Professional Documents
Culture Documents
ngành
hóa học và kỹ thuật khuyến khích việc thiết kế các sản và quá trình giảm thiểu việc sử
dụng và tạo ra các chất độc hại. Hóa học xanh tìm cách giảm thiểu và ngăn ngừa ô
nhiễm tại nguồn của nó.
Năm 1990 các Đạo luật phòng chống ô nhiễm đã được thông qua tại Hoa Kỳ. Hành
động này đã giúp tạo ra một cách xử lý ô nhiễm độc đáo và sáng tạo. Nó nhằm mục
đích tránh những vấn đề trước khi chúng xảy ra.
Như một triết lý hóa học, hóa học xanh áp dụng cho hóa hữu cơ, hóa học vô cơ, hóa
sinh, hóa phân tích, và thậm chí hóa học vật lý. Trọng tâm là giảm thiểu các nguy
hiểm và tối đa hóa hiệu quả của sự lựa chọn bất kỳ hóa chất sử dụng. Khác biệt với
hóa học môi trường là tập trung vào các hiện tượng hóa học trong môi trường.
Giải Nobel Hoá học năm 2005 được trao cho 3 nhà khoa học Robert H. Grubbs và
Richard R. Schrock đến từ Mỹ, cùng Yves Chauvin đến từ Pháp, nhờ việc tìm ra cách
làm giảm chất thải độc hại khi tạo ra các hoá chất mới, giảm thiểu chất thải độc hại
bằng một quá trình sản xuất thông minh hơn. Họ đã phát triển ra phương pháp hoán vị
trong quá trình tạo ra các phân tử hữu cơ mới.
Trong cuốn sách xuất bản vào năm 1998 mang tựa đề Ngành hóa chất xanh: Lý thuyết
và thực tiễn (Nhà Xuất bản Đại học Oxford), Paul Anastas và John Warner đã đưa ra
12 nguyên tắc như một lộ trình cho các nhà hóa học trong việc thực hiện hóa chất
xanh.
1. Ngăn ngừa: Tốt nhất là ngăn ngừa sự phát sinh của chất thải hơn là là xử lý hay làm
sạch chúng.
2. Tính kinh tế: Các phương pháp tổng hợp phải được thiết kế sao cho các nguyên liệu
tham gia vào quá trình tổng hợp có mặt tới mức tối đa trong sản phẩm cuối cùng.
3. Phương pháp tổng hợp ít nguy hại: Các phương pháp tổng hợp được thiết kế nhằm
sử dụng và tái sinh các chất ít hoặc không gây nguy hại tới sức khỏe con người và
cộng đồng.
4. Hóa chất an toàn hơn: Sản phẩm hóa chất được thiết kế, tính toán sao cho có thể
đồng thời thực hiện được chức năng đòi hỏi của sản phẩm nhưng lại giảm thiểu được
tính độc hại.
5. Dung môi và các chất phụ trợ an toàn hơn: Trong mọi trường hợp có thể nên dùng
các dung môi, các chất tham gia vào quá trình tách và các chất phụ trợ khác không có
tính độc hại.
6. Thiết kế nhằm sử dụng hiệu quả năng lượng: Các phương pháp tổng hợp được tính
toán sao cho năng lượng sử dụng cho các quá trình hóa học ở mức thấp nhất. Nếu như
có thể, phương pháp tổng hợp nên được tiến hành ở nhiệt độ và áp suất bình thường.
7. Sử dụng nguyên liệu có thể tái sinh: Nguyên liệu dùng cho các quá trình hóa học có
thể tái sử dụng thay cho việc loại bỏ.
8. Giảm thiểu dẫn xuất: Vì các quá trình tổng hợp dẫn xuất đòi hỏi thêm các hóa chất
khác và thường tạo thêm chất thải.
9. Xúc tác: Tác nhân xúc tác nên dùng ở mức cao hơn so với đương lượng các chất
phản ứng.
10. Tính toán, thiết kế để sản phẩm có thể phân hủy sau sử dụng: Các sản phẩm hóa
chất được tính toán và thiết kế sao cho khi thải bỏ chúng có thể bị phân huỷ trong môi
trường.
11. Phân tích thời gian hữu ích để ngăn ngừa ô nhiễm: Phát triển các phương pháp
phân tích cho phép quan sát và kiểm soát việc tạo thành các chất thải nguy hại.
12. Hóa học an toàn hơn để đề phòng các sự cố: Các hợp chất và quá trình tạo thành
các hợp chất sử dụng trong các quá trình hóa học cần được chọn lựa sao cho có thể
hạn chế tới mức thấp nhất mối nguy hiểm có thể xẩy ra do các tai nạn, kể cả việc thải
bỏ, nổ hay cháy, hóa chất.
GreenBiz.vn - Triển khai chương trình phát triển vật liệu xây dựng không nung, từng bước
thay thế gạch đất sét nung, cần có những bước đột phá, về đầu tư công nghệ thiết bị, nhất là
trong khâu tiếp cận các công trình xây dựng và thay đổi thói quen sử dụng vật liệu nung
thông thường.
Chương trình phát triển vật liệu xây không nung (VLXKN) đến năm 2020, được Chính phủ
phê duyệt, trong đó đặt ra những mục tiêu cụ thể như phát triển sản xuất và sử dụng VLXKN
thay thế gạch đất sét nung đạt tỷ lệ: 20 đến 25% vào năm 2015, và đạt 30 đến 40% vào năm
2020; hằng năm sử dụng khoảng 15 đến 20 triệu tấn phế thải công nghiệp (tro xỉ nhiệt điện,
xỉ lò cao...) để sản xuất VLXKN, tiết kiệm được khoảng 1.000 ha đất nông nghiệp và hàng
trăm ha diện tích đất chứa phế thải; tiến tới xóa bỏ hoàn toàn các cơ sở sản xuất gạch đất
sét nung bằng lò thủ công.
Chính phủ cũng yêu cầu tăng dần sử dụng VLXKN cụ thể từ năm 2011, các công trình nhà
cao tầng (từ 9 tầng trở lên) sử dụng tối thiểu 30% VLXKN loại nhẹ (khối lượng thể tích không
lớn hơn 1.000 kg/m3) trong tổng số vật liệu xây, đồng thời khuyến khích các công trình xây
dựng sử dụng VLXKN khác có độ rỗng lớn hơn 30% và VLXKN loại nhẹ. Ngoài ra, các dự
án chế tạo thiết bị sản xuất VLXKN nhẹ và sản xuất gạch xi-măng - cốt liệu công suất từ bảy
triệu viên quy chuẩn/năm trở lên còn được hưởng ưu đãi như đối với các dự án thuộc
Chương trình Cơ khí trọng điểm...
Bộ Xây dựng cũng đã nghiên cứu ban hành nhiều chính sách, tạo điều kiện thuận lợi để phát
triển lĩnh vực sản xuất VLXKN. Phó vụ trưởng Vụ Vật liệu xây dựng (Bộ Xây dựng) Phạm
Văn Bắc cho biết, các doanh nghiệp (DN) sản xuất VLXKN hoặc chế tạo thiết bị, máy móc
phục vụ sản xuất VLXKN sẽ được hưởng ưu đãi về thuế như: Ðược áp dụng thuế suất thuế
giá trị gia tăng 5%, miễn thuế thuê đất bốn năm, ưu đãi về thuế thu nhập DN, thuế xuất nhập
khẩu, hỗ trợ vay vốn, mặt bằng đầu tư.
Bộ Xây dựng cũng có kế hoạch hỗ trợ DN đầu tư sản xuất VLXKN bằng các giải pháp hoàn
thiện công nghệ sản xuất trong điều kiện cụ thể của Việt Nam.
Ðồng thời cam kết rà soát, xem xét hoàn chỉnh và sớm ban hành đồng bộ các hệ thống tiêu
chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, các quy trình, quy phạm hướng dẫn thi công và các định mức
kinh tế - kỹ thuật có liên quan đến sản xuất và ứng dụng VLXKN.
Theo số liệu thống kê của Vụ Kiến trúc, quy hoạch xây dựng (Bộ Xây dựng), tốc độ đô thị hóa
của Việt Nam sẽ tăng từ 25,8% năm 2004 đến hơn 45% năm 2025. Ðiều này đồng nghĩa với
nhu cầu rất lớn về vật liệu xây dựng nói chung và gạch xây nói riêng, dự báo đến năm 2020
sẽ vào khoảng 42 tỷ viên/năm, cao gấp đôi mức tiêu thụ hiện nay.
Nếu quy đổi số lượng gạch xây này thành gạch đất sét nung thì sẽ xâm phạm vào nguồn đất
canh tác, ảnh hưởng đến an ninh lương thực và thải ra một lượng lớn khí thải độc hại. Trước
thực tế này, việc phát triển vật liệu không nung là cần thiết nhằm từng bước thay thế gạch
đất sét nung, hướng tới quy hoạch tổng thể ngành vật liệu xây dựng phát triển bền vững.
Tuy nhiên, các DN trong nước hiện chưa bắt nhịp được với xu thế mới này bởi nhiều nguyên
nhân, trong đó việc tìm đầu ra cho sản phẩm gặp nhiều khó khăn. Các công trình trong nước
ít sử dụng loại vật liệu này vì phụ thuộc nhiều quy định phức tạp, thiếu những quy chuẩn, tiêu
chuẩn về kỹ thuật dẫn tới khó khăn cho hoạt động thanh toán, quyết toán.
Trong khi đó, các công trình lớn của các nhà đầu tư nước ngoài và tư nhân như: Keangnam
Hanoi Landmark Tower, Hà Nội Hotel Plaza, Làng Việt kiều châu Âu - Hà Ðông, Habico
tower, Khách sạn Horison... lại luôn ưu tiên sử dụng gạch không nung. Hơn nữa, tâm lý e dè
trong việc đầu tư sản xuất VLXKN vẫn còn.
Phần lớn DN trong nước vừa sản xuất vừa chuyển giao công nghệ nên xảy ra hiện tượng
chồng chéo trong chiến lược phát triển cũng như quy mô sản xuất. Chỉ một số ít DN do đã ký
hợp đồng với các nhà đầu tư nước ngoài, tư nhân mới mạnh dạn đầu tư mở rộng sản xuất.
Với những ưu điểm đã được kiểm chứng của VLXKN như: nhẹ, chống ẩm, chống âm tốt...,
hiện nay, phần lớn VLXKN đang được sử dụng tại các công trình cao tầng, trong khi đó tỷ lệ
sử dụng trong nhà ở dân cư còn thấp.
Các DN tại các địa phương muốn đầu tư sản xuất VLXKN cần tính toán quy mô sản xuất hợp
lý, đồng thời nghiên cứu kỹ đối tượng khách hàng kết hợp với công tác tuyên truyền, quảng
bá sản phẩm.
Ðiều quan trọng nữa là từng bước xóa bỏ hoàn toàn những lò gạch thủ công cũng cần có lộ
trình cụ thể, tạo việc làm mới cho một bộ phận người dân nông thôn thay đổi thói quen sử
dụng gạch đất sét nung đã có từ lâu đời.
Trên thế giới, tỷ lệ sử dụng VLXKN chiếm khoảng 70% thị phần trong khi tỷ lệ này tại nước ta
rất thấp, chỉ khoảng 8 - 10%. Với nguồn nguyên liệu sẵn có cũng như những cơ chế chính
sách ưu đãi ngành sản xuất VLXKN Việt Nam có điều kiện phát triển.
Tính đến nay, cả nước có hơn 800 cơ sở sản xuất VLXKN, tuy nhiên đa số dây chuyền mới
chỉ dừng ở mức độ nhỏ, vừa, manh mún. Các sản phẩm nhập khẩu hiện có giá bán quá cao.
Vì vậy, việc đẩy nhanh sản xuất đa dạng chủng loại sản phẩm VLXKN là rất cần thiết, vừa
đón đầu xu thế phát triển chung của thị trường vật liệu xây dựng, đồng thời tạo thêm một
ngành công nghiệp mới đầy tiềm năng.
Oxy hóa là kỹ thuật đóng vai trò trung tâm trong việc chuyển các chất có nguồn
gốc dầu mỏ thành các chất có giá trị với số oxy hóa cao hơn. Tuy nhiên quá trình
oxy hóa lại gặp rất nhiều vấn đề, chẳng hạn việc sử dụng kim loại nặng lại tạo
thành các chất thải độc hại trong khi những chất oxy hóa êm dịu hơn lại có giá
thành quá cao. Chất oxy hóa rẻ tiền nhất là axit nitric lại tạo ra các nitơ oxit khó
chịu còn oxy phân tử cũng như ozon lại khó có khả năng kiểm soát phản ứng.
Sau tất cả những bất lợi về các phương pháp oxy hóa thông dụng thì HP nổi lên
như một ứng cử viên vô địch đầy sức mạnh với giá thành quá rẻ (0,7$/kg), khả
năng oxy hóa tốt (cái này chẳng ai dám cãi), phản ứng dễ kiểm soát (tí xem thực
nghiệm thì biết) và sản phẩm duy nhất sinh ra từ nó là nước. Chính vì những ưu
điểm trên nên những nghiên cứu về phản ứng oxy hóa bằng HP càng ngày càng
nhiều hơn và nó đang mở ra một con đường mới cho quá trình oxy hóa xanh với
HP là trung tâm.
Các nghiên cứu gần đây cho thấy rằng khả năng oxy hóa của HP sẽ tốt hơn và dễ
điều khiển hơn khi có mặt xúc tác là muối wonfram (VI) (trong trường hợp này là
natri tungstate Na2WO4) và có mặt chất xúc tác chuyển pha:
Phản ứng này đã được sử dụng để tổng hợp chất đến 100g
Dưới đây là hình ảnh thực nghiệm của phản ứng oxy hóa xiclohexen thành axit
adipic
III. Phản ứng oxy hóa không dung môi
Hỏi: Có thể thực hiện phản ứng không dung môi với HP hay không?
Trả lời: Dĩ nhiên là không, vì HP làm gì tồn tại ở thể rắn, còn thể lỏng thì dĩ nhiên
sao gọi là "không dung môi" được
Thực sự nếu đặt ra vấn đề này với các nhà khoa học sẽ bị người ta cười cho đấy
^^
Vào những năm 80 các nhà khoa học Nhật bản đã thành công trong việc điều chế
hydroperoxit "rắn", hay nói chính xác là sản phẩm cộng của hydro peroxit với ure
qua liên kết hydro được xem như một dạng hydro peroxit “rắn” hữu dụng (ure-
hydro peroxt: UHP). UHP là một chất oxy hóa rẻ và an toàn tương tự hydro
peroxit. Do UHP là một chất rắn bền vững nên việc sử dụng nó thuận tiện hơn so
với sử dụng dung dịch nước của hydro peroxit.
Hệ thống này đã được sử dụng để tiến hành các phản ứng oxy hóa không dung
môi và đã cho những hiệu quả hay ho trong thấy
Và một số phản ứng khác:
Một nhóm nghiên cứu thuộc Trung tâm Hóa học xanh – Đại học York (Canada)
đã tạo ra một chất keo dính mới dùng cho thảm ngói giúp giảm đáng kể tác động
đến môi trường.
Các loại ngói thảm hiện nay thường dùng keo dính thông thường để
kết nối các lớp thảm với nhau, khiến việc tái chế chúng trở nên rất
khó khăn. Tại châu Âu, lượng rác từ thảm ngói tại các địa điểm tập
kết rác thải hoặc bị thiêu hủy lên tới 70triệu kg
Nhóm nghiên cứu đã tạo ra một chất keo thay thế có nguồn gốc từ
tinh bột, cho phép bóc tách các lớp thảm và tái chế chúng một cách dễ
dàng.
Các kết quả thử nghiệm cho thấy khả năng kết dính của chất keo này
so với các loại keo thông thường là như nhau; hơn nữa, keo tinh bột không bị rửa trôi
do hơi ẩm và chịu nhiệt cao. Đặc điểm nổi bật của loại keo này là khả năng bám dính
của nó có thể thay đổi được dưới tác động của hóa chất mà không làm hỏng vật liệu
ngói.
Nghiên cứu đã được đăng tải trên Tạp chí Hóa học xanh.
Sang (vista.gov.vn)
(theo congnghemoi)
Các sản phẩm được làm từ nguyên vật liệu và thiết bị có kích cỡ nano đã được
ứng dụng rộng rãi trong lĩnh vực công nghiệp và trên thị trường. Đây là một cơ
hội đang ngày càng lớn dần và việc dùng công nghệ nano có tác dụng như một
đòn bẩy làm giảm thiểu ô nhiễm môi trường, bảo tồn các nguồn tài nguyên và
điều cơ bản là xây dựng nên một nền kinh tế “sạch”. Đây là lời công bố trong
bản báo cáo mới đây của dự án công nghệ nano trọng điểm.
“Một sự phối hợp hợp chặt chẽ giữa công nghệ nano với nguyên tắc cũng như thực
tiễn của ngành hóa học xanh và khoa học xanh đang nắm giữ chìa khóa xây dựng một
xã hội có khả năng chống đỡ được những tác hại của môi trường trong thế kỷ 21”,
chương trình Công Nghệ Nano Xanh kết luận: nó đơn giản hơn những gì chúng ta
nghĩ. Tổng kết các bài nghiên cứu trước đây tại hội nghị chuyên đề của Hội Hóa Học
Mỹ và 4 cuộc hội thảo được tổ chức trong năm 2006, bản báo cáo mới này được viết
bởi nhà khoa học Karen Schmidt thuộc Dự Án Công Nghệ Nano Trọng Điểm, một
sáng kiến của Trung tâm Các Nhà Nghiên Cứu Quốc Tế Woodrow Wilson và tổ chức
từ thiện phi lợi nhuận Pew Charitable Trusts.
Bản báo cáo khám phá mối liên hệ tiềm tàng có lợi giữa công nghệ nano – về bản chất
là khoa học và kỹ thuật thực hiện trên mức độ phân tử - và lĩnh vực hóa học, công
nghệ xanh mà mục đích nhằm làm giảm đến mức tối thiểu các ảnh hưởng đến môi
trường thông qua những cải tiến loại bỏ chất thải và bảo tồn tài nguyên về mặt quy
trình và sản phẩm. Bản báo cáo kết luận bằng những lời về khuyến cáo về các biện
pháp tạo ra sự thay đổi của chính sách liên bang để giúp lĩnh vực công nghệ nano
đang phát triển nhanh chóng này “trưởng thành” thành công nghệ xanh.
Nhà hóa học Vicki Colvin và các cộng sự tại đại học Rice đã khám phá ra các hạt
nano từ tính có kích thước 12 nanomet có thể loại bỏ hơn 99% Arsenic trong dung
dịch, trong khi đó đồng nghiệp của họ tại đại học bang Oklahoma đã chế tạo thành
công những cảm biến có kích thước nano có thể phát hiện các chất gây ô nhiễm tới
nồng độ phần tỉ.
Công nghệ nano mở ra con đường mới đầy hứa hẹn trong việc tạo ra tế bào năng
lượng mặt trời không tốn kém cũng như cải tiến hiệu suất và giảm giá thành của tế
bào nhiên liệu, được xem là nguồn năng lượng cho xe hơi và xe tải trong tương lai.
Đồng thời, những nghiên cứu ở cấp độ nano đang hướng tới những công cụ có khả
năng loại bỏ vật liệu độc hại và làm sạch các địa điểm có chất thải độc hại.
“Công nghệ nano tiềm năng là 'một giấc mơ xanh nhân đôi'. Với công nghệ nano
chúng ta có thể tạo ra những sản phẩm và quy trình xanh ngay từ lúc ban đầu” bà
Barbara Karn, một nhà khoa học môi trường, người tổ chức thành lập chương trình
công nghệ nano xanh nằm trong khuôn khổ dự án công nghệ nano trọng điểm. Theo
Barbara cho biết: "Công nghệ nano cho phép chúng ta thay thế những hóa chất, vật
liệu và quy trình sản xuất truyền thống gây ô nhiễm môi trường bằng những hóa chất,
vật liệu và quy trình thân thiện với môi trường hơn".
Bản báo cáo xác định rõ bốn định hướng (loại, hạng, phạm trù) trong đó những
ứng dụng công nghệ nano và lợi ích môi trường giao cắt nhau:
- Tăng cường các sản phẩm và qui trình sử dụng công nghệ nano thân thiện với môi
trường hay “sạch và xanh”.
- Quản lý các vật liệu nano và sản xuất chúng để giảm đến mức tối thiểu những rủi ro
tiềm ẩn về môi trường, sức khỏe và sự an toàn
- Sử dụng công nghệ nano để làm sạch những các địa điểm có chất thải độc hại và giải
quyết những vấn đề ô nhiễm khác.
- Thay thế sản phẩm hiện tại ít thân thiện với môi trường bằng những sản phẩm tạo ra
từ công nghệ nano xanh.
David Rejeski, giám đốc của dự án những công nghệ nano trọng điểm, phát biểu:
“Chúng tôi nghĩ rằng Mỹ đang đua tranh để trở thành người dẫn đầu toàn cầu về
công nghệ nano xanh. Nghiên cứu quốc gia và danh mục đầu tư phát triển đều nhắm
tới mục đích toàn cầu này. Chúng tôi tin tưởng rằng công nghệ nano xanh có thể
không chỉ giúp bảo vệ môi trường mà còn tạo ra nhiều công ăn việc làm cho người
Mỹ cũng như lợi nhuận kéo theo trong tương lai".
Nhìn về tương lai phía trước khi xét tới những vấn đề môi trường hiện nay, bản báo
cáo đề nghị phương thức bảo vệ môi trường hữu hiệu nhất là nên khuyến khích phát
triển chính sách nano xanh, chính sách này sẽ thúc đẩy mạnh mẽ sự ngăn chặn việc
gây ô nhiễm môi trường.
Xếp loại sự phát triển những phép đo lường để đánh giá điểm mấu chốt gây ảnh
hưởng môi trường với việc sử dụng kết quả thu được của liên bang để thúc đẩy nhu
cầu đối với sản phẩm nano xanh, những giải pháp đề nghị trong bản báo cáo này sẽ hỗ
trợ đảm bảo rằng nguồn vốn đầu tư 8.3 tỉ dola từ người đóng thuế vào công nghệ
nano, tính từ thời điểm cơ quan sáng kiến công nghệ nano quốc gia Mỹ được thành
lập vào năm 2001, được dùng để chi trả cho quốc gia và môi trường.
Paul Anastas, giám đốc của Viện hóa học xanh thuộc hội hóa học Mỹ, cho rằng:
“Chúng ta đang ở giai đoạn không thể chống đỡ được với hiểm hoạ môi trường.
Dường như công nghệ nano không phải là một sự lựa chọn mà nó là một công nghệ
thiết yếu có thể giải quyết được vấn đề này”.
Lam Sơn