minh Hoàng

5
Lạc Việt độn toán – Nguyễn Vũ Tuấn Anh 6

Nguyên lý lý thuyết của Lạc Việt độn toán

Tri thức khoa học hiện đại thừa nhận tiêu chí khoa học này. Vấn đề ở
đây là qui luật đó là qui luật gì, phản ánh một thực tại nào và khi đã
chứng tỏ một khả năng tiên tri thì đằng sau nó phải là một lý thuyết
khoa học...

1 - Sự ra đời của Lạc Việt Độn Toán


Một phương pháp hoặc một lý thuyết khoa học được coi là đúng thì phải có tính hệ
thống, tính nhất quán, tính quy luật, tính khách quan và có khả năng tiên tri. Tiêu
chí khoa học.Tri thức khoa học hiện đại thừa nhận tiêu chí khoa học này. Vấn đề ở
đây là qui luật đó là qui luật gì, phản ánh một thực tại nào và khi đã chứng tỏ một
khả năng tiên tri thì đằng sau nó phải là một lý thuyết khoa học.

Vậy khả năng tiên tri của các phương pháp dự báo thuộc Lý học Đông phương cổ
phải phản ánh một qui luật nào đó của vũ trụ, tính khái quát càng lớn chứng tỏ tính
quy luật càng rất bao trùm. Vấn đề là chúng ta hiểu gì về thực tại vận động của
những qui luật đó qua những phương pháp dự đoán thuộc Lý học Đông phương. Lạc
Việt độn toán đã thoả mãn yêu cầu đó bởi tính khái quát cao: chỉ có 48 quẻ để dự
báo cho tất cả sự vật sự việc từ nhỏ đến lớn so với quẻ Dịch có 64 quẻ và tính chi tiết
hoàn hảo cho từng hào. Điều này chứng tỏ Bốc Dịch với 64 quẻ là sản phẩm được
hoàn hảo ở một giá trị nhận thức về vũ trụ, trái đất và con người sâu hơn Lạc Việt
độn toán. Chúng ta có thể nhận xét rằng Lạc Việt độn toán trên thực tế ra đời trước
khi có phương pháp Bốc Dịch. Nói một cách khác: Lạc Việt độn toán có tính khái quát
và gần với những nguyên lý căn bản của thuyết Âm Dương Ngũ hành, tuy không sâu
và chi tiết bằng Bốc Dịch. Nhưng vì tính thất truyền của một nguyên lý lý thuyết
phản ánh một thực tại đã tạo dựng ra nó và sự sai lệch do thất truyền nên phương
pháp Bốc Dịch trở nên huyền bí và có những sai lệch và đây cũng là tình trạng chung
của các phương pháp tiên tri phương Đông . Trên đây cũng chỉ là ý tưởng ban đầu về
sự suy luận tính lịch sử thời gian của sự ra đời hai phương pháp Bốc Dịch và Lạc Việt
độn toán. Hy vọng đó sẽ là những ý tưởng để sau này có ai nghiên cứu về lịch sử
hình thành các phương pháp tiên tri của Lý Học Đông phương sẽ tiếp tục tìm hiểu và
tìm ra những lời giải cho các hiện tượng từ hàng ngàn, thậm chí hàng chục ngàn năm
trước.

Tôi không tự cho mình là người sáng taọ ra môn Lạc Việt độn toán. Mà chỉ là người
phục hồi lại môn này và những nguyến lý của nó từ những di sản còn lại lưu truyền
trong văn hoá phương Đông. Hay nói cách khác: Nội dung của Lạc Việt độn toán đã
tồn tại trên thực tế từ hàng thiên niên kỷ trước. Nó đã bị thất truyền khi nền văn
minh Việt sụp đổ ở miến nam sông Dương Tử. Nay được phục hồi lại nhân danh nền
văn hiến Lạc Việt.

6
Lạc Việt độn toán – Nguyễn Vũ Tuấn Anh 7

2 –Những di sản còn lại – Bát môn độn giáp và Lục Nhâm Đại
độn

Lạc Việt độn toán coi Bát Môn và Lục Nhâm là hai yêú tố cấu thành
quan trọng khi phối với Âm Dương Ngũ hành và nguyên lý căn của Lý
học Đông phương thuộc về văn minh Việt là ’’Hậu Thiên Lạc Việt phối
Hà Đồ’’. Xin xem ’’Tìm về cội nguồn Kinh Dịch” và ’’Hà Đồ trong văn
minh Lạc Việt”.

Nhưng Bát môn độn giáp và Lục Nhâm đại độn nguyên thuỷ
vốn chỉ là hai phương pháp dự báo rất đơn giản còn lưu
truyền trong dân gian và không liên quan gì đến nhau. Phương pháp độn của Bát
Môn và Lục Nhâm lần lượt như sau:
2-1/ Phương pháp độn Lục Nhâm Đại độn lưu truyền trong dân gian
Đồ hình lục nhâm đại độn
Lời truyền trong dân gian

Phương pháp này căn cứ trên một đồ hình chia làm 6 cung và mỗi cung có tên gọi
như hình trên. Có hai cách lấy quẻ cho phương pháp này là:

2 – 1 – 1: Phương pháp lưu truyền ở miền Bắc Việt Nam

* Bắt đầu từ cung Đại An là năm Tý, tính thuận theo chiều kim đồng hồ lần lượt mỗi
năm một cung, đến năm định toán thì dừng lại. * Lấy cung đó làm tháng Giêng cũng
theo chiều kim đồng hồ mỗi tháng một cung, đến tháng định toán thì dừng lại. * Lấy
cung đó làm ngày mùng Một của tháng, thuận theo chiều kim đồng hồ lần lượt mỗi
ngày một cung cho đến ngày định toán thì dừng lại. * Lấy cung đó làm giờ Tý, thuận
theo chiều kim đồng hồ, mỗi cung một giờ, đến giờ định toán thì dừng lại. Khi giờ
dừng ở cung nào thì được quẻ đó.Thí dụ:* Năm Mậu Tý, Tháng Hai, ngày 24, giờ Mùi
(Từ 13g đến 15 giờ).Năm Tý tại cung Đại An. Tháng Giêng cũng tại đây, tháng Hai sẽ
ở cung Lưu Niên. Ngày mùng Một tháng Hai cũng bắt đầư từ cung Lưu Niên. Đếm

7
Lạc Việt độn toán – Nguyễn Vũ Tuấn Anh 8

thuận mỗi cung một ngày thì ngày 24 ở cung Đại An. Giờ Tý tính từ cung Đại An lần
lượt mỗi cung một giờ thì giờ Mùi sẽ ở cung Lưu Niên. Đến đây chúng ta được quẻ
Lưu Niên theo phương pháp lưu truyền ở miền Bắc Việt Nam.* Năm Kỷ Sửu, tháng
Năm, ngày 19 giờ Ngọ (Từ 11g đến 13g)

Năm Tý ở cung Đại An thì năm Sửu ở cung Lưu Niên. Tháng Giêng cũng tại đây.
Tháng Năm theo thuận tự từ Lưu Niên là 1 đếm đến tháng 5 sẽ ở Vô Vong. Ngày
mùng Một từ Vô Vong đếm thuận đến ngày 19 cũng tại cung Vô Vong. Giờ Tý của
ngày 19 tại cung Vô Vong đến thuận đến giờ toán quẻ là Ngọ cũng là an tại cung Vô
Vong. Như vậy t6a được quẻ Vô Vong cuả Lục Nhâm Đại độn.

2 – 1 – 2: Phương pháp lưu truyền ở miền Nam Việt Nam

Tôi trích dẫn dưới đây là bài của Thái Tuế trên trang tuvilyso.com giới thiệu về
phương pháp toán Lục Nhâm Đại độn còn lưu truyền phổ biến ở miến Nam Việt Nam,
để tham khảo.

Môn độn toán này do ông Lý Thuần Phong sáng chế. Tài liệu môn này đã thất truyền.
Qua sự tìm tòi cổ thư ghép nhặt và tổng hợp các yếu tố có liên quan trong môn học
này (không biết có trùng với bản chính không?) khi mang ra ứng dụng thấy xác liệu
dự đoán rất phù hợp với công việc của nhiều người.
Vì khảo cứu trong tình huống thiếu thốn tài liệu, nên đỉnh cao của môn học không
đạt tới được. Rất ước mong sự đóng góp khảo cứu của nhiều người có cơ hội biết
môn này.

Khởi tháng Giêng ở cung Đại An, thứ tự theo chiều kim đồng hồ, mỗi cung một
tháng, cho đến tháng cần toán. Sau khi có cung của tháng, ta khởi ngày mùng MỘT
ở cung đó, đếm thuận mỗi cung một ngày tới ngày hiện tại. Ta khởi cung đó là giờ
TÝ, đếm mỗi giờ một cung cho tới giờ hiện tại.
Thí dụ: Ngày 09 tháng 09 âm lịch, giờ Tị, có người nhờ tính, ta lấy cung như sau:
- Tháng 09 ở cung Tốc Hỉ, ngày 9 ở cung Tiểu Cát, giờ Tị ở cung Xích Khẩu. Vậy ta có
tháng Tốc Hỷ, ngày Tiểu Cát, giờ Xích Khẩu.
- Ở độn toán, người ta chỉ dùng ngày và giờ để tính, còn cung tháng chỉ phụ giúp
thôi.
- Ngày là chủ, là mình. Gìơ là khách, là việc.
- Tháng phụ gúp cho hai ý trên theo tuổi.

Như vậy, so sánh giữa hai phương pháp tính quẻ Lục Nhâm Đại độn (Có nơi gọi là
Lục Nhâm Tiểu độn) lưu truyền ở miền Bắc và miền Nam Việt Nam thì chúng khác
nhau ở chõ căn bản là: Phương pháp toán lưu truyền ở miến Bắc có tính năm theo
Âm lịch và phương pháp ở miền Nam thì chỉ tính tháng.

Lưu ý:

* Xuất phát từ tính hợp lý của vấn đề về vị trí của Lục Nhâm đại độn trong Lạc Việt
độn toán thì chúng ta ứng dụng việc toán quẻ Lục Nhâm Đại độn theo phương pháp
toán quẻ lưu truyền ở miến Bắc. Tức là có tính năm. Năm Tý bắt đầu từ cung Đại An.

* Để tiện việc tính nhanh, các ngày mùng 1, mùng 7, 13, 19, 25 bao giờ cũng cùng
một cung.

2 – 1 – 3: Kết luận

8
Lạc Việt độn toán – Nguyễn Vũ Tuấn Anh 9

Lạc Việt độn toán dùng phương pháp độn Lục Nhâm Đại độn lưu truyền ở miến Bắc
Việt Nam làm phương pháp độn chính thức cho Lục Nhâm đại độn Lạc Việt độn toán.

2 – 2 : Phương pháp độn Bát môn độn giáp lưu truyền trong dân gian

Bát môn có ký hiệu các cung hoàn toàn giống môn Thái Ất thần kinh và Kỳ môn độn
giáp. Đồng thời 9 cung trên Bát môn cũng là đồ hình căn bản của thuật toán Thái Ất
và Độn giáp.

Đồ hình Bát môn độn giáp


Lưu truyền trong dân gian.

2 – 2 – 1: Phương pháp toán quẻ Bát Môn Đại độn lưu truyền ở miền Bắc
Việt Nam

Phương pháp này không tính năm, mà bắt đầu từ cung Sinh tính là tháng Giêng, đếm
thuận theo chiều kim đồng hồ đến tháng cần toán. Từ cung này tiến lên một cung là
tính là ngày mùng Một của tháng đó, đếm thuận theo chiều kim đồng hồ đến ngày
cần toán. Tiến lên một cung là giờ Tý, đếm thuận mỗi cung một giờ đến giờ cần toán.
Dừng lại ở cung nào ta được quẻ Bát Môn Đại độn ở cung đó. Thí dụ:* Tháng ba,
ngày 24, giờ Tỵ (Từ 9g đến 11g)Bắt đầu từ cung Sinh là tháng thứ nhất, đếm đến
tháng Ba là cung Đỗ. Tiến lên một cung là cung Cành là ngày mùng Một đếm đến
ngày 24 là cung Đỗ. Tiến lên một cung là cung Cảnh lấy là giờ Tý đếm đến giờ Tỵ lại

9
Lạc Việt độn toán – Nguyễn Vũ Tuấn Anh 10

là cung Đỗ. Quẻ lấy được theo phương pháp Bát Môn Đại độn là quẻ Đỗ.* Tháng 9,
ngày 19, giờ Thân.Tháng Giêng từ cung Sinh đếm đến tháng 9 vẫn là cung Sinh. Tiến
lên một cung ngày mùng Một vào cung Thương. Từ cung này đếm thuận đến ngày 19
ở cung Cảnh. Tiến lên một cung thì giờ Tý ở cung Tử, đếm thuận đến giờ Thân là
cung Tử. Quẻ Bát Môn độn giáp lấy được là quẻ Tử.

2 – 2 – 2: Phương pháp toán quẻ Bát Môn Đại độn lưu truyền ở miền Nam
Việt Nam

Có hai cách toán Bát môn độn giáp:

2 – 2 – 2 – 1: Phương pháp toán Bát Môn thứ nhất:


Tính thuận theo chiều kim đồng hồ khởi tháng Giêng từ cung Sinh, tiếp đến
Tháng 2/3 đồng cung tại Thương.
Tháng 4 cung Đỗ.
Tháng 5/ 6 đồng cung tại Cảnh.
Tháng 7 cung Tử.
Tháng 8/ 9 đồng cung tại Kinh.
Tháng 10 cung Khai
Tháng 11/ 12 đồng cung tại Hưu.

Trong phương pháp này, các tháng Mộ của tứ hành vào chung một cung với tháng
vượng của hành đó. Xuân thuộc Mộc. Tháng 3 là Mộ của Xuân, ghép vào tháng
2......Như vậy ta có đủ 12 tháng phối với Bát môn.

Với phương pháp này ta thấy:

* Phép độn Bát Môn thuận theo 4 mùa, điều này phối Hà Đồ là hợp lý. Đây cũng là
đồ hình của 12 thiên bàn Tử Vi - Ngũ hành tương sinh thuận theo chiều kim đồng hồ
của Hà Đồ. Cách phối này xác quyết sự phối Bát Môn với Hà đồ ở trên.
* Do có hai tháng bị trùng quẻ theo mùa, nên sự tuần hoàn bị chựng lại theo mùa,
có nghĩa là đến tháng cuối của mùa nào thì quẻ sẽ trùng với tháng trước đó.

2 – 2- 2- 2: Phương pháp toán Bát Môn thứ hai:

Tháng Giêng tại cung Sinh, tính thuận mỗi cung một tháng cho đến hết 12 tháng.
Phương pháp độn này sẽ cho 4 tháng cuối năm có các quẻ lặp lại với 4 tháng đầu
năm. Vì đồ hình Bát Môn được luận theo thuận tự 12 tháng trong năm, nên cũng xác
quyết cho chúng ta về sự phối Bát Môn với Hà Đồ (Hà Đồ: Bốn mùa - Ngũ hành
tương sinh - theo chiều thuận kim đồng hồ).

Như vậy, thoạt nhìn dễ nhận thấy sự hợp lý của phương pháp 1. Nhưng nếu so sánh
với qui luật vận động liên tục và lặp lại của tự nhiên và vũ trụ, thì không thể có sự
lặp lại theo cùng đơn vị thời gian trong tự nhiên. Bởi vậy, không thể có quẻ lặp lại
theo từng tháng mùa.

Theo phương pháp thứ hai - cũng là điều liên quan đến phương pháp Bốc Dịch theo
giờ do ông Thiệu Khang Tiết công bố vào thời Tống - chúng ta sẽ có 8 quẻ Dịch liên
tiếp nhau thuộc 8 giờ đầu trong ngày và 4 quẻ dịch lặp lại trong 4 giờ cuối, giờ ta là
2 giờ đồng hồ Tây,cho thấy có sự trùng khớp hợp lý giữa tự nhiên và phương pháp

10
Lạc Việt độn toán – Nguyễn Vũ Tuấn Anh 11

bốc Dịch, nên tôi đã chứng nghiệm và chọn cách tính tháng theo phương pháp 2 cho
Lạc Việt độn toán.

Tuy nhiên tôi công nhận tính thiếu vắng của toán năm trong quá trình tìm hiểu Bát
môn trong Lạc Việt độn toán. Hy vọng sau này bạn đọc nghiên cứu Lạc Việt độn toán
phát hiện ra phương pháp tính năm mà thấy hợp lý về nhiều phương diện thì chúng
ta có thể hiệu chỉnh và thay đổi.

Lưu ý:

* Xuất phát từ tính hợp lý của vấn đề về vị trí của Bát Môn độn giáp trong Lạc Việt
độn toán thì chúng ta ứng dụng việc toán quẻ Bát Môn độn giáp theo phương pháp
toán quẻ lưu truyền ở miến Bắc, tức cũng phương pháp một ở Miền Nam. Tức là mỗi
tháng thuận tự tiến lên một cung, bắt đầu từ cung Sinh.

* Để tiện việc tính nhanh, các tháng 1, tháng 9 bao giờ cũng cùng một cung. Các
ngày mùng 1, mùng 9, 17, 25 cùng một cung.

2 – 2 – 3: Kết luận

Lạc Việt độn toán dùng phương pháp độn Bát Môn Độn giáp lưu truyền ở miến Bắc
Việt Nam và phương pháp 1 trùng khớp lưu truyền ở miền Nam Việt Nam làm
phương pháp độn chính thức cho Bát Môn trong Lạc Việt độn toán.

11
Lạc Việt độn toán – Nguyễn Vũ Tuấn Anh 12

3 – Năng lượng cực lớn

Chúng ta chắc chẳng bao giờ biết được năng lượng của một que diêm cháy loé lên cách chúng
ta 10 km, đơn giản vì năng lượng của que diêm quá nhỏ. Nhưng người ta vẫn nhận ra hình ảnh
một ngôi sao bùng vỡ cách chúng ta hàng ngàn năm ánh sáng, vì năng lượng của chúng cực lớn.
Đây chỉ là một hình ảnh thí dụ để chúng ta xem xét sự tồn tại của Bát Môn và Lục nhâm dưới một
hình thức đơn giản .

Tại sao những phương pháp độn đơn giản như Bát Môn và Lục Nhâm ít thông tin hơn
cả bói chân gà, mà lại có thể xuyên suốt hàng ngàn năm thăng trầm của lịch sử?

Phải chăng trước đây nó vốn là một môn dự đoán rất chính xác và hoàn chỉnh, nhưng
sự thăng trầm của lịch sử đã làm nó mai một và rời rạc một cách vô tình hoặc cố ý?

Phải chăng trước đây nó đã từng như một vì sao chứa năng lượng cực lớn còn tồn tại
đến bây giờ cùng với sự bùng vỡ của một nền văn minh từ hàng ngàn năm trước?
Chính từ ý nghĩ đó tôi đã đi đến quyết định ứng dụng thuyết Âm Dương Ngũ Hành -
là một học thuyết vũ trụ quan hoàn chỉnh, nhất quán với nguyên lý căn của học
thuyết này là Hậu Thiên Lạc Việt phối Hà Đồ từ văn minh Lạc Việt mà sách cổ chữ
Hán không thể hiện điều này để phục hồi môn Lạc Việt độn toán.

Phương pháp dự báo của Lạc Việt độn toán ứng dụng trên thực tế từ nhiều năm qua
trên mọi phương diện do tác giả và những anh chị em nghiên cứu tham khảo thực
hiện đã cho thấy khả năng dự báo rất hiệu quả của môn này. Sự phục hồi môn Lạc
Việt độn toán từ những di sản văn hoá phi vật thể lưu truyền trong dân gian chính là
một bằng chứng sắc sảo không chỉ minh chứng cho sự hoàn chỉnh nhất quán và tính
khoa học của thuyết Âm Dương Ngũ hành thuộc về văn minh Lạc Việt mà còn là một
bằng chứng cho thấy một nền văn minh đã thất truyền vì lịch sử bị vùi lấp. Đó chính
là nền văn hiến của người Lạc Việt trải gần 5000 năm, một thời huyền vĩ ở miền nam
Dương Tử.

12
Lạc Việt độn toán – Nguyễn Vũ Tuấn Anh 13

4 – Nguyên lý căn đế của Lạc Việt độn toán.

Chúng ta cũng cần phải tiếp tục tìm hiểu cả thực tại nào đã tạo nên
sự nhận thức để tổng hợp thành hệ thống lý thuyết Âm Dương Ngũ
hành có khả năng ứng dụng một cách rộng rãi trên khắp các lĩnh vực
từ vũ trụ đến mọi vấn đề của cuộc sống và con người?...

Nếu chúng ta chỉ học và tìm hiểu phương pháp ứng dụng để
dự trắc không thôi, thì đó là hiểu phần ngọn. Muốn biết sâu
thêm, ngoài việc chúng ta dùng phương pháp luận của thuyết
Âm Dương Ngũ hành thì chỉ là hệ quả của một lý thuyết, không phải là bản thân lý
thuyết đó, chúng ta cũng cần phải tìm hiểu cả nguyên lý và thực tại nào đã tạo nên
sự nhận thức để tổng hợp thành nguyên lý lý thuyết đó. Nhưng thuyết Âm Dương
Ngũ hành là một học thuyết đã thất truyền hoàn toàn. Tất cả những cái gì còn lại chỉ
là sự giải thích theo phương pháp luận của nó. Trong các bản văn chữ Hán cổ kim,
không thể hiện tính hoàn chỉnh của học thuyết này. Trong Hoàng Đế Nội kinh tố vấn,
thuyết Âm Dương Ngũ hành thể hiện bằng phương pháp luận của nó. Nhưng phương
pháp luận chỉ là hệ quả của một lý thuyết và không phải bản thân lý thuyết đó.

Ngay chính cả các nhà nghiên cứu Trung Hoa hiện đại cũng như cổ xưa, đến bây giờ
cũng thừa nhận chưa thể biết được nguồn gốc đích thực của học thuyết này.

Do đó, khi chúng ta dùng phương pháp luận của thuyết Âm Dương Ngũ hành thì đó
cũng chỉ là hệ quả của một lý thuyết, không phải chính bản thân lý thuyết đó. Chúng
ta cũng cần phải tiếp tục tìm hiểu cả thực tại nào đã tạo nên sự nhận thức để tổng
hợp thành hệ thống lý thuyết Âm Dương Ngũ hành có khả năng ứng dụng một cách
rộng rãi trên khắp các lĩnh vực từ vũ trụ đến mọi vấn đề của cuộc sống và con người?
Hiện nay, nếu coi hệ thống những luận điểm nhân danh nền văn hiến Việt là đúng thì
chúng ta mới chỉ dừng lại ở mối liên hệ hợp lý và nhất quán giữa các vấn đề liên
quan trên một nguyên lý nhất quán. Nhưng chưa xác định được định lượng các mối
liên hệ thực tại nào làm nên lý thuyết này. Đây sẽ là quá trình lâu dài, gian khổ và
tốn nhiều tâm huyết của nhiều thế hệ. Tuy nhiên, căn cứ vào những tiêu chí khoa
học cho một lý thuyết hoặc một phương pháp hay giả thiết khoa học, chúng ta đủ cở
sở để ứng dụng một cách nhất quán nguyên lý được phục hồi để phục chế lại những
giả trị văn hoá khoa học cổ đại, mà một trong những giá trị này chính là phương
pháp dự báo Lạc Việt độn toán.

Ngay trong Lạc Việt độn toán, nếu không hiểu gì về thuyết Âm Dương Ngũ hành mà
chỉ biết phương pháp độn thì cũng có thể độn quẻ và dự báo được. Bởi vì ý nghĩa của
từng quẻ đã cho một khái niệm định tính của sự kiện cần chiêm đoán.

Tình trạng chung của tất cả các môn dự báo Đông Phương có liên quan đến thuyết
Âm Dương Ngũ hành đều như vậy: Chúng ta chỉ biết phương pháp ứng dụng, còn
nguyên lý và lý thuyết thì rất mơ hồ.

Bởi vậy, tôi chẳng quản tài hèn, cố gắng đem đến cho các bạn những phát kiến của
mình, nhằm phục hồi lại những nguyên lý và giá trị đích thực của nền Lý học Đông
phương.

13
Lạc Việt độn toán – Nguyễn Vũ Tuấn Anh 14

Những phát kiến này căn cứ theo tiêu chí khoa học hiện đại nhất cho rằng:
* Một lý thuyết khoa học được coi là đúng, phải có khả năng giải thích một cách hợp
lý hầu hết những vấn đề liên quan đến nó một cách hoàn chỉnh, nhất quán, thể hiện
được tính khách quan, tính qui luật và khả năng tiên tri.
* Một lý thuyết khoa học mới phải dung nạp được những lý thuyết khoa học trước đó
phản ánh những qui luật thực tại đã được thừa nhận. Đây cũng chính là lý do để tôi
thấy cần phải trình bày những nguyên lý căn bản của môn này trước khi nêu cụ thể
phương pháp độn của Lạc Việt độn toán.

4 – 1:
Hà Đồ phối Hậu Thiên Lạc Việt.

Trong các sách và bài viết của mình, đặc biệt là cuốn ’’Hà đồ trong văn minh Lạc
Việt” và ’’Tìm về cội nguồn Kinh Dịch”, tôi đã chứng minh Hà đồ chính là đồ hình
căn bản trong Lý học Đông phương và hoàn toàn không phải là Lạc Thư như cổ thư
chữ Hán nói tới.
Hà Đồ chính là một đồ hình phản ảnh một thực tế sự vận động và tương tác có tính
qui luật của Ngũ tinh trong Thái Dương hệ với Địa cầu, được qui ước hoá với tri thức
thuộc về nền văn minh cổ thể hiện trong thuyết Âm Dương Ngũ hành.

Trước đây trong những cuốn sách và bài viết của tôi chỉ mang tính lập luận hợp lý
giữa những hiện tượng và vấn đề liên quan. Nhưng với trình thiên văn Sky mapro
kiểm chứng vị trí của Ngũ tinh trên bầu trời từ hàng ngàn năm trước CN và hàng
ngàn năm sau thì có thể khẳng định đây là một vấn đề không cần phải bàn cãi về
tính khoa học và cả tính hợp lý trong lý luận cũng như trên thực tế. Tất cả các nhà
khoa học về vật lý thiên văn trên thế giới và mọi người có điều kiện quan sát thiên
văn có thể kiểm chứng điều này. Từ đó, tôi có thể khẳng định chắc chắn rằng:

Huyền thoại Long Mã hiện trên sông Hoàng Hà mang Hà Đồ và vua Phục Hy căn cứ
vào đó để làm ra Tiên thiên bát quái là một câu chuyện....huyền thoại đúng nghĩa và
không có giá trị thực tế.

Tiêu chí khoa học đã xác quyết rằng:

Tính quy luật làm nên khả năng tiên tri và vạn vật đều có tương tác. Căn cứ trên cơ
sở khoa học này thì chúng ta có thể khẳng định rằng sự vận động có tính quy luật
của các hành tinh trên Thái Dương hệ (Hậu Thiên), chính là cơ sở của Hậu Thiên Bát
quái. Bởi vậy, Lạc Việt độn toán lấy ’’Hà Đồ phối Hậu thiên Lạc Việt” làm nguyên lý
căn để về nguyên lý lý thuyết. Điều này thể hiện tính nhất quán trong nguyên lý học
thuật cổ Đông phương thuộc về văn minh Lạc Việt, có khả năng lý giải một cách hợp
lý những vấn đề và hiện tượng liên quan đến nó. Nguyên lý này ứng dụng một cách
nhất quán trong việc lý giải mọi phương pháp và hiện tượng liên quan đến Lý học
Đông phương từ Tử Vi, bốc Dịch, phong thuỷ..vv... Là cơ sở cho sự hiệu chỉnh và
phục hồi những giá trị của học thuyết Âm Dương Ngũ hành đã thất truyền. Tính nhất
quán là một trong yếu tố cần chứng tỏ một lý thuyết được coi là khoa học.Bởi vậy sự
trùng khớp giữa đồ hình Bát Môn và Hà Đồ một lần nữa chứng tỏ tính hoàn chỉnh và
nhất quán của nguyên lý ’’Hà Đồ phối Hậu Thiên Lạc Việt”.

So sánh hai hình sau đây, chúng ta sẽ nhận thấy điều này.

14
Lạc Việt độn toán – Nguyễn Vũ Tuấn Anh 15

Đồ hình Hà Đồ phối Hậu Thiên Lạc Việt


(Đã xoay lại theo qui ước của bản đồ hiện đại)

Để chứng tỏ rõ hơn nguyên lý này, chúng ta nghiệm lý như sau: trên Cửu cung Hà
Đồ và Cửu Cung Lạc thư đều có từng cặp Ngũ hành cho tám cung (Bát Môn) - Hà Đồ
tính thuận theo chiều kim đồng hồ theo chiều Ngũ hành tương sinh và Lạc Thư tính
nghịch theo chiều kim đồng hồ theo chiều Ngũ hành tương khắc. Điều này được minh
hoạ bằng hình dưới đây:

15
Lạc Việt độn toán – Nguyễn Vũ Tuấn Anh 16

Hà Đồ phối Hậu Thiên Lạc


Nguyên lý căn để thuộc về văn hiến Việt

Lạc thư phối Hậu Thiên Văn Vương

Tương truyền có xuất xứ từ trên lưng con rùa thần trên sông Lạc.Vua Văn Vương căn
cứ vào đấy để làm ra Hậu Thiên Văn Vương. So sánh hai đồ hình trên chúng ta thấy
hai cụm: Thuỷ (Hiển thị màu xanh Dương) - Càn (Tây Bắc), độ số 6, Khảm (Chính
Bắc) độ số 1 và Mộc (Hiển thị màu xanh lá cây) – Cấn (Đông Bắc) độ số 8, Chấn
(Chính Đông) độ số 3 có vị trí và phương vị hoàn toàn giống nhau.
Nhưng đến hai cụm Hoả và Kim thì có những khác biệt sau đây:
* Ở Lạc Thư: Phía Đông Nam và chính Nam là độ số của Âm Dương Kim số 4 – 9 phối
quái Ly Hoả và quái Tốn Mộc (Theo sách Hán) .
Ở Hà Đồ: Phía Đông Nam và chính Nam là độ số của Âm Dương Hoả số 2 – 7 phối
quái Ly Hoả và quái Khôn Thổ.
* Ở Lạc Thư: Phía Tây Nam và chính Tây là độ số của Âm Dương Hoả, số 2 – 7 phối
quái Khôn Thổ và quái Đoài Kim.
Ở Hà Đồ: Phía Tây Nam và chính Tây là độ số của Âm Dương Kim số 4 – 9 phối quái
Tốn Âm Kim và quái Đoài Dương Kim. Ta thấy:
Về nguyên tắc (Về lý): Bát môn chỉ có thể hoặc phối Lạc Thư hoặc phối Hà Đồ. Và dù
phối với đồ hình nào thì trên Bát môn độn giáp cũng phải có hai cặp cùng hành tương
ứng. Đây là tiền đề thứ nhất. Từ đó cho chúng ta một hệ quả là sự nghiệm suy sau:

16
Lạc Việt độn toán – Nguyễn Vũ Tuấn Anh 17

4-1-1
Chúng ta nhận thấy rằng:

Khai - sự trôi chảy, sự dẫn hướng hành Thuỷ. Như vậy cặp cùng hành với Khai là Hưu
trên Bát Môn cũng phải thuộc Thuỷ (Hưu: Thuỷ Tù - sự ngưng trệ). Trong các sách
cổ như Thái Ất, Kỳ Môn đều coi Khai Hưu thuộc Thuỷ.
Khai Hưu thuộc Thuỷ thì Sinh Thương tiếp theo phải thuộc Mộc dù phối Bát Môn với
Lạc Thư hay Hà Đồ (xem hình trên).

4-1-2: Nếu chúng ta sắp Bát môn với bất cứ Lạc Thư hoặc Hà Đồ thì cũng sẽ có hai
hành hợp lý tiếp nối là:

* Lạc thư: Đỗ Cảnh thuộc Kim, độ số 4 - 9.


Hà Đồ : Đỗ Cảnh thuộc Hoả, độ số 2 - 7.

* Lạc thư: Tử Kinh thuộc Hoả, độ số 2 - 7


Hà Đồ: Tử Kinh thuộc Kim, độ số 4 - 9.

Theo suy lý về khái niệm trực tiếp của danh từ thì tôi thấy Đỗ Cảnh : Sự thành đạt,
vẻ đẹp thì đây chính là nội dung gần gũi của quẻ Ly thuộc Hoả.

Do đó hai cung Đỗ Cảnh hoàn toàn phù hợp với Hà Đồ nằm ở phương Nam tương
ứng với quái Ly.

Tương tự, sự chứng nghiệm cho thấy hai cung Tử Kinh phù hợp với hành Kim, có
tính sát phạt, đồng nghĩa với khái niệm trực tiếp của hai danh từ này. Sự phối Bát
môn với Hà Đồ còn cho chúng ta phương vị của Bát Môn cũng chính là phương vị của
Hà Đồ. Tính hợp lý của sự phối hợp này còn cho chúng ta sự hợp lý của mọi vần đề
liên quan.

Bởi vậy: Đồ hình căn bản và là nguyên lý của Bát Môn chính là Hà Đồ.

Ta cũng dễ dàng nhận thấy:


Trong Bát môn độn giáp lưu truyền trong dân gian, các quẻ không có ngũ hành và
phương vị từng quẻ riêng biệt chỉ có khái niệm của quẻ đó qua tên quẻ.

Đồ hình Lạc thư nếu không phối Hậu Thiên, cũng không thể xác định phương vị qua
độ số. Bởi vì, nếu xét riêng Lạc Thư gọi 1 Thuỷ là phương Bắc thì không thể độ số 9 -
độ số của - Kim lại ở phương Nam. Nhưng ngược lại, Hà Đồ nếu đứng riêng một mình
thì tự nó có phương vị tương ứng với Hậu Thiên qua độ số 1 Chính Bắc hợp với Khảm
Thủy, 7 chính Nam hợp với Ly Hoả, 9 chính Tây hợp với Đoài Kim và 3 Mộc chính
Đông hợp với Chấn Mộc. Bởi vây:

Hậu Thiên phối với Hà Đồ thì phương vị và ngũ hành của Tứ chính (Khảm - Chấn - Lý
- Đoài), hoàn toàn phù hợp với phương vị ngũ hành của Hà Đồ và tính chất của các
quái thuộc tứ chinh.
Do đó:
Bát Môn khi phối với Hà Đồ thì tám cung Bát môn sẽ có phương vị của Hà Đồ và đuợc
ứng dụng trong Lạc Việt Độn Toán.

17
Lạc Việt độn toán – Nguyễn Vũ Tuấn Anh 18

4 – 1 – 3:
Kết luận

Hà Đồ phối Hậu Thiện Lạc Việt chính là nguyên lý căn để của phương pháp ứng dụng
Bát Môn độn giáp trong phương pháp dự báo Lạc Việt độn toán.

4 – 2:
Hậu Thiên Lạc Việt và Hậu Thiên Văn Vương.

Nếu bạn chưa tìm hiểu gì về Bát quái gồm hai đồ hình căn bản là Tiên Thiên Bát quái
và Hậu thiên bát quái, bạn có thể tham khảo các sách đã xuất bản sau đây:* Kinh
Dịch – tác giả Ngô Tất Tố.
* Kinh Dịch – Đạo của người quân tử. Tác giả Nguyễn Hiến Lê.
* Kinh Dịch – Vũ trụ quan Đông phương. Tác giả Nguyễn Hữu Lượng.

Trên cơ sở này bạn sẽ có khái niệm về Hậu Thiên Văn Vương để từ đó bạn sẽ tiếp tục
tham khảo cuốn:
* Tìm về cội nguồn Kinh Dịch. Tác giả Nguyễn Vũ Tuấn Anh.
* Hà Đồ trong văn mijnh Lạc Việt. Tác giả Nguyễn Vũ Tuấn Anh.

Để tìm hiểu về Hậu Thiên Lạc Việt.


Tạm thời tôi giới thiệu hai đồ hình này để các bạn có thể tham khảo:

Hậu Thiên Văn Vương

Tương truyền do vua Văn Vương bị giam ở ngục Dữu Lý nghĩ ra đồ hình này, căn cứ
vào Lạc Thư là đồ hình xuất hiện trên lưng rủa thần trên sông Lạc

18
Lạc Việt độn toán – Nguyễn Vũ Tuấn Anh 19

Hậu Thiên Lạc Việt

Do Nguyễn Vũ Tuấn Anh phục hồi trên cơ sở sự phân tích hợp lý các hiện tượng liên
quan. Nhân danh nền văn minh Lạc Việt.

Kết luận:
Căn cứ vào những luận cứ đã chứng minh trong các sách được giới thiệu ở trên. Căn
cứ theo tiếu chí khoa học hiện đại cho một lý thuyết khoa học; căn cứ vào thực tế
chứng nghiệm và khả năng lý giải hợp lý các vấn để liên quan. Đồ hình Hậu Thiên
Lạc Việt phối Hà Đồ là nguyên lý căn để của tất cả các phương pháp ứng dụng trong
học thuật cổ Đông Phương, trong đó có phươpng pháp ứng dụng dự báo Lạc Việt độn
toán.

19
Lạc Việt độn toán – Nguyễn Vũ Tuấn Anh 20

Thiệu Vĩ Hoa đã viết: ”Nạp âm ngũ hành trong bảng 60 Giáp tý căn cứ theo nguyên tắc gì để xác
định; người xưa tuy có bàn đến nhưng không có căn cứ rõ ràng và cũng chưa bàn được minh
bạch. Do đó vẫn là huyền bí khó hiểu ,bảng 60 Giáp tý biến hoá vô cùng”.

5 – Lạc Thư hoa giáp nguyên tắc ứng dụng trong Lạc
Việt độn toán
Sự phục hồi những nguyên lý căn để của thuyết Âm Dương Ngũ hành căn cứ theo
tiêu chí khoa học được cộng đồng của tất cả các ngành khoa học thế giời thừa nhận.
Sự phát kiến đầu tiên mà tôi mong các bạn tìm hiểu Lạc Việt độn toán là "Nguyên lý
nạp âm trong bảng 60 hoa giáp". Đây cũng chính là nguyên lý của sự thay đổi vị trí
Thuỷ Hoả để các bạn quan tâm thấy được tính qui luật và tính nhất quán, hoàn chỉnh
của một học thuyết - Thuyết Âm Dương Ngũ hành - hoàn toàn không có gì là huyền
bí, huyễn hoặc. Nhưng với bản Lục thập hoa giáp lưu truyền trong cổ thư chữ Hán,
thì ngay chính giới học thuật, nghiên cứu Trung Hoa hiện đại cũng như cổ xưa, đến
bây giờ cũng thừa nhận chưa thể biết được nguồn gốc đích thực của nó và họ vẫn
cho là huyền bí khó hiểu.

Thiệu Vĩ Hoa đã viết:


”Nạp âm ngũ hành trong bảng 60 Giáp tý căn cứ theo nguyên tắc gì để xác định;
người xưa tuy có bàn đến nhưng không có căn cứ rõ ràng và cũng chưa bàn được
minh bạch. Do đó vẫn là huyền bí khó hiểu ,bảng 60 Giáp tý biến hoá vô cùng”.

Với 48 quẻ Lạc Việt độn toán, mà mỗi năm chỉ có 24 quẻ đã chứng tỏ tính đơn giản
của Lạc Việt độn toán so với các phương pháp tiên tri khác. Nhưng điều dễ hiểu là sự
đơn giản đó phải được bù đắp bằng tính chính xác của hệ thống lý thuyết, hoặc sự
chính xác của các nguyên lý liên quan hỗ trợ, thì mới có khả năng chứng tỏ tính tiên
tri hiệu quả của nó. Một trong những nguyên lý chính xác và có qui luật chính là Lạc
thư hoa giáp -sách của người Lạc Việt viết về chu kỳ 60 tuần hoàn của trái đất trong
vũ trụ.

Lạc thư hoa giáp với tính hợp lý, tính qui luật và có hệ thống cũng như khả năng giải
thích hầu hết những vấn đề liên quan đã chứng tỏ tính khoa học của nó. Điều này đã
được chứng minh trong cuốn ’’Thời Hùng vuơng và bí ẩn Lục thập hoa giáp’’ và cuốn
’’Hà đồ trong văn minh Lạc Việt’’, trong đó các tài liệu sưu tầm được có nguồn gốc từ
cổ thư chữ Hán cổ kim, liên quan và đuợc phân tích.

Không có tính qui luật thì không có khả năng tiên tri.
Đây là một tiêu chí khoa học mà tôi luôn nhắc nhở.
Bây giờ chúng ta so sánh bảng Lạc Thư hoa giáp nhân danh nền văn hiến Việt và
bảng Lục thập hoa giáp lưu truyền trong cổ thư chữ Hán, để thấy tính hợp lý, tính
quy luật và tính hiệu quả hơn hẳn bảng Lục thập hoa giáp từ cổ thư chữ Hán.

Để có phương tiện khảo chứng trong ứng dụng của Lạc Việt độn toán, tôi xin trình
bày toàn bộ bảng Lạc thư hoa giáp từ văn minh Lạc Việt dưới đây:

Ngũ vận-Kỳ thứ nhất

20
Lạc Việt độn toán – Nguyễn Vũ Tuấn Anh 21

Lục khí - Vận 1


Tam Âm Tam Dương
Giáp Tí. Ất Sữu: Hải Trung Kim
Bính Dần. Đinh Mão: Giáng Hạ Thuỷ
Mậu Thìn. Kỷ Tỵ: Đại Lâm Mộc

Lục khí - Vận 2


Tam Âm Tam Dương
Canh Ngọ. Tân Mùi: Lộ Bàng Thổ
Nhâm Thân. Quí Dậu: Kiếm Phong Kim
Giáp Tuất. Ất Hợi: Tuyền trung Thuỷ

Lục khí - Vân 3


Tam Âm Tam Dương
Bính Tí, Đinh Sữu: Lư Trung Hoả
Mậu Dần, Kỷ Mão: Thành Đầu Thổ
Canh Thìn, Tân Tỵ: Bạch Lạp Kim

Lục khí - Vận 4


Tam Âm Tam Dương
Nhâm Ngọ, Quí Mùi: Dương Liễu Mộc
Giáp Thân, Ất Dậu: Sơn Đầu Hoả
Bính Tuất, Đinh Hợi: Ốc Thượng Thổ

Lục khí - Vận 5


Tam Âm Tam Dương
Mậu Tí, Kỷ Sữu: Trường Lưu thuỷ
Canh Dần, Tân Mão: Tùng Bách Mộc
Nhâm Thìn, Quí Tỵ: Tích Lịch Hoả

Ngũ vận-Kỳ thứ II


Lục khí - vận 1
Tam Âm Tam Dương
Giáp Ngọ, Ất Mùi: Sa Trung Kim
Bính Thân, Đinh Dậu: Thiên Hà Thuỷ
Mậu Tuất, Kỷ Hợ: Bình Địa Mộc

Lục Khí - Vận 2


Tam Âm Tam Dương
Canh Tí, Tân Sữu: Bích Thượng Thổ
Nhâm Dần, Quí Mão: Kim Bạch Kim
Giáp Thìn, Ất Tỵ: Đại Khê Thuỷ

Lục Khí - Vận 3


Tam Âm Tam Dương
Bính Ngọ, Đinh Mùi: Sơn Hạ Hoả
Mậu Thân, Kỷ Dậu: Đại Dịch Thổ
Canh Tuất, Tân Hợi: Thoa Xuyến Kim

Lục khí - Vận 4


Tam Âm Tam Dương
Nhâm Tí, Quí Sữu: Tang Đố Mộc

21
Lạc Việt độn toán – Nguyễn Vũ Tuấn Anh 22

Giáp Dần, Ất Mão: Phúc Đăng Hoả


Bính Thìn, Đinh Tỵ: Sa Trung Thổ

Lục khí - Vận 5


Tam Âm Tam Dương
Mậu Ngọ, Kỷ Mùi: Đại Hải Thuỷ
Canh Thân, Tân Dậu: Thạch Lựu Mộc
Nhâm Tuất, Quí Hợi: Thiên Thượng Hoả.

Như vậy, chúng ta cũng nhận thấy tính qui luật và nhất quán, hoàn chỉnh của bảng
Lạc thư hoa giáp.
Trong Lạc thư hoa giáp, sự khác biệt với Lục thập hoa giáp có nguồn gốc từ cổ thư
chữ Hán chỉ ở hai hành thuỷ và hoả. Mọi sự minh chứng về tính hợp lý trong các vấn
để liên quan xin xem sách và tư liệu đã dẫn.

Kết Luận:
Bảng Lạc Thư hoa giáp – Sách của người Lạc Việt viết về chu kỳ vận động trong 60
năm của trái Đất trong vũ trụ - theo cách giải thích với những khái niệm của thuyết
Âm Dương Ngũ hành là nguyên tắc ứng dụng chính thức trong Lạc Việt độn toán để
tính sự tương tác của các hiện tượng liến quan theo0 thuyết Âm Dương Ngũ hành
được phục hồi nhân danh nền văn hiến Việt.

22
Lạc Việt độn toán – Nguyễn Vũ Tuấn Anh 23

6/ Nguyên lý của Lục Nhâm và Hậu thiên Lạc Việt trong Lạc Việt
độn toán.

Tôi đưa các dị bản khác nhau của Lục Nhâm tiểu độn nhằm chứng tỏ
những nguyên lý lý thuyết căn bản của các phương pháp độn toán
Đông phương (bao gồm cả Tử Vi; Tử Bình....) và sự nhận thức về một
thực tại là tiền đề của nó đã bị thất truyền , mà trong trường hợp này
đó chính là những dị bản của Lục Nhâm tiểu độn.

Phương pháp lưu truyền ở miền Bắc có tính năm, giống cách
tính trong bài viết của Thái Tuế bắt đầu năm Tý ở cung Đại
An. Phương pháp ở miền Nam toán từ tháng 1 bắt đầu ở cung Đại An và không toán
năm.Còn một dị bản thứ ba khác là các cung Đại An , Tốc hỷ, Tiểu cát bị lệch sang
phải và thay chỗ cho nhau,dị bản này cũng tính tháng Giêng từ cung Đại an và
không tính năm.Về cách gọi thì miền Bắc gọi môn này là Lục Nhâm đại độn, ở miền
Nam gọi là Lục Nhâm tiểu độn. Dù với cách gọi nào thì cả ba phương pháp này đều
có một nền tảng đồ hình giống nhau và đều không có sự liên hệ với Ngũ Hành.Lục
Nhâm đại độn có 6 cung, có sự liênhệ với Lục khí và tương quan thực tại với chu kỳ
của sao Thái tuế và chỉ có Hậu thiên bát quái Lạc Việt mới có khả năngkết hợp hai
cặp quái Điên đảo dịch thành 2 cặp bất dịch và tạo thành 6 cực như sau:

Cặp bất dịch

Hậu Thiên Lạc Việt đổi chổ Tốn Khôn mới tạo được cặp bất dịch này
Trên cơ sở này mới tạo thành 6 cực liên hệ với 6 quẻ Lục Nhâm như sau:

23
Lạc Việt độn toán – Nguyễn Vũ Tuấn Anh 24

Từ cơ sở này, tính chất của 6 cung Lục Nhâm như sau Lưu Niên: Giữ lại thời gian.
Biểu tương cho sự ngăn trở hiểm ác, âm mưu… Đây chính là hành thuỷ, vậy liên hệ
với quẻ Khảm. Tốc Hỷ: Niềm vui đến nhanh. Biểu tượng cho sáng sủa, vẻ đẹp…Đây
chính là hành Hoả,vậy liên hệ với quẻ Ly. Xích khẩu: Tranh chấp, cự cãi, lý luận,
xung sát …Đây là thuộc tính của hành Kim,vậy liên hệ với Tốn – Đoài.Tiểu Cát: Niềm
vui nhỏ, dịu dàng, mềm mỏng, vươn lên….Đây là thuộc tính của hành Mộc.vậy liên
hệ với Cấn - Chấn. Như vậy tứ hành đã an vị . Còn hai quẻ nữa khởi đầu của vạn sự
chính là Càn Khôn…liên hệ với: Càn – Đại An và Khôn – Vô vong.Từ đó ta thấy Lục
Nhâm chính là sự sắp xếp theo những cặp đối xứng và xung sát nhau như Khảm
Thuỷ - Ly Hoả; Tốn Đoài Kim - Cấn Chấn Mộc; Khôn Âm Hoả đới Thổ - Càn Âm Kim
đới thuỷ theo chiều tương khắc của Ngũ Hành. Xin xem sự mô tả dưới đây:

Khảm------------- Ly-----------------Tốn và Đoài


Thuỷ----- .....Hoả-----------------Kim
Lưu niên--------Tốc Hỷ----------Xích Khẩu

Càn------------------Khôn--------------Cấn và Chấn
Dương Thổ----------Âm Thổ-------------Mộc
Đại an----------Vô Vong-------Tiểu Cát

24
Lạc Việt độn toán – Nguyễn Vũ Tuấn Anh 25

7/ Bát môn và Lục Nhâm cấu thành phương pháp Lạc Việt độn
toán.

Qua sự phân tích trên, chúng ta thấy có sự liên hệ của Hà Đồ với Bát
môn và Hà Đồ - Hậu thiên Lạc Việt với Lục Nhâm. Cả hai, Bát Môn và
Lục Nhâm đều có gốc từ Hà Đồ. từ đó suy luận ra chúng phải có liên
hệ với nhau.

Bát Môn trực tiếp từ Hà Đồ - cái có trước - thuộc Dương sẽ


Tĩnh.
Lục Nhâm có sau từ Hậu thiên Lạc Việt - hệ quả của hệ quả -
thuộc Âm sẽ động.

Xin lưu ý Dương Tịnh - Âm Động là lý thuyết căn bản được phục hồi từ Văn hiến Lạc
Việt. còn sách Hán thì ngược lại Dương Động - Âm Tịnh.

Đến đây ta đã thấy hai phương pháp độn Lục Nhâm và Bát Môn phải có một sự liên
hệ với nhau trong một phương pháp tiên tri hoàn chỉnh.
Xét hai phương pháp ta thấy 6 cung trong Lục Nhâm chính là tượng của lục khí tương
tác và là một nửa chu kỳ Âm Dương của vòng Thái Tuế.Chu kỳ sao Thái Tuế - Sao
Mộc quay quanh mặt trời là 12 năm,phân Âm Dương mỗi chu kỳ là 6 năm. Trong Lạc
Thư Hoa Giáp thì 6 năm vừa đúng một vận có tính qui luât. 10 vận vừa đúng một
hoa giáp 60 năm; phân Âm Dương thành 2 kỷ, mỗi kỷ 30 năm, khác với Lục thập
hoa giáp từ sách Hán, không thể hiện được một vận là 6 năm. Đối chiếu với các hiện
tượng liên quan thì việc tính thêm năm vào phương pháp độn Lục Nhâm là hợp lý.

Phương pháp dự báo Lạc Việt độn toán là sự kết hợp giữa hai quẻ của Bát Môn và Lục
Nhâm trong cùng một thời điểm toán quẻ.

* Bát môn thuộc Dương – theo nguyên lý Dương trước Âm sau và Dương tịnh Âm
Động. Nến quẻ Lạc Việt độn toán lấy Bát Môn làm quẻ ngoại thể hiện hoàn cảnh,
điều kiện bên ngoài của sự việc, sự vật cần luận đoán.

* Lục Nhâm có sau thuộc Âm. Nến quẻ Lạc Việt độn toán lấy Lục Nhâm thể hiện bản
chất sự việc sự vật cần luận đoán.

Tóm lại Lạc Việt độn toán hoàn toàn dựa trên sự phục hồi của Thuyết Âm Dương
Ngũ hành từ văn minh Lạc Việt, trong đó lấy Hà Đồ làm đồ hình là nguyên lý và Lục
Nhâm Đại độn và Bát môn độn giáp là những mảnh còn sót lại của một phương pháp
độn toán rất kỳ vĩ từ ngàn xưa. Đó là lý do môn độn toán này tồn tại hàng ngàn
năm, cùng các phương pháp rất trí tuệ khác mà sự thất truyền không lớn là Thái Ất,
Tử vi. Lạc Việt độn toán có tính qui luật, tính minh triết về những giá trị căn bản liên
quan đến con người. Hay nói một cách khác: nó mang dấu ấn của một tri thức Hàn
lâm. Lạc Việt độn toán là một phương pháp không hề tồn tại trong cổ thư chữ Hán.
Do đó nó khẳng định tính nhất quán, tính hệ thống và khả năng tiên tri theo tiếu chí
khoa học mình chứng cho nền văn hiến Lạc Việt một thời huyền vĩ ở bớ Nam sông
Dương Tử với lịch sử trải gần 5000 năm.

25
Lạc Việt độn toán – Nguyễn Vũ Tuấn Anh 26

Kết Luận
Bát Môn độn giáp và Lục Nhâm đại độn là hai nội dung căn bản của phương pháp dự
báo Lạc Việt độn toán. Quẻ Lạc Việt độn toán là sự kết hợp giữa hai quẻ Bát Môn và
Lục Nhâm trong cùng một thời điểm toán quẻ.

* Bát môn thuộc Dương – theo nguyên lý Dương trước Âm sau và Dương tịnh Âm
Động. Nến quẻ Lạc Việt độn toán lấy Bát Môn làm quẻ ngoại thể hiện hoàn cảnh,
điều kiện bên ngoài của sự việc, sự vật cần luận đoán.

* Lục Nhâm có sau thuộc Âm. Nến quẻ Lạc Việt độn toán lấy Lục Nhâm thể hiện bản
chất sự việc sự vật cần luận đoán.

26
Lạc Việt độn toán – Nguyễn Vũ Tuấn Anh 27

Lạc Việt độn toán phần 2


Nguyễn Vũ Tuấn Anh
Trung tâm nghiên cứu Lý học Đông Phương

Phương pháp độn quẻ Lạc Vệt độn toán

Phương pháp độn quẻ trong Lạc Việt độn toán đã trình bày ở phần
trên 2 – 1 và 2 – 2 thuộc phần Một của sách này. Chúng ta thấy rằng
rất đơn giản, dễ học, nhưng việc luận quẻ lại tuỳ thuộc hoàn toàn vào
câu hỏi của nguờì độn dùng quẻ để toán việc gì và sự chính xác tuỳ
thuộc khả năng của người luận đoán. Tuy nhiên những việc đơn giản
với câu hỏi cụ thể thì quẻ Lạc Việt độn toán đặc biệt dễ ứng dụng.
Phương pháp độn Lạc Việt độn toán gồm hai bộ phận cấu thành trong
quẻ là độn Bát Môn và Lục Nhâm. Cũng và cũng như tất cả các môn
dự báo tiên tri khác của Lý học phương Đông, đều dùng âm lịch.
Phần này giới thiệu với các bạn phương pháp độn quẻ đơn giản trên
bàn tay:

1 – Độn Bát môn.


Độn Bát Môn Đại Độn: Dùng 8 đốt ngón tay trên bàn tay

1 – 1: Bắt đầu từ cung Sinh ở đốt thứ nhất ngón trỏ là tháng thứ nhất trong năm,
tính thuận theo chiều kim đồng hồ - mỗi tháng một cung - đến tháng cần toán.

1 - 2: Tiến 1 cung là ngày mùng 1 của tháng đó, tính thuận mỗi ngày một cung -
đến ngày cần toán.

1 - 3: Tiến 1 cung là giờ Tí của ngày đó, tính thuận - mỗi giờ một cung - đến giờ cần
toán trong ngày, dừng tại cung nào ra quẻ tên cung đó.

Thí dụ:
Giờ Tuất, ngày 19 tháng 5.
Bắt đầu từ cung Sinh là tháng 1 đếm thuận chiều kim đồng hồ đến tháng 5, dừng ở
cung Tử. Tiến 1 cung là cung Kinh, đếm thuận đến 19 là cung Hưu. Tiến 1 cung là
cung Sinh giờ Tí đếm đến giờ Tuất, toán được là cung Đỗ, tức quẻ Đỗ.

27
Lạc Việt độn toán – Nguyễn Vũ Tuấn Anh 28

2 - Độn Lục Nhâm


Độn Lục Nhâm: Dùng 8 đốt ngón tay trên bàn tay

2 – 1: Năm Tí từ cung Đại An, trên đốt thứ nhất ngón trỏ, chiều thuận kim đồng hồ -
mỗi năm một cung - đến năm cần toán, dừng ở cung nào là tháng 1 của năm đó.

2 – 2: Từ tháng 1 tính thuận - mỗi tháng một cung - đến tháng cần toán, dừng ở
cung nào là ngày 1 của tháng đó.

2 - 3: Từ ngày 1 tính thuận mỗi ngày một cung – đến ngày cần toán dừng lại ở cung
nào là giờ Tí của ngày đó.
Từ giờ Tí tính thuận đến giờ cần toán, ta sẽ được quẻ Lục Nhâm cần toán.

Thí dụ: Giờ Tuất ngày 19 tháng 5 năm Tỵ.


Bắt đầu từ cung Đại an là năm Tí, đếm thuận theo chiều kim đồng hồ đến năm Tỵ là
cung Không vong. Từ cung Không vong là tháng 1, đếm thuận đến tháng 5 là cung
Xích khẩu. Từ cung Xích khẩu là ngày 1, đếm thuận đến ngày 19 là cung Xích khẩu.
Từ cung Xích khẩu là giờ Tí, đếm thuận đến giờ Tuất là cung Lưu niên,toán được
cung Lưu Niên.

3 – Quẻ Lạc Việt độn toán


Như vậy, kết hợp hai cung của Bát môn và Lục Nhâm trong cùng đơn vị thời gian
luận quẻ trong bài trên là:

* 1 – 3: Giờ Tuất ngày 19 tháng 5 - Quẻ Bát Môn = Đỗ.


* 2 – 3: Giờ Tuất ngày 19 tháng 5 - Quẻ Lục Nhâm = Lưu Niên.

Ta có quẻ của Lạc Việt độn toán là:

Đỗ - Lưu Niên - năm âm


* Quẻ Bát môn trong Lạc Việt độn toán tương ứng hoàn cảnh, điều kiện môi trường
của sự vật sự việc, với quẻ Thượng trong bốc Dịch.* Quẻ Lục Nhâm trong Lạc Việt
độn toán tương ứng với hiện trạng, bản chất sự vật, sự việc, với tương ứng với quẻ
Hạ trong Bốc Dịch.

28
Lạc Việt độn toán – Nguyễn Vũ Tuấn Anh 29

3 – 1: Cách lấy quẻ Lạc Việt độn toán bằng công thức.
Cũng có một cách độn quẻ Lạc Việt độn toán tính theo số dư do Ninh Thuận – Học
viên lớp Lạc Việt độn toán - giới thiệu.

Xin giới thiệu để các bạn tham khảo.

3 – 1 – 1: An quẻ Bát môn:


Lấy số Tháng + Ngày + Giờ chia cho 8 còn dư bao nhiêu so số dư với thứ tự của các
quẻ Bát môn sẽ ra quẻ Bát môn.
Ví dụ : Tháng 9 + ngày 25 + giờ Dần 3 = 37 chia 8 dư 5, 5 là quẻ Tử của Bát môn

3 – 1 – 2: An quẻ Lục nhâm:


Lấy số Năm + Tháng + Ngày + Giờ - 3 chia cho 6 còn dư bao nhiêu so số dư với thứ
tự của quẻ Lục nhâm sẽ ra quẻ Lục nhâm
* Ví dụ : Năm Tuất ( 11 ) + Tháng 9 + ngày 25 + giờ dần (3 ) = 48 – 3 = 45 chia
cho 6 còn dư 3 , 3 là Tốc Hỉ. Đại An được tính là quẻ thứ nhất.
Như vậy kết hợp hai quẻ Bát Môn và Lục Nhâm ra quẻ Lạc Việt độn toán là:

Tử - Tốc Hỉ

3 – 1 – 3: Kết Luận
Quẻ Lạc Việt độn toán là sự kết hợp giữa hai quẻ Lục Nhâm và Bát môn lấy trong
cùng một không thời gian toán quẻ.

4 – Một số nguyên tắc khi độn quẻ:


4 – 1: Thời gian lấy quẻ
Ở địa phương nào thì dùng giờ địa phương đó khi độn quẻ. Cứ hai giờ quốc tế thì
bằng một giờ Âm lịch. Nếu rơi vào thời gian giữa hai giờ – từ chuyên dùng gọi là giờ
khe - thì dùng cả hai quẻ của hai giờ đó để luận.

Khái niệm giờ khe: Giờ khe là thời điểm giao nhau của hai giờ âm lịch .

Thí dụ:
Động quẻ vào khoảng 9 giờ sáng tức giữa hai giờ là Thìn – Tỵ. Quẻ giờ Thìn là
Thương Vô Vong; quẻ giờ Tỵ là Đỗ Tốc Hỷ thì lấy cả hai quẻ để luận. Quẻ trước là
tiền vận, là hiện trạng. Quẻ sau là kết quả.

4 – 1 – 1: Quy ước chung giờ Âm lịch và giờ Quốc tế

1) 11g – 1 giờ = Giờ Tý.


2) 1 – 3 giờ = Giờ Sửu.
3) 3 – 5 giờ = Giờ Dần.
4) 5 – 7 giở = Giờ Mão.
5) 7 – 9 giờ = Giở Thìn
6) 9 – 11 giờ = Giờ Tỵ.
7) 11 – 13 giờ = Giờ Ngọ.
8) 13 – 15 giờ = Giờ Mùi
9) 15 – 17 = Giờ Thân.
10) 17 - 19 = Giờ Dậu.

29
Lạc Việt độn toán – Nguyễn Vũ Tuấn Anh 30

11) 19 - 21 = Giờ Tuất


12) 21 – 23 = Giờ Hợi.

4 – 1 – 2: Bảng tra giờ mặt trời dùng trong dự báo tương ứng tại Việt Nam.
Trên thực tế giữa giờ qui ước theo bảng trên dùng cho bất cứ quốc gia nào và giờ địa
phương nơi cư trú của người luận quẻ, lấy số Tử Vi...vv...lại có một chêng lệch giữa
múi giờ qui ước và giờ địa phương. Bởi vì giờ qui ước lấy theo vị trí địa lý thủ đô của
quốc gia sở tại. Nhưng giờ địa phương thực tế so với mặt trời đôi khi cách nhau hàng
nửa giờ , thâm chí ở những quốc gia lớn như Nga, lãnh thổ trải dài trên nhiều múi giờ
thì sự chênh lệch giữa giờ qui ước và giờ địa phương là rất lớn.

Bởi vậy, chúng ta cần bảng này dùng trong dự báo tại Việt Nam và từ đó suy ra các
địa phương khác nhau trên thế giới.

30
Lạc Việt độn toán – Nguyễn Vũ Tuấn Anh 31

Lưu ý:
Bảng tra giờ chênh lệch này do một trí giả ở Sài Gòn vào những năm 60 đã kỳ công
trong nhiều năm đo bóng mặt trời để so sánh tìm ra. Khi tìm được danh tính vị này
tôi sẽ xin bổ xung sau. Giờ Dương lịch trong bảng này đã được hiệu chỉnh phù hợp
với giờ qui ước của nhà nước.

4 – 2: Điều kiện thời gian luận quẻ:


Giả sử vào giờ Ngọ định bấm quẻ mà không độn vì lý do gì đó, đến giờ Mùi mới độn
thì tính quẻ giờ Mùi. nếu giờ Ngọ đã bấm thành quẻ rồi thì tính quẻ giờ Ngọ. Nếu do
biết trước - do học thành thạo nên biết an quẻ trước trong ngày, rồi đợi giờ tốt quẻ
tốt mới an quẻ để hỏi việc thì quẻ không nghiệm.

31
Lạc Việt độn toán – Nguyễn Vũ Tuấn Anh 32

4 – 3: Khái niệm ngẫu nhiên và tính cảm ứng khi độn quẻ:
Khái niệm ngẫu nhiên này thuờng được hiểu theo cách nhìn thông dụng của đời
thường là một sự tương tác phi qui luật, không thể tiên liệu. Nhưng theo thuyết Âm
Dương Ngũ hành thì không hề có cái gì là ngẫu nhiên trong sự tương tác chằng chịt
của tự nhiên, xã hội và con người cả. Ngay cái goị là "cảm ứng tiên tri" cũng không
hề ngẫu nhiên.Chính sự tương tác có tính qui luật lên ngay ý thức của chúng ta, để
chúng ta phải độn quẻ vào giờ này, chứ không phải giờ khác và quẻ phải là "a", chứ
không phải "b" để quyết định tiên tri sự việc sẽ là thế này, chứ không phải thế kia là
một chuỗi tất yếu có tính qui luật.

Tôi xin được bắt đầu bằng tính ngẫu nhiên xâu chuỗi của các vấn đề liên quan như
sau:
* Một sự kiện xảy ra gây thắc mắc cần hỏi.
* Thời gian người trong cuộc cần hỏi vào giờ này chứ không phải giờ khác.
* Thời gian nguời luận gieo quẻ và trả lời.

Thông thường thì thời gian hỏi và trả lời trùng khớp. Ở quẻ Dịch với việc thả ba đồng
chinh thì tính ngẫu nhiên rất cao ở chính phương pháp gieo quẻ.

Tất cả những yếu tố liên hệ xâu chuỗi này đều mang tính ngẫu nhiên. Nhưng - giả
thiết - nó ra một quẻ nghiệm và sự lý giải tiên tri đúng thì tất cả những chuỗi ngẫu
nhiên đó có vẻ như là tính tất yếu.

Nguyên nhân nào để có hiện tượng này?Điều này được giải thích - chứ chưa phải
chứng minh - qua thí nghiệm của vật lý lượng tử: Chính là sự tương tác có tính quy
luật của ý thức với các hạt cơ bản. Tôi đã phân tích và chứng minh rằng: Ý thức có
thuộc tính vật chất và chịu sự tương tác có tính quy luật của vũ trụ. Tính tương tác
này là hai chiều. Xin xem kỹ hơn luận đề này trong tiểu luận ’’Định mệnh có thật hay
không?”. Chính vì tính tương tác có tính quy luật của ý thức với quy luật của thiên
nhiên và ngược lại, nên hoàn toàn không có vấn đề ngẫu nhiên trong chuỗi sự kiện
dẫn đến việc gieo quẻ trong Bốc Dịch, hay độn quẻ trong Lạc Việt độn toán. Nhưng
đó là ý thức rất tập trung. Như vậy, chúng ta không thể có một phân tích sáng suốt
và được quẻ nghiệm, nếu không có sự tập trung tư tưởng. Và sự tập trung này cần
cảm hứng với việc độn quẻ. Thông thường thì các nhà chiêm tinh trả lời ngay khi
được hỏi, vì tính chuyên nghiệp và cảm hứng tiên tri sẵn có của họ. Nhưng bản chất
của vấn đề vẫn là cảm hứng.

Những nguời mới học Lạc Việt độn toán không phải là tiên tri chuyên nghiệp, tôi
khuyên khi có cảm hứng hãy độn quẻ. Tuy nhiên mọi nguời vẫn có thể độn quẻ trả
lời ngay khi được hỏi, nếu họ có cảm hứng tức thời

4 – 3 – 1: Nguyên tắc chọn quẻ trong hợp nhiều người cùng độn một việc:

Trường hợp có nhiều nguời cùng độn quẻ và cho những quẻ khác nhau vào thời điểm
không thời gian khác nhau sẽ chọn quẻ hợp lý nhất cho sự việc để giải và mọi chi tiết
của sự việc cần báo sẽ là sự tổng hợp các quẻ đã độn của người khác.

Chúng ta giả thiết rằng: Tất cả các quẻ khác nhau đều nghiệm cho một sự việc.

32
Lạc Việt độn toán – Nguyễn Vũ Tuấn Anh 33

Mới nghe có vẻ như vô lý. Nhưng thực ra thì mỗi quẻ sẽ phản ánh một phần của sự
việc. Người giỏi và kiến thức rộng có thể suy ra toàn bộ sự việc từ quẻ đã độn. Điều
này cũng giống như nhà khảo cổ tìm ra mấy cái xương con khủng long để suy ra
toàn bộ con Khủng long.

4 – 3 – 2: Nguyên tắc chọn quẻ do người hỏi độn:


Nếu nguời hỏi tự độn quẻ rồi lấy quẻ đó hỏi nguời luận giải thì mọi chuyện sẽ toán
theo quẻ đã độn.

4 – 3 – 3: Phương vị trong quẻ Lạc Việt độn toán


Khi xem sự việc với những câu hỏi như: Anh A có khỏi bệnh không? Hoặc cháu B lớn
lên có nghịch không? Trường hợp này không tính phuơng vị. Phương vị chỉ được xét
đến khi câu hỏi có yếu tố phương vị. Thí dụ: Người này ở đâu tới? Việc này xảy ra ở
đâu?...vv....
Phạm vi không gian độn quẻ cho sự việc trong trong nước (Quốc gia) thì lấy nơi mình
cư trú là tâm để định phương vị. Xem việc có tính quốc tế thì lấy thủ đô nơi mình độn
quẻ làm tâm định phương vị.

Quẻ Bát Môn xác định phương vị xảy ra sự kiện.


Quẻ Bát môn kết hợp Lục Nhâm xác định tính chất sự kiện, hoặc hậu quả sự kiện.

33
Lạc Việt độn toán – Nguyễn Vũ Tuấn Anh 34

Lạc Việt độn toán phần 3


Nguyễn Vũ Tuấn Anh
Trung tâm nghiên cứu Lý học Đông Phương

Ý nghĩa của quẻ Lạc Việt độn toán

Lạc Việt độn toán là sự kết hợp giữa hai quẻ Bát Môn độn giáp và Lục
Nhâm Đại độn. Sự tương tác theo tính chất ngũ hành và vị trí tương
tác Âm Dương của hai quỷe này với tính chất của từng quẻ sẽ quyết
định tính chất của dự báo cho các sự kiện. Bởi vậy phần này chứng ta
tìm hiểu vể ý nghĩa của các qủe trong Lạc Việt độn toán.

1 - Ý nghĩa của quẻ Bát Môn độn giáp


1 – 1: Sinh
Sinh nghĩa là: Sống, là sự bắt đầu (cho một việc, một cái gì đó), là ý tưởng ban đầu,
là mầm cây, là cỏ, là cây nhỏ, là loại cây mềm yếu (cây Liễu chẳng hạn), là mùa
xuân, là sự hứa hẹn, là hy vọng… Cung Sinh là Âm Mộc, nhưng nghĩa Sinh thuộc
Dương Mộc. Độ số là 3. Về phương vị là chính Đông. Về màu sắc là xanh lá mạ, xanh
non.

1 – 2: Thương
Thương nghĩa là: Buồn, là thuộc trạng thái tình cảm, là cây lớn, là sự phát triền sung
mãn sắp chuyển sang giai đoạn suy vi. Cung Thương là Dương Mộc, nhưng nghĩa của
Thương thuộc Âm Mộc. Độ số là 8. Về phương vị là Đông Bắc. Về màu sắc là xanh lá
cây xậm.

1 – 3: Đỗ
Đỗ nghĩa là: Đạt, là sự thành đạt, là kết quả tốt đẹp, là được việc, là quí nhân phù
trợ. Cung Đỗ là Âm Hoả, nhưng nghĩa của Đỗ thuộc Dương Hoả. Độ số là 7. Về
Phương vị là chính Nam. Về màu sắc là màu đỏ.

1 – 4: Cảnh
Cảnh nghĩa là: Đi chơi ở trong sự nhàn hạ, phong lưu.Là từ xa tới, là du lịch, là đi xa,
là vẻ đẹp, là nhà đẹp, cao rộng có vườn cây hoặc nội thất rực rỡ. Cung Cảnh thuộc
Dương Hoả, nhưng nghĩa của Cảnh thuộc Âm Hoả. Độ số là 2. Về phương vị là Đông
Nam. Về màu sắc là màu đỏ nâu. Cảnh, vì là Âm Hỏa – chính vị Khôn Thổ (Theo Hậu
thiên Lạc Việt) – nên còn có ý nghĩa là Âm Thổ: miếng đất đẹp.

1 – 5: Tử
Tử nghĩa là: Chết, sự chấm dứt, kết thúc, là cắt đứt, là sát phạt, là tiền bạc tài sản
lưu động, là người làm nghề cơ khí, kim khí, là võ nghiệp, nếu là bác sĩ thì liên quan
đến mổ xẻ, là nghe… Cung Tử thuộc Âm Kim, nhưng nghĩa của Tử thuộc Dương Kim.
Độ số là 9. Về phương vị là chính Tây. Về màu sắc là màu trắng. Tử, cũng còn có
nghĩa là con cái.

34
Lạc Việt độn toán – Nguyễn Vũ Tuấn Anh 35

1 – 6: Kinh
Kinh nghĩa là: Kinh sợ, đột ngột, sự bất ngờ, là giật gân, là người làm việc táo bạo,
mạo hiểm … Cung Kinh thuộc Dương Kim, nhưng nghĩa của Kinh thuộc Âm Kim. Độ
số là 4. Về màu sắc là trắng xám.

1 – 7: Khai
Khai nghĩa là dòng nước chảy, là sự khai thông, là trôi đi, là thoát khỏi sự bế tắc, là
đi xa thuận lợi, … Cung Khai thuộc Âm Thuỷ, nhưng nghĩa của Khai thuộc Dương
Thuỷ. Độ số là 1. Về màu sắc là xanh dương, là đen bóng.

1 – 8: Hưu
Hưu nghĩa là: Nghỉ, sự ngưng trệ, sự nghỉ ngơi do bất lực, kiệt sức, là bế tắc. Cung
Hưu thuộc Dương Thuỷ, nhưng nghĩa của Hưu thuộc Âm Thuỷ. Độ số là 6. Về màu là
màu đen xỉn, xanh đen.

2 - Ý nghĩa các quẻ Lục Nhâm Đại độn


2 – 1: Đại an
Đại an thuộc Dương Thổ, nghĩa là bình yên lớn. Tính chất chậm chạp nhưng chắc
chắn, thuộc về tài sản là nhà đất lớn, là miếng đất hoặc vùng đất lớn, là nguồn lợi ổn
định, chắc chắn. Về người là bậc quân tử chín chắn, nữ hiền hậu tính cách điềm đạm,
là người đầy đặn, béo tốt. Về công việc là sự ổn định, là người làm tại nơi trung tâm,
có quyền chức địa vị. Về nơi làm việc là cơ quan hoặc bộ phận quan trọng. Về bệnh
liên quan đến dạ dày hoặc tỳ.Về phương vị là nơi trung tâm. Về màu sắc là màu
vàng thổ. Độ số là 5

2 – 2: Lưu niên
Lưu niên thuộc Thuỷ, nghĩa là giữ lại thời gian. Có tính hiểm độc, lừa dối, âm mưu, là
mưu toan, là sự do dự, lo lắng. Thuộc về tài sản là thất thoát, phá sản. Thuộc về sự
việc là trì trệ. Là công việc không chính danh, có tính phiêu lưu mạo hiểm, là phi
pháp, phi đạo đức. Là chết chóc tai nạn. Về bệnh thì liên quan đến máu huyết hoặc
thận. Về phương vị là phương Bắc hoặc Tây Bắc. Về màu là màu đen hoặc xanh
dương. Về độ số là 1 và 6.

2 – 3: Tốc Hỷ
Tốc hỷ thuộc Hoả, nghĩa là sự vui vẻ, may mắn, là nhanh chóng, là tốt đẹp sáng sủa.
Về người là quí nhân hay giúp đỡ người khác, là người thông minh, tài cao học rộng.
Về công việc là chính danh, về học vấn là sự thành đạt, có học vị cao, là những dịch
vụ phục vụ cho vẻ đẹp, cho nhu cầu tinh thần. Về hiện tượng là thuộc về văn hóa,
giáo dục. Là người mang những giá trị tinh thần cao quí. Về bệnh liên quan đến tim
hoặc tinh thần. Về màu sắc là màu đỏ, về phương vị là hướng Nam hoặc Đông Nam.
Về độ số là 2 và 7.

2 – 4: Xích Khẩu
Xích khẩu thuộc Kim. Nghĩa là sự tranh luận, cãi nhau, tiếng ồn ào, tiếng động. Về sự
việc là tranh chấp kiện tụng. Về nghề nghiệp là nghề liên quan đến kim khí, máy
móc; liên quan đến miệng như: dạy học, luật sư, quảng cáo, thông tin… Về người là
người hay nói, lý luận khúc chiết, là người thấp, đầy đặn, nhiều lý trí. Về bệnh tật là
bệnh liên quan đến phổi, tai, xương cốt. Về hướng là hướng Tây hoặc Tây Nam. Về
màu sắc là màu trắng hoặc xám trắng. Về độ số là 4 và 9.

35
Lạc Việt độn toán – Nguyễn Vũ Tuấn Anh 36

2 – 5: Tiểu Cát
Tiểu cát thuộc Mộc. Nghĩa là niềm vui nhỏ, là tin tức vui, là tình cảm, tình yêu, sự quí
mến. Về sự vật là sách vở, là tri thức, học hành, là cây cối. Về người là người giàu
tình cảm, là hôn nhân, tình duyên. Về nghề nghiệp là người buôn bán nhỏ, có tiểu
lợi, là người làm ăn liên quan đến gỗ cây, sách vở, tri thức… Về hình thể là người yểu
điệu, mình dây, duyên dáng; đàn ông cao gầy có tính hiền, ham học hỏi. Về bệnh
liên quan đến gan.Về hướng là hướng Đông hoặc Đông Bắc. Về màu sắc là màu xanh
lá cây. Về độ số là 3 và 8.

2 – 6: Vô Vong
Vô vong thuộc Âm Thổ. Nghĩa là không được việc gì, hoặc không sao cả; là đất bỏ
hoang. Về người là người vô tích sự, thất nghiệp. Gặp hạn thì hoá giải. Về màu sắc là
màu vàng đất xỉn. Về phương vị là ở cạnh nơi trung tâm, ở phía dưới, là nền nhà. Về
độ số là 10.

3 – Các quẻ Lạc Việt độn toán


Lạc Việt độn toán có tính khái quát rất cao. Các phương pháp bói toán từ nền lý học
Đông phương cổ với khả năng tiên tri phải phản ánh một qui luật nào đó của vũ trụ.
Tính khái quát càng lớn càng chứng tỏ tính quy luật rất bao trùm. Vấn đề là chúng ta
hiểu gì về thực tại vận động của những qui luật đó qua những phương pháp bói toán
thuộc Lý học Đông phương.

Chúng ta cũng nhận thấy chỉ có 48 quẻ để dự báo cho tất cả sự vật sự việc từ nhỏ
đến lớn so với quẻ Dịch có 64 quẻ với tính chi tiết hoàn hảo cho từng hào Có thể Lạc
Việt độn toán đã ra đời trước khi có phương pháp Bốc Dịch với 64 quẻ với chi tiết
chiêm nghiệm đến từng hào. Nói một cách khác: Lạc Việt độn toán có tính khái quát
và gần với những nguyên lý căn bản của thuyết Âm Dương Ngũ hành. Nhưng vì tính
thất truyền của một nguyên lý lý thuyết phản ánh một thực tại đã tạo dựng ra nó và
chưa thật chính xác do thất truyền, nên phương pháp Bốc Dịch trở nên huyền bí và
có những sai lệch như tình trạng chung của các phương pháp tiên tri phương Đông .

Đây chỉ là ý tưởng ban đầu của riêng tôi về sự suy luận tính lịch sử thời gian của sự
ra đời hai phương pháp Bốc Dịch và Lạc Việt độn toán . Nhưng hy vong từ gợi ý này,
sẽ là những ý tưởng để sau đây có ai nghiên cứu về lịch sử hình thành các phương
pháp tiên tri của Lý học Đông phương sẽ tiếp tục tìm hiểu và tìm ra những lời giải
cho các hiện tượng từ hàng ngàn, thậm chí hàng chục ngàn năm trước.

Bây giờ chúng ta quay lại với 48 quẻ của Lạc Việt độn toán
Trong Lạc Việt độn toán chỉ có 48 quẻ, nhưng vì tính phân Âm Dương trong từng
năm khi toán quẻ, nên thực tế mỗi năm chỉ dùng 24 quẻ. Sự thay đổi 24 quẻ trong
từng năm nằm ở Lục Nhâm.

3 – 1: Năm Âm Dương theo Thiên can:


* Những năm thuộc Dương tính theo Thiên Can là: Giáp, Bính, Mậu, Canh, Nhâm.
* Những năm thuộc Âm tính theo Thiên Can là: Ất, Đinh, Kỷ, Tân, Quý.
Tử khái niệm Âm Dương của Thiên Can , mà đứng đầu Dương là Giáp và đầu Âm là
Ất cho chúng ta thấy rằng: Mộn Độn giáp chính là dưới con Giáp. Môn Thái Ất chính
là trên con Ất. Những cổ thư chữ Hán còn lưu truyền chứng tỏ có hai môn tách biệt là
’’Kỳ Môn độn giáp” và ’’Thái Ất thần kinh’’. Nhưng thực ra nguyên thuỷ của hai bộ
sách này chỉ là một. Bởi vì nó đều phản ánh nguyên lý của sự hoà hợp, tương tác
Âm Dương trong vũ trụ. Đây chỉ là lời bàn thêm không chứng minh.

36
Lạc Việt độn toán – Nguyễn Vũ Tuấn Anh 37

3 – 2: Năm Âm Dương theo Địa chi:


* Những năm thuộc Dương theo Địa chi là: Tý, Dần, Thìn, Ngọ, Thân, Tuất.
* Những năm thuộc Âm theo Địa chi là: Sửu, Mão, Tỵ, Mùi, Dậu, Hợi.
Trong Lạc Việt độn toán thì quẻ Bát môn bao giờ đầu năm - giờ Tý, tháng Giêng -
cũng là quẻ Đỗ. Đây là tính bất di bất dịch của Lạc Việt độn toán.

Quẻ Đỗ cho tất cả các năm mang tính triết học rất sâu sắc: Nó chứng tỏ tính phát
sinh và phát triển không ngừng nghỉ của vũ trụ. Đỗ tức là đạt nhưng đây là cái Đạt
của vũ trụ và tính khách quan vận động và phát triển của nó, còn đối với con người
thì vấn đề tốt xấu còn phụ thuộc vào các yếu tố khác. Bản thân vũ trụ thì sự phát
triển tuần hoàn, có tính qui luật, tính khách quan. Nói theo ngôn ngữ cổ chính là tính
’’tự nhiên, như nhiên”. Tốt xấu là theo quan niệm của con người. Ví dụ việc ăn thịt bò
là bổ với con người, nhưng là sự bi thảm với con bò...từ đó chúng ta suy luận ra.

4 – Ý nghĩa các quẻ Lạc Việt độn toán


Lạc Việt độn toán có 48 quẻ phân Âm Dương theo năm, là sự tương tác của hai quẻ
Bát Môn và Lục Nhâm với ý nghĩa khái quát như sau:

4 – 1: Quẻ Lạc Việt độn toán năm Dương.


Các quẻ Lạc Việt độn toán năm Dương gồm 24 quẻ trình bày lại như sau:
Đỗ:
Tiểu cát - Đại An - Tốc Hỷ.
Cảnh:
Lưu niên - Xích khẩu - Vô vong.
Tử:
Tiểu cát - Đại An - Tốc Hỷ.
Kinh:
Lưu niên - Xích khẩu - Vô vong.
Khai:
Tiểu cát - Đại An - Tốc Hỷ.
Hưu:
Lưu niên - Xích khẩu - Vô vong
Sinh:
Tiểu cát - Đại An - Tốc Hỷ.
Thương:
Lưu niên - Xích khẩu - Vô vong

4 – 1 – 1: Ý nghĩa các quẻ Lạc Việt độn toán năm Dương


4 – 1 – 1 – 1: Đỗ Tiểu Cát
Tiểu Cát Mộc sinh Đỗ Hoả. Nội sinh ngoại. Việc thành đạt co cố gắng, Tiểu lợi.

4 – 1 – 1 – 2: Đỗ Đại An
Đỗ Hoả sinh Đại An Thổ. Ngoại sinh nội. Thuận lợi, Tốt. Chủ về Công danh tài lợi.

4 – 1 – 1 – 3: Đỗ Tôc Hỷ
Đỗ Hoả ngang hoà Tốc Hỷ Hoả. Hoà hợp, đồng thuận. Mọi việc tốt đẹp. Chủ về công
danh, tiếng tăm, tri tuệ..

4 – 1 – 1 – 4: Cảnh Xích Khẩu:


Âm Hoả đới Thổ vừa khắc vừa sinh Xích Khẩu Kim.

37
Lạc Việt độn toán – Nguyễn Vũ Tuấn Anh 38

4 – 1 – 1 – 5: Cảnh Vô Vong
Âm Hoả đới Thổ sinh Vô Vong Thổ. Ngoại sinh nội. Điều kiện thuận lợi cho hoàn cảnh
tự thân vốn không khả quan. Chủ quý nhân phù trợ.

4 – 1 – 1 – 6: Cảnh Lưu Niên


Âm Hoả đới Thổ xung khắc Lưu Niên Thuỷ. Hình thức bên ngoài tốt đẹp không thể
hiện nội dung bên trong đang xấu.

4 – 1 – 1 – 7: Tử Tôc Hỷ
Tốc Hỷ Hoả khắc Tử Kim. Nội lục mạnh khắc chế được hoàn cảnh không thuận lợi.
Chủ sự cố gắng vượt lên hoàn cảnh.

4 – 1 – 1 – 8: Tử Tiểu Cát
Tử Kim khắc Tiểu Cát Mộc. Hoàn cảnh không thuận lợi. Thiệt hại nhỏ. Chủ tình cảm
suy.

4 – 1 – 1 – 9: Tử Đại An
Đại An Thổ sinh Tử Kim. Chủ sinh xuất bất lợi. Sự nghiệp hao tổn, nhưng không đáng
kể.

4 – 1 – 1 – 10: Kinh Lưu Niên


Kinh Kim sinh Lưu Niên Thuỷ. Chủ bất ngờ suy bại lớn.
Ghi chú; Đây là quẻ dự báo sóng thần Indonesia – Philippin.
Website Tuvilyso.com. Những lời tiên tri 2004.

4 – 1 – 1 – 11: Kinh Xích Khẩu


Hai hành Kim ngang hoà. Chủ bất ngờ gây tranh chấp lớn. Về số mệnh tuỳ câu hỏi
chủ bất ngờ có tài lộc lớn nhưng không dễ dàng.

4 – 1 – 1 – 12: Kinh Vô Vong


Vô Vong Âm Thổ sinh xuất Kinh Kim. Tượng vàng nổi trên mặt đất. Đem thân dâng
hiến cho đời. Tuy có tiêng vang, nhưng việc không thành.

4 – 1 – 1 – 13: Khai Đại An


Đại An Thổ khắc Khai Thuỷ. Tượng nước chảy thông trên mặt đất. Từ từ, thận trong
việc thành. Quẻ Dịch tương ứng Thuỷ Địa Sư.

4 – 1 – 1 – 14: Khai Tốc Hỷ


Khai Thuỷ khắc Tốc Hỷ Hoả. Tượng dòng suối đẹp chảy ảo ạt. Mọi việc hanh thông vì
tương ứng tính chất tốt của quẻ. Nhưng thành việc phải biết dừng.

4 – 1 – 1 – 15: Khai Tiểu Cát


Khai Thuỷ sinh Tiểu Cát Mộc. Ngoịa sinh nội. Hoàn cảnh tốt cho bản thể. Phát chậm,
nhưng chắc chắn.

4 – 1 – 1 – 16: Hưu Lưu Niên


Lưỡng Thuỷ thuỷ triệt. Quẻ xấu, lo buồn thế cuộc, thời vận.

38
Lạc Việt độn toán – Nguyễn Vũ Tuấn Anh 39

4 – 1 – 1 – 17: Hưu Xích Khẩu


Xích khẩu Kim sinh Hưu Thuỷ tù. Chủ sự lưỡng lự, tranh chấp nôpị bộ và không còn
cơ hội.

4 – 1 – 1 – 18: Hưu Vô Vong


Tượng nước chảy ngầm dưới đất. Không dùng được việc gì.

4 – 1 – 1 – 19: Sinh Đại An


Sinh Mộc khắc Đại An Thổ. Tượng bãi cỏ xanh tốt rộng lớn. Quẻ tốt , chậm chắc chắn
sẽ thảnh công. Khó khăn không đáng kể.

4 – 1 – 1 – 20: Sinh Tốc Hỷ


Sinh Mộc sinh Tốc Hỷ Hoả. Tượng cỏ khô đốt lửa. Điều kiện tuy thuận lợi nhưng
klhông thoả mãn nhu cầu. Nôn nóng thất bại.

4 – 1 – 1 – 21: Sinh Tiểu Cát


Lưỡng Mộc thành Lâm. Quẻ tốt. Mọi việc tiệm tiến hanh thông, do tính của mộc phát
chậm. Phải biết thuận thế phát triển.

4 – 1 – 1 – 22: Thương Lưu Niên


Lưu Niên Thuỷ sinh Thương Mộc. Hoàn cảnh buồn bã, khiến lo lắng không yên. Mưu
sự cũng thất bại. Phải chờ đợi.

4 – 1 – 1 – 23: Thương Xich Khẩu


Xích khẩu Kim khắc thương Mộc. Chủ tranh chấp tổn hại. Việc thành nhưng bất lợi về
tình.

4 – 1 – 1 – 24: Thương Vô Vong


Thương Mộc khắc Vô Vong Thổ. Tượng nhà tranh xiêu veo, sụp nát. Việc buồn không
thành.

4 – 2 : Quẻ Lạc Việt độn toán năm Âm.


Các quẻ Lạc Việt độn toán năm Âm gồm 24 quẻ trình bày lại như sau:

Đỗ:
Lưu niên - Xích khẩu - Vô vong.

Cảnh:
Tiểu cát - Đại An - Tốc Hỷ.

Tử:
Lưu niên - Xích khẩu - Vô vong.

Kinh:
Tiểu cát - Đại An - Tốc Hỷ.

Khai:
Lưu niên - Xích khẩu - Vô vong.

39
Lạc Việt độn toán – Nguyễn Vũ Tuấn Anh 40

Hưu:
Tiểu cát - Đại An - Tốc Hỷ.

Sinh:
Lưu niên - Xích khẩu - Vô vong.

Thương:
Tiểu cát - Đại An - Tốc Hỷ.

4 – 2 – 1: Ý nghĩa các quẻ Lạc Việt độn toán năm Âm.

4 – 2 – 1 – 1: Đỗ Lưu niên.
Lưu Niên thuỷ khắc Đỗ Hoả. Nội khắc ngoại. Hình thức không phản ánh nội dung.
Cẩn thận với hình thức bên ngoài của đối tượng.

4 – 2 – 1 – 2: Đỗ Xích khẩu
Ngoại khắc nội. Bề ngoài tuy nhiệt tình, nhưng bên trong còn phân vân chưa quyết.
Cuối cùng sẽ đạt. Thích hợp với việc tiệc tùng, ăn nhâu, tranh luận, bàn cãi.

4 – 2 – 1 – 3: Đỗ Vô vong.
Ngoại sinh nội. Một kẻ được nâng đỡ nhiệt tình,nhưng nội lực yếu. Cuối cùng không
được việc.

4 – 2 – 1 – 4: Cảnh Tiểu cát


Nội sinh ngoại với ý nghĩa Cảnh Âm Hỏa, Nội khắc Ngoại với ý nghĩa Cảnh Âm Thổ
Khôn chính vị. Nếu Hỏa Vượng thì nội sinh ngoại. Hỏa mộ thì nội khắc ngoại. Thích
hợp với du lịch, đi chơi xa. Làm ăn xa Tiểu Lợi.

4 – 2 – 1 – 5: Cảnh Đại An
Ngoại sinh nội. Công việc thuận lợi. Lợi kiến Đại Nhân. Sự thăng quan tiến chức,
công việc thuận lợi. Diễn tiến chậm như chắc chắn.

4 – 2 – 1 – 6: Cảnh Tốc Hỷ.


Nôi sinh Ngoại. Âm Dương tương hợp. Đi xa vui vẻ. Mọi chuyện tốt đẹp, bản thân có
hao tổn, nhưng hại nhỏ, lợi lớn.
Lưu ý:
Đây là quẻ dự báo khi có cuộc đảo chính ở Liên Xô 1992. Hỏi (Vào giờ Tuất đúng
ngày xảy ra đảo chính): Ông Tổng Thống có bị mất chức không? Trả lời: Ông ta đang
ở xa, hai ngày sau về. Vẫn làm Tổng Thống. Cuộc đảo chính thất bại. Quẻ nghiệm.

4 – 2 – 1 – 7: Tử Lưu niên
Ngoại sinh nội. Kim Sinh Thủy. Hoàn cảnh bi đát, bế tắc dẫn đến bất lợi cho chủ thể.
Chủ sự chết chóc, đau buồn. Thích hợp với những việc không chính danh. Nhưng hậu
quả cũng rất xấu sau này. Thí dụ như đi buôn lậu. Gặp quẻ này sẽ thoát nạn tức
thời. Nhưng cuối cùng sự việc cũng bị phanh phui. Hậu quả nặng nề. Quẻ nqaỳ
khuyên người nên thận trọng, cân nhắc, suy nghĩ chín chắn trước khi quyết định
công việc. Lợi cho sự im lặng, nghiên cứu, tư duy. Nhưng rất chậm.

4 – 2 – 1 – 8: Tử Xích khẩu.
Nội ngoại ngang hòa. Quẻ Thuần kim. Hình tượng của sự kiện cáo, tranh chấp quyết
liệt, chiến tranh tàn khốc. Hùn hạp làm ăn bất lợi, tiền bạc hao tán.

40
Lạc Việt độn toán – Nguyễn Vũ Tuấn Anh 41

Lưu ý: Đây là quẻ xác định cuộc chiến ở Afganixtan giữa Hoa kỳ và Taliban.

4 – 2 – 1 – 9: Tử Vô vong.
Nội sinh ngoại. Hoàn cảnh bế tắc, không được việc. Bi đát , hao tổn. Nhưng cuối
cùng vượt qua được.

4 – 2 – 1 – 10: Kinh Tiểu cát


Ngoại khắc nội. Dương Kim khắc Mộc. Khắc sát Dương Mộc, nhưng không khắc Âm
Mộc. Chủ sự bất ngờ liên quan đến, học hành , thi cử, giấy tờ....Sẽ thất tình do sự
kiện bất ngờ (Trường hợp tình duyên đang nồng thắm), nhưng có tình duyên bất
ngờ, hoặc chuyển biến bất ngờ về tình cảm (Nếu đang bất lợi về tình duyên).

4 – 2 – 1 – 11: Kinh Đại An.


Nội sinh ngoại. Chủ sự bất ngờ ở trong bề trên có lợi cho đương số (Chủ thể coi bói).
Động đất lớn nhưng không gây tác hại. Về nhà cửa thì nguy nga tráng lệ.

4 – 2 – 1 – 12: Kinh Tốc Hỷ.


Nội Khắc Ngoại. Chủ tin vui bất ngờ. Sự kiện bất ngờ. Nếu đang vui vẻ, gặp quẻ này
thì niềm vui không hoàn hảo.

4 – 2 – 1 – 13: Khai Lưu Niên.


Quẻ thuần thủy. Tương đương với quẻ thuần Khảm trong Kinh Dịch. Thành đạt nhờ
tư duy sâu sắc. Cần thận trọng với chính mình. Vượng vào Xuân Thu.

4 – 2 – 1 – 14: Khai Xích Khẩu.


Nội sinh Ngoại. Chủ sự tranh luận thành công, danh tiếng. Thuận cho việc quảng
cáo, du lịch, hội thảo, họp mặt; kinh doang du lịch lữ hành, nhà hàng. Hùn hạp
thành công. Đầu tư lúc đầu hao tốn nhưng sau phát triển...

4 – 2 – 1 – 15: Khai Vô Vong.


Nội khắc ngoại. Nhưng Âm Thổ không khắc Dương Thủy. Tượng nước chảy trên lòng
sông. Việc hanh thông, nhưng chủ thể không lợi. Tượng của việc làm phúc, từ thiện,
nên hậu vận tốt đẹp. Quẻ này tượng cho người quân tử "Lo trước cái lo của thiên hạ.
Vui sau cái vui của thiên hạ". Kẻ tiểu nhân không dùng được.

4 – 2 – 1 – 16: Hưu Tốc Hỷ.


Ngoại khắc nội. Nhưng Âm Thủy không khắc Dương Hỏa. Hình ảnh: Quân tử được
thời (Hỏa Vượng), đem điều chính giáo hóa tiểu nhân. Thất thể (Hỏa suy) giữ mình
ẩn dật. Lòng không thay đổi.
4 – 2 – 1 – 17: Hưu Tiểu Cát.
Ngoại sinh nội. Bế tắc nhất thời. sau tốt. Chủ sự kiên trì sẽ thành công.

4 – 2 – 1 – 18: Hưu Đại An.


Nội khắc ngoại. Điều kiện bất lợi. kiên trì sẽ thành công.

4 – 2 – 1 – 19: Sinh Lưu Niên.


Nội sinh ngoại. Hoàn cảnh thuận lợi. Nhưng trong lòng hồ nghi, không quyết đoán.
Chuyện xấu mới đến. Cần suy ngẫm chín chắn.

4 – 2 – 1 – 20: Sinh Xích Khẩu.


Nội khắc ngoại. Việc quyết tâm thì sẽ thành, cần bàn bạc kỹ lưỡng. Lợi đến từ tiền

41
Lạc Việt độn toán – Nguyễn Vũ Tuấn Anh 42

bạc, quan hệ. Cẩn thận tranh chấp cữ cãi liên quan đến giấy tờ.

4 – 2 – 1 – 21:Sinh Vô Vong
Ngoại khắc nội. Ngoại lực yếu không được việc, không khắc được. Hy vọng đến,
nhưng việc không thành. Lợi cho việc Thổ mộc (Sửa chữa nhà cửa).

4 – 2 – 1 – 22: Thương Tốc Hỷ.


Ngoại sinh nội. Hoàn cảnh tuy khó khăn, nhưng nhờ trí tuệ và sự trong sáng sẽ
thành công. ứng xử vui vẻ. Giống như một người bị chủ nợ đến đòi, tiếp họ vui vẻ, cứ
hoàn cảnh thực mà khất nợ, sẽ qua được.

4 – 2 – 1 – 23: Thương Tiểu Cát


Nội ngoại ngang hòa. Vượng vào mùa Đông - Xuân. Hợp Hợi Mão Mùi, Thân Tý Thìn.
Chuyện tình cảm buồn. Nhưng có hậu về sau. Sự việc thành nhưng chậm.

4 – 2 – 1 – 24: Thương Đại An


Ngoại khắc nội. lợi việc Thổ Mộc (Xây dựng nhà cửa). Chuyện buồn, thương tổn.
Nhưng quẻ nội mạnh sẽ qua.

Tổng cộng 24 quẻ Âm Lạc Việt độn toán.

Lưu ý: Trong năm Dương , những quẻ tốt của Bát môn bao giờ cũng đi cùng với
những quẻ tốt trong Lục Nhâm và ngược lại.

Như vậy, những năm Dương sẽ có 24 quẻ Dương và năm Âm sẽ có 24 quẻ Âm. Năm
nào sử dụng quẻ của năm đó. Trong năm Âm thì quẻ không bao giờ cực xấu và cũng
không có cực tốt. Trong năm Dương thì ngược lại, có những quẻ cực xấu và cực tốt.
Trong Lạc Việt độn toán chỉ có 48 quẻ, nhưng vì tính phân Âm Dương trong từng
năm khi toán quẻ, nên thực tế mỗi năm chỉ dùng 24 quẻ. Sự thay đổi 24 quẻ trong
từng năm nằm ở Lục Nhâm.

42
Lạc Việt độn toán – Nguyễn Vũ Tuấn Anh 43

Lạc Việt độn toán phần 4


Nguyễn Vũ Tuấn Anh
Trung tâm nghiên cứu Lý học Đông Phương

Phương pháp luận quẻ Lạc Việt độn toán

So với các phương pháp dự báo khác, Lạc Việt độn toán là con
đường ngắn nhất để tới đỉnh cao của cảm thông Thiên Địa. Nhưng
chính bởi phương pháp độn quẻ đơn giản, nên đòi hỏi người toán quẻ
phải có cảm ứng nhậy cảm và có sự rèn luyện cảm ứng trong tất cả
các cấp của nó. Các phương pháp độn toán khác thì vì tính phức tạp
của phương pháp phân tích quẻ, nên người học bị chấp vào phương
pháp tính toán phức tạp nên khả năng cảm ứng sẽ thấp hơn. Nhưng
tất cả mọi con đường đều tới La Mã.

1 – Cảm ứng và cấp độ luận giải

1 – 1:
Tính cảm ứng trong Lạc Việt độn toán:
Đây là yếu tố quan quan trong cần khi luận quẻ, không chỉ trong Lạc Việt độn toán
mà trong bất cứ phương pháp tiên tri nào. Nó là một yếu tố cần, không thể thiếu và
có tính quyết định tính chính xác khi luận quẻ. Kết hợp với yếu tố là nội dung câu hỏi
đã trình bày ở trên, nếu không có cảm hứng thì dù đã định hướng được quẻ do câu
hỏi cũng sẽ luận sai. Bởi vậy, trường hợp không có cảm hứng, hoặc bị chi phối thì
quẻ sẽ bớt tính chính xác, hoặc tệ hơn nữa là sẽ sai.

Cảm hứng luận quẻ được tạo ra chính là do người hỏi quẻ hòa nhịp đúng với cảm
hứng luận quẻ của người tư vấn. Bởi vậy, một trong những phương pháp của Lạc Việt
độn toán là tính giờ độn quẻ căn cứ vào cảm hứng của chính người độn, do người độn
quyết định, chứ không tính theo giờ hỏi quẻ.
So với các phương pháp dự báo khác, Lạc Việt độn toán là con đường ngắn nhất để
tới đỉnh cao của cảm thông Thiên Địa. Nhưng chính bởi phương pháp độn quẻ đơn
giản, nên đòi hỏi người toán quẻ phải có cảm ứng nhậy cảm và có sự rèn luyện cảm
ứng trong tất cả các cấp của nó. Các phương pháp độn toán khác thì vì tính phức tạp
của phương pháp phân tích quẻ, nên người học bị chấp vào phương pháp tính toán
phức tạp nên khả năng cảm ứng sẽ thấp hơn. Nhưng tất cả mọi con đường đều tới La
Mã.

Cảm ứng trong khi hướng về đối tượng phải vô tư, trong sáng và khách quan. Nói
theo ngôn ngữ cổ tức là không để tạp niệm và bị chấp. Bởi vậy, người xưa dùng biện
pháp thắp nhang và khấn vái nhằm tập trung tư tưởng. Hình thức này dễ bị coi là
"mê tín dị đoan". Đời sau chỉ biết ứng dụng phương pháp mà không hiểu tại sao, nên
không lý giải được mối liên hệ giữa sự khấn vái và sự ứng nghiệm của quẻ. Thực ra
đó chỉ là một hình thức tập trung tư tưởng.
Quẻ Lạc Việt độn toán rất dễ học. Chỉ cần tập trung trong nửa ngày, các bạn quan
tâm có thể thành thạo lập quẻ. Nhưng sự khó khăn và cũng là chỗ vi diệu của Lạc
Việt độn toán chính là ở chỗ luận quẻ. Liên hệ từ tên và tượng quẻ , bạn có thể cảm
ứng luận đến tận cùng của tất cả những sự kiện đến trong những điều muốn biết.

43
Lạc Việt độn toán – Nguyễn Vũ Tuấn Anh 44

Giống như một vạt nắng chiều gây cảm hứng cho nhà thơ, quẻ Lạc Việt độn toán gây
cảm hứng cho nhà tiên tri, giúp đạt đến sự tận cùng sự vi diệu qua sự thăng hoa
trong cảm hứng của bạn.
Tất cả các phương pháp tiên tri khác, đều có công thức chặt chẽ và phức tạp.thậm
chí có thể lập trình cho từng quẻ, dù phương pháp đó phức tạp đến đâu và lập ngay
cả những lời giải đoán, nhưng điều này là không thể với Lạc Việt độn toán.
Sẽ không có một trình nào hoàn chỉnh cho một phương pháp tiên tri của nền Lý học
Đông phương với lời giải các kết quả của nó. Bởi vì, không ai có thể lập trình được
toàn bộ sự tương tác vũ trụ cho một hành vi nhỏ nhoi của con người.
Những câu hỏi là vô định cho cùng một quẻ, mà quẻ lại phụ thuộc rất lớn vào chính
câu hỏi. Lập trình chỉ là động tác đơn giản hoá lao động khi phải viết hoặc tính cách
lập quẻ bằng tay mà thôi, trong khi còn nhiều sự huyền vĩ chưa đuợc khám phá.
Bởi những nguyên nhân tương tác phức tạp không thể dùng lý trí và sự hiểu biết giới
hạn của cá nhân đối với sự thiên biến vạn hoá của thiên nhiên, cuộc sống và con
người, cho nên tính cảm ứng được đặc biệt coi trọng trong dự báo. Cảm ứng càng
cao, tri thức càng rộng thì dự báo càng chính xác.

Cảm ứng phải có định hướng về đối tượng cần hỏi. Nếu không định hướng được đối
tượng - dù rất mơ hồ và trừu tượng (Thí dụ:hỏi ’’Năm nay điều gì xẩy ra?” - là một
câu hỏi trừu tượng với nhiều đối tượng) - thì trong thế gian tỷ tỷ đối tượng, không có
định hướng thì sẽ không thể luận quẻ được. Trong trường hợp này chỉ có thể cảm
ứng được những vấn đề chính.
Cảm ứng và tri thức của người tư vấn phải từ hình tượng của quẻ đã độn được, để
xác định, một hay nhiều yếu tố cấu thành nên đối tượng, hoặc luận ra toàn thể hính
thái đối tượng đó . Bởi vậy, sự hiểu biết càng rộng, suy đoán càng chính xác.
Tất cả những yếu tố nêu trên cho thấy: yếu tố cảm ứng của người độn quẻ với câu
hỏi tự thân hay khách quan do ngươì khác hỏi là rất quan trọng trong Lạc Việt độn
toán. Sự chính xác của Lạc Việt độn toán và khả năng tiên tri của nó, hoàn toàn phụ
thuộc vào độ cảm ứng của chính tâm hồn nguời độn quẻ .

Nếu độn được nhiều quẻ khác nhau, do ở nhiều địa phương có múi giờ khác nhau,
hoặc cùng một địa phương nhưng luận nhiều quẻ trong những giờ khác nhau cho
cùng một sự việc thì trường hợp này – giả thiết quẻ nghiêm - mỗi quẻ sẽ chỉ ra một
hoặc nhiều yếu tố khác nhau cấu thành nên sự vật hoặc sự việc cần dự báo. Vì tính
chất khác nhau của các yếu tố khác nhau cấu thành nên sự vật hay sự việc cần dự
báo, nên quẻ khác nhau .
Bởi vậy, khi độn quẻ xong thì quẻ đã cho chúng ta thấy một phần của yếu tố cấu
thành nên đối tượng. Điều này giống như một cái xe hơi bị bịt gần kín mít và chúng
ta chỉ nhìn thấy một bộ phận - yếu tố cấu thành xe hơi - của nó và chúng ta phải
luận ra toàn thể chiếc xe hơi. Tất nhiên, nếu chúng ta có kiến thức về chiếc xe hơi thì
chúng ta sẽ luận ra chiếc xe hơi. Còn nếu chúng ta không có kiến thức về chiếc xe
hơi thì có nhìn cả cái xe cũng không hiểu nó là cái gì, vì nếu chúng ta sống ở thời
chưa có xe hơi, thì cùng lắm cúng chỉ luận ra cái xe mà thôi.

Như tất cả các phương pháp dự báo phương Đông khác, quẻ Lạc Việt độn toán có thể
đoán từ chi tiết của vụ việc nhỏ và khái quát đến những vụ việc lớn . Ưu điểm của
Lạc Việt độn toán là học rất dễ ,nắm vững nhanh phương pháp độn quẻ, có thể trả lời
nhiều câu hỏi một lúc với điều kiện không bị lạc quẻ. Những việc bình thường trong
sinh hoạt và đời sống thì chỉ cần một tri thức trung bình hoặc sự từng trải đều luận
được. Nhưng để luận quẻ Lạc Việt độn toán ở trường hợp có tính qui mô lớn như:

44
Lạc Việt độn toán – Nguyễn Vũ Tuấn Anh 45

sóng thần, đại dịch...vv – tóm lại là có tính quốc tế, diện rộng - cần phải có một tư
duy logic cao và kiến thức sâu .

1 – 2:
Các cấp độ và khả năng luận giải Lạc Việt độn toán

1 – 2 – 1:
Cấp I của Lạc Việt độn toán:
Ở cấp này chỉ cấn thông thạo các 9ộn quẻ, sự cảm ứng và câu hỏi chỉ đơn giản dùng
quẻ để dự báo trong sinh hoạt thường ngày, tự thân tính chất quẻ đã cho biết sự việc
tốt xấu, nên dễ đoán trúng .Lúc đầu thì tra sách để xem .Khi đến đỉnh cao của giai
đoạn này, sẽ không cần dở sách nữa mà ý nghĩa từng quẻ đều thuộc làu và cộng với
kinh nghiệm đoán sẽ dễ trúng.

1 – 2 – 2:
Cấp II của Lạc Việt độn toán:
Đến cấp II thì đối tượng cần biết đã bắt đầu phức tạp vì vượt qua giới hạn của sinh
hoạt quanh ta. Bởi vậy cảm ứng của chúng ta phải rất nhậy cảm, tâm phải vô tư,
kiến thức rộng và nhuần nhuyễn phương pháp luận khi giải quẻ thì dự báo mới chính
xác. Nhưng ở cấp này, vẫn nằm trong các quẻ độn và không vượt ra được phương
pháp luận và cảm ứng trong 48 quẻ Lạc Việt độn toán.
Đến cấp này cần phối hợp những quy luật sinh khắc của Ngũ hành trong không thời
gian, Như tiết khí, hành khí của tháng, năm, mệnh vận của người cần tư vấn tương
tác với quẻ.

1 – 2 – 3:
Cấp III của Lạc Việt độn toán:
Lúc này cảm ứng đã thuần thục, sự nhậy cảm tăng cao, không cần đến quẻ mà chỉ
cần nhìn tượng có liên quan đến quẻ để phán xét. Lúc này tượng có trước và quẻ có
sau. Không phân biệt quẻ Âm hay quẻ Dương.
* Thí dụ:
Một ô tô lớn phóng nhanh trên đường gây cảm ứng bất ngờ vì xốc do chiếc xe lớn
chạy nhanh đưa lại tượng quẻ Kinh - Xích khẩu nên luận rằng: sẽ có tai nạn lớn sau
đó. Đây là trướng hợp giông như Thiệu Khang Tiết cảm ứng với tiếng chim phương
Bắc, nhưng hót ở phương Nam. Đoán rằng: Nhà Nam Tống sắp mất .
* Thí dụ:
Có người lấy nicknem ’’Nắng Chiều” nhờ tư vấn chuyện tình cảm .
Tôi đã cảm hứng luận quẻ theo nicknem này: Nắng Chiều là tựa của bài hát về
những kỷ niệm cũ nơi quê nhà. Nắng chiều không gay gắt, nhưng gợi nhớ quá khứ
của một ngày đã qua của những người yêu nhau Họ còn nhớ đến nhau, nhưng cuộc
sống đã làm tình cũ chỉ còn là kỷ niệm cho mỗi khi trống vắng trong tâm hồn.
Nắng chiều là sự tiếc nuối ngày qua, chứ không còn là tình yêu, tình người mãnh liệt.
Nắng chiều là cái đến tất nhiên sau trưa hẻ, chứng tỏ họ đã một thời sống với nhau,
rất nồng ấm, chân thành và trải lòng cho nhau, không hề gian dối.
Nắng chiều chỉ còn ở phía cuối xa xa, phải chăng họ đã không còn bên nhau, mà mỗi
người mỗi nới, chân trời góc biển.
Nắng chiều tượng của mùa thu mà cả không gian cũng hiu hắt với tình người.
Bởi vậy với sự suy luận này thì cần nhanh lên để giữ lại hoàng hôn. Đừng để chiều
tím phủ chân trời thì tình đi không trở lại.l
Nắng chiều sẽ chỉ đẹp cho đến hết tháng 8 Âm lịch. Sau đó là ’’Chiều Tím’’.

45
Lạc Việt độn toán – Nguyễn Vũ Tuấn Anh 46

Bản thân Nắng Chiều đã xác nhận chính xác 100% về cả quá khứ lẫn hiện tại.

1 – 2 – 4:
Cấp IV của Lạc Việt độn toán:
Đến cấp IV trong lý gọi là cảm thông Thiên Địa, không cần gieo quẻ nữa. Lúc này chỉ
thấy là biết, tâm hồn thanh tịnh, vô tư, vô tính, trút bỏ tham hận và nhận thấy vũ
trụ, trời, người cùng vạn vật, cỏ cây đều đồng nhất thể. Đây là lúc nhìn thấy gì nói
nấy, cứ thế mà toán… Không chỉ Lạc Việt độn toán mà hầu như khắp trong các
phương pháp dự báo Đông phương đều có thể đạt đến cấp này.
Đức Phật nói:
"Một con cá vẫy đuôi, có thể chấn động tam thiên, đại thiên thế giới".
Lúc ấy, khi thốt nhiên hạnh ngộ, nhận thấy vô thường, vạn vật nhất thể cảm ứng mà
đoán mọi chuyện thế gian. Đó chính là sự tương quan tương hợp, là đỉnh cao nhất
của cảm ứng tiên tri.
Ông Trịnh Xuân Thuận có viết:
Để giải thích bất cứ một hiện tượng dù rất nhỏ, cũng phải viện dẫn đến lịch sử của
toàn thể vũ trụ.

Tôi quan niệm rằng:


Tất cả các phương pháp dự báo tiên tri đều phải là hệ quả của một hệ thống nguyên
lý lý thuyết đã hoàn chỉnh trước đó.

2 - Lac Việt độn toán luận giải

2 – 1: Điều đặc biệt cần chú ý là luận quẻ liên quan rất chặt chẽ đến câu hỏi.
Nếu không căn cứ vào câu hỏi thì không có cơ sở luận quẻ. Chính vì tính đa dạng của
cuộc sống và của mỗi con người chúng ta, cần xác định được mục đich của câu hỏi
và suy xét, cân nhắc kỹ từng từ của câu hỏi. Trong Lạc Việt độn toán, cùng một quẻ
như nhau, cùng một sự việc giống nhau cho một người hỏi; nhưng cách hỏi khác
nhau sẽ cho kết quả khác nhau. Câu hỏi là một yếu tố tương tác rất quan trọng trong
việc toán quẻ Lạc Việt độn toán. Bởi vì bản thân danh tự của quẻ Lạc Việt độn toán
sẽ không nói lên điều gì, ngoài dịnh tính tốt xấu đơn giản. Nhưng trước một câu hỏi
kết hợp với quẻ độn được thì chính câu hỏi là sự định hướng cho việc luận quẻ từ tính
chất quẻ đó, để dự báo hay tìm hiểu bản chất sự việc.
Thí dụ:
Với một quẻ Sinh Tiểu Cát thì tự danh tính của quẻ đó sẽ không nói lên điều gì.
Nhưng nếu có một câu hỏi – như là: ’’Liệu tôi làm việc này, hoặc chuyện kia thì tốt
hay xấu”...vv.... thì chính câu hỏi đã định hướng cho việc luận quẻ Sinh Tiểu Cát,
vốn là một quẻ tốt.
Hoặc:
Cũng cùng quẻ Sinh Tiểu Cát, nhưng với câu hỏi:”Chúng tôi định đầu tư làm ăn lớn
được không?” thì quẻ này cho thấy không được vì tính chất của quẻ chỉ là tiểu lợi và
sự mạnh
Như vậy, cùng một quẻ, cùng một sự việc, nhưng cách hỏi khác nhau đã cho kết qủa
khác nhau trong khả năng tiên tri .

2–2:
Kết luận:
Luận quẻ, cần chú ý phân tích nội dung câu hỏi. Hiểu sai câu hỏi sẽ định hướng sai
khi luận quẻ.

46
Lạc Việt độn toán – Nguyễn Vũ Tuấn Anh 47

3 – 1:
Luận giải và ý nghĩa của quẻ

3 – 1 – 1: Luận và giải quẻ đơn giản.


Một quẻ được coi là đơn giản khi câu hỏi chỉ mang một ý nghĩa đơn tuyến khi giải
quẻ. Quẻ đơn giản chỉ để trả lời cho các trường hợp là xấu – tốt, thắng – thua, đuợc -
mất, vui - buồn, nên - không v.v… .
Quẻ Lạc Việt độn toán có thể luận từ đơn giản đến phức tạp. Đơn giản nhất là luận
theo ý nghĩa trực tiếp của quẻ, thí dụ: Tử là chết, Vô vong là không được việc gì. Vậy
Tử Vô vong là một quẻ xấu, việc bất thành, bế tắc....
Ta thấy trong quẻ Lạc Việt độn toán,việc đầu tiên cần nhìn tổng quát tượng quẻ để
thấy kết quả dự báo của việc cần toán, ý nghĩa trực tiếp của tên quẻ. Tên quẻ biểu
hiện cho tượng quẻ và tượng quẻ cho biết ngay sự tốt xấu.sẽ có ngay câu trả lời cho
những trường hợp đơn giản trên. Đây là phương pháp luận quẻ đơn giản nhất.
Phương pháp này có thể áp dụng cho mọi trình độ.
* Ví dụ:
Một học viên lớp Lạc Việt độn toán thấy nguời bạn lo cho sức khỏe của nguời thầy vì
thấy thầy không được khỏe, hình như bị bệnh, bèn độn một quẻ hỏi sức khoẻ của
thầy.
Tháng 3 ngày 6. Giờ Mùi năm Bính Tuất – 2006.
Quẻ: Sinh - Ðại An.
Luận quẻ: thầy vẫn khỏe, chỉ làm việc nhiều quá nên hơi mệt.

3 – 1 – 2: Luận và giải quẻ phức tạp.


Một quẻ được coi là phức tạp vì tính phức tạp của sự vật hay sự việc cần giải đoán,
dẫn đến phương phápm luận quẻ phức tạp. Để luận đoán loại câu hỏi này cần vận
dụng sự tương tác của Âm Dương Ngũ hành thể hiện trong quẻ, hoặc phải dùng quẻ
độn để tìm hiểu sâu bản chất sự vật, sự việc cần luận đoán.

* Ví dụ:
Anh Killbill yêu cầu dùng Lạc Việt độn toán để đoán một vật anh mới mua được. Đề
nghị chio biết là vật gì?
Các học viên Lạc Việt độn toán lần lượt toán quẻ như sau:
Quẻ của Ninh Thuận:
Khai Đại an .
Ninh Thuận đã thấy Khai Thuỷ liên quan đến nhạc - Thuỷ có tính chất sóng tượng âm
thanh. Đại an là cái hộp màu vàng và to. Khai còn có nghĩa là một vật dài kèm với
một vật to màu vàng và âm thanh "khai" từ đó mà ra.

* Quẻ của What:


Tử Đại An.
Quẻ này luận ra cây đàn - Tử Kim trên cái thùng gỗ màu vàng và to. Thùng gỗ màu
vàng sinh kim, tức dây đàn. Trong cây đàn guita, thùng gỗ là thể của cây đàn và nó
là lý của âm thanh trên cây đàn.

* Quẻ của Mai Trâm:


Sinh Tốc Hỷ là mới có một niềm vui. Đây là một giá trị văn hoá, Tốc Hỷ là ánh sáng,
là văn hoá .
Quẻ độn: Thương Xích khẩu
Thương là buồn là trạng thái tình cảm, Xích Khẩu là nói lên trạng thái đó. Xích khẩu
Kim chính là âm thanh phát ra từ dây đàn để nói lên tình cảm Thương Mộc. Chính là

47
Lạc Việt độn toán – Nguyễn Vũ Tuấn Anh 48

cây đàn.
Như vậy, chúng ta thấy rằng: Cả 3 quẻ dù khác nhau đều có khả năng luận ra cây
đàn và một quẻ đã luận đúng. Qua đó ta thấy khi trong tâm tưởng chúng ta nghĩ về
một đối tượng do tác động của câu hỏi thì chính cảm ứng của chúng ta sẻ đưa suy
luận theo chiều hướng đó. Vì vậy mỗi quẻ dù khác nhau đều khai thác những yếu tố
khác nhau của đối tựơng cần khám phá hay nói cách khác:mỗi quẻ chỉ ra một hoặc
nhiều yếu tố khác nhau cấu thành nên đối tượng cần khám phá . Vì tính chất khác
nhau của các yếu tố khác nhau thuộc về đối tượng cần khám phá, nên quẻ khác
nhau. Điều nay tương tự như nhà khảo cổ khám phá ra một khúc xương của co9n
Khủng long và suy luận ra toàn bộ hình thể của con Khủng long khi còn sống.

3 – 1 – 3: Tính khách quan của quẻ và lợi ích của con người.

Lạc Việt độn toán có tính qui luật và khách quan. Cũng như thiên nhiên không có tốt
xấu. Những quan niệm tốt và xấu là do con người quan niệm. Ngày tốt mà con người
khai trương lại là ngày xấu của con heo bị mổ làm vật cúng tế. Trên cơ sở này người
luận đoán theo bất cứ phương pháp nào – Bốc Dịch, Mai Hoa, Lạc Việt độn toán ....-
cần khách quan và chiêm nghiệm về quy luật của thiên nhiên xã hội và con người thể
hiện qua quẻ toán được – vốn bản chất chỉ là phản ánh một giai đoạn tồn tại của tự
nhiên ứng với quẻ và không có tốt xấu. Bởi vậy, quẻ tốt hay xấu còn tuỳ thuộc vào
sự việc cần hỏi và đối tượng, tùy tính chất câu hỏi và nguời đặt câu hỏi
Ví dụ trong năm Ất Đậu 2005 - quẻ Cảnh Tốc Hỷ được coi là quẻ tốt nhất, Tử Lưu
Niên là quẻ xấu nhất.
Nhưng sự xấu tốt đó phần nhiều phụ thuộc vào ý niệm phổ biến của con người. Bản
chất của quẻ chỉ phản ánh tính chất của qui luật thiên nhiên phản ánh qua tượng
quẻ.
* Ví dụ:
Một người già bệnh nặng gần chết. Thân nhân hỏi: Người này có chết không? Quẻ ra
là Cảnh Tốc Hỷ thì chưa thể luận là người này sẽ sống khỏe mạnh và sẽ đi du lịch
được. Bản chất của quẻ chỉ là sự nhàn hạ và nhanh chóng. Trường hợp cụ thể này
phải luận là người bệnh sẽ chết nhanh và thanh thản.

* Ví dụ: Nếu đánh đề, bán độ trong trận bóng mà gặp wẻ Tử Lưu Niên thì vụ bán độ
đã không bị phát hiện (Nếu là nguời bán độ đặt câu hỏi). Vì Tử - là chết, là ngăn
chặn thuộc hành Kim, sinh Lưu Niên - Âm mưu, lừa lọc - thuộc Thuỷ. Do đó với quẻ
Tử Lưu Niên thì Tử Kim sinh Lưu Niên Thuỷ, nên việc thành. Tuy nhiên vì bản chất
quẻ xấu. Bởi vậy, nếu nghiện cờ bạc, làm việc mờ ám thì sớm hay muộn cũng vướng
vào pháp luật.

3 – 1 – 4: Tính giới hạn của quẻ và sự phong phú của cuộc sống.
Cũng như cac phương pháp dự báo khác. Quẻ thì giới hạn. Như Bộc Dịch chỉ có 64
quẻ, Lạc Việt độn toán 48 quẻ. Nhưng cuộc sống thì muôn hình vạn trạng mà quẻ
cần chiêm đoán. Bởi vậy, mỗi một quẻ phải quản hành trăm ngàn sự việc sự vật.
Như bàn về nghề nghiệp gặp quẻ Khai Xích khẩu thì cũng có hàng trăm nghề liên
quan đến quẻ này:
Tiếp thị, ngoại giao, trực điện thoại, cô thày giáo, nhà hàng, phát thanh viên, luật
sư...vv. Ngồi trước màn hình lên mạng cũng là Khai Xích Khẩu (Xích Khẩu: cái miệng
- màn hình. Khai: đường truyền).đó là chưa kể đến những nghề rất lạ đang xuất hiện
vượt ra ngoài kiến thức phổ thông. Bởi vậy, đôi khi trước sự muôn vẻ của cuộc sống ,
người luận đoán cần tham vấn thân chủ. Như khi được hỏi về sự thành công trong
nghề nghiệp thì nên hay hỏi thẳng: Anh/ Chị làm nghề gì rồi sau đó mới khớp lại với

48
Lạc Việt độn toán – Nguyễn Vũ Tuấn Anh 49

quẻ xem có hợp không. Ngoài mấy nghề chính - có từ ngàn xưa dễ đoán vì mang
tính khái quát là: Sĩ, công, nông, thương, võ nghiệp, quan lại...còn những nghề mới
bây giờ thì rất khó đoán chính xác. Bởi vậy cần kiến thức rông và suy doán logic phù
hợp với hoàn cảnh.
ví dụ:
Khi tôi ở Hanoi, một người bạn rất thân chỉ vào cửa hàng văn phòng phẩm và nói:
- Tớ muốn mua tặng cậu một món quà làm kỷ niệm . Nghe nói cậu bói toán giỏi lắm.
Vậy đố cậu, tớ định mua cho cậu cái gì ?
Vì là bạn thân, tôi chẳng câu nệ, độn được ngay quẻ: Khai Tiểu Cát . Tôi luận rằng:
Khai là một vật dài, Tiểu cát là giá trị nhỏ, niềm vui nhỏ, chủ về tình cảm. Khai Thuỷ
dưỡng Tiểu Cát Mộc . Như vậy vật này nhằm mục đích kỷ niệm cho một tình cảm,
chứ không phải mua chỉ để dùng.
- Cậu đoán đúng rồi ! Nhưng nó là cái gì?
Thật khó quá! Tôi nghĩ chỉ có thể là cái bút hoặc quyển sách! Nhưng cũng ko phải vì
đây là lý tương sinh Khai Thuỷ dưỡng Tiểu Cát Mộc thì vật này bền vững về thời gian.
Tiểu Cát Mộc lại là trong cửa hàng văn phòng phẩm, nên tôi đoán là cái bút.
- Thế mà cũng đoán ! Bạn tôi cười.
Thì ra anh ấy mua tặng tôi cái cà vạt . Tôi cự lại:
- Cậu chỉ vào cửa hàng văn phòng phẩm bảo đoán thì đến tài Thánh tớ cũng ko
tưởng tượng được là trong đó lại có thể bán cà vạt.
Thông thường các cửa hàng văn phòng phẩm không bán cà vạt.

Qua đó để bạn đọc thấy: Quẻ không sai. Nhưng vấn đề là ở chỗ luận thế nào và nó
tuỳ thuộc vào sự hiểu biết với điều kiện môi trường. Nếu như tôi vào trong cửa hàng
đó quan sát thì may ra có thể đoán là cái cà vạt.
Trong bất cứ trường hợp nào, để luận đúng đến chi tiết một cách chính xác thì phải
có kiến thức rộng về vấn đề liên quan .
Thiếu tri thức thì chỉ đoán chung chung được thôi . Cụ thể trong trường hợp trên,
phải có kiến thức - thấy được - về các mặt hàng bán trong cửa hàng văn phòng
phẩm, để đoán ra cái cà vạt trong hàng trăm mặt hàng của cửa hàng . Còn ko biết
trong đó nó bán cái gì thì ...chịu.

Bởi vậy, những người muốn ứng dụng các phương pháp dự báo rất cần kiến thức
rộng về nhiều phương diện. Kiến thức càng rộng khả năng luận đoán càng chính xác.
Bởi vậy những người dự đoán xuất sắc thuờng là người uyên bác. Điều này đúng với
tất cả các bộ môn dự đoán.

3 – 1 – 5: Quẻ và sự phản ánh cục bộ sự việc.


Quẻ đôi khi chỉ phản ánh cục bộ sự vật hay sự việc. Thí dụ điển hình là việc luận
đoán cây đàn guita ở trên. Bởi vậy, người luận đoán cần có kiến thức rộng để từ một
phần của sự vật, sự việc suy luận ra toàn bộ sự việc.
Với giả thiết quẻ luôn luôn ứng đúng sự việc nhưng do trình độ giải đóan thường hạn
chế, nhất là đối với nguời mới học nên kết quả giải đóan có khi đúng có khi sai, do ý
nghĩa của quẻ thường thể hiện trong thực tiễn dưới nhiều hình thức muôn màu
muôn vẻ nên người gỉải đoán nhiều khi không hình dung được hết các tình huống,
cũng có khi người hỏi chỉ căn cứ vào câu hỏi của mình để đánh giá đúng sai trong khi
quẻ lại ứng vào phương diện khác của câu hỏi mà người hỏi vô tình không nghĩ tới.
Một kinh nghiệm nữa là để chi tiết thêm về điều cần đoán: khi đã hiện quẻ và nêu
đuợc bản chất nội dung sự việc có thể cần phải hỏi thêm hoặc yêu cầu thân chủ mô
tả thêm chi tiết điều ta cần đoán để xem có ứng đúng với điều đoán không thì việc
luận đoán sẽ theo sát và đúng hướng chúng ta đưa ra.

49
Lạc Việt độn toán – Nguyễn Vũ Tuấn Anh 50

Ví dụ trường hợp có người hỏi về việc giấy tờ xuất ngoại. Tôi không căn cứ vào thời
gian hỏi quẻ mà độn theo giờ tôi coi quẻ. Cụ thể là:
Người hỏi vào giờ Tỵ ngày 21 tháng 19.
Nhưng tôi lấy quẻ vào giờ Thìn, ngày 22 tháng 10 năm Ất Dậu:
Quẻ Tử Lưu Niên cho việc giấy tờ.
Quẻ Tử Lưu Niên có nghĩa đen là chết và giữ lại thời gian.Quẻ này phù hợp với hiện
trạng đang lo lắng của người hỏi. Lưu Niên trong trường hợp này là lo lắng, suy nghĩ
trước một thực trạng khó khăn (Tử - nghĩa là chết rồi, bị chăn lại, không còn hy vọng
gì). Lưu Niên cũng còn có nghĩa là họ đã tiến hành làm việc này từ lâu - ít nhất là
trên 6 năm. Khi làm thủ tục để đi cũng chẳng hy vọng gì. Tử có nghĩa là hoàn cảnh
bên ngoài như: điều kiện giấy tờ khó khăn, không hoàn chỉnh, phải bổ xung mất thì
giờ và chờ đợi.

Nhưng Tử thuộc Kim sinh Lưu niên Thuỷ. Nên tuy có khó khăn vậy, nhưng về căn
bản họ lại có thế mạnh như là sự ưu tiên hoặc mối quan hệ với người bảo lãnh tốt,
hoặc sự bảo lãnh chính danh phù hợp với chính sách nhập cư của nước sở tại. Nên
cuối cùng họ sẽ vượt qua được, tuy lâu.

Quẻ độn là Kinh Tốc Hỷ. Cho thấy họ sẽ có bất ngờ vào phút chót và vượt qua được
hoàn cảnh. Tốc Hỷ Hoả là bản mệnh của họ, là nội hàm của sự việc thắng Kinh Kim.
Quẻ Tử - Kinh là điều kiện môi trường đều thuộc Kim. Kinh còn có nghĩa là nước lớn
nên cũng có thể luận là một cường quốc lớn phương Tây, có thể là Hoa Kỳ.

Với quẻ này thì cuối xuân hoặc đầu hè sang năm họ sẽ đi.
Quẻ nghiệm.

3 – 1 – 6: Nhiều người cùng luận một việc.


Trường hợp đặc biệt này thường chỉ xảy ra khi luận đoán những sự kiện lớn trong xã
hội được nhiều người quan tâm; như cuộc chiến tranh Vùng Vịnh....Hoặc được thực
hiện bởi một nhóm tư vấn dự báo các sự kiện mang tính xã hội, hoặc quốc gia; như
Hội Chiêm tinh Hoàng gia Thái Lan.....
Khi rơi vào trường hợp này thì về nguyên tắc ”chân lý chỉ có một” nên tất cả các quẻ
nghiệm đều phải nhất quán cho diễn biến trong tương lai của sự việc và phản ánh
đúng toàn bộ hay một phần sự việc. Cho dù dùng phương pháp dự báo nào: Lạc Việt
độn toán, Bốc phệ, Mai hoa.....Xét riêng Lạc Việt độn toán, nếu quẻ nghiệm thì dù ra
quẻ khác nhau, nhưng để dự báo một việc như nhau thì cũng sẽ rơi vào trường hợp
trên: Hoặc phản ánh toàn bộ sự việc, hoặc một phần sự việc và tất cả phải nghiệm
đúng một cách nhất quán cho diễn biến tương lai của sự việc.
Trong cổ thư có ghi nhận về phương pháp ứng sử của nhà vua với các quẻ dự báo mà
một phần trong đó được miêu tả như sau:
-Nếu ba người cùng bói ra quẻ khác nhau thì vua theo hai người.
Nhưng đây chính là điều cần lưu ý:
Điều kiện này chỉ được coi là đúng với ba người (hoặc hơn) đều nắm vững phương
pháp dự báo và tài năng ngang nhau. Dự báo là một khoa học thực sự như tất cả các
bộ môn khoa học khác, được thừa nhận trong tiêu chí khoa học. Tất nhiên đã là khoa
học thì không lệ thuộc vào số đông. Ngày xưa khi vua Lý bị bệnh nan y, số đông
những nhà lương y tài giỏi thời bấy giờ đều bó tay. Nhưng một mình hòa thượng
Khổng Minh Không đã chữa được cho nhà vua. Do đó, nguyên lý theo số đông trong
dự báo là một việc cần xem xét, nó chỉ có khả năng đúng trong điều kiện tôi đã trình
bày ở trên.
Chúng ta cùng quán xét hiện tượng thực tế dưới đây, minh họa cho trường hợp này

50
Lạc Việt độn toán – Nguyễn Vũ Tuấn Anh 51

Năm 2006 – Bính Tuất. Nước Pháp đang rộn lên vì luật lao động mới. Nghiệp đoàn và
sinh viên rầm rập biểu tình. Sự việc chưa ngã ngũ nên mới chứng tỏ được sự linh
nghiệm của Lạc Việt độn toán.

Hai học viên lớp Lạc Việt độn toán là What và Luke cùng dự đoán cho câu hỏi:
- Bộ luật lao động của chính phủ Pháp có được thi hành không?
- Cuối cùng cái gì sẽ xảy ra liên quan đến bộ luật lao động này?

Học viên What:


Quẻ Tử Tốc Hỷ. Tốc Hỷ thuộc Hỏa,chủ về may mắn thành công. Tử thuộc Kim là khó
khăn trắc trở... Bộ luật này sẽ được áp dụng trên nước Pháp trong vòng 2-7 tháng
nữa. Hơn nữa, dân Pháp có truyền thống biểu tình đình công. Nên đâu lại vào đó. Ai
biểu tình cứ biểu tình, chính phủ biểu áp dụng thì cứ áp dụng.

Quẻ độn: Kinh Xích khẩu là sẽ có sự đối đầu quyết liệt giữa các nghiệp đoàn và sinh
viên với chính phủ Pháp. Hai hành Kim đối chọi nhau chan chát. Xích Khẩu tức là sự
đối thoại, hô hào đình công bãi thị rất lớn. Cuối cùng thì chính phủ Pháp sẽ dùng
quyền lực của mình (Kinh) để quyết đoán vấn đề, chấm dứt mọi sự chống đối theo
luật pháp qui định.
Chủ thể của câu hỏi là "Bộ luật lao động" ứng với Tốc Hỷ Hoả thắng kim. Chứng tỏ
nó sẽ được áp dụng vào mùa hè này. Nhanh là tháng 4 (Hai tháng sau) , Chậm là
tháng 7/ 8 Âm lịch. Bộ luật này sau khi áp dụng còn tiếp tục gây tranh cãi và sẽ là
đề tài của phe đối lập trong chính trường Pháp về sau (Kinh Xích khẩu ).

Học viên Luke:


Năm Bính Tuất, tháng 2 ngày 28, giờ Tuất.
Quẻ: Sinh - Đại An. Đây là sự áp đặt từ bộ máy lập pháp nên sẽ rơi vào tình trạng
"trên bảo dưới đành nghe". Quẻ này cho thấy điều luật này ít nhiều cũng có mặt tích
cực của nó và là khởi mào cho một cuộc cải tổ và mang tính bắt buộc.
Chống đối là có, nhưng chỉ từ những người dân thấp cổ bé họng mà thôi.
Bộ luật lao động chắc chắn sẽ được thi hành. Thời gian thi hành là tháng 8 âm lịch.

Quẻ độn Thương - Lưu Niên. Điều gì sẽ xảy ra sau đó?


Dư luận sẽ xôn xao, người dân sẽ hoang mang. Sẽ có những cuộc đình công nhưng
sẽ không có những hành động cực đoan, nhưng rồi thì người dân cũng phải chấp
nhận bộ luật này thôi.
Quẻ nghiệm .

3 – 2: Quẻ độn

Ưu điểm của quẻ Lạc Việt độn toán là có thể xem cho nhiều người một lúc và trả lời
nhiều câu hỏi một lúc, chính là nhờ quẻ độn. Nhưng cần lưu ý tất cả những quẻ độn
trong một giờ đều là những phần tử tập hợp của quẻ trong giờ đó và chịu ảnh hưởng
của quẻ chính chủ giờ đó.
Ví dụ: Kinh –Vô vong /năm duơng/là một quẻ xấu, quản một giờ mà chúng ta độn
được. Như vậy tất cả những quẻ độn trong giờ này dù tốt thì cũng chỉ là những hiện
tượng trong một phạm trù xấu và ngược lại.
Trong cùng một giờ, có từ hai người trở lên cần vấn quẻ thì người đầu tính vào quẻ
chính ,người thứ hai tính vào quẻ độn kế, người thứ 3 tính vào quẻ độn tiếp theo
nữa....

51
Lạc Việt độn toán – Nguyễn Vũ Tuấn Anh 52

Một người hỏi nhiều việc thì cứ thế độn tiếp.Trường hợp này chỉ ứng dụng đông
người và coi liên tục, cần chú ý vì rất dễ lạc quẻ .
Tôi đã có lần xem cho 2 cô bé cùng tuổi, đến cùng một giờ, tuổi bố mẹ như nhau, chỉ
khác có tuối và giới tính người em út. Trường hợp này phải ứng dụng độn quẻ.
Tuy nhiên Lạc Việt độn toán cũng có mặt hạn chế hơn so với Bốc Dịch là khó đoán
thật chính xác về thời gian .
Ví dụ :
Trong cuộc chiến vùng Vịnh II - kết hợp với Tử Vi của ông Hussen - tôi chỉ đoán
được: "Cuối tháng hai xảy ra chiến tranh và đầu tháng ba Âm lịch kết thúc". Trong
khi đó Thiên Cơ dùng Dịch đoán chính xác tới ngày chiến tranh, và Dương Tường
(Tức Thanh Long) thì dung sai đoán trước ngày kết thúc chiến tranh chỉ có 3 ngày.
Đây là việc tôi đang tìm hiểu thêm về mặt lý thuyết.
Hy vọng với thời gian các bạn sẽ cùng chúng tôi nghiên cứu phát hiện và hoàn chỉnh.
Lưu ý:
Quẻ độn nằm trong phạm trù của quẻ chính. Nhưng nếu là người khác hỏi, hoặc là sự
việc khác thì tính chất của quẻ độn vẫn chiếm vai trò chủ đạo. Quẻ chính chỉ là yếu
tố xét để gia giàm.

3 – 2 – 1: Lạc Việt độn toán và khả năng hóa giải sự xấu


Trên thực tế khả năng hoá giải của Lạc Việt độn toán đã đuợc chững nghiệm qua
thực tế, chuyện nhỏ hoá giải nhỏ, chuyện lớn hoá giải lớn...nhưng cũng có những
chuyện không thể hóa giải ,vì quẻ cho biết không thể hoá giải được.
Ví dụ: Đây là một truờng hợp rất cụ thể độn quẻ cho thấy khả năng hoá giải rất cao
,và tôi cảm ơn hội viên Bluepearl đã đồng ý cho chứng nghiệm công khai
Bluepearl yêu cầu giúp đỡ vì một việc nan giải. Cụ thể là hợp đồng đã ký với khách
hàng có nguy cơ bị hủy bỏ do trục trặc về nguồn cung cấp. Hậu quả là sẽ bị khiếu
kiện bồi thường rất rắc rối, mặc dù đang rất nỗ lực để cứu vãn hợp đồng này không
biết có được không?
Quẻ Sinh - Xích Khẩu
Quẻ này cho thấy rõ: Qua mùa xuân mọi việc sẽ trở nên rắc rối, Xích Khẩu chủ sự
tranh chấp, cự cãi. Quẻ Sinh cho thấy sự việc đã manh nha bắt đầu. Nhưng Sinh Mộc
vượng vào mùa Xuân nên sự việc chưa xảy ra bây giờ. Bởi vậy khi sự việc tiên đoán
xấu và bản chất sự việc cho thấy khả năng xấu xảy ra thì tất yếu chúng ta phải tìm
một phương pháp hóa giải. Quẻ Lạc Viêt Độn Toán đồng thời đã chỉ ra một hướng
hóa giải.
Phương pháp hóa giải của sự kiện này nằm ngay trong quẻ độn của Sinh Xích Khẩu
là Thương Tiểu Cát.Thương Tiểu Cát là thuần Mộc, xét hai quẻ liên tiếp liên quan đến
nhau ta thấy ba hành Mộc chống lại một hành Kim là Xích Khẩu – vốn là quẻ mang
tính tranh chấp cự cãi, kiện tụng trong trương hợp này ....
Mộc trong trường hợp này sắp thứ tự sẽ thấy :
Sinh = Sự bắt đầu, mới xuất hiên...
Thương= Trạng thái tình cảm buồn,...
Tiểu Cát = Sự vui vẻ, lợi nhỏ, tình cảm...
Kim khắc Mộc là lý của Ngũ hành. Nhưng Mộc quá vượng Kim sẽ không khắc nổi, đó
là dụng của Ngũ Hành.
Như tôi đã trình bày: Quẻ Bát Môn là điều kiện môi trường. Quẻ Luc Nhâm là bản
chất nội dung của sự việc, sự vật đây là quẻ thuần về tình cảm. Vậy sách lược đối
phó là dùng tình cảm để thuyết phục: Quẻ thuộc Mộc (Tiểu Cát) còn có nghĩa là giấy
tờ hợp đồng.Như vậy đối sách cụ thể là dùng tình cảm (ăn nhậu, tâm sự, nói khó,
kêu gọi sự thông cảm..), để sửa lại hoặc hủy bỏ hợp đồng. Biến hành Kim của Xích
Khẩu mang yếu tố kiện cáo, thành sự hủy hợp đồng, dùng tình cảm để xóa đi sự
mâu thuẫn. Nếu có người nữ khoảng 30 tuổi hợp tác trong việc này chắc thành công.

52
Lạc Việt độn toán – Nguyễn Vũ Tuấn Anh 53

Xác nghiệm: Bluepearl đã đi gặp khách hàng để thương thuyết và đã áp dụng kế


sách hóa giải theo huớng tình cảm, trình bày hoàn cảnh, năn nỉ ,... cuối cùng đối tác
đồng ý sửa hợp đồng. Mong muốn của Bluepearl đổi nhà cung cấp đã thành công
hoàn toàn.
Lưu ý:
Không phải quẻ độn nào cũng hóa giải được.

53
Lạc Việt độn toán – Nguyễn Vũ Tuấn Anh 54

Lạc Việt độn toán phần 5


Nguyễn Vũ Tuấn Anh
Trung tâm nghiên cứu Lý học Đông Phương

Khả năng và giá trị của Lạc Việt độn toán

Lạc Việt Độn Toán là hệ quả của một lý thuyết vũ trụ quan cổ Đông
phương được phục hồi, xác định trên cơ sở hợp lý lý thuyết nguyên lý
tạo ra là ’’Hậu Thiên Lạc Việt phối Hà Đồ”. Lạc Việt độn toán hoàn toàn
ứng dụng phương pháp luận của thuyết Âm Dương Ngũ hành với tư
cách là một lý thuyết nhất quán và hoàn chỉnh...

I – Vị trí của Lạc Việt độn toán trong văn hóa cổ Đông phương.
Lạc Việt Độn Toán là hệ quả của một lý thuyết vũ trụ quan cổ Đông phương được
phục hồi, xác định trên cơ sở hợp lý lý thuyết nguyên lý tạo ra là ’’Hậu Thiên Lạc Việt
phối Hà Đồ”. Lạc Việt độn toán hoàn toàn ứng dụng phương pháp luận của thuyết
Âm Dương Ngũ hành với tư cách là một lý thuyết nhất quán và hoàn chỉnh. Lý thuyết
này và Lạc Việt độn toán không hề tồn tại trong cổ thư chữ Hán. Chưa một triều đại
nào trong lịch sử văn minh Hoa Hạ coi thuyết Âm Dương Ngũ hành như một học
thuyết chính thống trong xã hội. Lạc Việt độn toán cũng chưa bao giờ được ứng dụng
trong lịch sử văn hóa cổ Hoa Hạ cho đến ngày nay với phương pháp và nội dung này.
Điều này chứng minh rằng Thuyết Âm Dương ngũ hành đã tồn tại trên thực tế trong
văn minh cổ nhân loại. Chính thực tế này là cơ sở phục hồi Lạc Việt độn toán.
Bởi vậy, nên tính tích cực của môn này chính là sự chứng tỏ khả năng phát triển của
một luận điểm nhân danh khoa học, theo tiêư chí khoa học chứng minh rằng:
Lịch sử văn hiến Việt trải gần 5000 năm.

1 – Tính khoa học của Lạc Việt độn toán


Tính khoa học này được xác định theo tiêu chí khoa học cho một lý thuyết hoặc
phương pháp khoa học:
’’Một lý thuyết khoa học được coi là đúng nếu nó giải thích hợp lý hầu hết những vấn
đề liên quan đến nó một cách nhất quán, hoàn chỉnh, có tính quy luật, tính khách
quan và khả năng tiên tri”
Căn cứ theo tiêu chí khoa học trên thì chúng ta thấy rằng:
- Lạc Việt độn toán với tư cách là một phương pháp tiên tri đã dự đoán tất cả những
vấn đề liên quan đến nó và chứng tỏ hiệu quả rất cao của phương pháp dự báo.
- Phương pháp luận của thuyết Âm Dương Ngũ hành và nguyên lý căn để ’’Hậu thiên
Lạc Việt phối Hà Đồ” được ứng dụng một cách nhất quán và hoàn chỉnh trong
phương pháp Lạc Việt độn toán.
- Lạc Việt độn toán hoàn toàn mang tính quy luật và tất yếu là khách quan trong
phương pháp.
Cũng như một giả thuyết khoa học hoặc một phương pháp khoa học, Lạc Việt độn
toán cũng cần có thời gian để hoàn thiên, nhưng đó là những điều kiện cần bổ sung
chứ không phải lý do để phản bác.

2 – Tính ưu việt của phuơng pháp Lạc Việt Độn Toán


Tính ưu việt của phương pháp Lạc Việt Độn Toán chỉ là so sánh với các phương pháp
dự báo khác đang lưu truyền trên thực tế hiện nay, chứ không phải so sánh với nhu

54
Lạc Việt độn toán – Nguyễn Vũ Tuấn Anh 55

cầu về hiệu quả dự báo và thực tế thiên nhiên và cuộc sống.

2–1
Những ưu điểm của Lạc Việt động toán ở chỗ là hệ quả của một lý thuyết vũ trụ quan
cổ Đông phương được phục hồi, trên cơ sở đó xác định được nguyên lý tạo ra nó
chính là ’’Hậu Thiên Lạc Việt phối Hà Đồ” . Bởi vậy, sự tiếp thu Lạc Việt độn toán
hoàn toàn phù hợp với tính hệ thống và hợp lý trong tư duy. Do đó, sự tham khảo và
nghiên cứu Lạc Việt độn toán sẽ được tiếp thu nhanh chóng so với tất cả các phương
pháp dự báo khác. Đây là một trong những ưu điểm nổi trội nhất của Lạc Việt độn
toán. Trên thực tế, nhưng người tham khảo, nghiên cứu ứng dụng Lạc Việt độn toán
đều tiếp thu một cách nhanh chóng phương pháp ứng dụng với khả năng dự báo
xuất sắc.
Ngoài ra Lạc Việt độn toán còn có những khả năng sau đấy:

2 – 2:
Cùng một thời điểm có thể trả lời nhiều câu hỏi một lúc bằng cách lấy quẻ độn liên
tiếp nhau. So với phương pháp dự báo khác thường bị hạn chế không thể trả lời
nhiều câu hỏi một lúc thì đây là ưu điểm của Lạc Việt độn toán.

2 – 3:
Phối hợp với phương pháp tính giờ để có thể chủ động chọn quẻ̉ tốt, giờ đẹp để tiến
hành công việc. Sau khi chọn được một ngày tốt - theo các cách phổ biến - để "Lợi
kiến đại nhân" thì ta chọn giờ tốt hợp lý. Thí dụ giờ Hoàng Đạo vào các giờ trong
ngày có thể giao tiếp như buổi trưa, buổi chiều...Sau đó dùng quẻ Lạc Việt độn toán
để tìm một quẻ tốt trùng khớp với một giờ Hoàng Đạo và giờ Hoàng Đạo lại trùng với
một quẻ tốt vào khoảng giờ hợp lý cho công việc cần tiến hành sẽ có khả năng dễ
thành công hơn. Có quẻ thật tốt trong ngày nhưng lại rơi vào giờ Dần, Sửu chẳng
hạn thì cũng bỏ.
Trong thực tế chọn một giờ cực tốt để có thể thay đổi số phận là rất khó. Ngày giờ
tốt thường là chỉ có thể làm giảm nhẹ cái xấu. Đây không phải ưu điểm nổi bật vì
Chu Dịch cũng thực hiện được điều này.

2 – 4:
Tính đơn giản của Lạc Việt độn toán khiến người biết toán quẻ có thể có ngay dự báo
cần thiết để ứng xử.

2 – 5:
Lưu ý: Một số ưu điểm của Lạc Việt độn toán so với các phương pháp dự báo khác
mang tính thời gian. Trong tương lai, khi thuyết Âm Dương Ngũ hành và mối liện hệ
của nó với các phương pháp ứng dụng được phục hồi thì sẽ có một số ưu điểm của
Lạc Việt độn toán mất tính vượt trội.

3 - Tính hạn chế của Lạc Việt độn toán.


Lạc Việt độn là một phương tiên của con người dùng để dự báo tương lai, nên nó
cũng phải có tính hạn chế của nó như tất cả những phương tiện mà con người đã tạo
ra. Đây cũng chính là sự hạn chế chung của tất cả các phương pháp ứng dụng của
con người nhân danh khoa học. Có thể nói rằng: Tất cả các phương pháp ứng dụng
và công cụ dù là vật thể hay phi vật thể do con người tạo ra đều có những giới hạn
của nó. Tất cả đều không tuyệt đối vì không nhân danh Thượng Đế.
Không riêng Lạc Việt độn toán mà có thể nói rằng: Tất cả những phương pháp ứng
dụng dự báo của nền Lý học Đông phương cổ đều có những hạn chế chính bởi bản
chất khoa học của nó - Cho dù người ta giải thích nó như thế nào: ”mê tín dị đoan”,

55
Lạc Việt độn toán – Nguyễn Vũ Tuấn Anh 56

hay sản phẩm của thần thánh....


Tính hạn chế này cũng nằm ngay tại phương pháp của nó, bao gồm:
3 – 1:
Tính quy ước của thời gian và thực tế vận động của vũ trụ.
3 – 2:
Sự khái quát của nội dung quẻ và tính cụ thể của muôn mặt sự việc, sự vật.
3–3:
Tính quy ước của thời gian lên không gian bề mặt địa cầu khiên vị trí người luận đoán
dễ sai lệch về phương pháp. Thí dụ như thời gian ở hai cực. Từ đó suy ra: Sự luận
đoán tiên tri khó chính xác ở vùng Hàn đới hoặc cận hàn đới gần hai cực Địa cầu.

Tuy nhiên, mặc dù có những hạn chế trên thì phương pháp dự báo Lạc Việt độn toán
và có thể nói rằng: Hầu hết những phương pháp dự báo đều là hệ quả của một học
thuyết vũ trụ quan rất cao cấp vượt ra ngoài khả năng nhận thức của tri thức khoa
học hiện đại và phù hợp với tiêu chí khoa học cho một lý thuyết khoa học. Việc này
đã thể hiện qua hiệu quả dự báo trải hàng ngàn năm trong xã hội loài người của các
phương pháp dự báo Đông phương.

56

You might also like