You are on page 1of 43

Chính sách đầu tư của Ấn Độ

1) Những nguyên tắc chủ yếu

Các chính sách kinh tế của Ấn Độ, trong đó có chính sách về đầu tư, nhằm thu hút vốn của
doanh nhân nước ngoài vào guồng máy kinh tế Ấn Độ, đồng thời khuyến khích sự hợp tác về
công nghệ giữa các đơn vị kinh tế của Ấn Độ với các đối tác nước ngoài. Chính phủ Ấn Độ
hoan nghênh mọi hình thức đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI : Foreign Direct Investment)
vào Ấn Độ, trên đa số lĩnh vực, ngoại trừ một vài lĩnh vực "nhạy cảm" như: quốc phòng, vận
tải đường sắt, năng lượng nguyên tử. Đơn vị được chính phủ Ấn Độ giao trách nhiệm phụ
trách lĩnh vực đầu tư là Hội đồng xúc tiến đầu tư nước ngoài (FIPB : Foreign Investment
Promotion Board) hoạt động trên cơ sở những nguyên tắc sau đây:

• Không đòi hỏi có sự chuẩn y của chính phủ đối với các dự án đầu tư trực tiếp của
nước ngoài (dưới đây gọi tắt là dự án đầu tư), ngoại trừ một danh sách nhỏ do chính
phủ ấn định (sẽ kể dưới đây).* FIPB phụ trách cứu xét những dự án đầu tư không
được dự liệu trong thành phần các dự án được đương nhiên chấp thuận.

• Mọi trường hợp cứu xét đơn xin đầu tư (những dự án không được đương nhiên chấp
thuận) được hoàn tất trong vòng 30 ngày.

• Các nhà đầu tư nước ngoài được tự do chuyển vốn và lợi nhuận về nước, được sử
dụng nhãn hiệu, thương hiệu nước ngoài để bán hàng hóa trên thị trường Ấn Độ.

• Ấn Độ mở rộng thị trường tư bản cho các nhà đầu tư nước ngoài.

• Các công ty của Ấn Độ được phép gây quỹ từ thị trường tư bản quốc tế.

• Ấn Độ đã ký thỏa hiệp tránh đánh thuế hai lần với 88 quốc gia trên thế giới, và 37
thỏa hiệp bảo hộ đầu tư song phương.

• Chế độ “một cửa” (single window) và "dịch vụ bảo vệ nhà đầu tư” được nhiều bang
tại Ấn Độ áp dụng nhằm giản dị hóa các thủ tục chuẩn y các dự án liên doanh mới.

2) Các lãnh vực và hoạt động đầu tư dưới đây cần có giấy phép đầu tư của chính
quyền Ấn Độ:

- Sản xuất các loại nước uống có cồn.

- Sản xuất xì gà và thuốc điếu cùng các chất thay thế thuốc lá.

- Thiết bị điện tử không gian và quốc phòng dưới mọi hình thức.

- Các loại chất nổ trong công nghiệp bao gồm ngòi nổ, thuốc súng, nitrocellulose và diêm
quẹt.

- Các hóa chất độc hại.

- Dược phẩm và dược liệu.

3) Thủ tục cứu xét đơn xin đầu tư:

Đơn xin đầu tư được gửi đến Văn phòng thư ký về hỗ trợ công nghiệp thuộc Bộ Thương mại
và Công nghiệp hoặc thông qua các cơ sở ngoại giao của Ấn Độ tại nước ngoài. Chính phủ
Ấn Độ cũng đặt hộp thư để tiếp nhận đơn xin đầu tư thông qua mạng Internet, đồng thời qua
mạng Internet, cung cấp cho các nhà đầu tư nước ngoài những hiểu biết cần thiết về chính
sách và thủ tục đầu tư tại Ấn Độ. Thông thường ít xảy ra trường hợp bác bỏ một đơn xin đầu
tư. Trong quá trình cứu xét, nếu còn vướng mắc, nhà đầu tư được tạo điều kiện giải trình cho
FIPB những lợi ích mà dự án có thể mang lại cho nền kinh tế Ấn Độ. Một số tiêu chuẩn sẽ
được FIPB chú trọng như: mức độ đầu tư, công nghệ sẽ áp dụng, tiềm năng xuất khẩu, khả
năng thay thế hàng nhập khẩu và thu hút lao động trong nước.

Về mức độ đầu tư, đối với những dự án phải có sự cứu xét chấp thuận với kinh phí đầu tư từ
6 tỉ rupi (tương đương 130 triệu USD) trở xuống, thuộc thẩm quyền chuẩn y của Bộ trưởng
Công nghiệp, còn trên 6 tỉ rupi, sẽ do FIPB trình cho Uûy Ban phụ trách các vấn đề kinh tế
của nội các (CCEA) quyết định.

4) Việc mở chi nhánh tại Ấn Độ

Các công ty nước ngoài tham gia sản xuất hoặc buôn bán tại Ấn Độ được quyền mở chi
nhánh nhằm các mục tiêu:

- Quản lý các mặt hàng xuất nhập khẩu.

- Thực hiện các dịch vụ chuyên môn hay tư vấn.

- Tiến hành công tác nghiên cứu đang do công ty mẹ thực hiện.

- Xúc tiến hợp tác kỹ thuật và tài chính giữa các công ty của Ấn Độ và công ty mẹ hay các
nhóm công ty ở nước ngoài.

- Đại diện cho công ty mẹ tại Ấn Độ và hành xử như các đại lý mua bán.

- Thực hiện các dịch vụ về công nghệ thông tin và phát triển phần mềm tại Ấn Độ.

- Thực hiện sự hỗ trợ về kỹ thuật đối với những sản phẩm do công ty mẹ cung cấp.

(hoinhap)

FDI vào Ấn Độ tăng kỷ lục trong tháng 11/2009


Posted on October 7, 2010 by admin
Theo mạng tin Business Line, trong tháng 11/2009, Ấn Độ đã thu hút được
1,74 tỷ USD vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), tăng 60% so với mức 1,08 tỷ
USD cùng kỳ năm 2008.

Để khuyến khích nguồn vốn FDI hơn nữa, Bộ trưởng Thương mại và Công
nghiệp Anand Sharma đã công bố tài liệu dự thảo nhằm củng cố chính sách đầu
tư nước ngoài đã được Vụ Chính sách công nghiệp và Xúc tiến thông báo qua
các phương tiện thông tin đại chúng và các thông tư của Ngân hàng trung ương
Ấn Độ (RBI) để hợp nhất thành khuôn khổ chung.

Ông cho biết mục tiêu của khuôn khổ này là tạo ra sự minh bạch hơn về các quy
định hiện hành đối với các nhà đầu tư nước ngoài, nhưng sẽ không thay đổi
những tiêu chuẩn và quy định FDI hiện nay.

Trong bối cảnh suy thoái kinh tế toàn cầu, đây là tháng thứ hai liên tiếp FDI
đạt mức tăng tích cực. Tháng 10/2009 chứng kiến mức tăng 56%, đạt 2,33 tỷ
USD.
Thực tế, báo cáo đầu tư thế giới đã xếp Ấn Độ cùng Trung Quốc, Mỹ, Brazil và
Nga là nhóm 5 nước có triển vọng thu hút FDI mạnh nhất trong giai đoạn năm
2009-2011.

Đối với vấn đề tranh cãi về lĩnh vực ngân hàng tư nhân đang đươc phân loại
theo các tiêu chí FDI công bố trong tháng 2/2009, ông Sharma cho biết Bộ
Thương mại và Công nghiệp đã tích cực thảo luận với Bộ Tài chính và RBI về
vấn đề này.

Trước đó, thông cáo báo chí tháng 2/2009 quy định đầu tư nước ngoài được
chuyển đổi thông qua một công ty đầu tư Ấn Độ (do người Ấn Độ sở hữu và
kiểm soát) thì sẽ không bị xem xét là đầu tư trực tiếp nước ngoài.

Thông cáo cũng nêu rõ, công ty do Ấn Độ sở hữu có 50% cổ phần. Ngược lại,
nếu công ty đầu tư không thuộc sở hữu của người Ấn Độ, đầu tư của công ty sẽ
bị xem là FDI. Do đó, 7 ngân hàng tư nhân là ICICI, HDFC, Yes Bank, Indus
Ind Bank, Federal Bank, ING Vysya và Ngân hàng tín dụng phát triển đang
đứng trước nguy cơ thay đổi phân loại.

Ông Sharma cho biết: “Vấn đề quyền sở hữu các ngân hàng nắm vốn đầu tư
nước ngoài nhưng được xem là ngân hàng của Ấn Độ là có thật. Các cuộc thảo
luận đang được Bộ tài chính, Bộ Công thương và RBI tiến hành. Chúng tôi sẽ
sớm có quyết định quối cùng”./.

Ngô Hải (Vietnam+)


Kinh nghiệm thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) của một số
nước khi đã là thành viên của WTO

Trung tâm TTKT – Viện NCPT TP.HCM


1. Kinh nghiệm Trung Quốc
Thống nhất môi trường pháp lý giữa đầu tư trong nước và nước ngoài
Bài học kinh nghiệm từ thực tế Trung Quốc trong thu hút và sử dụng đầu tư nước
ngoài cho thấy, cần tiến tới xây dựng mặt bằng pháp lý thống nhất cho doanh nghiệp
trong nước và doanh nghiệp đầu tư nước ngoài phù hợp với thông lệ quốc tế. Hầu hết
các quốc gia trên thế giới đều thực hiện chính sách khá thông thoáng, thuận lợi mà
trọng tâm là dành cho đầu tư nước ngoài một số ưu đãi với mức độ khác nhau để thu
hút dòng vốn quan trọng này. Chính sách đó bao gồm hai nội dung cơ bản là: (i) xoá bỏ
một số rào cản của pháp luật hiện hành đối với đầu tư nước ngoài; và (ii) áp dụng các
tiêu chuẩn đối xử thuận lợi trên cơ sở đàm phán.
Thực hiện các chính sách và biện pháp hiệu quả trong thu hút đầu tư nước ngoài
Kết hợp chính sách ưu đãi thuế và cải cách thủ tục hành chính để thu hút đầu tư nước
ngoài, tiến tới thu hút đầu tư nước ngoài qua lợi thế về nhân lực, hạ tầng cơ sở, công
nghệ và chi phí giao dịch. Thực hiện các chính sách ưu đãi đầu tư nước ngoài ở các
vùng có điều kiện kinh tế – xã hội khó khăn. Đổi mới về nội dung và phương thức vận
động, xúc tiến đầu tư theo một chương trình chủ động, có hiệu quả phù hợp với từng
địa bàn; chú trọng xúc tiến đầu tư trực tiếp đối với từng dự án, từng nhà đầu tư có
tiềm năng. Đối với một số dự án lơn, quan trọng, cần chuẩn bị kỹ dự án, lựa chọn đàm
phán trực tiếp với các tập đoàn có tiềm lực về tài chính, công nghệ. Ngân sách Nhà
nước cần dành một khoản kinh phí phù hợp cho công tác xúc tiến đầu tư.
2. Kinh nghiệm ấn Độ
Chiến lược thu hút FDI của các công ty xuyên quốc gia lớn
Trước đây, ấn Độ được coi là quốc gia thuộc thế giới thứ ba và dựa vào chính sách
độc quyền sáng chế lỏng lẻo để rập mẫu các hàng hoá phương Tây, khiến các TNC
thường không tập trung nhiều ở ấn Độ. Tuy nhiên, hiện nay, ấn Độ đang có những
thay đổi trong lĩnh vực nghiên cứu và triển khai ở một số ngành nghề, đặc biệt là
những ngành đang rất phát triển như ô tô, dược phẩm và sản phẩm phần mềm nên các
TNC đã bắt đầu đẩy mạnh đầu tư vào ấn Độ. Để tạo ra sự khác biệt về lợi thế cạnh
tranh với các nước châu á khác, đặc biệt là Trung Quốc, vốn có nhiều lợi thế về lao
động dồi dào và rẻ, ấn Độ không chọn tài nguyên hay lao động giản đơn mà sử dụng
tri thức là “chất xúc tác”, chọn dịch vụ làm thế mạnh để phát triển kinh tế. ấn Độ tập
trung vào công nghệ thông tin, dịch vụ văn phòng, tài chính ngân hàng, nghiên cứu và
chế tác dược phẩm – những lĩnh vực mũi nhọn. Kim ngạch xuất khẩu phần mềm của
ấn Độ trong năm 2004 lên đến 17,2 tỷ USD, tăng 35% so với năm trước. Để có thể
thực hiện được định hướng đó, ấn Độ đã áp dụng một chính sách giáo dục thích hợp
với nhu cầu thời đại. Hàng năm, ấn Độ đào tạo được khoảng hơn 3 triệu cử nhân,
trong số đó nhiều người có trình độ chuyên môn cao về kỹ thuật, kinh doanh hay y
học. Số trường kỹ thuật tính đến năm 2004 đã lên tới khoảng 1.600 trường. Nhờ lợi
thế về tiếng Anh, lao động ấn Độ tiếp thu rất nhanh các ngành khoa học phương Tây,
thích ứng nhanh với những đòi hỏi mới trong lĩnh vực công nghệ thông tin và điện tử.
Hiện nay, một số công ty tin học của ấn Độ dẫn đầu thế giới về phần mềm cũng như
dịch vụ khai thác.
Chính những biện pháp trên, tổng số vốn FDI vào ấn Độ trong những năm gần đây
liên tục tăng, đạt 4,3 tỷ USD năm 2003; 5,3 tỷ USD năm 2004 và 6,0 tỷ USD năm
2005 đạt tốc độ tăng trưởng là 12% năm. Đặc biệt đầu tư FDI vào ấn Độ chủ yếu từ
các công ty xuyên quốc gia (TNC) lớn trên thế giới, đồng thời cũng là nguồn cung cấp
FDI chính cho thế giới. Theo kết quả các cuộc điều tra hàng năm của Hội nghị của
Liên Hợp Quốc về Thương mại và phát triển (UNCTAD), trong hai năm trở lại đây,
theo đánh giá của các TNC, ấn Độ là một địa điểm đầu tư lý tưởng nhất trên thế giới.
Trên thực tế, các TNC đầu tư vào ấn Độ nhiều hơn rất nhiều so với các nước khác
trong khu vực. Tính đến năm 2005, hơn 100 trong số 500 công ty lớn nhất thế giới đã
có mặt tại ấn Độ, trong khi con số này ở Trung Quốc là 33 công ty. Theo thống kê của
Liên đoàn các phòng công nghiệp và thương mại của ấn Độ (FICCI), 70% các công ty
đầu tư vào ấn Độ làm ăn có lãi và con số này đang không ngừng tăng lên. Đây chính
là một trong những nguyên nhân khiến ấn Độ tin rằng trong tương lai, số TNC đầu tư
vào ấn Độ sẽ tăng mạnh.
Ưu tiên phát triển khu vực kinh tế tư nhân
Khu vực tư nhân ấn Độ trong những năm qua phát triển nhanh là nhờ chính sách kinh
tế mới của ấn Độ. Nội dung chính của chính sách này là giảm thiểu vai trò của công
nghiệp quốc doanh từ 17 ngành xuống còn 8 ngành; khuyến khích đầu tư tư nhân vào
các ngành sản xuất; ban hành các luật chống độc quyền và cho phép tư bản được di
chuyển tự do, tư bản nước ngoài có thể làm chủ 51% vốn đầu tư. Đây là một đặc điểm
rất khác của ấn Độ so với các nước đang phát triển khác trong khu vực châu á.
ấn Độ đặc biệt chú trọng phát triển khu vực kinh tế tư nhân. Điều này được thể hiện rõ
khi đầu tư trong nước của khu vự tư nhân tăng 16% năm 2001 – 2002; 17,3% năm
2002 – 2003 và 17,4% năm 2003 – 2004. Đa số các công ty lớn của ấn Độ là các công
ty tư nhân và các công ty này đều có khả năng cạnh tranh với các công ty lớn của thế
giới trong các lĩnh vực như dược phẩm, phần mềm... ấn Độ hiện đang được coi là
“phòng thực nghiệm khoa học kỹ thuật cao của thế giới”. Trong số 200 công ty nhỏ
tốt nhất trên thế giới theo bình chọn của tạp chí FORBES năm 203, ấn Độ có 13 công
ty, trong khi đó Trung Quốc chỉ có 4 công ty (đều ở Hồng Kông).
3. còn Ấn Độ gần đây đã xem xét lại toàn bộ chính sách FDI liên quan đến những vấn đề gây
tranh cãi trong các lĩnh vực như dịch vụ ngân hàng, tài chính, bảo hiểm, bất động sản, cơ sở hạ
tầng và hàng không. Dự kiến chính sách FDI mới sẽ thu hút một lượng lớn vốn đầu tư nước ngoài
đổ vào các lĩnh vực nhạy cảm hiện đang bị cấm như cá cược, nông nghiệp và bán lẻ đa cấp.

Mảng tối ngày càng lộ rõ

Tuy nhiên, bức tranh doanh nghiệp FDI không chỉ có gam màu sáng, mà một số mảng màu
tối ngày càng bộc lộ rõ. Những bất cập trong việc quản lý các doanh nghiệp có vốn FDI
cũng như những bằng chứng về những hậu quả xấu của chúng đối với phát triển kinh tế -
xã hội xuất hiện với mật độ nhiều hơn, như gây ô nhiễm môi trường, công nghệ tiêu tốn
nhiêu năng lượng, nguồn vốn đưa ra từ nước ngoài vào Việt Nam là rất hạn chế, mà chủ
yếu là lợi dụng nguồn vốn ở trong Việt Nam. Sự phát triển thiên về số lượng của doanh
nghiệp FDI có nguy cơ gây thiếu hụt ngoại tệ và rủi ro tỷ giá trong tương lai.

Cơ cấu phân bổ vốn FDI vào Việt Nam hiện nay còn chưa hợp lý. Hiện tại, lĩnh vực dịch vụ
lưu trú và ăn uống thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư vốn FDI nhất, đứng thứ 2 là lĩnh
vực bất động sản.

FDI trong lĩnh vực công nghiệp chế biến đã bị giảm liên tục từ năm 2005 (70,4% năm 2005
xuống 68,9% năm 2006, 51% năm 2007, 36% năm 2008 và còn 13,6% năm 2009).

Không những thế, trong lĩnh vực này, vốn đầu tư chủ yếu tập trung vào công nghiệp lắp ráp
nhằm tận dụng lao động rẻ, có giá trị gia tăng thấp. Trong khi đó, đầu tư vào khai thác tài
nguyên và bất động sản tăng lên. Đầu tư vào lĩnh vực nông, lâm nghiệp và thủy sản vốn dĩ
đã ít lại đang có xu hướng giảm (năm 2006 chiếm khoảng 6% tổng vốn đăng ký, nhưng đến
tháng 11/2008 chưa đạt tới 1%).

Xét về tỷ trọng 1.000 doanh nghiệp đóng thuế thu nhập nhiều nhất trong 03 năm 2007-
2009, nhóm các doanh nghiệp FDI đến từ khu vực châu Á và khu vực Đông Nam Á là nhóm
doanh nghiệp chiếm tỷ trọng lớn. Các doanh nghiệp đến từ khu vực Đông Á như Nhật Bản,
Hàn Quốc, Hồng Kông, Đài Loan chiếm đến gần 50% tỷ trọng tổng thuế thu nhập mà các
doanh nghiệp trong Bảng xếp hạng V1000. Tiếp theo, các doanh nghiệp đến từ châu Âu và
Hoa Kỳ cũng chiếm tỷ lệ cao trong đóng góp thuế thu nhập (21,64%).

Tuy nhiên, các doanh nghiệp của một số nền kinh tế khác đang có lợi nhuận không lớn,
thậm chí thua lỗ, và do vậy đóng góp thuế thu nhập doanh nghiệp còn hạn chế.
Chẳng hạn, theo số liệu thống kê của Chi cục Thuế TP.HCM về kết quả kinh doanh năm
2009 của doanh nghiệp FDI trên địa bàn, gần 60% số doanh nghiệp báo cáo thua lỗ (một
kết quả không phải là bất thường so với những năm trước nên không thể đổ lỗi cho hậu quả
của khủng khoảng kinh tế thế giới).

Sử dụng nhiều tài nguyên thiên nhiên, năng lượng (đặc biệt là điện năng), nhưng hiệu quả
kinh tế và qua đó là đóng góp cho ngân sách một bộ phận doanh nghiệp FDI là rất hạn chế.

Để giải thích cho vấn đề này, có thể nêu ra một nguyên nhân là vấn đề chuyển giá và tránh
thuế. Đây là một lo ngại đã có từ lâu nhưng dường như đang bộ lộ rõ hơn trong hoạt động
của khu vực FDI.

Nhiều doanh nghiệp có vốn FDI đang gây thất thoát về nguồn thu thuế của Nhà nước qua
hiện tượng chuyển giá trong hoạt động thương mại giữa nội bộ công ty nhằm chuyển thu
nhập và lợi nhuận về nước. Bằng việc định giá quá cao các nguyên liệu, máy móc nhập
khẩu đầu vào từ công ty mẹ, trong khi lại bán hàng hóa sản xuất ra cho công ty mẹ với giá
quá thấp, nên các doanh nghiệp này luôn ở tình trạng "thua lỗ", không những không phải
nộp thuế thu nhập doanh nghiệp, mà còn được hoàn thuế giá trị gia tăng.

Cần xác định lại tiêu chí thu hút FDI

Trong bối cảnh đó, cần có sự thay đổi toàn diện về chiến lược thu hút và phát triển doanh
nghiệp FDI. Khi tiệm cận dần tới ngưỡng là nước có thu nhập trung bình, Việt Nam có lẽ cần
có sự chủ động cao hơn trong việc thu hút và lựa chọn đầu tư. Chiến lược xúc tiến đầu tư
(promotion) cần được thay bằng chiến lược hấp dẫn đầu tư (attraction). Tức là, Việt Nam
cần chủ động và có tiêu chí lựa chọn kỹ càng hơn các đối tác chiến lược và các nhà đầu tư
chiến lược.

Ưu tiên cao nhất là khả năng tạo lợi nhuận và sự lan truyền về công nghệ và quản lý của
các nhà đầu tư nước ngoài tiềm năng. Tránh việc thu hút FDI tập trung vào số lượng, nhấn
mạnh vào đóng góp về lượng của FDI, với cái giá phải trả khá lớn về môi trường, tài nguyên
và xã hội. Không phải cứ doanh nghiệp nước ngoài là tốt hơn, là hiệu quả cao hơn và tuân
thủ tốt hơn luật pháp Việt Nam.

Việc lựa chọn đối tác chiến lược có lẽ cần căn cứ vào thực tiễn đầu tư của các doanh nghiệp
FDI ở Việt Nam. Những nền kinh tế có các nhà đầu tư FDI kinh doanh hiệu quả tại Việt Nam,
đóng góp nhiều thuế thu nhập tại Việt Nam cần được coi là các đối tác chiến lược trong
công tác hút đầu tư của Việt Nam.

Xét cho cùng, sự mệnh quan trọng nhất của doanh nghiệp chính là tạo lợi nhuận và qua đó
đóng góp cho xã hội.

Chính vì vậy, bên cạnh việc có các chính sách kiểm soát hoạt động chuyển giá, Nhà nước
và xã hội cần đánh giá cao và có biện pháp tôn vinh đúng mức các doanh nghiệp FDI làm
ăn nghiêm túc, đạt lợi nhuận cao và đóng góp lớn cho ngân sách nhà nước của Việt Nam.

Top 10 doanh nghiệp FDI đóng thuế nhiều nhất Bảng Xếp hạng V-1000
(www.vietnamtop1000.vn)

Nhìn lại chính sách thu hút FDI


"Mặc dù trong 20 năm qua đã có những
thành tựu to lớn, song việc thu hút FDI ở Bà Phạm Chi Lan, Chuyên gia kinh tế cao cấp
nước ta vẫn còn những hạn chế đáng quan tâm, đặc biệt về mặt cấu trúc"

Bàn về vấn đề nhận diện lại chính sách thu hút FDI của Việt Nam hiện nay, Chuyên gia kinh tế cao cấp,

bà Phạm Chi Lan cho rằng, trong hơn 20 năm qua, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào nước ta đã

tăng rất mạnh và trở thành một trong những nguồn lực quan trọng nhất cho sự phát triển kinh tế của

nước nhà. Tuy nhiên, trong chiến lược tái cơ cấu nền kinh tế nước ta hiện nay, cũng rất cần nhìn nhận

lại một số vấn đề trong chính sách thu hút FDI trong thời gian qua để có thể làm tốt hơn trong thời gian

tới.

Một cấu trúc FDI chưa được như mong muốn

Theo bà Phạm Chi Lan, mặc dù trong 20 năm qua đã có những thành tựu to lớn, song việc thu hút FDI

ở nước ta vẫn còn những hạn chế đáng quan tâm, đặc biệt về mặt cấu trúc. Những hạn chế này vừa

phản ánh chiều hướng chính sách, vừa nói lên năng lực tiếp nhận FDI rất cần cải thiện ở nước ta.

Cụ thể, bà Phạm Chi Lan chỉ ra rằng, FDI vào nước ta nhiều nhất trong những ngành, lĩnh vực chúng ta

thực sự cởi mở, ưu tiên phát triển trong từng thời kỳ. Trong khi đó, một số lĩnh vực khác dù được chúng

ta quan tâm kêu gọi FDI nhưng chưa thu hút được nhiều dự án, do chính sách chưa đủ hấp dẫn, chưa

thực sự cởi mở hoặc chưa tạo được niềm tin về năng lực tiếp nhận (như nông nghiệp, kết cấu hạ tầng,

công nghệ cao…).

“Cũng có lẽ do đường hướng công nghiệp hóa của chúng ta chưa đủ mạch lạc, hợp lý, còn mang tính

“lưỡng thể”, lại thực hiện một cách dàn trải, thiếu trọng tâm, chưa dành nguồn lực đối ứng đủ để lôi

cuốn các nhà đầu tư tham gia vào những lĩnh vực ta mong muốn” – bà Phạm Chi Lan cho biết.

Do vậy, dù với hàng ngàn dự án FDI trong công nghiệp, dù FDI đóng góp tới hơn 35% tổng giá trị sản

lượng công nghiệp của Việt Nam, đến nay hầu hết các ngành công nghiệp của chúng ta vẫn chỉ ở trình

độ công nghệ khiêm tốn, tạo được ít giá trị gia tăng, năng lực cạnh tranh hạn chế, cạnh tranh chủ yếu

bằng khai thác giá nhân công rẻ, tài nguyên thiên nhiên thô, và ở vị trí thấp trong chuỗi giá trị khu vực

và toàn cầu. Nông nghiệp, dịch vụ còn khá thấp so với yêu cầu phát triển, và tính liên kết, hỗ trợ cho

nhau giữa ba lĩnh vực còn khá yếu ớt.

Về cấu trúc địa lý, ngay từ đầu FDI tập trung rõ rệt ở vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, nơi có thị

trường nội địa phát triển tốt hơn, gắn kết mạnh hơn với các thị trường khu vực và quốc tế và chính

quyền địa phương cởi mở hơn. Mặc dù một vài năm gần đây các tỉnh miền Bắc và Trung bộ đã có

nhiều nổ lực và thu hút FDI khá hơn, tuy nhiên, cho đến nay bản đồ địa lý FDI của nhà đầu tư vẫn khác

với bản đồ chúng ta muốn lập ra cho họ.


Có những chỗ chúng ta tuyên bố dành ưu tiên cao nhất nhưng họ vẫn chưa sẵn sàng vào, nhiều khu

công nghiệp được mở ra ở các tỉnh trên khắp mọi miền đất nước nhưng tỷ lệ khai thác rất thấp, trong

khi có một số nơi lại quá tải, một số qui hoạch phát triển bị đảo lộn do có quá nhiều cam kết FDI.

Về cấu trúc doanh nghiệp, nếu như trong những năm đầu đa số FDI chọn phương thức liên doanh với

doanh nghiệp trong nước như họ thường làm ở hầu hết các nơi khác trên thế giới, thì càng những năm

sau, phương thức lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài càng trở nên phổ biến hơn, kể cả nhiều

doanh nghiệp liên doanh cũng được họ mua nốt phần đóng góp của phía Việt Nam để trở thành 100%

của họ.

Xu hướng khai thác lợi thế, ưu đãi nhiều hơn là chuyển giao công nghệ

Bà Phạm Chi Lan cho rằng, trong các liên doanh, thì đa số là liên doanh giữa nhà đầu tư nước ngoài

với doanh nghiệp nhà nước của Việt Nam. Ngay cả trong hai, ba năm gần đây, khi người nước ngoài

được mua cổ phần ở các doanh nghiệp trong nước, mối quan tâm lớn nhất của các nhà đầu tư nước

ngoài vẫn là mua cổ phần của các doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hóa của Việt Nam.

Tình hình này được bà Phạm Chi Lan cho là “rất không bình thường” so với FDI ở phần lớn các nước

khác trên thế giới. Tuy nhiên, ở nước ta lại dễ hiểu về vấn đề này, bởi sự ưu đãi cao dành cho doanh

nghiệp nhà nước.

Các nhà đầu tư nước ngoài vì thế đã lựa chọn liên doanh với doanh nghiệp nhà nước để tận dụng

những ưu đãi mà doanh nghiệp nhà nước được hưởng, đặc biệt là quyền tiếp cận với các nguồn lực và

quyền kinh doanh, sự bảo hộ của nhà nước, song sau một thời gian hợp tác, những xung đột về quyền

lợi, về tư duy, về năng lực, về cách vận hành công cuộc kinh doanh khiến họ chia tay nhau.

Hậu quả là tác động lan tỏa của FDI đối với sự phát triển doanh nghiệp ở Việt Nam, nhất là về chuyển

giao công nghệ và tạo mạng lưới liên kết, còn khá hạn chế so với ở nhiều nước khác.

Về cấu trúc luồng đầu tư, khoảng 70% FDI vào nước ta đến từ các nước và vùng lãnh thổ châu Á, và

đa số nhà đầu tư là các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở các nước xuất sứ. Luồng đầu tư từ các nước có

trình độ phát triển cao, thị trường lớn, từ các công ty đa quốc gia còn hạn chế, tuy vài năm gần đây có

khá hơn.

Điều này, bà Phạm Chi Lan cho rằng, có thể do chính sách thu hút FDI của chúng ta chưa thật hướng

trọng tâm vào những nền kinh tế tiên tiến nhất, những công ty hàng đầu trong các lĩnh vực cần quan

tâm, mà còn dàn trải, nặng về nỗ lực thu hút tối đa số lượng dự án và số vốn cam kết từ mọi nguồn.
Cũng có thể do năng lực của chúng ta còn hạn chế, từ việc hiểu và biết cách chơi với các nhà đầu tư

lớn, đến khả năng chọn lựa, thẩm định các đối tác FDI, nhất là ở cấp địa phương.

Nhìn chung cho đến nay luồng FDI vào nước ta tập trung cao vào khai thác nguồn nhân lực giá rẻ, tài

nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý và thị trường nội địa, khai thác những lợi thế so sánh vốn có của Việt

Nam. Cho tới nay chúng ta vẫn chưa có được nhiều dự án có chất lượng cao về công nghệ, về quy mô

kinh tế, về tính bền vững, về năng lực cạnh tranh quốc tế và khả năng kết nối với các chuỗi giá trị toàn

cầu để tạo nên năng lực và lợi thế cạnh tranh mới cho nền kinh tế.

Mặt khác một số lợi thế vốn có như nguồn nhân lực giá rẻ, tài nguyên thiên nhiên đang giảm dần đi,

trong khi những bất cập về FDI chưa giải quyết được, có mặt còn nặng nề hơn, như thiếu nguồn nhân

lực có kỹ năng, thiếu các ngành công nghiệp và dịch vụ phụ trợ, những yếu kém về kết cấu hạ tầng,

vấn đề ô nhiễm môi trường…

Ưu đãi đầu tư ở Việt Nam: Thời điểm cho những thay đổi
28/03/2005 ( 657 lượt đọc )
Cũng như các nước khác trong khu vực, Việt Nam đã đưa ra
nhiều ưu đãi đầu tư hào phóng để thu hút đầu tư. Nhưng hệ thống
hiện tại đã tỏ ra có nhiều điểm yếu và hạn chế.

Ưu đãi đầu tư là một công cụ chính sách nhằm thu hút đầu tư hoặc
định hướng đầu tư theo những mục tiêu phát triển nhất định, đang
được áp dụng tương đối phổ biến trên thế giới, đặc biệt là ở các nước đang phát triển.

Một đánh giá gần đây do Chương trình phát triển kinh tế tư nhân MPDF và Bộ phận tư
vấn dịch vụ đầu tư nước ngoài (FIAS) của Ngân hàng thế giới thực hiện về hệ thống
ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp hiện tại của Việt Nam cho thấy đang có nhiều tồn
tại liên quan đến mức độ phức tạp, tính định hướng, tính công bằng, cách xác định và
quản lý hành chính.

Trong bối cảnh Việt Nam chuẩn bị gia nhập WTO và đang trong quá trình soạn thảo
hai bộ luật quan trọng (Luật đầu tư chung và Luật doanh nghiệp thống nh t), thì đây là
thời điểm thích hợp để nhìn nhận lại hệ thống ưu đãi hiện tại và đưa ra những thay đổi
hướng tới một hệ thống hiệu quả và phù hợp hơn với yêu cầu hội nhập.

Một trong những hệ thống phức tạp nhất khu vực

Theo MPDF/FIAS, hệ thống ưu đãi của Việt Nam là một trong những hệ thống phức
tạp nhất trong khu vực. Có rất nhiều loại ưu đãi đầu tư khác nhau, các ưu đãi đầu tư lại
được quy định rải rác trong các luật và các văn bản dưới luật khác nhau, gây khó khăn
cho các cơ quan Nhà nước trong công tác quản lý ưu đãi đầu tư cũng như cho doanh
nghiệp trong việc nhận biết và tiếp cận ưu đãi đầu tư.

Hơn nữa, có những loại ưu đãi đầu tư được sử dụng nhằm đạt được đồng thời nhiều
mục tiêu khác nhau và đôi khi còn xung đột lẫn nhau, ví dụ như vừa thu hút đầu tư lại
vừa giải quyết công ăn việc làm, phát triển kinh tế địa phương, cân bằng giới và
khuyến khích chuyển giao công nghệ.

Sự phức tạp càng được nhân lên do các địa phương tiếp tục đưa ra các ưu đãi riêng của
địa phương mình một cách tùy tiện để cạnh tranh thu hút đầu tư. Việc áp dụng các
chính sách riêng ban đầu có thể thu hút được một số công ty đầu tư vào địa phương
mình, tuy nhiên có thể gây ra các ảnh hưởng xấu cả về mặt kinh tế và xã hội.

Việc các địa phương cạnh tranh thu hút đầu tư bằng các chính sách ưu đãi đầu tư riêng
ngoài việc làm thiệt hại tới lợi ích chung của cả quốc gia còn làm cho các nhà đầu tư
lừng chừng chờ đợi các chính sách ưu đãi hơn từ các địa phương khác... Sự cạnh trạnh
này thường dẫn đến tình trạng "đua đến kiệt sức" trong nội bộ một quốc gia.

Chính sách ưu đãi đầu tư ở Việt Nam dường như chưa hiệu quả trong thu hút và
khuyến khích các hoạt động đầu tư. ưu đãi đầu tư hiện nay tràn lan và chưa đúng trọng
điểm. Lẽ ra chỉ nên tập trung ưu đãi vào các dự án tác động lớn tới nền kinh tế, tác
động đến chiến lược phát triển chung, vào ngành nghề cần khuyến khích.

Các ưu đãi theo địa bàn đầu tư đối với những vùng khó khăn và đặc biệt khó khăn cần
được xem xét lại, bởi vì vô hình chung là chúng ta đang dùng các ưu đãi này để Šp các
doanh nghiệp thực hiện chức năng xã hội là xóa đói giảm nghèo. Hơn nữa, có những
địa bàn với cơ sở hạ tầng nghèo nàn đến mức ưu đãi đến thế nào cũng không thu hút
được đầu tư.

Hiệu quả của ưu đãi đầu tư chưa cao

Hiệu quả thấp phần lớn là do tình trạng ưu đãi thuế thừa - có nghĩa là có nhiều nhà đầu
tư vẫn thực thi dự án dù không có ưu đãi thuế. Tỷ lệ ưu đãi thừa cao làm giảm một
khoản thuế lớn lẽ ra có thể thu được.

Trong một nghiên cứu gần đây của Dự án "Sáng kiến cạnh tranh Việt Nam" (VNCI)
về tình hình sử dụng ưu đãi đầu tư của doanh nghiệp Việt Nam, có hơn 80% doanh
nghiệp tư nhân đang hưởng ưu đãi thuế thừa nhận rằng ưu đãi không hề tác động đến
quyết định đầu tư của họ.

Điều này cũng có nghĩa là tỷ lệ bao cấp đầu tư là 70%, nói dễ hiểu hơn là để tạo thêm
một khoản đầu tư 100.000 đồng bằng ưu đãi thuế, ta phải từ bỏ 70.000 đồng thuế.
Nhìn từ góc độ tài chính công, một nghiên cứu bao quát hơn ước tính chi phí cho ưu
đãi đầu tư bằng thuế hàng năm vào khoảng 0,7% GDP.

Một hệ thống ưu đãi cần được thiết kế và thực thi sao cho đạt được mục tiêu đặt ra với
chi phí thấp. Nhìn từ góc độ này thì chưa có một đánh giá quy mô nào về hiệu quả của
các hệ thống ưu đãi đầu tư hiện tại ở Việt Nam. Rất có thể tác động thực sự của hệ
thống ưu đãi đầu tư hiện tại bị giới hạn vì quá phức tạp. Nhiều ưu đãi đầu tư được sử
dụng để đồng thời đạt được các mục tiêu khác nhau nên rất có thể có những ưu đãi
triệt tiêu lẫn nhau.

Ngoài ra, những ưu đãi thuế nhằm mục đích giải quyết các vấn đề xã hội (như tạo việc
làm, đa dạng hóa thành phần lao động) cũng không thực sự có hiệu quả vì có thể khiến
các doanh nghiệp áp dụng một cơ cấu lao động nào đó mà cơ cấu này lại giảm tính
cạnh tranh của doanh nghiệp.

Chính nghiên cứu của VNCI cũng chỉ ra rằng chỉ có rất ít doanh nghiệp trong nước
đang đầu tư vào những vùng và ngành nghề trong danh mục được khuyến khích, và
hầu hết các nhà đầu tư đang hưởng ưu đãi thuế là những doanh nghiệp lớn.

Bất cập trong quản lý hành chính ưu đãi đầu tư

Các bất cập đó là:

1. Cấp/quản lý hành chính ưu đãi đầu tư còn mang nặng tính chủ quan do thiếu những
quy định rõ ràng;

2. Các doanh nghiệp khó xác định được mình có đủ tiêu chuẩn được hưởng ưu đãi đầu
tư hay không;

3. Có hiện tượng các doanh nghiệp lợi dụng chính sách ưu đãi đầu tư để thu được các
khoản lợi thuế không chính đáng;

4. Còn tồn tại kẽ hở cho các hành vi cơ hội, tham nhũng do chính sách thiếu minh
bạch.

Nguyên nhân của những vấn đề trên một phần là do các nhà đầu tư phải xin giấy
chứng nhận ưu đãi từ một cơ quan có thẩm quyền chứ không phải cứ đáp ứng các điều
kiện đặt ra là nghiễm nhiên được nhận ưu đãi đầu tư. Ngoài ra còn có những bất cập
do việc các địa phương đua nhau đưa ra những ưu đãi vượt quá thẩm quyền và trái với
các quy định chung của Nhà nước.

Trong số 50 tỉnh, thành phố có ban hành các quy định về chính sách khuyến khích đầu
tư ở địa phương, thì trên 2/3 địa phương quy định các ưu đãi vượt khung chính sách
chung. Nếu Nhà nước xử lý không khéo sẽ có thể gây ra sự thiếu tin tưởng từ phía
doanh nghiệp vào các cơ quan Nhà nước.

Nguyên tắc chống phân biệt đối xử và cam kết WTO cần xem xét

Hiện tại đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài vẫn được điều chỉnh bởi hai luật
riêng. Điều này dẫn đến tình trạng có sự đối xử khác nhau đối với hai khu vực. Ví dụ,
tính trung bình, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chịu thuế suất thuế thu nhập
doanh nghiệp thấp hơn các doanh nghiệp trong nước.

Tuy nhiên, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong nhiều trường hợp lại phải trả
một số chi phí đầu vào với giá cao hơn. Còn có những thiên vị đối với các doanh
nghiệp Nhà nước trong cơ hội tiếp cận nguồn vốn của Nhà nước cũng như các dự án
lớn. Những bất bình đẳng khác còn tồn tại như ưu đãi đầu tư thiên lệch về các đầu tư
mới so với các đầu tư mở rộng; chênh lệch lớn về ưu đãi đầu tư giữa các doanh nghiệp
trong và ngoài khu chế xuất, v.v...
Những ưu đãi đầu tư hiện hành nào không phù hợp với WTO (như những yêu cầu về
tỷ lệ nội địa hóa, yêu cầu liên quan đến xuất khẩu) cần phải được thay đổi hoặc bãi bỏ
để đáp ứng những đòi hỏi của việc gia nhập tổ chức này.

Hệ thống ưu đãi đầu tư cần được thiết kế lại thay vì tiếp tục sửa đổi

Một hệ thống ưu đãi hiệu quả phải đạt được mục tiêu tăng đầu tư với chi phí thấp.
Điều này đòi hỏi hệ thống đó phải: mang tính chọn lọc; qui định rõ ràng, tránh được
những đánh giá, xem xét mang tính chủ quan khi thực hiện; đơn giản và cuối cùng là
phải bình đẳng, minh bạch. Quan trọng hơn cả, hệ thống ưu đãi đầu tư hiệu quả phải
dựa trên cơ sở kết quả hoạt động chứ không dựa trên kế hoạch hay đề xuất.

Một hệ thống ưu đãi hiệu quả phải đạt được mục tiêu tăng đầu tư với chi phí thấp.
Điều này đòi hỏi hệ thống đó phải: mang tính chọn lọc; qui định rõ ràng, tránh được
những đánh giá, xem xét mang tính chủ quan khi thực hiện; đơn giản và cuối cùng là
phải bình đẳng, minh bạch. Quan trọng hơn cả, hệ thống ưu đãi đầu tư hiệu quả phải
dựa trên cơ sở kết quả hoạt động chứ không dựa trên kế hoạch hay đề xuất.

Hệ thống ưu đãi dựa trên hình thức trợ cấp đầu tư ưu đãi được cấp theo tỷ lệ phần trăm
của tổng chi phí đầu tư trong năm tính thuế thu nhập doanh nghiệp và sẽ được khấu trừ
đi từ thuế thu nhập doanh nghiệp là phương thức đã được áp dụng thành công ở một số
nước và có thể phù hợp để áp dụng tại Việt Nam.

Một khảo sát của Ngân hàng quốc tế Nhật Bản (JBIC) cho thấy: Việt Nam được các
nhà đầu tư Nhật Bản đánh giá là điểm đến thứ tư (sau Trung Quốc, Än Độ và Thái
Lan) vì có nguồn nhân công rẻ và có chất lượng tốt. Tuy nhiên, các nhà đầu tư vẫn
phàn nàn về một số tồn tại ở Việt Nam, chủ yếu liên quan đến hệ thống pháp luật, cơ
sở hạ tầng, an ninh và các điều kiện xã hội.

Điều đó cũng có nghĩa là thu hút được đầu tư không chỉ cần riêng hệ thống ưu đãi đầu
tư. Cơ sở hạ tầng, khả năng tiếp cận thị trường, môi trường kinh tế vĩ mô và môi
trường kinh doanh ổn định, quyền sở hữu tài sản rõ ràng, khung pháp luật hợp đồng
minh bạch, thái độ thân thiện của chính quyền đối với doanh nghiệp, v.v... vẫn được
các nhà đầu tư đánh giá là những nhân tố quyết định quan trọng đến hoạt động đầu tư.

Cần có nỗ lực cải thiện hơn nữa những yếu tố cơ bản của môi trường kinh doanh để
Việt Nam có thể là điểm đến hấp dẫn và cạnh tranh hơn cho các nhà đầu tư nước
ngoài.
Là những chính sách ưu đãi mà Nhà nước và chính quyền địa phương dành cho các
Nhà đầu tư trong và ngoài nước khi triển khai thực hiện các Dự án đầu tư cụ thể tại
mỗi địa bàn.

Theo đó, Nhà đầu tư sẽ được hưởng các ưu đãi như: Miễn, giảm tiền thuê đất; Miễn,
giảm tiền thuế sử dụng đất; ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp, Miễn thuế nhập
khẩu đối với thiết bị, máy móc tạo thành tài sản cố định; Ưu đãi bổ sung về thuế đối
với nhà đầu tư sản xuất, kinh doanh hàng xuất khẩu…
Theo Nghị định số 51/1999/NĐ-CP quy định Chi tiết thi hành Luật khuyến khích Đầu
tư trong nước:
Trường hợp ưu đãi, hình thức và mức hỗ trợ đầu tư

1. Nhà đầu tư có dự án đầu tư thuộc diện ưu đãi quy định tại Nghị định này được cơ
quan nhà nước có thẩm quyền xem xét hỗ trợ đầu tư theo pháp luật về đầu tư phát
triển.

2. Nhà đầu tư có dự án đầu tư thuộc diện ưu đãi quy định tại Nghị định số 51, nếu trực
tiếp tham gia xuất khẩu, thì ngoài các hỗ trợ tương ứng từ Quỹ hỗ trợ phát triển còn
được Quỹ hỗ trợ xuất khẩu quốc gia xem xét cho vay tín dụng xuất khẩu với lãi suất
ưu đãi đáp ứng đến 70% tổng số tín dụng để thực hiện hợp đồng xuất khẩu đã ký hoặc
được Quỹ này xem xét bảo lãnh đến 80% tổng số tín dụng thực hiện hợp đồng đó.

Đối với đầu tư trong nước:

Điều kiện ưu đãi đầu tư

Dự án đầu tư đáp ứng một trong các điều kiện sau đây được ưu đãi đầu tư:

Đầu tư vào các ngành, nghề quy định tại Danh mục A phụ lục ban hành kèm theo
Nghị định này. (Nghị định số 51/1999/NĐ-CP ngày 8/7/1999 quy định chi tiết thi
hành Luật khuyến khích đầu tư trong nước (sửa đổi) số 03/1998/QH10.

2. Dự án đầu tư thuộc mọi lĩnh vực, ngành, nghề sản xuất, kinh doanh mà pháp luật
không cấm, có sử dụng số lao động bình quân trong năm ít nhất là:

a) Ở đô thị loại 1 và loại 2: 100 người;

b) Ở địa bàn thuộc Danh mục B hoặc Danh mục C phụ lục ban hành kèm theo Nghị
định này: 20 người;

c) Ở địa bàn khác: 50 người….

Địa bàn ưu đãi đầu tư

Dự án đầu tư vào các địa bàn sau đây được ưu đãi:

1. Địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn thuộc Danh mục B phụ lục ban hành
kèm theo Nghị định này;

2. Địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn thuộc Danh mục C phụ lục
ban hành kèm theo Nghị định này.

Theo Thông tư số 98/2002/TT-BTC hướng dẫn thực hiện Nghị định 51/NĐ-CP hướng
dẫn chi tiết thi hành Luật khuyến khích đầu tư trong nước:

* Các đối tượng được hưởng ưu đãi về thuế theo Luật khuyến khích đầu tư trong
nước, bao gồm:

1- Doanh nghiệp nhà nước;


2- Doanh nghiệp nhà nước chuyển thành công ty cổ phần theo quy định tại Nghị định
số 64/2002/NĐ-CP ngày 19/6/2002 của Chính phủ (thay thế Nghị định số
44/1998/NĐ-CP ngày 29/6/1998 của Chính phủ về chuyển doanh nghiệp nhà nước
thành công ty cổ phần);

3- Doanh nghiệp nhà nước giao cho tập thể người lao động, bán cho tập thể, cá nhân
hoặc pháp nhân theo quy định tại Nghị định số 103/1999/NĐ-CP ngày 10/9/1999 của
Chính phủ;

4- Công ty cổ phần, Công ty trách nhiệm hữu hạn, Công ty hợp danh;

5- Doanh nghiệp tư nhân;

6- Hợp tác xã, Liên hiệp hợp tác xã;

7- Cơ sở giáo dục, đào tạo tư thục, dân lập, bán công; cơ sở y tế tư nhân, dân lập; cơ
sở văn hoá dân tộc được thành lập và hoạt động hợp pháp theo quy định của pháp
luật;

8- Doanh nghiệp của các tổ chức chính trị, chính trị - xã hội, hội nghề nghiệp có đăng
ký kinh doanh theo quy định của pháp luật;

9- Cá nhân, nhóm kinh doanh hoạt động theo Nghị định số 66-HĐBT ngày 2/3/1992
của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) và hộ kinh doanh cá thể đăng ký kinh
doanh theo quy định tại Nghị định số 02/2000/NĐ-CP ngày 3/2/2000 của Chính phủ
về đăng ký kinh doanh;

10- Công dân Việt Nam, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài
thường trú ở Việt Nam, mua cổ phần, góp vốn vào các doanh nghiệp Việt Nam.

Các đối tượng thuộc diện được hưởng chế độ ưu đãi đầu tư chỉ khi:

- Hoạt động đúng ngành nghề đã đăng ký kinh doanh;

- Đã đăng ký nộp thuế với cơ quan thuế;

- Thực hiện đầy đủ các quy định của pháp luật về kế toán, thống kê.

Đối với các cơ sở sản xuất, kinh doanh chưa thực hiện chế độ kế toán, hoá đơn, chứng
từ, số thuế phải nộp hàng tháng được tính theo chế độ khoán doanh thu và tỷ lệ thu
nhập chịu thuế thì không đủ điều kiện để được hưởng ưu đãi về thuế.

Thủ tục:

I. CƠ QUAN TIẾP NHẬN HỒ SƠ ĐĂNG KÝ ƯĐĐT

Theo Thông tư số 02/1999/TT-BKH hướng dẫn trình tự, thủ tục cấp ưu đãi đầu tư
theo Nghị định 51 thì:
Để được cấp ƯĐĐT, nhà đầu tư thuộc các đối tượng áp dụng Luật khuyến khích đầu
tư trong nước (sửa đổi) quy định tại khoản 1, khoản 2, khoản 3, khoản 4, khoản 5,
khoản 6, khoản 7, khoản 8, khoản 9, Điều 2, NĐ 51/1999/NĐ-CP gửi hồ sơ đăng ký
ƯĐĐT đến cơ quan tiếp nhận hồ sơ theo quy định dưới đây:

1. Bộ Kế hoạch và Đầu tư tiếp nhận hồ sơ đăng ký ƯĐĐT của các doanh nghiệp
thành lập theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng các Bộ, Thủ trưởng
các cơ quan có thẩm quyển của Trung ương.

2. Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi tắt là
Sở KH&ĐT) nơi nhà đầu tư thực hiện dự án đầu tư tiếp nhận hồ sơ đăng ký ƯĐĐT
của:

- Các doanh nghiệp do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương (sau đây gọi chung là Chủ tịch UBND cấp tỉnh) quyết định thành lập;

- Doanh nghiệp tư nhân, công ty (kể cả các công ty cổ phần do Chủ tịch UBND cấp
tỉnh phê duyệt phương án cổ phần hoá và quyết định chuyển doanh nghiệp nhà nước
thành công ty cổ phần);

- Liên hiệp hợp tác xã; hợp tác xã kinh doanh những ngành, nghề qui định tại khoản 1,
Điều 13, Nghị định số 16/CP ngày 21/2/1997 của Chính phủ về chuyển đổi, đăng ký
hợp tác xã và tổ chức hoạt động của liên hiệp hợp tác xã (sau đây gọi tắt là NĐ
16/CP);

- Doanh nghiệp, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã của người Việt Nam định cư ở nước
ngoài, của người nước ngoài thường trú ở Việt Nam đầu tư trực tiếp tại Việt Nam,
hoặc của công dân Việt Nam cùng thành lập với người Việt Nam định cư ở nước
ngoài hoặc với người nước ngoài thường trú ở Việt Nam theo Luật Khuyến khích đầu
tư trong nước (sửa đổi);

- Cơ sở giáo dục, y tế, văn hoá có Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động.

3. UBND quận, huyện, thị xã thuộc tỉnh (sau đây gọi tắt là UBND cấp huyện) nơi nhà
đầu tư thực hiện dự án đầu tư tiếp nhận hồ sơ đăng ký ƯĐĐT của: Hợp tác xã không
kinh doanh những ngành, nghề qui định tại khoản 1, Điều 13, NĐ 16/CP; cá nhân,
nhóm kinh doanh hoạt động theo Nghị định số 66/HĐBT ngày 2/3/1992 của Hội đồng
Bộ trưởng (nay là Chính phủ).

Đối với những dự án thực hiện trên phạm vi nhiều địa phương, nhà đầu tư có thể đăng
ký ưu đãi đầu tư tại một trong các địa phương đó.

II. HỒ SƠ ĐĂNG KÝ ƯĐĐT

Nhà đầu tư gửi đến cơ quan tiếp nhận hồ sơ Hồ sơ đăng ký ƯĐĐT gồm 3 yếu tố sau
đây:

1. Đơn đăng ký ƯĐĐT:


Nhà đầu tư có dự án đăng ký ƯĐĐT lần đầu, đơn được khai theo Mẫu MĐƯĐĐT
(kèm theo Thông tư này); đăng ký bổ sung ưu đãi cho dự án đã được cấp ƯĐĐT theo
quy định tại Điều 34 và Điều 46, Nghị định số 51/1999/NĐ-CP thì theo Mẫu MĐ
ƯĐĐTBS (kèm theo Thông tư này).

Đối với các dự án đăng ký bổ sung ưu đãi, phải có thêm Báo cáo kết quả thực hiện dự
án đầu tư, mức và thời hạn ưu đãi đã hưởng (theo Mẫu BC THDA1 kèm theo Thông
tư này).

Đối với các dự án đang thực hiện những nay mới đăng ký ưu đãi đầu tư thì phải có
thêm Báo cáo kết quả thực hiện dự án đầu tư (theo Mẫu BC THDA2 kèm theo Thông
tư này).

Nếu nhà đầu tư có yêu cầu miễn thuế nhập khẩu các thiết bị, máy móc, phương tiện
vân tải chuyên dùng theo quy định tại Điều 26, Nghị định số 51/1999/NĐ-CP thì tự kê
khai trong Đơn đăng ký ƯĐĐT hoặc lập thành danh mục kèm theo đơn (theo Mẫu
DM MMTB kèm theo Thông tư này) và tự chịu trách nhiệm về tính chính xác, trung
thực của danh mục này.

2. Dự án đầu tư hoặc phương án đầu tư hoặc phương án kinh doanh (dưới đây gọi
chung là dự án đầu tư):

Đối với dự án mà Quy chế quản lý đầu tư và xây dựng (ban hành kèm theo Nghị định
số 52/1999/NĐ-CP ngày 08/7/1999 của Chính phủ) quy định phải được cơ quan có
thẩm quyền quyết định đầu tư phê duyệt thì gửi kèm theo bản sao hợp lệ Quyết định
đầu tư.

Dự án đầu tư phải nêu rõ: chủ đầu tư; ngành, nghề đầu tư; địa điểm thực hiện; phương
án kỹ thuật, công nghệ, nhu cầu thiết bị, máy móc, phương tiện vận tải; phương án
huy động vốn; số lao động sử dụng.

3. Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh (bản sao hợp lệ):

Đối với doanh nghiệp Nhà nước mới thành lập chưa làm thủ tục đăng ký kinh doanh
thì thay bằng bản sao hợp lệ Quyết định thành lập doanh nghiệp.

Đối với cá nhân và nhóm kinh doanh hoạt động theo Nghị định số 66/HĐBT ngày 02
tháng 3 năm 1992 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ), là giấy phép kinh
doanh hoặc giấy tờ sẽ thay cho Giấy phép kinh doanh theo quy định của Chính phủ
đối với đối tượng này.

Đối với cơ sở giáo dục, đào tạo tư thục, dân lập, bán công; cơ sở y tế tư nhân, dân lập;
cơ sở văn hoá dân tộc; là Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động.

Đối với các nhà đầu tư đăng ký thành lập cơ sở sản xuất, kinh doanh cùng với đăng ký
ưu đãi đầu tư, thì thay bằng Hồ sơ đăng ký kinh doanh theo quy định hiện hành của
pháp luật.

Các nhà đầu tư là người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài thường trú
ở Việt Nam, sau khi xuất trình các giấy tờ về nguồn gốc của mình theo quy định tại
điểm e và điểm f, khoản 1, Điều 43, Nghị định số 51/1999/NĐ-CP thì tiến hành các
thủ tục như các nhà đầu tư là công dân Việt Nam.

III. TRÌNH TỰ XÉT CẤP ƯĐĐT

1. Đối với các cơ sở sản xuất, kinh doanh đã thành lập:

a) Bộ Kế hoạch và Đầu tư xem xét Hồ sơ đăng ký ƯĐĐT của các doanh nghiệp nói
tại điểm 1, Mục I của thông tư này, lấy ý kiến bằng văn bản của các cơ quan có liên
quan nếu thấy cần thiết để quyết định việc cấp hay từ chối cấp Giấy chứng nhận
ƯĐĐT (Mẫu GCNƯĐĐT-TW), hoặc Giấy chứng nhận ƯĐĐT bổ sung (Mẫu
GCNƯĐĐTBS-TW kèm theo Thông tư này).

b) Sở Kế hoạch và Đầu tư cấp tỉnh xem xét Hồ sơ đăng ký ƯĐĐT của các cơ sở sản
xuất, kinh doanh đã được thành lập thuộc đối tượng qui định tại điểm 2, Mục I của
Thông tư này, lấy ý kiến bằng văn bản của các Sở, Ban, Ngành có liên quan nếu xét
thấy cần thiết, trình Chủ tịch UBND cấp tỉnh quyết định cấp hoặc từ chối cấp Giấy
chứng nhân ƯĐĐT (Mẫu GCNƯĐĐT-ĐF), hoặc giấy chứng nhận ƯĐĐT bổ sung
(Mẫu GCNƯĐĐTBS-ĐF kèm theo Thông tư này).

c) Chủ tịch UBND cấp huyện xem xét Hồ sơ đăng ký ƯĐĐT của các cơ sở sản xuất,
kinh doanh đã được thành lập thuộc đối tượng qui định tại điểm 3, Mục I của thông tư
này, lấy ý kiến bằng văn bản của Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh, các sở, ban, ngành khác
có liên quan trong tỉnh nếu thấy cần thiết, trình Chủ tịch UBND cấp tỉnh quyết định
cấp hoặc từ chối cấp Giấy chứng nhận ƯĐĐT hoặc Giấy chứng nhận ƯĐĐT bổ sung.

2. Đối với các cơ sở sản xuất, kinh doanh đăng ký ƯĐĐT cùng với đăng ký kinh
doanh:

a) Hồ sơ đăng ký ƯĐĐT của các dự án đầu tư gắn với việc thành lập các cơ sở sản
xuất, kinh doanh mà theo quy định của pháp luật phải đăng ký kinh doanh tại Sở Kế
hoạch Đầu tư thì Sở Kế hoạch và Đầu tư thực hiện theo quy định hiện hành về trình
tự, thủ tục thành lập và đăng ký kinh doanh, lấy ý kiến bằng văn bản của các Sở, ban,
ngành có liên quan trong tỉnh nếu xét thấy cần thiết, trước khi trình Chủ tịch UBND
cấp tỉnh quyết định cấp hoặc từ chối cấp Giấy chứng nhận ƯĐĐT. Nếu việc cấp
ƯĐĐT được chấp thuận thì thực hiện cùng một lúc với việc cấp Giấy chứng nhận
đăng ký kinh doanh.

b) Hồ sơ đăng ký ưu đãi đầu tư kèm theo Hồ sơ đăng ký kinh doanh của hợp tác xã
không kinh doanh những ngành nghề quy định tại khoản 1, Điều 13, NĐ 16/CP, của
cá nhân, nhóm kinh doanh hoạt động theo Nghị định số 66/HĐBT ngày 2/3/1992 của
Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ), UBND cấp huyện xem xét cấp Giấy chứng
nhận đăng ký kinh doanh hoặc Giấy phép kinh doanh theo thủ tục qui định hiện hành.
Đồng thời xem xét các điều kiện ưu đãi, lấy ý kiến bằng văn bản của Sở Kế hoạch và
Đầu tư tỉnh, các sở Ban ngành khác có liên quan trong tỉnh nếu thấy cần thiết, trình
Chủ tịch UBND cấp tỉnh quyết định cấp hoặc từ chối cấp Giấy chứng nhận ƯĐĐT
cho nhà đầu tư.

3. Đối với trường hợp điều chỉnh, bổ sung ƯĐĐT:


Đối với dự án đã được cấp ƯĐĐT, trong quá trình thực hiện dự án, nếu nhà đầu tư
đăng ký bổ sung ưu đãi do đáp ứng thêm điều kiện ưu đãi theo quy định tại Điều 34,
Nghị định số 51/1999/NĐ-CP thì cơ quan đã tiếp nhận và thụ lý hồ sơ đăng ký ƯĐĐT
xem xét và trình thủ trưởng có thẩm quyền quyết định việc điều chỉnh, bổ sung
ƯĐĐT.

Trường hợp nhà đầu tư không đáp ứng đủ điều kiện để tiếp tục được hưởng ưu đãi thì
thông báo bằng văn bản cho cơ quan tiếp nhận hồ sơ đăng ký ƯĐĐT để cơ quan này
xem xét và trình thủ trưởng có thẩm quyền quyết định việc điều chỉnh một phần hoặc
rút bỏ toàn bộ ưu đãi đã cấp.

Trường hợp cấp Giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư bổ sung thì thu hồi Giấy chứng nhận
ưu đãi đầu tư đã cấp.

Trường hợp rút bỏ toàn bộ ưu đãi thì gửi quyết định thu hồi Giấy chứng nhận ƯĐĐT
đến các cơ quan liên quan đến việc thực hiện các nội dung ưu đãi.

4. Đối với trường hợp có đề nghị miễn thuế nhập khẩu thiết bị, máy móc, phương tiện
vận tải chuyên dùng:

a) Thiết bị, máy móc, phương tiện vận tải chuyên dùng được miễn thuế nhập khẩu
phải phù hợp với mục tiêu đầu tư và phương án kỹ thuật, công nghệ ghi trong dự án
đầu tư, hoặc quyết định đầu tư (nếu có).

b) Cơ quan thụ lý hồ sơ căn cứ vào Đơn đăng ký ưu đãi đầu tư, Dự án đầu tư, Quyết
định đầu tư (nếu có), đối chiếu với Danh mục các loại máy móc, thiết bị và phương
tiện vận tải chuyên dùng trong nước đã sản xuất được (Ban hành kèm theo Quyết định
số 214/1999/QĐ-BKH ngày 26/4/1999 của Bộ Kế hoạch và đầu tư) để xác định
những máy móc, thiết bị, phương tiên vận tải chuyên dùng mà trong nước chưa sản
xuất được và trình thủ trưởng có thẩm quyền cấp ƯĐĐT quyết định.

Nếu nhà đầu tư nhập khẩu dây chuyền thiết bị, máy móc đồng bộ thuộc loại trong
nước chưa sản xuất được nhưng trong dây chuyền đồng bộ đó có cả loại thiết bị, máy
móc trong nước đã sản xuất được thì được miễn thuế nhập khẩu cho cả dây chuyền
thiết bị, máy móc đồng bộ đó.

Ngoài trường hợp trên, cơ quan thụ lý hồ sơ xem xét mục tiêu của dự án và yêu cầu
của thị trưởng về chất lượng sản phẩm được sản xuất ra để xác định những thiết bị,
máy móc, phương tiện vận tải chuyên dùng trong nước đã sản xuất được nhưng chưa
đáp ứng yêu cầu chất lượng đối với dự án đó. Nếu xét thấy cần thiết, có thể lấy ý kiến
các cơ quan quản lý chuyên ngành cùng cấp trước khi trình thủ trưởng có thẩm quyền
quyết định.

c) Danh mục những máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải chuyên dùng được miễn
thuế nhập khẩu được ghi vào Giấy chứng nhận ƯĐĐT hoặc Giấy chứng nhận ƯĐĐT
bổ sung; danh mục quá dài thì ghi thành phụ lục kèm theo (Mẫu DM HHNKMT-TW
đối với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, hoặc Mẫu DM HHNKMT-ĐP đối với UBND cấp
tỉnh).
d) Trường hợp nhà đầu tư có dự án trước đây đã được cấp Giấy chứng nhận ƯĐĐT
trong đó có nội dung miễn thuết nhập khẩu nhưng chưa được Bộ Thương mại quyết
định Danh mục hàng hoá nhập khẩu miễn thuế thì gửi công văn đề nghị miễn thuế
nhập khẩu kèm theo hợp đồng nhập khẩu đến cơ quan đã cấp Giấy chứng nhận
ƯĐĐT. Trong công văn nêu rõ tên, quy cách hoặc ký mã hiệu, số lượng từng loại máy
móc, thiết bị, phương tiên vận tải chuyên dùng đề nghị miễn thuế nhập khẩu. Cơ quan
tiếp nhận hồ sơ đăng ký ƯĐĐT đối chiếu với những điều kiện nói trên để có công văn
thông báo cho nhà đầu tư và Hải quan cửa khẩu nơi thực hiện thủ tục nhập khẩu hàng
hoá biết và thực hiện.

IV. THỜI HẠN XÉT CẤP ƯĐĐT

Việc cấp mới Giấy chứng nhận ƯĐĐT, cấp bổ sung ƯĐĐT được thực hiện trong thời
hạn không quá 20 ngày làm việc, kể từ ngày cơ quan tiếp nhận hồ sơ nhận đủ hồ sơ
hợp lệ.

Hồ sơ hợp lệ là hồ sơ có đủ các yếu tố hợp lệ quy định tại Mục II của thông tư này.

Trường hợp hồ sơ không hợp lệ, trong thời hạn không quá 3 ngày làm việc, kể từ
ngày nhận hồ sơ, cơ quan tiếp nhận hồ sơ phải thông báo cho nhà đầu tư biết để bổ
sung, hoàn chỉnh hồ sơ.

Ngày nhận hồ sơ là ngày cơ quan tiếp nhận hồ sơ trực tiếp nhận hồ sơ hoặc ngày nhận
theo dấu của bưu điện nơi nhận nếu hồ sơ gửi qua bưu điện.

Việc giảm bớt một phần hoặc rút bỏ toàn bộ ưu đãi đầu tư được thực hiện trong thời
hạn không quá 5 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được thông báo của nhà đầu tư về
việc không đáp ứng đủ điều kiện để được hưởng ưu đãi.

Trường hợp từ chối cấp Giấy chứng nhận ƯĐĐT, cơ quan tiếp nhận hồ sơ phải thông
báo lý do bằng văn bản cho nhà đầu tư biết.

Các cơ quan quản lý nhà nước khi được hỏi ý kiến về ưu đãi đầu tư có trách nhiệm trả
lời bằng văn bản trong thời hạn không quá 7 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được văn
bản hỏi ý kiến; quá thời hạn này mà không có văn bản trả lời thì coi như đồng ý.

Đối với Doanh nghiệp có Vốn đầu tư nước ngoài:

Tuỳ thuộc vào từng Dự án cụ thể và theo từng địa bàn riêng mà Nhà đầu tư nước
ngoài trực tiếp đầu tư sẽ được hưởng chính sách ưu đãi chung theo:

- Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1996; luật sửa đổi, bổ sung một số điều
của luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 2000;

Nghị định số 24/2000/NĐ-CP ngày 31 thỏng 7 năm 2000 của Chính phủ quy định chi
tiết thi hành Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam và

Nghị định số 27/2003/NĐ-CP ngày 19/03/2003 sửa đổi bổ sung Nghị định số
24/2000/NĐ-CP;
Thông tư số 22/TT-BTM ngày 15/12/2000 của Bộ Thương Mại: hướng dẫn thực hiện
Nghị định số 24/2000/NĐ-CP của Chính Phủ quy định chi tiết thi hành Luật Đầu tư
nước ngoài tại Việt Nam về xuất nhập khẩu và các hoạt động thương mại khác của
các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài;

Thông tư số 12/2000/TT-BKH ngày 15/9/2000 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư hướng dẫn


hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam;

Đồng thời, Nhà đầu tư cũng được hưởng các chính sách ưu đãi đầu tư khác do địa
phương ban hành nhằm thu hút đầu tư trên địa bàn tỉnh/ thành phố địa phương.

Thời hạn và giá thuê đất

Ngày 09 tháng 09 năm 2010

Thời hạn và giá thuê đất

Thời hạn và giá thuê đất


Hoạt động đầu tư trực tiếp theo Luật Đầu tư nước ngoài và Luật Khuyến khích đầu tư
trong nước được xét cho thuê đất tại Thái Bình thời hạn đến 49 năm và thực hiện cùng
một mức giá theo các khu vực (quy đổi về đồng đô la Mỹ) như sau:

1. Đất tại các khu đô thị:


a. Đất nội thành:
- Các dự án nằm trong danh mục đặc biệt khuyến khích đầu tư và dự án khuyến khích
đầu tư theo phụ lục Nghị định số 24/2000/NĐ-CP ngày 31/7/2000 của Chính phủ về
đầu tư trực tiếp nước ngoài, dự án trong danh mục A của Nghị định 51/1999/NĐ-CP
ngày 8/7/1999 của Chính phủ và dự án sử dụng từ 50 lao động trở lên theo Luật
Khuyến khích đầu trong nước (sau đây gọi chung là dự án ưu đãi đầu tư), giá thuê đất
là 0,18 USD/m2/năm (mức giá thấp nhất trong khung giá theo Quyết định
189/2000/QĐ-BTC ngày 24/11/2000 của Bộ Tài chính).
- Các dự án còn lại: Giá thuê đất từ 0,19 - 0,8 USD/m2/năm.
b. Đất thị trấn:
- Giá thuê đất áp dụng chung cho các dự án là 0,18 USD/m2/năm.
- Các dự án sản xuất, chế biến sản phẩm nông nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản đơn giá
thuê đất bằng 50% mức quy định trên.

2. Đất không phải đô thị:


a. Đất khu dân cư, đất chuyên dùng:
- Các dự án thuộc diện ưu đãi đầu tư, giá thuê đất là 0,03 USD/m2/năm.
- Các dự án còn lại: Đơn giá thuê đất từ 0,04 - 0,09 USD/m2/năm.
b. Đất không phải là khu dân cư, không phải đất chuyên dùng: Giá thuê đất cho các
dự án đầu tư từ 50 USD/ha/năm đến 150 USD/ha/năm.
Các dự án sản xuất, chế biến sản phẩm nông nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản đơn giá thuê
đất bằng 50% mức quy định trên.

3. Đất tại các khu công nghiệp; cụm công nghiệp ven quốc lộ và các làng nghề.
a. Giá thuê đất thô trong các khu công nghiệp: Phú Khánh, Nguyễn Đức Cảnh, Tiền
Phong là 0,13 USD/m2/năm; Khu công nghiệp Diêm Điền là 0,1 USD/m2/năm.
b. Đất tại các khu công nghiệp ven quốc lộ 10, 39A, 39B (ngoài nội thị xã, thị trấn)
giá thuê đất là 0,1 USD/m2/năm.
c. Đất tại các làng nghề giá thuê đất là 0,06 USD/m2/năm.

4. Mặt nước, mặt biển:


a. Mặt nước sông, hồ giá thuê đất cho các dự án từ 75USD/ha/năm đến
260USD/ha/năm.
b. Mặt biển giá thuê đất cho các dự án từ 150USD/km2/năm đến 300USD/km2/năm.

5. Giá thuê đất bãi bồi ven biển, ven sông thực hiện theo Quyêt định số
251/2000/QĐ-UB ngày 14/4/2000 của UBND tỉnh.

6. Miễn tiền thuê đất:


a. Các dự án đầu tư nước ngoài tại Thái Bình và các dự án đầu tư nằm trong danh mục
A Nghị định số 51/1999/NĐ-CP của Chính phủ, dự án sử dụng từ 50 lao động trở lên
theo Luật Khuyến khích đầu tư trong nước được miễn giảm 7 năm và được giảm 50%
tiền thuê đất trong 15 năm tiếp theo để tái đầu tư, đổi mới công nghệ, nâng cao năng
lực sản xuất, chất lượng sản phẩm, mở rộng thị trường tieu thụ cho doanh nghiệp.
b. Đất trong vùng quy hoạch: Nhà đầu tư, doanh nghiệp đầu tư nếu xây dựng nhà
chung cư cao tầng, trung tâm thương mại, dịch vụ, văn phòng từ 7 tầng trở lên (không
kể tầng hầm) đối với đất ngoài thị xã và 11 tầng trở lên đối với đất nội thị xã được
miễn tiền thuê đất đối với diện tích xây dựng trong thời gian thuê đất.

7. Nhà đầu tư, doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài đang đầu tư tại Thái Bình
nếu vận động thêm nhà đầu tư mới về đầu tư tại Thái Bình mà dự án mới có hiệu quả
kinh tế-xã hội cao ngoài thời gian được ưu đãi trên sẽ được giảm 30 % tiền thuê đất
trong thời gian thuê đất còn lại của dự án.

iệt Nam: Thiên đường FDI, thiên đường cho ai?


Tác giả: Lê Nhung
Bài đã được xuất bản.: 12/08/2010 06:00 GMT+7

Theo ông Trần Đình Thiên, phân nửa số Doanh nghiệp (DN) FDI hoạt động ở
Việt Nam khai lỗ. Không phải chỉ lỗ 1, 2 năm mà lỗ triền miên. Điều này thật là
lạ. Tại sao tại một thiên đường đầu tư mà đa số các nhà đầu tư vẫn kêu lỗ? Mà
kêu lỗ triền miên như vậy sao không thấy mấy nhà đầu tư nước ngoài bỏ đi?
Nhiều khi tôi trộm nghĩ có phải chính vì cái sự "lỗ" này mà Việt Nam trở thành
thiên đường đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài không? Chỉ có thể giải thích
là việc kêu lỗ như vậy để trốn thuế và để chuyển giá.

LTS: Tuần Việt Nam trao đổi với TS Trần Đình Thiên, Viện trưởng Viện Kinh tế Việt
Nam.

Theo ông, cơ cấu thu hút FDI vào Việt Nam hiện nay có những vấn đề gì đáng lưu ý?
Ông Trần Đình Thiên: Thành tích lớn nhất của thu hút FDI mấy chục năm qua là
thúc đẩy tăng trưởng, góp phần chuyển dịch cơ cấu, nâng cao trình độ công nghệ,
giúp mang lại phương thức kinh doanh mới cho nền kinh tế.

Nhưng nhìn toàn cục và dài hạn, nếu ta khôn ngoan hơn thì lợi ích có được từ FDI
chắc chắn còn lớn hơn, sức lan toả phát triển còn mạnh mẽ hơn nữa. Nếu nhìn FDI từ
mục tiêu cải thiện cơ cấu công nghiệp, nâng cấp nguồn nhân lực, liên kết với doanh
nghiệp trong nước, giúp các doanh nghiệp Việt Nam tham gia hiệu quả vào chuỗi giá
trị toàn cầu - cái đáng được coi là mục tiêu hàng đầu của việc thu hút FDI - thì chưa
làm được bao nhiêu. Nhiều dự án FDI còn tạo ra tranh chấp nguồn lực phát triển gay
gắt với các doanh nghiệp trong nước, gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng.

Các dự án nước ngoài đăng ký đầu tư cho đến nay vẫn chủ yếu tập trung vào khai thác
tài nguyên, đất đai và một số ngành dịch vụ gắn với lợi thế tự nhiên - như resort và
sân golf chẳng hạn. FDI đổ vào các ngành công nghệ cao, tạo ra lợi thế cạnh tranh
mới cho nền kinh tế còn rất khiêm tốn.

Có thể nói FDI trong thời gian qua chủ yếu đóng vai trò là công cụ thực hiện mô hình
tăng trưởng hướng tới tốc độ tăng trưởng GDP chứ chưa nhằm mục tiêu ưu tiên chiến
lược là cải thiện chất lượng tăng trưởng, nâng cao trình độ công nghệ của nền kinh tế
và của các doanh nghiệp Việt Nam.

Có vẻ thành tích thu hút FDI những năm qua bây giờ mới bộc lộ rõ hạn chế, giống
như mặt trái của tấm huân chương. Để đến mức như vậy, theo ông mọi cái sai bắt
nguồn từ đâu?

- Từ việc chúng ta duy trì quá lâu một mô hình tăng trưởng "chiều rộng", đi liền với
đó là một hệ thống thể chế mang tính thiên vị, phân biệt đối xử giữa các doanh nghiệp
thuộc những khu vực kinh tế khác nhau. Từ định hướng ưu tiên "chiều rộng", nặng về
tốc độ tăng trưởng, trong điều kiện một nền kinh tế lúc đầu rất khát vốn, việc thu hút
FDI được xét duyệt có phần dễ dãi, coi nhẹ các yêu cầu chất lượng và các mục tiêu
dài hạn, ít chú ý và chưa khuyến khích đúng mức các dự án FDI có tiềm năng đóng
góp cải tạo cơ cấu, tạo hiệu ứng lan tỏa phát triển ra khu vực doanh nghiệp nội địa,
giúp tạo lập vị thế "chuỗi toàn cầu" của sản phẩm Việt Nam, v.v.

Đây là một thực tế mà hậu quả chỉ bộc lộ sau một thời gian dài. Khi đó thì, ôi thôi,
nền kinh tế đã lâm vào tình thế "ăn năn thì đã muộn".
"Nhiều khi tôi trộm nghĩ có phải chính vì cái sự "lỗ" này mà Việt Nam
trở thành thiên đường đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài không?
Chỉ có thể giải thích là việc kêu lỗ như vậy để trốn thuế và để chuyển
giá". Ảnh: Lê Nhung.

Tận dụng chính sách ưu đãi thu hút đầu tư nước ngoài những năm qua, các DN nước
ngoài tập trung đầu tư vào những lĩnh vực có nhiều ưu đãi nhất, có nhiều khe hở chính
sách nhất, nhờ đó, dễ kiếm lợi nhất. Như khai thác tài nguyên, sản xuất xi măng, thép,
sử dụng lao động gia công chất lượng thấp. Đó là những ngành công nghệ thường là
không cao, được hưởng lợi nhiều nhờ vốn. Nhưng đó cũng thường là những ngành
tranh chấp các nguồn lực khan hiếm - điện, nước sạch, nguyên liệu, nhân lực, mặt
bằng, thậm chí, cả vốn ngân hàng - với các doanh nghiệp trong nước một cách quyết
liệt. Và trong cuộc cạnh tranh này, nói chung các doanh nghiệp trong thường bị yếu
thế hơn.

Hậu quả lâu dài là đến khi công nghiệp trong nước phát triển thì tài nguyên cạn kiệt.

Phát triển dễ dãi theo kiểu như vậy liệu có bền vững không? Đây cũng là vấn đề gắn
với mô hình tăng trưởng, gắn với tầm nhìn chiến lược.

Vậy ông lý giải thế nào khi có quan điểm cho rằng việc các nhà đầu tư ồ ạt đổ vốn
vào Việt Nam có chứng tỏ Việt Nam có môi trường đầu tư tốt, nền kinh tế phát triển
ổn định?

- Việt Nam luôn cố gắng để trở thành "thiên đường" đầu tư. Nhiều ý kiến quốc tế
đánh giá một cách không khách sáo rằng Việt Nam đang là địa chỉ đầu tư hấp dẫn bậc
nhất thế giới. Có vẻ là thiên đường thật, Trên thực tế, Việt Nam có sức cạnh tranh thu
hút đầu tư rất mạnh, vượt trội nhiều nền kinh tế khác. Thành tích thu hút dự án và vốn
đầu tư nước ngoài của Việt Nam có lẽ ít nước sánh được. Thành tích đó là có thật,
không thể phủ nhận.
Nhưng vẫn rất cần "lật" mặt sau của tấm huy chương lên để xem xét. Nghe ai khen
quê mình là thiên đường đầu tư thì sướng tai thật. Nhưng cần lưu ý rằng cho đến bây
giờ, sau 25 năm thu hút FDI được coi là thành công, với 35-40 tỷ USD đã vận hành
thực tế, cơ cấu kinh tế của Việt Nam vẫn nặng về khai thác tài nguyên và gia công,
lắp ráp. Hãy nhìn vào cơ cấu xuất khẩu, nơi FDI có vị thế nổi bật nhất mà xem, - đến
70-75% kim ngạch xuất khẩu vẫn là khoáng sản thô, sản phẩm gia công hay lắp ráp
đơn giản. Với cơ cấu kinh tế dịch chuyển như vậy; lực lượng doanh nghiệp bản địa
lớn lên chậm như vậy, môi trường bị ô nhiễm nhiều như vậy, sau khi đã thu hút được
nhiều chục tỷ USD FDI như phân tích ở trên thì phải đặt ra câu hỏi "Việt Nam là thiên
đường đầu tư của ai vậy?"

Còn có câu chuyện khác nữa. Đó là có đến hơn nửa số DN FDI hoạt động ở Việt Nam
khai lỗ. Không phải chỉ lỗ 1, 2 năm mà lỗ triền miên. Điều này thật là lạ. Tại sao tại
một thiên đường đầu tư mà đa số các nhà đầu tư vẫn kêu lỗ? Mà kêu lỗ triền miên như
vậy sao không thấy mấy nhà đầu tư nước ngoài bỏ đi? Nhiều khi tôi trộm nghĩ có phải
chính vì cái sự «lỗ» này mà Việt Nam trở thành thiên đường đầu tư của các nhà đầu tư
nước ngoài không?

Chỉ có thể giải thích là việc kêu lỗ như vậy để trốn thuế và để chuyển giá. Điều này có
nguyên nhân từ những sơ hở chính sách.

Vì một mặt họ khai lỗ để tránh thuế (tận dụng ưu đãi thuế của Chính phủ dành cho
họ), để chuyển giá. Mặt khác, họ vẫn tiếp tục "xơi ngon" các thứ tài nguyên khan
hiếm mà đáng ra doanh nghiệp trong nước phải được ưu tiên tiếp cận, được ưu đãi
khai thác để lớn nhanh. Nên nhớ rằng kể cả trong trường hợp khai lỗ thật, nhưng việc
FDI tập trung nhiều vào khai thác tài nguyên vẫn mang lại cho các đối tác nước ngoài
những lợi ích chiến lược khác, ngoài mục tiêu lợi nhuận trực tiếp, ngắn hạn.

Chúng ta phải đặt câu hỏi: tại sao số dự án thép lại đổ vào Việt Nam nhiều như vậy?
tại sao dự án khai thác xi măng lại nhiều như vậy? Rồi sân golf, resort, v.v. Chỉ riêng
vùng đất Vũng Áng - Hà tĩnh bé nhỏ đã chứa mấy dự án thép khổng lồ, với công suất
lên tới 18-20 triệu tấn. Hay như tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, với lợi thế tuyệt vời về du
lịch, lại có đến 15-18 dự án thép, với công suất lên tới hàng chục triệu tấn. Hình như
tỉnh nào cũng tận lực mời gọi các nhà đầu tư nước ngoài về để khai thác nhanh tài
nguyên của địa phương mình, với những điều kiện ưu đãi nhất. Có người gọi đó là
cuộc đua cùng xuống đáy. Đúng như vậy đấy. Nguồn thu ngân sách địa phương tăng
nhanh, một ít việc làm được tạo ra, một số người giàu lên, v.v. - bảng thành tích ngắn
hạn đẹp đẽ, có tính "nhiệm kỳ" che lấp mất những tổn hại chiến lược quốc gia dài hạn.
Đó là điều phải suy nghĩ một cách nghiêm túc và khách quan.

Chính phủ đang kêu gọi đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế giai đoạn 2011 - 2020
theo hướng nâng cao năng suất, hiệu quả và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế.
Theo ông, thu hút đầu tư nước ngoài giai đoạn tới cần tái cấu trúc thế nào để bắt
nhịp với mục tiêu nói trên?

- Muốn thay đổi chiến lược FDI thì phải thay đổi mô hình tăng trưởng. Nhưng nếu để
thay đổi mô hình tăng trưởng thì phải khởi động từ những mảng, những vấn đề cụ thể,
ví dụ từ việc thay đổi quan niệm về vai trò và chức năng của các thành phần kinh tế,
từ chiến lược FDI và từ những thứ khác nữa.
Thử triển khai cách tiếp cận đó từ trục cốt lõi là xây dựng nền công nghiệp hiện đại.
Rõ ràng, với nội lực trong nước, cũng không có cơ sở nào để xây dựng nhanh nền
công nghiệp hiện đại. Mà nền công nghiệp hiện đại thì lại có nền tảng là các ngành
công nghiệp hỗ trợ. Vậy mà đối với Việt Nam, sau mấy chục năm chuyển đổi và tiến
hành CNH, HĐH, cho đến nay, công nghiệp phụ trợ vẫn không phát triển, cơ bản vẫn
dừng lại ở vạch xuất phát.

Các DN nước ngoài đầu tư vào Việt Nam có mục tiêu tối cao là lợi nhuận, chứ không
phải sang để giúp Việt Nam xây dựng nền công nghiệp hiện đại. Vì vậy, họ muốn tận
dụng lợi thế của Việt Nam khi phát triển công nghiệp phụ trợ để kiếm lợi nhuận tối
đa. Tuy nhiên, Việt Nam loay hoay mãi vẫn không xây dựng và phát triển nổi các
ngành công nghiệp hỗ trợ. Mà không có công nghiệp hỗ trợ thì doanh nghiệp Việt
Nam không thể kết nối vào chuỗi giá trị toàn cầu. Trên thực tế, cho đến nay, chúng ta
chưa tạo lập được những cơ sở kết nối đó. Có nghĩa là chúng ta đã không hội nhập
được từ ngay trên đất nước mình, ngay cả khi các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư tận
nơi để tạo sự kết nối như vậy.

Mười năm trước, khi ta đang thu hút nhiều vốn đầu tư bằng mọi giá, mọi cách có thể
được thì chiến lược FDI khác. Nhưng rõ ràng, không thể áp dụng chiến lược đó vào
Việt Nam tại thời điểm này.

Kết quả sau 10 năm đầu tiên thu hút FDI có thể nói là thắng lợi. Nhưng 10 - 15 năm
tiếp sau đó là những cảnh báo nguy cơ thua cuộc trong chiến lược FDI với nhiều hệ
quả khác nhau.

Thời gian tới, chúng ta cần thay đổi những điểm mấu chốt nào để phát huy vai trò
của FDI?

Trước hết là phải thay đổi mấy quan niệm lớn. Một là quan niệm về khu vực kinh tế
chủ đạo mà không có nguyên tắc rõ ràng, dẫn tới chỗ phân biệt đối xử "theo lý lịch"
giữa các thành phần kinh tế, tạo ra bất bình đẳng trong phát triển. Hai là thay đổi quan
niệm về nền công nghiệp hiện đại với cấu trúc nền tảng chính là công nghiệp hỗ trợ.
Tiếp theo đó, chức năng của các khu vực kinh tế phải được định rõ - kinh tế nhà nước
có chức năng gì là chính, kinh tế tư nhân và FDI có những vai trò chức năng gì? Từ
đó mới xác định đầu tư theo hướng nào cho hiệu quả. Đừng để lợi ích trước mắt, cục
bộ làm mờ mắt. Nếu hướng trọng tâm vào phát triển công nghệ cao thì phải hạn chế
khai khoáng. Chức năng FDI là gì trong quan hệ với các khu vực phải xác định rõ để
đưa ra điều kiện lựa chọn, đánh giá và thẩm định chiến lược.

Ví dụ, các địa phương có nhiều titan phải đứng trước hai lựa chọn, nếu khai thác titan
thì thôi làm du lịch. Chọn lựa phương án nào cho hợp lý để tránh xung đột, mâu thuẫn
về lợi ích.

Phải đưa ra những quy tắc trò chơi phù hợp định hướng chứ không thể chỉ nói chung
chung. Chẳng hạn, chỉ cấp phép cho các DN dùng đến một ngưỡng bao nhiêu điện,
bao nhiêu nước để sản xuất một lượng xác định tài sản trong bối cảnh phát triển mới.

Về mặt chức năng, ít người không biết rằng FDI có những lợi thế hơn hẳn nguồn vốn
trong nước về công nghệ nghệ, về quản lý và về thị trường. Với những lợi thế đó,
không ban thưởng thêm quá mức cho loại khen này. Ngược lại, phải chú trọng hơn
đến tính cảnh báo sớm về thiên tai, địch họa. Nói chung, Chính phủ và Nhà nước nên
dành cho các doanh nghiệp FDI những chức năng để khai thác được lợi thế cao nhất.
Đổi lại, ta cho họ những ưu đãi sòng phẳng khác.

Có mấy nguyên tắc định hướng phát triển DN trong giai đoạn tới thế này:

+ Những gì mà DN trong nước có lợi thế làm được thì dứt khoát phải dành sân chơi
cho DN trong nước.

+ Chống độc quyền dưới mọi hình thức.

+ Căn cứ theo lợi thế của các khu vực DN để phân bổ nguồn lực; tuy nhiên, không
nhất thiết theo những quy định hay nguyên tắc cứng nhắc.

+ Tạo thể chế tốt nhất (vượt trước) để đón nhận các cơ hội lớn và thách thức lớn từ
bên ngoài.

+ Việc của nhà nước là tạo môi trường, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp kinh
doanh. Khung khổ thể chế phải vượt trước, để những DN trình độ cao sẽ vào và phát
huy hiệu quả, chứ không phải khuyến khích DN có công nghệ làng nhàng

Ông có biết hiện địa phương nào thu hút FDI hiệu quả nhất?

- Bình Dương làm tương đối tốt.

Thời gian đầu, việc xây dựng KCN VSIP đã giúp Bình Dương bùng nổ kinh tế. Tuy
nhiên, việc sử dụng công nghệ thấp kéo theo hệ luỵ dùng nhiều lao động; đô thị phát
triển không tương xứng với CNH nên ngay sau đó, xuất hiện những áp lực xã hội
nặng nề. Vì thế, tuy FDI thúc đẩy tăng trưởng mạnh nhưng cũng gây áp lực tăng
trưởng rất mạnh.

Vì thế, sau đó, Bình Dương phải chuyển hướng sang thu hút đầu tư xây dựng Tổ hợp
Đô thị - công nghiệp - Thương mại hiện đại. Bằng cách đó, Bình Dương chuyển gọn
gàng từ trình độ công nghiệp cơ khí sang Hiện đại hóa, chuyển sang đẳng cấp đô thị -
công nghệ cao, giải toả được áp lực nhân lực. Đây là cách chuyển hướng rất nhanh,
hiệu quả.

Có coi Đồng Nai là một ví dụ khác, ngược lại. Đồng Nai là địa phương có khu công
nghiệp đầu tiên của VN. Thế nhưng đến bây giờ, Đồng Nai vẫn chưa chuyển sang
được đẳng cấp công nghiệp mới, cao hơn. Thực tế, Đồng Nai vẫn giẫm chân tại chỗ
trong khung khổ thể chế phát triển FDI quá cũ kỹ.

Rõ ràng, bài học của Bình Dương cũng là một kinh nghiệm cho VN. Những tỉnh đi
sau có thể học và rút kinh nghiệm từ Bình Dương về thu hút đầu tư để làm tốt hơn.

Xin cảm ơn ông.

Giải pháp thu hút và quản lý ĐTNN giai đoạn 2009-2010

Để để tiếp tục thu hút, thúc đẩy giải ngân và nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn FDI năm 2009 và
năm 2010, Bộ Kế hoạch và Đầu đề xuất 8 Nhóm giải pháp cần ưu tiên triển khai như sau:

Thứ nhất, giải pháp về luật pháp, chính sách

Tiếp tục rà soát pháp luật, chính sách về đầu tư, kinh doanh để sửa đổi các nội dung không đồng bộ,
thiếu nhất quán, bổ sung các nội dung còn thiếu và loại bỏ các điều kiện áp dụng ưu đãi đầu tư không
phù hợp với cam kết của Việt Nam với WTO.

Ban hành các ưu đãi khuyến khích đầu tư đối với các dự án xây dựng các công trình phúc lợi (nhà ở,
bệnh viện, trường học, văn hoá, thể thao) cho người lao động làm việc trong các khu công nghiệp, khu
chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế.

Thực hiện các biện pháp thúc đẩy giải ngân; không cấp phép cho các dự án công nghệ lạc hậu; dự án
tác động xấu đến môi trường; thẩm tra kỹ các dự án sử dụng nhiều đất, giao đất có điều kiện theo tiến
độ dự án, tránh lập dự án lớn để giữ đất, không triển khai; cân nhắc về tỷ suất đầu tư/diện tích đất, kể
cả đất KCN.

Thứ hai, giải pháp về quy hoạch

Đẩy nhanh tiến độ xây dựng và phê duyệt các quy hoạch còn thiếu; rà soát để định kỳ bổ sung, điều
chỉnh các quy hoạch đã lạc hậu nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư trong việc xác định và xây
dựng dự án.

Hoàn chỉnh quy hoạch sử dụng đất, công bố rộng rãi quy hoạch, tạo điều kiện để đẩy nhanh tiến độ giải
phóng mặt bằng cho các dự án đầu tư; rà soát, kiểm tra, điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất một cách
hiệu quả, nhất là đối với các địa phương ven biển nhằm đảm bảo phát triển kinh tế và môi trường bền
vững.

Thứ ba, giải pháp về cải thiện cơ sở hạ tầng

Tiến hành tổng rà soát, điểu chỉnh, phê duyệt và công bố các quy hoạch về kết cấu hạ tầng đến năm
2020 làm cơ sở thu hút đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng. Tranh thủ tối đa các nguồn lực để đầu tư phát
triển kết cấu hạ tầng, đặc biệt là nguồn vốn ngoài ngân sách nhà nước; ưu tiên các lĩnh vực cấp, thoát
nước, vệ sinh môi trường (xử lý chất thải rắn, nước thải.v.v.); hệ thống đường bộ cao tốc; nâng cao chất
lượng dịch vụ đường sắt; sản xuất và sử dụng điện từ các loại năng lượng mới như sức gió, thủy triều,
nhiệt năng từ mặt trời; các dự án lĩnh vực bưu chính viễn thông, công nghệ thông tin.

Thứ tư, giải pháp về nguồn nhân lực

Đẩy nhanh việc triển khai kế hoạch tổng thể về đào tạo nhằm nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo lên 40%
vào năm 2010. Theo đó, ngoài việc nâng cấp đầu tư hệ thống các trường đào tạo nghề hiện có lên
ngang tầm khu vực và thế giới, sẽ phát triển thêm các trường đào tạo nghề và trung tâm đào tạo từ các
nguồn vốn khác nhau.

Nghiên cứu điều chỉnh chuyển dịch cơ cấu lao động theo tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế.

Thực hiện các giải pháp nhằm đưa Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Lao động vào thực tế
cuộc sống để ngăn ngừa tình trạng đình công bất hợp pháp, lành mạnh hóa quan hệ lao động theo tinh
thần của Bộ luật Lao động.

Thứ năm, giải pháp về giải phóng mặt bằng

Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cần chỉ đạo các cơ quan chức năng tiến
hành ngay các thủ tục thu hồi đất và thu hồi giấy chứng nhận đầu tư đối với các dự án FDI không có
khả năng triển khai hoặc chưa có kế hoạch sử dụng hết diện tích đất đã được giao để chuyển cho các dự
án đầu tư mới có hiệu quả hơn. Đồng thời, trong phạm vi thẩm quyền của mình, chủ động tổ chức việc
đền bù giải tỏa và giao đất cho chủ đầu tư theo đúng cam kết, đặc biệt là các dự án quy mô lớn mà chủ
đầu tư sẵn sàng giải ngân thực hiện dự án.
Thứ sáu, giải pháp về phân cấp

Qua thực tế thực hiện việc phân cấp trong hơn 2 năm vừa qua đã bộc lộ một số vấn đề bất cập, không
phù hợp, ảnh hưởng đến quy hoạch phát triển kinh tế xã hội chung. Cần nghiên cứu để xem xét lại chủ
trương phân cấp toàn diện như quy định hiện nay, có các biện pháp để tăng cường sự phối hợp giữa
Trung ương và địa phương trong việc cấp phép và quản lý các dự án đầu tư nước ngoài.

Thứ bảy, giải pháp về xúc tiến đầu tư

Nghiên cứu, đề xuất chính sách vận động, thu hút đầu tư đối với các tập đoàn đa quốc gia cũng như có
chính sách riêng đối với từng tập đoàn và các đối tác trọng điểm như các quốc gia thành viên EU, Hoa
Kỳ, Nhật Bản...

Nhanh chóng hoàn thành việc xây dựng thông tin chi tiết về dự án (project profile) đối với danh mục
đầu tư quốc gia kêu gọi đầu tư nước ngoài giai đoạn 2006-2010 để làm cơ sở cho việc kêu gọi các nhà
đầu tư nước ngoài đầu tư vào các dự án này.

Thực hiện tốt Chương trình xúc tiến đầu tư quốc gia giai đoạn 2007-2010. Triển khai nhanh việc thành
lập bộ phận XTĐT tại một số địa bàn trọng điểm.

Thứ tám, một số giải pháp khác

Tiếp tục nâng cao hiệu quả việc chống tham nhũng, tiêu cực và tình trạng nhũng nhiễu đối với nhà đầu
tư. Đề cao tinh thần trách nhiệm cá nhân trong xử lý công việc, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí ở
các cơ quan quản lý nhà nước.

Thực hiện chương trình Sáng kiến chung Việt Nam -Nhật Bản giai đoạn III hiệu quả; điều chỉnh Cơ
chế hợp tác giữa Bộ Kế hoạch và Đầu tư (Việt Nam) và Cơ quan Phát triển kinh tế - EDB (Singapore)
phù hợp với tình hình mới.

Duy trì cơ chế đối thoại thường xuyên giữa lãnh đạo Chính phủ, các Bộ, ngành với các nhà đầu tư, đặc
biệt là Diễn đàn doanh nghiệp hàng năm để xử lý kịp thời các khó khăn, vướng mắc của các dự án
trong quá trình thực hiện chính sách và phát luật hiện hành, đảm bảo các dự án hoạt động đúng tiến độ
và hiệu quả, nhằm tiếp tục củng cố lòng tin của các nhà đầu tư đối với môi trường đầu tư kinh doanh tại
Việt Nam, tạo hiệu ứng lan tỏa và tác động tích cực tới nhà đầu tư mới.
CHÍNH PHỦ CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
__________
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
______________________________________
Số: 13/NQ-CP
Hà Nội, ngày 07 tháng 4 năm 2009

NGHỊ QUYẾT
Về định hướng, giải pháp thu hút và quản lý
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong thời gian tới
_______

Trong hai ngày 03 và 04 tháng 02 năm 2009, Chính phủ họp phiên thường kỳ để đánh giá
tình hình kinh tế - xã hội tháng 01 năm 2009 và phương hướng, giải pháp thúc đẩy tăng
cường phát triển kinh tế. Chính phủ đã thảo luận, đánh giá công tác thu hút và quản lý vốn
đầu tư nước ngoài (ĐTNN) tại Việt Nam thời gian qua và đã thống nhất một số định hướng
và giải pháp cơ bản cho những năm tiếp theo.
I. VỀ TÌNH HÌNH ĐTNN NĂM 2006 - 2008
Nghị quyết Đại hội X của Đảng đã xác định mục tiêu phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng tổng
sản phẩm trong nước bình quân 5 năm 2006 - 2010 là 7,5% - 8%, phấn đấu ở mức 8%; vốn
đầu tư toàn xã hội đạt khoảng 40% GDP. Để đạt mục tiêu này, tổng vốn đầu tư phát triển
toàn xã hội cần huy động là khoảng 160 tỷ USD, trong đó, ĐTNN cần đạt khoảng 25,1 tỷ
USD, trung bình trên 5 tỷ USD mỗi năm. Trong 3 năm đầu của kỳ kế hoạch 5 năm 2006 -
2010, ĐTNN đã gia tăng mạnh mẽ cả về vốn thực hiện và vốn đăng ký. So với mục tiêu đề ra
cho cả giai đoạn 5 năm 2006 - 2010, vốn đăng ký đã đạt 97,6 tỷ USD, vượt 77,4%; vốn thực
hiện đã đạt khoảng 23,6 tỷ USD, bằng 94,4% mục tiêu.
Khu vực kinh tế ĐTNN đã bổ sung nguồn vốn quan trọng cho đầu tư phát triển và ngày càng
đóng góp tích cực hơn vào quá trình chuyển dịch cơ cấu và tăng trưởng kinh tế Việt Nam. Tỷ
trọng của khu vực kinh tế ĐTNN trong GDP vẫn tiếp tục tăng lên qua các năm, từ 17,02%
năm 2006 (so với 15,99% năm 2005) lên 17,66% năm 2007; đồng thời, góp phần đưa tỷ lệ
đầu tư toàn xã hội bình quân lên mức trên 45% GDP trong 3 năm đầu kế hoạch 2006 - 2010.
Trong hoạt động xuất khẩu, khu vực kinh tế ĐTNN giữ vị trí trọng yếu, chiếm 44% tổng kim
ngạch xuất khẩu của cả nước trong năm 2008, tăng 24% so với cùng kỳ năm 2007. Trong 3
năm 2006 - 2008, các doanh nghiệp ĐTNN đã tạo thêm 370.000 việc làm, nộp ngân sách nhà
nước khoảng 5 tỷ USD. Hệ thống pháp lý điều chỉnh về tổ chức và hoạt động của doanh
nghiệp và dự án ĐTNN ngày càng được hoàn thiện, chính sách điều tiết kinh tế linh hoạt,
hiệu quả; chính quyền trung ương và địa phương đã tích cực và chủ động hơn trong thu hút
và quản lý ĐTNN bằng nhiều biện pháp theo hướng giảm thiểu thủ tục hành chính, hỗ trợ,
tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư trong việc triển khai dự án, khiến Việt Nam vẫn là nơi
có sức hút đối với các nhà ĐTNN.
Mặc dù đạt được kết quả đáng khích lệ nêu trên, song thực tiễn ĐTNN vào Việt Nam trong
thời gian qua vẫn tiếp tục bộc lộ nhiều hạn chế của môi trường đầu tư, thậm chí có những
mặt còn trở nên gay gắt hơn trước sự tăng trưởng mạnh mẽ, mang tính đột biến của nguồn
vốn ĐTNN vào Việt Nam. Vẫn còn tình trạng vẫn còn sự thiếu đồng bộ, chưa nhất quán giữa
các quy định của pháp luật chung về đầu tư, kinh doanh và pháp luật chuyên ngành; công tác
quy hoạch lãnh thổ, ngành nghề, lĩnh vực, sản phẩm còn yếu và thiếu, đặc biệt trong bối
cảnh phân cấp triệt để việc cấp phép và quản lý đầu tư về các địa phương, dẫn đến tình
trạng mất cân đối chung; sự yếu kém của hệ thống cơ sở hạ tầng ngoài hàng rào đang là
nhân tố gây tâm lý lo ngại cho các nhà đầu tư; tình trạng thiếu hụt nguồn nhân lực đã qua
đào tạo, đặc biệt là công nhân kỹ thuật và kỹ sư; việc đền bù thu hồi đất, tái định cư, giải
phóng mặt bằng, tình trạng vi phạm về pháp luật bảo vệ môi trường,... Một số vấn đề mới
phát sinh đang bắt đầu có những tác động tiêu cực đến môi trường đầu tư, làm hạn chế khả
năng thu hút và sử dụng vốn đầu tư của nền kinh tế.
Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới đang và sẽ làm cho nguồn vốn ĐTNN toàn cầu bị thu hẹp
và trực tiếp ảnh hưởng đến Việt Nam trong thời gian tới. Các tập đoàn xuyên quốc gia
(TNCs) đã và đang điều chỉnh chiến lược kinh doanh để đối phó với các khó khăn từ cuộc
khủng hoảng này. Điều này dẫn đến nhiều dự án ĐTNN đã được cấp phép có khả năng giãn
tiến độ, thu hẹp quy mô hoặc không thực hiện, làm cho tỷ lệ vốn ĐTNN thực hiện so với vốn
đăng ký giảm so với những năm trước. Các nhà đầu tư tiềm năng khi dự định đầu tư tại Việt
Nam sẽ phải cân nhắc kỹ hơn, mất nhiều thời gian hơn để quyết định đầu tư; các ngân hàng
cũng không dễ đưa ra quyết định cho vay trong bối cảnh khó khăn chung của toàn bộ nền
kinh tế thế giới.
Trước thực trạng trên, nhiệm vụ tổng quát trong công tác ĐTNN trong thời gian tới là tập
trung khắc phục các mặt tồn tại của môi trường đầu tư, hạn chế đến mức thấp nhất tác động
của khủng hoảng kinh tế thế giới nhằm tận dụng cơ hội thu hút ĐTNN, góp phần đạt mục tiêu
đóng góp vào tăng trưởng kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội và bền vững môi trường.
II. ĐỊNH HƯỚNG, YÊU CẦU THU HÚT VÀ QUẢN LÝ ĐTNN
- Nâng cao nhận thức đối với chủ trương tăng cường thu hút và quản lý vốn ĐTNN đã được
khẳng định tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X là: "Tăng cường thu hút vốn đầu tư nước
ngoài, phấn đấu đạt trên 1/3 tổng nguồn vốn đầu tư phát triển toàn xã hội trong 5 năm (2006 -
2010). Mở rộng lĩnh vực, địa bàn và hình thức thu hút ĐTNN, hướng vào những thị trường
giàu tiềm năng và các tập đoàn kinh tế hàng đầu thế giới, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về số
lượng và chất lượng, hiệu quả nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài".
- Thu hút đầu tư nước ngoài có định hướng và có chọn lọc vào các lĩnh vực quan trọng: công
nghệ cao; công nghiệp phụ trợ; phát triển cơ sở hạ tầng và phát triển nguồn nhân lực; chế
biến nông sản, phát triển các vùng khó khăn, nông nghiệp và nông thôn; sử dụng tiết kiệm và
hiệu quả tài nguyên, tiết kiệm năng lượng; các ngành dịch vụ có giá trị gia tăng cao; các
ngành có tỷ trọng xuất khẩu lớn; các ngành có ý nghĩa về an sinh xã hội (khám chữa bệnh,
công nghiệp dược và vac-xin, sinh phẩm), bảo đảm môi trường và an ninh quốc gia,...
- Các quy định pháp luật về doanh nghiệp, đầu tư, đất đai, xây dựng, kinh doanh và các văn
bản pháp luật chuyên ngành phải được rà soát, thống nhất đồng bộ; hệ thống các quy định
về điều kiện đầu tư và kinh doanh chuyên ngành phải được xây dựng đầy đủ và công bố
công khai nhằm minh bạch hóa các tiêu chuẩn, điều kiện tiếp cận thị trường, điều kiện tiến
hành sản xuất, kinh doanh; cơ chế hậu kiểm, giám sát, quản lý đối với dự án ĐTNN theo Luật
Đầu tư 2005 và Nghị định 108/2006/NĐ-CP phải được xây dựng và ban hành để tạo cơ sở
cho các cơ quan quản lý nhà nước thực thi chức năng quản lý, kiểm tra, giám sát.
- Công tác quy hoạch và quản lý quy hoạch phải được quy định và điều chỉnh trong một văn
bản quy phạm pháp luật cấp đạo luật, nhằm tránh tình trạng mất cân đối, cấp phép tràn lan,
gây dư thừa, lãng phí, hiệu quả đầu tư thấp trong bối cảnh việc cấp phép và quản lý đầu tư
đã được phân cấp về các địa phương.
- Các yếu tố về điều kiện cơ sở hạ tầng gây cản trở tới hoạt động ĐTNN cần được tập trung
giải quyết như: hệ thống cơ sở hạ tầng ngoài hàng rào, hệ thống cấp điện, nước, đường giao
thông, cảng biển; sự ổn định về cung cấp năng lượng, công tác giải phóng mặt bằng,...
- Tập trung giải quyết các khó khăn về nguồn nhân lực phục vụ cho các dự án ĐTNN có quy
mô lớn, đặc biệt là tình trạng thiếu hụt nguồn nhân lực đã qua đào tạo; sự lạc hậu trong
chương trình đào tạo của các cơ sở giáo dục đào tạo, trường nghề; phòng ngừa và giải
quyết các tranh chấp lao động nhằm hạn chế các cuộc định công có thể xảy ra.
- Công tác xúc tiến đầu tư cần được đổi mới, nâng cao chất lượng và cần được điều chỉnh
bằng một văn bản quy phạm pháp luật tạo cơ sở pháp lý thống nhất cho công tác quản lý nhà
nước, cơ chế phối hợp và tổ chức thực hiện hoạt động này.
- Công tác quản lý nhà nước, phối hợp giữa các cơ quan trung ương, giữa trung ương và
địa phương cần được tăng cường, gắn liền với chức năng, nhiệm vụ và trách nhiệm của
từng cơ quan. Xây dựng cơ chế báo cáo để tổng hợp thông tin kịp thời, đánh giá tình hình
nhằm đề xuất các giải pháp điều hành của Chính phủ có hiệu quả.
III. GIẢI PHÁP THỰC HIỆN
Để tiếp tục thu hút và quản lý nguồn vốn ĐTNN trong thời gian tới, các Bộ, ngành, địa
phương cần tổ chức triển khai thực hiện các giải pháp cấp bách sau:
1. Nhóm giải pháp về chính sách thu hút đầu tư
a) Các giải pháp:
- Tiếp tục rà soát pháp luật, chính sách về đầu tư, kinh doanh để sửa đổi các nội dung không
đồng bộ, thiếu nhất quán, bổ sung các nội dung còn thiếu; sửa đổi các quy định còn bất cập,
chưa rõ ràng liên quan đến thủ tục đầu tư và kinh doanh.
- Ban hành các ưu đãi khuyến khích đầu tư vào các lĩnh vực: phát triển đô thị, phát triển hạ
tầng kỹ thuật (cấp thoát nước, môi trường đô thị,...), phát triển nhà ở xã hội và nhà ở cho
người có thu nhập thấp; xây dựng công trình phúc lợi (nhà ở, bệnh viện, trường học, văn
hoá, thể thao) cho người lao động làm việc trong các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu
công nghệ cao, khu kinh tế; các dự án đầu tư trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông
thôn.
- Thực hiện các biện pháp thúc đẩy giải ngân; không cấp phép cho các dự án công nghệ lạc
hậu, dự án tác động xấu đến môi trường; thẩm tra kỹ các dự án sử dụng nhiều đất, giao đất
có điều kiện theo tiến độ dự án; cân nhắc về tỷ suất đầu tư/diện tích đất, kể cả đất Khu Công
nghiệp. Tiến hành rà soát các dự án đã cấp giấy chứng nhận đầu tư trên địa bàn cả nước để
có hướng xử lý đối với từng loại dự án.
b) Phân công nhiệm vụ:
- Giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư:
+ Chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành và địa phương rà soát các quy định còn chồng chéo,
cơ chế phối hợp giữa các Bộ, ngành trong quá trình xây dựng chính sách liên quan đến đầu
tư; kiến nghị giải pháp khắc phục, trình Thủ tướng Chính phủ trong quý III năm 2009.
+ Chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành và địa phương tiếp tục rà soát các dự án ĐTNN đã cấp
giấy chứng nhận đầu tư trên phạm vi cả nước, trên cơ sở đó có biện pháp hỗ trợ, tập trung
tháo gỡ vướng mắc và tạo điều kiện để dự án sớm triển khai; thu hồi Giấy chứng nhận đầu
tư đối với các dự án không có khả năng triển khai thực hiện.
Chủ trì thành lập các tổ công tác liên ngành với sự tham gia của các Bộ, ngành liên quan để
xúc tiến đầu tư và thúc đẩy giải ngân các dự án quy mô lớn: nghiên cứu, đề xuất biện pháp
xử lý kịp thời các vấn đề phát sinh trong quá trình triển khai các dự án ĐTNN; đề xuất cơ chế,
chính sách đặc thù áp dụng cho các dự án quy mô lớn, có tầm quan trọng đối với sự phát
triển kinh tế của ngành và địa phương trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định.
+ Chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan nghiên cứu, trình Thủ tướng Chính phủ ban
hành trong quý III năm 2009 về các ưu đãi khuyến khích đầu tư đối với các dự án xây dựng
các công trình phúc lợi (nhà ở, bệnh viện, trường học, văn hoá, thể thao) cho người lao động
làm việc trong các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế;
+ Trong quý III năm 2009, ban hành quy định về chế độ báo cáo về ĐTNN thay thế Thông tư
liên tịch số 01/1997/TTLT-BKH-TCTK của Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Tổng cục Thống kê về
chế độ báo cáo của các doanh nghiệp có vốn ĐTNN.
- Giao Bộ Tài chính:
Chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan nghiên cứu, trình Chính phủ ban hành trong
quý III năm 2009 về các ưu đãi khuyến khích đầu tư đối với các dự án chế biến nông sản tại
các vùng xa trung tâm, vùng kinh tế kém phát triển theo Danh mục do Bộ Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn công bố. Đối với các dự án ứng dụng khoa học công nghệ và sản xuất,
kinh doanh để tạo thêm giá trị gia tăng cho sản phẩm và bảo vệ môi trường (theo Nghị quyết
số 23/2008/QH12 ngày 06 tháng 11 năm 2008 của Quốc hội về Kế hoạch phát triển kinh tế -
xã hội năm 2009).
- Giao Bộ Công thương:
Chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính và các Bộ, ngành liên quan nghiên cứu, trình Chính phủ
ban hành trong quý III năm 2009 về cơ chế, chính sách huy động các nguồn lực xã hội để
đầu tư phát triển công nghiệp phụ trợ, công nghiệp chế biến gắn với các dự án đầu tư lớn từ
nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài theo Nghị quyết số 23/2008/QH12 ngày 06 tháng 11
năm 2008 nêu trên.
- Giao Bộ Xây dựng:
Nghiên cứu và đề xuất Thủ tướng Chính phủ trình Quốc Hội hướng sửa đổi, bổ sung một số
nội dung của Luật Xây dựng có liên quan đến công tác xây dựng trong quá trình cấp Giấy
chứng nhận đầu tư như thiết kế cơ sở trong hồ sơ xin cấp giấy chứng nhận đầu tư (đối với
dự án đầu tư có xây dựng),... tạo điều kiện thuận lợi để thu hút tốt các nguồn lực; đề xuất giải
pháp khắc phục những vướng mắc trong việc huy động vốn đầu tư vào lĩnh vực bất động
sản. Trình Thủ tướng Chính phủ trong quý III năm 2009.
- Giao Bộ Tài nguyên và Môi trường:
+ Chủ trì rà soát và sửa đổi, bổ sung các quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực tài nguyên và môi trường; chủ trì, phối hợp với Bộ Tư pháp, Thanh tra Chính phủ và các
Bộ, ngành liên quan rà soát, đề xuất sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật như Bộ luật
Hình sự, Luật Thanh tra và các văn bản khác về xử lý vi phạm trong lĩnh vực tài nguyên và
môi trường trình Thủ tướng Chính phủ trong quý III năm 2009.
+ Phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư và chính quyền địa phương tăng cường thanh tra,
kiểm tra, xử lý các trường hợp sử dụng đất không đúng mục đích, không hiệu quả của các
dự án đầu tư đã cấp phép.
- Giao Bộ Khoa học và Công nghệ:
Rà soát, đánh giá về trình độ công nghệ đang được áp dụng tại các dự án có vốn ĐTNN, đề
xuất biện pháp thu hút đầu tư vào lĩnh vực công nghệ cao.
- Giao Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương:
+ Chỉ đạo các cơ quan tham mưu của địa phương phối hợp với các Bộ, cơ quan quản lý
chuyên ngành tiến hành thẩm tra thận trọng khi xem xét cấp Giấy chứng nhận đầu tư đối với
các dự án đầu tư trên địa bàn trên các phương diện: công nghệ, năng lực thực hiện, nguy cơ
ô nhiễm môi trường,... đặc biệt lưu ý về quy mô vốn của dự án đối với việc sử dụng hợp lý
nguồn tài nguyên như đất đai, khoáng sản... trên cơ sở phù hợp với kế hoạch phát triển kinh
tế - xã hội địa phương, quy hoạch sử dụng đất đã được phê duyệt, quy hoạch ngành và
chiến lược phát triển vùng nhằm bảo đảm sử dụng hợp lý và có hiệu quả các nguồn lực cũng
như phát huy lợi thế để phát triển bền vững.
+ Chỉ đạo các cơ quan chức năng quản lý, giám sát chặt chẽ quá trình triển khai dự án; việc
giao đất phải được tiến hành theo tiến độ thực hiện dự án; tiến hành ngay các thủ tục thu hồi
đất và thu hồi giấy chứng nhận đầu tư đối với các dự án không có khả năng triển khai hoặc
chưa có kế hoạch sử dụng hết diện tích đất đã được giao để chuyển cho các dự án đầu tư
mới có hiệu quả hơn. Đồng thời, trong phạm vi thẩm quyền của mình, chủ động tổ chức việc
đền bù giải tỏa và giao đất cho chủ đầu tư theo đúng cam kết, đặc biệt là các dự án quy mô
lớn mà chủ đầu tư sẵn sàng giải ngân thực hiện dự án.
+ Thống nhất với Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn để ban hành quy định về suất đầu tư tối thiểu/ha đối với
các dự án đầu tư có yêu cầu sử dụng diện tích đất lớn, đặc biệt là đất nông nghiệp chuyên
trồng lúa.
+ Đề xuất với Bộ Kế hoạch và Đầu tư và các Bộ, ngành liên quan phương án xử lý những
vấn đề vượt quá thẩm quyền của mình, để tổng hợp báo cáo Thủ tướng Chính phủ.
2. Nhóm giải pháp về quy hoạch
a) Các giải pháp:
- Làm tốt công tác xây dựng quy hoạch và quản lý quy hoạch, đặc biệt là quy hoạch tổng thể
phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch lãnh thổ, quy hoạch sử dụng đất chi tiết, quy hoạch
ngành và các sản phẩm chủ yếu; rà soát điều chỉnh cho phù hợp và kịp thời đối với các quy
hoạch đã lạc hậu; có kế hoạch cụ thể để thực hiện các quy hoạch đã được duyệt.
- Công bố rộng rãi các quy hoạch đã được phê duyệt, đẩy nhanh tiến độ giải phóng mặt bằng
cho các dự án đầu tư; rà soát, kiểm tra, điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất một cách hiệu
quả, nhất là đối với các địa phương ven biển nhằm đảm bảo phát triển kinh tế và môi trường
bền vững.
- Quán triệt và thực hiện thống nhất các quy định của Luật Đầu tư trong công tác quy hoạch,
đảm bảo việc xây dựng các quy hoạch ngành, lĩnh vực, sản phẩm phù hợp với các cam kết
quốc tế, bảo đảm quốc phòng, an ninh.
b) Phân công nhiệm vụ:
- Giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư:
+ Chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành và các cơ quan liên quan nghiên cứu, trình Chính phủ
phương án xây dựng dự án Luật Quy hoạch để trình Quốc hội xem xét thông qua trong năm
2010 - 2011.
+ Chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương rà soát để bổ sung các quy hoạch còn
thiếu, điều chỉnh các quy hoạch đã lạc hậu. Báo cáo rà soát hoàn thành trong quý IV năm
2009.
- Giao các Bộ quản lý chuyên ngành và các địa phương:
Chủ động rà soát các quy hoạch phát triển kinh tế xã hội, quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch
ngành, lĩnh vực, sản phẩm để điều chỉnh, bổ sung hoặc trình cơ quan có thẩm quyền điều
chỉnh, bổ sung kịp thời, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
- Giao Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn:
+ Công bố danh mục các dự án thuộc lĩnh vực nông, lâm thủy sản, đặc biệt là tại các khu vực
xa trung tâm, vùng kinh tế kém phát triển,... cần ưu tiên thu hút vốn ĐTNN trong giai đoạn
đến năm 2020, trình Thủ tướng Chính phủ trong quý III năm 2009.
+ Nghiên cứu, đề xuất giải pháp ngăn ngừa tình trạng nông dân tự ý phá vỡ hợp đồng cung
cấp nguyên liệu cho các nhà máy chế biến nông sản, trình Thủ tướng Chính phủ trong quý III
năm 2009.
- Giao Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch:
Công bố danh mục các dự án thu hút ĐTNN trong lĩnh vực du lịch, đặc biệt là các khu du lịch
quốc gia, khu du lịch tổng hợp và chuyên đề làm động lực cho phát triển du lịch của các vùng
du lịch tiềm năng; đề xuất các biện pháp ưu đãi, khuyến khích, hỗ trợ cho các dự án đầu tư
trong lĩnh vực du lịch, trình Thủ tướng Chính phủ trước tháng 7 năm 2009.
- Giao Bộ Công thương:
Công bố danh mục các dự án ngành công nghiệp, năng lượng, khoáng sản,... cần ưu tiên thu
hút vốn ĐTNN trong giai đoạn tới năm 2020; hoàn thành trong quý IV năm 2009.
- Giao Bộ Thông tin và Truyền thông: chủ trì, phối hợp với các Bộ ngành, địa phương tiến
hành rà soát quy hoạch về hạ tầng công nghệ thông tin - truyền thông trong tổng thể quy
hoạnh cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội; đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác phối
hợp quy hoạch về hạ tầng công nghệ thông tin - truyền thông với các lĩnh vực hạ tầng khác.
3. Nhóm giải pháp về cải thiện cơ sở hạ tầng
a) Các giải pháp:
- Tiến hành tổng rà soát, điểu chỉnh, phê duyệt và công bố các quy hoạch về kết cấu hạ tầng
đến năm 2020. Tranh thủ tối đa các nguồn lực để đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, đặc biệt
là nguồn vốn ngoài ngân sách nhà nước; ưu tiên các lĩnh vực cấp, thoát nước, vệ sinh môi
trường (xử lý chất thải rắn, nước thải,...); hệ thống cầu và đường bộ cao tốc, trước hết là
tuyến Bắc-Nam, hai hành lang kinh tế Việt Nam - Trung Quốc; nâng cao chất lượng dịch vụ
đường sắt, trước hết là đường sắt cao tốc Bắc - Nam, đường sắt hai hành lang kinh tế Việt
Nam - Trung Quốc, đường sắt nối các cụm cảng biển lớn, các mỏ khoáng sản lớn với hệ
thống đường sắt quốc gia, đường sắt nội đô thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh; sản
xuất và sử dụng điện từ các loại năng lượng mới như sức gió, thủy triều, nhiệt năng từ mặt
trời; các dự án lĩnh vực bưu chính viễn thông, công nghệ thông tin.
- Tăng cường năng lực cạnh tranh của hệ thống cảng biển Việt Nam; kêu gọi vốn đầu tư các
cảng lớn của các khu vực kinh tế như hệ thống cảng Hiệp Phước - Thị Vải, Lạch Huyện,...
b) Phân công nhiệm vụ:
- Giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư:
+ Chủ trì, phối hợp với Bộ Xây dựng, Bộ Giao thông vận tải và các Bộ ngành, địa phương
liên quan tổng rà soát, điểu chỉnh, phê duyệt và công bố các quy hoạch về kết cấu hạ tầng
đến năm 2020, trình Chính phủ trước tháng 10 năm 2009.
+ Chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương nghiên cứu, đề xuất xây dựng chính sách
về phương thức hợp tác đầu tư Nhà nước - Tư nhân trong việc phát triển cơ sở hạ tầng
(phương thức PPPs) trong năm 2009.
- Giao Bộ Công thương:
Rà soát tình hình cung cấp điện cho các doanh nghiệp ĐTNN, nhất là các dự án có nhu cầu
sử dụng điện lớn, các khu công nghiệp tập trung đánh giá khả năng và đề xuất giải pháp bảo
đảm cấp điện ổn định cho sản xuất kinh doanh, bao gồm cả biện pháp huy động các nguồn
vốn cho phát triển nguồn điện.
- Giao Bộ Giao thông vận tải:
Rà soát lại các dự án giao thông vận tải ưu tiên thu hút ĐTNN và chuẩn bị các thủ tục đầu tư
cần thiết để gọi vốn ĐTNN; phối hợp với Bộ Tài chính và các cơ quan kiến nghị các chính
sách ưu đãi đối với các dự án vốn đầu tư rất lớn, khả năng hoàn vốn khó khăn như: đường
sắt, cảng biển, đường bộ cao tốc, đường sắt cao tốc, báo cáo Thủ tướng Chính phủ trong
quý IV năm 2009.
- Giao Bộ Xây dựng:
Chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành và địa phương sửa đổi, hoàn thiện các quy định về xây
dựng nhà ở, kinh doanh khu đô thị, kinh doanh bất động sản, trình Thủ tướng Chính phủ
trong quý III năm 2009.
4. Nhóm giải pháp về nguồn nhân lực
a) Các giải pháp:
- Hoàn thiện các văn bản pháp lý về hợp tác đầu tư trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo, tạo
điều kiện thuận lợi để thu hút ĐTNN đào tạo lao động ở các trình độ, góp phần thực hiện mục
tiêu Chiến lược giáo dục giai đoạn 2001 - 2010 là nâng cao tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt
40%.
- Nghiên cứu điều chỉnh chuyển dịch cơ cấu lao động theo tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế;
nâng cao trình độ lao động, đặc biệt là đối với người nông dân bị thu hồi đất sản xuất để giao
cho dự án.
b) Phân công nhiệm vụ:
- Giao Bộ Giáo dục và Đào tạo:
- Chủ trì hoàn thiện dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung hoặc thay thế các Nghị định số
06/2000/NĐ-CP, Nghị định số 18/2001/NĐ-CP và Nghị định số 165/2005/NĐ-CP theo hướng
phân định rõ các loại hình đào tạo có yếu tố nước ngoài, theo đó làm rõ những thủ tục nào là
bắt buộc theo pháp luật về đầu tư, những thủ tục nào là đặc thù cho ngành giáo dục, từ đó có
hướng dẫn cụ thể về tiêu chí, điều kiện, quy trình thành lập, tổ chức hoạt động và quản lý
phù hợp với các quy định của pháp luật áp dụng đối với từng loại hình cơ sở đào tạo,
trìnhThủ tướng Chính phủ trong quý III năm 2009;
- Tổ chức hướng dẫn, tập huấn cho các cơ quan quản lý giáo dục đào tạo thực hiện công tác
quản lý nhà nước trong việc thẩm tra, giám sát, hậu kiểm đối với các cơ sở giáo dục đào tạo
có vốn ĐTNN.
- Giao Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội:
+ Chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành triển khai thực hiện các nhiệm vụ được giao theo
Quyết định số 1129/QĐ-TTg ngày 18 tháng 8 năm 2008 của Thủ tướng Chính phủ về việc
ban hành Kế hoạch triển khai thực hiện Chỉ thị số 22/CT-TW ngày 05 tháng 6 năm 2008 của
Ban Bí thư Trung ương Đảng về tăng cường sự lãnh, chỉ đạo việc xây dựng quan hệ lao
động hài hòa, ổn định và tiến bộ trong doanh nghiệp, trong đó tập trung vào các giải pháp
hạn chế đình công xảy ra không đúng trình tự pháp luật quy định.
+ Thực hiện việc soạn thảo Bộ luật Lao động (sửa đổi) và các giải pháp đưa pháp luật lao
động vào cuộc sống thông qua việc tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra và phổ biến,
tuyên truyền pháp luật lao động cho người lao động và người sử dụng lao động.
+ Xây dựng đề án “Đổi mới và phát triển dạy nghề giai đoạn 2008 - 2020” và đề án “Cung
ứng lao động đáp ứng nhu cầu sử dụng nhân lực của doanh nghiệp và các nhà đầu tư nước
ngoài”, đặc biệt lưu ý tới việc đào tạo các ngành nghề hiện đang thiếu hụt lao động và đào
tạo tại các khu vực tập trung các khu công nghiệp, các dự án lớn có nhu cầu cao về số lượng
lao động, chuyển đổi nghề cho nông dân khi bị thu hồi đất làm dự án đầu tư.
- Giao Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương:
+ Tập trung giải quyết cơ bản tình trạng đình công xảy ra không theo trình tự pháp luật quy
định trên địa bàn quản lý.
+ Chỉ đạo các cơ quan chuyên môn và các cơ quan địa phương đẩy mạnh công tác tuyên
truyền, phổ biến pháp luật lao động cho người lao động, người sử dụng lao động; tăng
cường công tác thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật lao động của các doanh nghiệp
trên địa bàn.
5. Nhóm giải pháp về công tác phối hợp trong quản lý nhà nước đối với hoạt động
ĐTNN
a) Các giải pháp:
- Phối hợp chặt chẽ giữa Trung ương và địa phương trong việc cấp phép và quản lý các dự
án đầu tư nước ngoài.
- Tăng cường đào tạo bồi dưỡng cán bộ quản lý ĐTNN; nâng cao năng lực thực thi và hiệu
quả quản lý nhà nước về ĐTNN của các cơ quan chức năng.
- Tiến hành tổng kết, đánh giá việc phân cấp trong quản lý nhà nước đối với hoạt động ĐTNN
trong thời gian qua, phát hiện những bất cập, kịp thời điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp.
b) Phân công nhiệm vụ:
- Giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư:
Trên cơ sở rà soát, tổng kết, đánh giá tình hình phân cấp trong quản lý nhà nước đối với hoạt
động ĐTNN, chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành và địa phương nghiên cứu, đề xuất Thủ
tướng Chính phủ ban hành văn bản quy định về quy chế phối hợp giữa Trung ương và địa
phương trong quản lý hoạt động đầu tư nước ngoài. Trình Thủ tướng Chính phủ trong quý IV
năm 2009.
- Các Bộ, ngành tham gia thẩm tra dự án: có trách nhiệm trả lời trong thời hạn quy định tại
Nghị định 108/2006/NĐ-CP; đồng thời chịu trách nhiệm về các nội dung thẩm tra thuộc chức
năng, nhiệm vụ và thẩm quyền của cơ quan mình; đặc biệt là các nội dung về quy hoạch, đất
đai, môi trường, công nghệ, các điều kiện phải đáp ứng theo quy định của pháp luật chuyên
ngành,... làm cơ sở cho cơ quan quản lý nhà nước tại địa phương cấp Giấy chứng nhận đầu
tư cho các dự án.
- Các Bộ, cơ quan: Tài chính, Công thương, Ngân hàng Nhà nước và Ủy ban nhân dân cấp
tỉnh có trách nhiệm báo cáo nhanh, cập nhật thông tin hàng tháng về tình hình tiếp nhận, cấp
Giấy chứng nhận đầu tư và vốn thực hiện của các dự án ĐTNN thuộc phạm vi thẩm quyền
của mình về Bộ Kế hoạch và Đầu tư và định kỳ hàng quý, 6 tháng và một năm tổng hợp,
đánh giá hoạt động đầu tư trên địa bàn để đề xuất các giải pháp phù hợp đối với khu vực
kinh tế có vốn ĐTNN.
6. Nhóm giải pháp về xúc tiến đầu tư:
a) Các giải pháp:
- Nghiên cứu, đề xuất chính sách vận động, thu hút đầu tư đối với các tập đoàn đa quốc gia
cũng như có chính sách riêng đối với từng tập đoàn và các đối tác trọng điểm như các quốc
gia thành viên EU, Hoa Kỳ, Nhật Bản,...; chú trọng và đẩy nhanh tiến độ đàm phán các Hiệp
định đầu tư song phương giữa Việt Nam và các đối tác lớn.
- Hoàn thành việc xây dựng thông tin chi tiết về dự án (project profile) đối với danh mục đầu
tư quốc gia kêu gọi đầu tư nước ngoài giai đoạn 2006 - 2010 để làm cơ sở cho việc kêu gọi
các nhà đầu tư; xây dựng danh mục gọi vốn ĐTNN cho giai đoạn 2011 - 2015 và những năm
tiếp theo.
- Tổ chức khảo sát, nghiên cứu và xây dựng mô hình cơ quan xúc tiến đầu tư ở Trung ương
và địa phương; xây dựng văn bản pháp quy về công tác Xúc tiến đầu tư nhằm tạo hành lang
pháp lý thống nhất trong công tác quản lý nhà nước, cơ chế phối hợp và tổ chức thực hiện
các hoạt động xúc tiến đầu tư.
- Thực hiện tốt Chương trình xúc tiến đầu tư quốc gia giai đoạn 2007 - 2010. Triển khai
nhanh việc thành lập bộ phận xúc tiến đầu tư tại một số địa bàn trọng điểm. Tiếp tục kết hợp
các hoạt động xúc tiến đầu tư trong các chuyến thăm và làm việc tại các nước của lãnh đạo
cấp.
- Tăng cường đào tạo bồi dưỡng cán bộ làm công tác xúc tiến đầu tư.
b) Phân công nhiệm vụ:
- Giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư:
+ Xây dựng, trình Thủ tướng Chính phủ văn bản quy phạm pháp luật về công tác xúc tiến
đầu tư theo hướng tăng cường quản lý nhà nước đối với công tác xúc tiến đầu tư và cụ thể
hóa cơ chế phối hợp giữa các cơ quan trong công tác xúc tiến đầu tư; xây dựng chiến lược
xúc tiến đầu tư dài hạn và có chiều sâu. Trình Thủ tướng Chính phủ trong quý III năm 2009.
+ Nghiên cứu xu hướng và chiến lược đầu tư của một số đối tác có tiềm năng để có phương
án chủ động vận động các nhà ĐTNN, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về số lượng và chất
lượng đầu tư trực tiếp nước ngoài. Báo cáo trình Thủ tướng Chính phủ trong quý III năm
2009.
+ Làm đầu mối quản lý, điều phối hoạt động xúc tiến đầu tư ở trong và ngoài nước (bao gồm
cả các cơ quan đại diện xúc tiến đầu tư tại nước ngoài).
+ Hướng dẫn mẫu biểu, nội dung thông tin để các ngành, địa phương thống nhất xây dựng
“project profile” cho các dự án gọi vốn ĐTNN, làm cơ sở vận động đầu tư; chủ trì, phối hợp
với các Bộ, ngành, địa phương xây dựng Danh mục dự án quốc gia gọi vốn ĐTNN giai đoạn
2011 - 2015, trình Thủ tướng Chính phủ ban hành trong năm 2010.
+ Tổ chức bồi dưỡng, tập huấn; hợp tác với các cơ quan tổ chức trong và ngoài nước đào
tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ làm công tác xúc tiến đầu tư.
- Giao Bộ Ngoại giao:
Triển khai nhanh việc thành lập bộ phận xúc tiến đầu tư tại một số địa bàn trọng điểm. Phối
hợp với các Bộ, ngành liên quan (Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư,...) khẩn trương hoàn
thiện các thủ tục và điều kiện liên quan tới việc thành lập và hoạt động của bộ phận xúc tiến
đầu tư tại một số địa bàn trọng điểm như đã được Thủ tướng chỉ đạo tại văn bản số 103/TB-
VPCP ngày 09 tháng 5 năm 2007 của Văn phòng Chính phủ thông báo kết luận của Thủ
tướng Chính phủ về Đề án tăng cường bộ phận xúc tiến ĐTNN tại một số địa bàn trọng điểm
và Thông tư liên tịch số 01/2008/TTLT-BKH-BNG ngày 17 tháng 3 năm 2008 của liên Bộ Kế
hoạch và Đầu tư - Bộ Ngoại giao hướng dẫn triển khai bộ phận xúc tiến ĐTNN tại một số địa
bàn trọng điểm.
- Giao các Bộ, ngành và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh:
+ Tiếp tục rà soát, cập nhật bổ sung danh mục kêu gọi đầu tư phù hợp với nhu cầu đầu tư và
quy hoạch phát triển địa phương, ngành, lĩnh vực, sản phẩm.
+ Chủ động thực hiện xây dựng thông tin chi tiết về dự án (project profile) đối với dự án do
ngành, địa phương mình đề xuất đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số
1290/QĐ-TTg ngày 26 tháng 9 năm 2007 ban hành Danh mục quốc gia kêu gọi ĐTNN giai
đoạn 2006 - 2010, gửi về Bộ Kế hoạch và Đầu tư trước tháng 6 năm 2009.
7. Một số giải pháp khác
a) Tập trung chỉ đạo quyết liệt để thực hiện thành công Đề án đơn giản hóa thủ tục hành
chính trên các lĩnh vực quản lý nhà nước giai đoạn 2007-2010 - nhiệm vụ trọng tâm, khâu đột
phá cải cách hành chính của Chính phủ từ nay đến hết 2010 - để tiếp tục thu hút ĐTNN.
b) Tiếp tục nâng cao hiệu quả việc phòng, chống tham nhũng, tiêu cực và tình trạng nhũng
nhiễu đối với nhà đầu tư. Đề cao tinh thần trách nhiệm cá nhân trong xử lý công việc, thực
hành tiết kiệm, chống lãng phí ở các cơ quan quản lý nhà nước.
c) Triển khai tốt việc xây dựng hệ thống quản lý thông tin ĐTNN theo Quyết định số
43/2008/QĐ-TTg ngày 24 tháng 3 năm 2008 của Thủ tướng Chính phủ, đảm bảo thông tin
phục vụ công tác quản lý, điều hành.
d) Thực hiện hiệu quả chương trình sáng kiến chung Việt Nam - Nhật Bản giai đoạn III; tiếp
tục hợp tác tích cực với các cơ quan, tổ chức nước ngoài trong việc XTĐT và hỗ trợ doanh
nghiệp triển khai dự án.
đ) Duy trì cơ chế đối thoại thường xuyên giữa lãnh đạo Chính phủ, các Bộ, ngành với các
nhà đầu tư, đặc biệt là Diễn đàn doanh nghiệp hàng năm để xử lý kịp thời các khó khăn,
vướng mắc trong quá trình thực hiện chính sách và phát luật hiện hành, đảm bảo các dự án
hoạt động hiệu quả, nhằm tiếp tục củng cố lòng tin của các nhà đầu tư đối với môi trường
đầu tư kinh doanh tại Việt Nam, tạo hiệu ứng lan tỏa và tác động tích cực tới nhà đầu tư mới.
e) Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra: theo chức năng và nhiệm vụ của mình, Thanh tra
Chính phủ, các Bộ, ngành, địa phương có kế hoạch tăng cường thanh tra, kiểm tra việc tuân
thủ các quy định của chính sách, pháp luật về ĐTNN nói chung và việc thực hiện Nghị quyết
này của Chính phủ.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư có trách nhiệm làm đầu mối, phối hợp với Văn phòng Chính phủ, các
Bộ, ngành và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện các nội dung giải pháp nêu tại mục này;
báo cáo, kiến nghị Thủ tướng Chính phủ chủ trì các buổi đối thoại giữa lãnh đạo Chính phủ,
các Bộ, ngành với các nhà đầu tư.
Để đảm bảo kịp thời và đồng bộ triển khai các nội dung của Nghị quyết này, Chính phủ thống
nhất cho phép áp dụng quy trình rút gọn đối với việc xây dựng, điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung
một số văn bản quy phạm pháp luật dự kiến trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trong quý
II, III năm 2009.
IV. VỀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN
Trước các khó khăn của tình hình suy thoái kinh tế thế giới hiện nay, nhiệm vụ giữ vững tốc
độ tăng trưởng của nền kinh tế, đảm bảo cuộc sống của nhân dân được đặt ra hết sức nặng
nề. Chính phủ, các Bộ, ngành và địa phương cần thống nhất thực hiện linh hoạt, kịp thời và
hiệu quả các giải pháp điều hành đã được Chính phủ thống nhất thông qua và ban hành. Huy
động tối đa mọi nguồn lực của mọi thành phần kinh tế, trong đó có sự đóng góp quan trọng
của khu vực có vốn ĐTNN vào đầu tư, kích cầu nền kinh tế, tạo thu nhập, việc làm cho người
lao động, tăng thu cho ngân sách nhà nước.
Chính phủ yêu cầu các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc
Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, căn cứ
chức năng, nhiệm vụ được giao, có kế hoạch tổ chức thực hiện ngay chủ trương, nhiệm vụ
và các giải pháp nêu trong Nghị quyết này và chịu trách nhiệm trước Chính phủ, Thủ tướng
Chính phủ về việc thực hiện các chủ trương, nhiệm vụ và các giải pháp đã nêu trong Nghị
quyết này ngay sau khi Chính phủ ban hành; đồng thời, định kỳ 06 tháng báo cáo Thủ tướng
Chính phủ kết quả thực hiện, đồng gửi Bộ Kế hoạch và Đầu tư để tổng hợp, báo cáo Chính
phủ để ban hành các biện pháp điều hành phù hợp./.

Nghị định 108/2006/NĐ-CP ngày 22 tháng 9 năm 2006 của Thủ tướng Chính phủ Quy
định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đầu tư)

CÁC DỰ ÁN THUỘC DIỆN ĐĂNG KÝ

Đối với nhà đầu tư trong nước

Dự án đầu tư có quy mô vốn từ 15 tỷ đến 300 tỷ đồng Việt Nam và không thuộc danh
mục dự án do Thủ tướng Chính phủ chấp thuận chủ trương đầu tư và không thuộc lĩnh
vực đầu tư có điều kiện

Đối với nhà đầu tư nước ngoài

Dự án đầu tư có quy mô vốn dưới 300 tỷ đồng Việt Nam và không thuộc lĩnh vực đầu tư
có điều kiện

NỘI DUNG VÀ THỦ TỤC ĐĂNG KÝ ĐẦU TƯ

Hồ sơ đăng ký đầu tư trong trường hợp không gắn với thành lập tổ chức kinh tế

Trong trường hợp đăng ký dự án có vốn đầu tư nước ngoài không gắn với thành lập tổ
chức kinh tế, nhà đầu tư phải nộp một bộ hồ sơ đến Sở Kế hoạch và Đầu tư hoặc Ban
quản lý (Khu Công nghiệp, Khu Chế xuất, Khu công nghệ cao, Khu Kinh tế) gọi chung là
cơ quan nhà nước quản lý đầu tư, bao gồm các tài liệu sau:

• Bản đăng ký/đề nghị cấp giấy chứng nhận đầu tư


• Hợp đồng hợp tác kinh doanh đối với hình thức đầu tư theo Hợp đồng hợp tác
kinh doanh;
• Báo cáo năng lực tài chính của nhà đầu tư (do nhà đầu tư lập và chịu trách
nhiệm).

Hồ sơ đăng ký đầu tư trong trường hợp gắn với thành lập tổ chức kinh tế

Trong trường hợp đăng ký dự án có vốn đầu tư nước ngoài có gắn với thành lập tổ chức
kinh tế, nhà đầu tư phải nộp một bộ hồ sơ đến cơ quan nhà nước quản lý đầu tư, bao
gồm các tài liệu sau:

• Bản đăng ký/đề nghị cấp giấy chứng nhận đầu tư đối với trường hợp gắn với
thành lập tổ chức kinh tế
• - Báo cáo năng lực tài chính của nhà đầu tư (do nhà đầu tư lập và chịu trách
nhiệm).
• - Hồ sơ đăng ký kinh doanh tương ứng với mỗi loại hình doanh nghiệp theo quy
định của pháp luật về doanh nghiệp và pháp luật có liên quan (tham khảo Phần
Đăng ký kinh doanh);
• Hợp đồng liên doanh đối với hình thức đầu tư thành lập tổ chức kinh tế liên
doanh giữa nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài.

Nhà đầu tư nước ngoài lần đầu đầu tư vào Việt Nam phải có dự án đầu tư và làm thủ tục
đăng ký đầu tư hoặc thẩm tra đầu tư tại cơ quan quan nhà nước quản lý đầu tư để cấp
Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư. Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư đồng thời là Giấy
chứng nhận đăng ký kinh doanh.

THỦ TỤC ĐĂNG KÝ ĐẦU TƯ

Trong thời hạn 15 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ đăng ký đầu tư và hồ sơ
đăng ký kinh doanh hợp lệ, cơ quan nhà nước quản lý đầu tư kiểm tra tính hợp lệ của hồ
sơ đăng ký đầu tư, hồ sơ đăng ký kinh doanh (đối với trường hợp thành lập tổ chức kinh
tế gắn với dự án đầu tư) và cấp Giấy chứng nhận đầu tư

ÁC DỰ ÁN THUỘC DIỆN THẨM TRA ĐẦU TƯ

• Dự án đầu tư có quy mô vốn từ 300 tỷ đồng trở lên không thuộc danh mục lĩnh vực
đầu tư có điều kiện
• Dự án đầu tư có quy mô vốn từ 300 tỷ đồng trở lên thuộc danh mục lĩnh vực đầu tư
có điều kiện
• Dự án do Thủ tướng chấp thuận chủ trương đầu tư

NỘI DUNG VÀ THỦ TỤC THẨM TRA DỰ ÁN ĐẦU TƯ

Hồ sơ thẩm tra đối với dự án đầu tư có quy mô vốn đầu tư từ 300 tỷ đồng Việt Nam trở lên
và không thuộc lĩnh vực đầu tư có điều kiện

Hồ sơ thẩm tra đầu tư trong trường hợp không gắn với thành lập tổ chức kinh tế

• Bản đăng ký/đề nghị cấp Giấy chứng nhận đầu tư;
• Văn bản xác nhận tư cách pháp lý của nhà đầu tư: bản sao quyết định thành lập
hoặc Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc các tài liệu tương đương khác đối
với các nhà đầu tư là tổ chức; bản sao hộ chiếu hoặc chứng minh nhân dân đối với
các nhà đầu tư là cá nhân;
• Báo cáo năng lực tài chính của nhà đầu tư (do nhà đầu tư lập và chịu trách nhiệm);
• Giải trình kinh tế - kỹ thuật bao gồm các nội dung chủ yếu: mục tiêu, quy mô, địa
điểm đầu tư; vốn đầu tư, tiến độ thực hiện dự án; nhu cầu sử dụng đất, giải pháp về
công nghệ và giải pháp về môi trường;
• Hợp đồng hợp tác kinh doanh đối với hình thức đầu tư theo hợp đồng hợp tác kinh
doanh;

Hồ sơ thẩm tra đầu tư trong trường hợp gắn với thành lập tổ chức kinh tế

• Bản đăng ký/đề nghị cấp Giấy chứng nhận đầu tư;
• Văn bản xác nhận tư cách pháp lý của nhà đầu tư: bản sao quyết định thành lập
hoặc Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc các tài liệu tương đương khác đối
với các nhà đầu tư là tổ chức; bản sao hộ chiếu hoặc chứng minh nhân dân đối với
các nhà đầu tư là cá nhân;
• Báo cáo năng lực tài chính của nhà đầu tư (do nhà đầu tư lập và chịu trách nhiệm);
• Giải trình kinh tế - kỹ thuật bao gồm các nội dung chủ yếu: mục tiêu, quy mô, địa
điểm đầu tư; vốn đầu tư, tiến độ thực hiện dự án; nhu cầu sử dụng đất, giải pháp về
công nghệ và giải pháp về môi trường;
• Hồ sơ đăng ký kinh doanh tương ứng với mỗi loại hình tổ chức kinh tế theo quy định
của pháp luật về doanh nghiệp và pháp luật có liên quan (tham khảo Phần Đăng ký
kinh doanh);
• Hợp đồng liên doanh đối với hình thức thành lập tổ chức kinh tế liên doanh giữa nhà
đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài.
Hồ sơ thẩm tra đối với dự án đầu tư có quy mô vốn đầu tư dưới 300 tỷ đồng Việt Nam
và thuộc lĩnh vực đầu tư có điều kiện

Hồ sơ thẩm tra đầu tư trong trường hợp không gắn với thành lập tổ chức kinh tế

• Bản đăng ký/đề nghị cấp giấy chứng nhận đầu tư ;


• Hợp đồng hợp tác kinh doanh đối với hình thức đầu tư theo Hợp đồng hợp tác kinh
doanh;
• Báo cáo năng lực tài chính của nhà đầu tư (do nhà đầu tư lập và chịu trách nhiệm).
• Giải trình khả năng đáp ứng điều kiện mà dự án đầu tư phải đáp ứng theo quy định
của pháp luật đối với dự án thuộc lĩnh vực đầu tư có điều kiện.

Hồ sơ thẩm tra đầu tư trong trường hợp gắn với thành lập tổ chức kinh tế

• Bản đăng ký/đề nghị cấp giấy chứng nhận đầu tư;
• Báo cáo năng lực tài chính của nhà đầu tư (do nhà đầu tư lập và chịu trách nhiệm).
• Hồ sơ đăng ký kinh doanh tương ứng với mỗi loại hình tổ chức kinh tế theo quy định
của pháp luật về doanh nghiệp và pháp luật có liên quan (tham khảo Phần Đăng ký
kinh doanh);
• Hợp đồng liên doanh đối với hình thức thành lập tổ chức kinh tế liên doanh giữa nhà
đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài.
• Giải trình khả năng đáp ứng điều kiện mà dự án đầu tư phải đáp ứng theo quy định
của pháp luật đối với dự án thuộc lĩnh vực đầu tư có điều kiện.

Hồ sơ thẩm tra đối với dự án đầu tư có quy mô vốn đầu tư từ 300 tỷ đồng Việt Nam trở
lên và thuộc lĩnh vực đầu tư có điều kiện

Hồ sơ thẩm tra đầu tư trong trường hợp không gắn với thành lập tổ chức kinh tế

• Bản đăng ký/đề nghị cấp Giấy chứng nhận đầu tư ;


• Văn bản xác nhận tư cách pháp lý của nhà đầu tư: bản sao quyết định thành lập
hoặc Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc các tài liệu tương đương khác đối
với các nhà đầu tư là tổ chức; bản sao hộ chiếu hoặc chứng minh nhân dân đối với
các nhà đầu tư là cá nhân;
• Báo cáo năng lực tài chính của nhà đầu tư (do nhà đầu tư lập và chịu trách nhiệm);
• Giải trình kinh tế - kỹ thuật bao gồm các nội dung chủ yếu: mục tiêu, quy mô, địa
điểm đầu tư; vốn đầu tư, tiến độ thực hiện dự án; nhu cầu sử dụng đất, giải pháp về
công nghệ và giải pháp về môi trường;
• Hợp đồng hợp tác kinh doanh đối với hình thức đầu tư theo hợp đồng hợp tác kinh
doanh;
• Giải trình khả năng đáp ứng điều kiện mà dự án đầu tư phải đáp ứng theo quy định
của pháp luật đối với dự án thuộc lĩnh vực đầu tư có điều kiện.

Hồ sơ thẩm tra đầu tư trong trường hợp gắn với thành lập tổ chức kinh tế

• Bản đăng ký/đề nghị cấp Giấy chứng nhận đầu tư ;


• Văn bản xác nhận tư cách pháp lý của nhà đầu tư: bản sao quyết định thành lập
hoặc Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc các tài liệu tương đương khác đối
với các nhà đầu tư là tổ chức; bản sao hộ chiếu hoặc chứng minh nhân dân đối với
các nhà đầu tư là cá nhân;
• Báo cáo năng lực tài chính của nhà đầu tư (do nhà đầu tư lập và chịu trách nhiệm);
• Giải trình kinh tế - kỹ thuật bao gồm các nội dung chủ yếu: mục tiêu, quy mô, địa
điểm đầu tư; vốn đầu tư, tiến độ thực hiện dự án; nhu cầu sử dụng đất, giải pháp về
công nghệ và giải pháp về môi trường;
• Hồ sơ đăng ký kinh doanh tương ứng với mỗi loại hình tổ chức kinh tế theo quy định
của pháp luật về doanh nghiệp và pháp luật có liên quan (tham khảo Phần Đăng ký
kinh doanh);
• Hợp đồng liên doanh đối với hình thức thành lập tổ chức kinh tế liên doanh giữa nhà
đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài.
• Giải trình khả năng đáp ứng điều kiện mà dự án đầu tư phải đáp ứng theo quy định
của pháp luật đối với dự án thuộc lĩnh vực đầu tư có điều kiện.

QUY TRÌNH THẨM TRA DỰ ÁN ĐẦU TƯ

Quy trình thẩm tra dự án đầu tư thuộc thẩm quyền chấp thuận của Thủ tướng Chính
phủ

• Nhà đầu tư nộp 10 bộ hồ sơ dự án đầu tư, trong đó ít nhất có 1 bộ hồ sơ gốc.


• Trong thời hạn 3 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ dự án đầu tư, cơ quan
tiếp nhận hồ sơ kiểm tra tính hợp lệ của hồ sơ và gửi hồ sơ lấy ý kiến thẩm tra của
các Bộ, ngành liên quan.
• Trường hợp hồ sơ không hợp lệ, cơ quan tiếp nhận đầu tư thông báo bằng văn bản
cho nhà đầu tư biết để sửa đổi, bổ sung hồ sơ.
• Trong thời hạn 15 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ dự án đầu tư, cơ quan
được hỏi có ý kiến thẩm tra bằng văn bản và chịu trách nhiệm về những vấn đề của
dự án thuộc chức năng quản lý của mình.
• Trong thời hạn 25 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, cơ quan cấp Giấy
chứng nhận đầu tư lập báo cáo thẩm tra, trình Thủ tướng Chính phủ quyết định về
chủ trương đầu tư.
• Trong thời hạn 7 ngày làm việc kể từ khi nhận được báo cáo thẩm tra trình Thủ
tướng Chính phủ của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh hoặc Ban Quản lý, Văn phòng Chính
phủ thông báo bằng văn bản ý kiến của Thủ tướng Chính phủ về dự án đầu tư.
• Trong thời hạn 5 ngày làm việc kể từ ngày nhận được ý kiến chấp thuận của Thủ
tướng Chính phủ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh hoặc Ban Quản lý cấp Giấy chứng nhận
đầu tư.
• Trường hợp dự án đầu tư không được chấp thuận, cơ quan tiếp nhận hồ sơ dự án
đầu tư gửi thông báo bằng văn bản cho nhà đầu tư, trong đó nêu rõ lý do.
• Trong thời hạn 7 ngày làm việc kể từ ngày cấp Giấy chứng nhận đầu tư, cơ quan tiếp
nhận hồ sơ dự án đầu tư sao gửi Giấy chứng nhận đầu tư đến Bộ Kế hoạch và Đầu
tư, Bộ Tài chính, Bộ Thương mại, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam, Bộ quản lý ngành và các cơ quan có liên quan.

Quy trình thẩm tra dự án đầu tư thuộc diện thẩm tra cấp Giấy chứng nhận đầu tư

• Nhà đầu tư nộp cho Sở Kế hoạch và Đầu tư 8 bộ hồ sơ dự án đầu tư, trong đó có 1


bộ hồ sơ gốc đối với dự án do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh cấp Giấy chứng nhận đầu
tư; nộp cho Ban Quản lý 4 bộ hồ sơ dự án đầu tư, trong đó có 1 bộ hồ sơ gốc đối với
dự án do Ban Quản lý cấp Giấy chứng nhận đầu tư.
• Trong thời hạn 3 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ dự án đầu tư, cơ quan
tiếp nhận hồ sơ kiểm tra tính hợp lệ của hồ sơ và gửi hồ sơ lấy ý kiến thẩm tra của
sở, ngành liên quan; trường hợp cần thiết thì gửi hồ sơ lấy ý kiến các Bộ, ngành liên
quan.
• Trường hợp hồ sơ không hợp lệ, cơ quan tiếp nhận hồ sơ thông báo bằng văn bản
cho nhà đầu tư biết để sửa đổi, bổ sung hồ sơ.
• Trong thời hạn 15 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ dự án đầu tư, cơ quan
được hỏi có ý kiến thẩm tra bằng văn bản và chịu trách nhiệm về những vấn đề của
dự án thuộc chức năng quản lý của mình.
• Trong thời hạn 20 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, Sở Kế hoạch và
Đầu tư lập báo cáo thẩm tra, trình Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định. Trong thời
hạn 5 ngày làm việc kể từ ngày nhận được báo cáo thẩm tra, Ủy ban nhân dân cấp
tỉnh cấp Giấy chứng nhận đầu tư.
• Đối với dự án do Ban Quản lý cấp Giấy chứng nhận đầu tư, trong thời hạn 20 ngày
làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, Ban Quản lý tổng hợp ý kiến các cơ quan
được hỏi ý kiến để quyết định cấp Giấy chứng nhận đầu tư.
• Trường hợp dự án đầu tư không được chấp thuận, cơ quan tiếp nhận hồ sơ dự án
đầu tư gửi thông báo bằng văn bản cho nhà đầu tư, trong đó nêu rõ lý do.
• Trong thời hạn 7 ngày làm việc kể từ ngày cấp Giấy chứng nhận đầu tư, cơ quan tiếp
nhận hồ sơ dự án đầu tư sao gửi Giấy chứng nhận đầu tư đến Bộ Kế hoạch và Đầu
tư, Bộ Tài chính, Bộ Thương mại, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam, Bộ quản lý ngành và các cơ quan có liên quan

Nghị định 108/2006/NĐ-CP ngày 22 tháng 9 năm 2006 của Thủ tướng Chính phủ Quy định
chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đầu tư)

Nhà đầu tư có dự án đã được cấp Giấy chứng nhận đầu tư hoặc đã được cấp Giấy phép đầu
tư theo quy định của Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam có quyền chuyển đổi hình thức
đầu tư sang hình thức đầu tư khác quy định tại Điều 21 của Luật Đầu tư.

Nhà đầu tư đã được cấp Giấy phép đầu tư theo quy định của Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt
Nam thực hiện việc chuyển đổi theo quy định riêng của Chính phủ về đăng ký lại và chuyển
đổi doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.

Thủ tục chuyển đổi hình thức đầu tư của dự án có vốn đầu tư nước ngoài được thực
hiện như sau:

• Việc chuyển đổi hình thức đầu tư gắn với việc chuyển đổi loại hình doanh nghiệp
phải tuân thủ các quy định của pháp luật về doanh nghiệp;
• Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các bên hợp doanh phải gửi cho cơ quan
cấp Giấy chứng nhận đầu tư hồ sơ chuyển đổi hình thức đầu tư. Hồ sơ chuyển đổi
hình thức đầu tư bao gồm: văn bản đề nghị chuyển đổi hình thức đầu tư; quyết định
của hội đồng thành viên hoặc của chủ sở hữu doanh nghiệp hoặc của đại hội đồng
cổ đông hoặc thoả thuận của các bên hợp doanh (đối với dự án đầu tư theo hình
thức hợp đồng hợp tác kinh doanh) về việc chuyển đổi hình thức đầu tư; dự thảo
điều lệ doanh nghiệp chuyển đổi; hợp đồng hợp tác kinh doanh (đối với dự án đầu tư
theo hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh);
• Quyết định của hội đồng thành viên doanh nghiệp liên doanh hoặc quyết định của
nhà đầu tư (đối với trường hợp doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài); thoả
thuận của các bên hợp doanh (đối với hợp đồng hợp tác kinh doanh) về việc chuyển
đổi hình thức đầu tư phải thông báo cho các chủ nợ và người lao động biết trong thời
hạn 15 ngày làm việc, kể từ ngày quyết định;
• Trong thời hạn 30 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ quy định tại điểm b
khoản 3 Điều này, cơ quan cấp Giấy chứng nhận đầu tư điều chỉnh Giấy chứng nhận
đầu tư và thông báo cho nhà đầu tư.

Thứ Ba, 30/12/2008-3:04 PM)


Quan trọng nhất là đẩy nhanh tiến độ giải ngân FDI
(DN&HN) - Với dự báo kinh tế sẽ tiếp tục khó khăn, thu hút
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) trong năm 2009 có
thể chỉ ở mức trên 10 tỷ USD. Con số này khá khiêm tốn so
với kết quả đạt được của năm 2008, nhưng lại là phương án
khả thi nhất. Đó là nhận định của Cục trưởng Cục đầu tư
nước ngoài - Bộ Kế hoạch - Đầu tư Phan Hữu Thắng.

Ông Phan Hữu Thắng - Cục trưởng Cục


Đầu tư nước ngoài
Do vậy, ưu tiên hàng đầu trong năm tới 2009 là đẩy nhanh tiến độ giải ngân. Phong viên Tạp
chí DN&HN đã có cuộc trao đổi với ông Phan Hữu Thắng về vấn đề này.

Thưa ông, làm sao để đẩy nhanh tiến độ giải ngân nguồn vốn FDI luôn là vấn đề nóng được
xã hội quan tâm. Vậy Bộ KHĐT sẽ tiếp tục tháo gỡ những nút thắt nào để thu hẹp khoảng
cách vốn đăng ký và giải ngân?

Ông Phan Hữu Thắng: Có nhiều việc chúng ta phải làm. Trước hết là chúng ta phải rà soát
lại tình hình triển khai các dự án trên địa bàn để phân loại các dự án này ra. Đối với các dự
án nào thuộc về lỗi của chúng ta liên quan tới giao đất, thủ tục hành chính, phê duyệt quy
hoạch thì chúng ta phải sớm khắc phục. Thực sự những dự án này theo chúng tôi biết là còn
khá lớn. Nhà đầu tư họ đã sẵn sàng về vốn và vì các dự án đầu tư vào việt Nam đã nằm
trong chuỗi kinh doanh toàn cầu của nhà đầu tư và nằm trong kế hoạch kinh doanh của họ
trên thị trường quốc tế, khi có mặt ở Việt Nam, việc chậm giao đất trong xử lý thủ tục hành
chính liên quan thủ tục triển khai của họ thì đó là lỗi phía chúng ta, việc này chúng ta hoàn
toàn có thể xử lý được. Chúng ta phải tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các nhà đầu tư thực
hiện được nhanh chóng, sớm mang lại hiệu quả và đúng như các nhà đầu tư mong đợi đó là
coi khó khăn của việt Nam là trước mắt và khi dự án của họ đã hoàn thành thì Việt Nam đã
vượt qua các khó khăn hiện nay và sản phẩm của họ đã có trên thị trường rồi. Do vậy chúng
ta phải tận dụng lợi thế này để tạo điều kiện thuận lợi nhất để cho các nhà đầu tư triển khai
nhanh các dự án theo đúng cam kết của họ.

Nhiều nền kinh tế đang trên đà suy thoái, liệu yếu tố này có khiến các nhà đầu tư không thực
hiện giải ngân đúng tiến độ như đã cam kết?

Ông Phan Hữu Thắng: Đối với tác động của cuộc khủng hoảng tài chính khu vực tới khả
năng vay vốn của các nhà đầu tư thì chúng tôi cho rằng chắc chắn sẽ có tác động, nhưng rất
mừng cho đến thời điểm hiện nay chúng tôi cũng chưa nhận được một đề nghị nào liên quan
đến việc xin tạm dừng hoặc hoãn đầu tư.

Thưa ông nhưng dù sao Bộ KHĐT cũng cần lường trước yếu tố này để chủ động ứng phó?

Ông Phan Hữu Thắng: Chính vì biết rằng cuộc khủng hoảng này sẽ tác động đến đầu tư
nên đây là một trong những chủ đề được quan tâm trong suốt nhiều tháng qua. Để đi đến các
quyết định và giải pháp trong năm tới thì hiện nay đang hoàn chỉnh dần. Nhưng một trong
những nhiệm vụ trọng tâm là tập trung đẩy mạnh giải ngân trong năm tới.

Liên quan đến cơ cấu vốn FDI, vốn vào lĩnh vực nông lâm nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng rất nhỏ,
trong khi nước ta lại rất cần thu hút vào lĩnh vực này. Vậy Bộ KHĐT có những giải pháp gì
trong năm tới để đẩy mạnh thu hút vào lĩnh vực này?

Ông Phan Hữu Thắng: Trong thực tế thì lượng vốn đầu tư vào lĩnh vực này có tăng qua các
năm nhưng tỷ lệ vẫn có xu hướng giảm xuống vì lượng vốn FDI vừa rồi tăng quá lớn và chủ
yếu tăng trong lĩnh vực xây dựng và dịch vụ. Vì vậy, mặc dù tỷ lệ tuyệt đối tăng cao nhưng tỷ
lệ này vẫn thấp. Rõ ràng đây là một trong các điểm yếu nằm ngoài mong muốn của chúng ta.
Chúng ta vẫn đang và tiếp tục khuyến khích các nhà đầu tư vào nông nghiệp, đặc biệt là gia
công và chế biến nâng cao giá trị sản phẩm nông nghiệp của Việt Nam. Giải pháp về xúc tiến
đầu tư của chúng ta phải phù hợp hơn, cụ thể hơn, đi bằng dự án và đến thẳng các nhà đầu
tư tiềm năng trao đổi cụ thể với các dự án cụ thể. Ở đây phải có sự kết hợp chặt chẽ giữa cơ
quan xúc tiến đầu tư với Bộ NN&PTNT.

Chính vì vậy trong năm qua chúng tôi đã dành cả một chương trình để Bộ NN&PTNT chủ trì
để xúc tiến. Chúng ta phải gắn các dự án cụ thể với các nhà đầu tư cụ thể để chúng ta thu
hút. Thứ hai là đối với các dự án nông nghiệp, phải nhận được sự quan tâm đầy đủ trong
việc giao đất, giao mặt bằng sản xuất cho họ cũng như quản lý hợp đồng đầu tư giữa các hộ
nông dân, tạo vùng sản xuất lớn. Đặc biệt các dự án nông nghiệp muốn sản xuất lớn thì phải
có vùng canh tác đủ lớn. Thứ 3 là đối với các nguyên nhân bất khả kháng dẫn tới thiệt hại
nhà đầu tư thì chúng ta phải nhìn thẳng để có những chia sẻ nhất định.

Một vấn đề khác là hiện nay có trường hợp nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào bất động sản
với cam kết nhiều tỷ USD, tuy nhiên thực tế khi triển khai thì lại huy động một lượng vốn lớn
ngay từ nước ta. Ông có ý kiến gì về thực trạng này?

Ông Phan Hữu Thắng: vấn đề này thì bộ xây dựng đang phối hợp với chính quyền địa
phương để rà soát. Đối với lĩnh vực bất động sản thì có một số luật chi phối hoạt động này.
Nhà đầu tư khi đầu tư vào lĩnh vực này thì phải tuân thủ nghiêm ngặt những quy định.

Thực tế thời gian qua việc phân cấp đã bộc lộ những hạn chế, đó là các địa phương cạnh
tranh trong thu hút FDI dẫn tới nguy cơ phá vỡ quy hoạch tổng thể vùng - miền mà biểu hiện
rõ nét là thu hút vào dự án sân golf, bất động sản trong thời gian qua? Bộ KHĐT với cơ quan
là Tổng tham mưu trưởng sẽ ngăn chặn tình trạng này như thế nào?

Ông Phan Hữu Thắng: Để phân cấp tốt thì cần thực hiện 3 việc: Một là hoàn thiện hệ thống
quy hoạch ngành - vùng - lĩnh vực trên cơ sở đó để địa phương xem xét cấp phép đầu tư.
Thứ hai là hoàn thiện các hệ thống luật pháp, chính sách, hướng dẫn đầy đủ. luật có, nghị
định có nhưng thông tư hướng dẫn nhiều khi chậm. Và thứ ba là chuẩn bị nguồn nhân lực
đáp ứng yêu cầu. Bộ KHĐT là tổng tham mưu nhưng trong bộ nhiều cơ quan tham mưu. Là
Cục đầu tư nước ngoài thì có trách nhiệm tham mưu cho Bộ và Chính phủ rà soát lại thủ tục
hành chính, những bất cập trong việc phân cấp hiện nay. Tính đến thời điểm này chúng ta
triển khai được 2 năm nên cần có đánh giá, tổng kết từng thời kỳ để đưa ra giải pháp hữu
hiệu.

Mục tiêu giải ngân của Bộ trong năm tới là bao nhiêu tỷ USD?

Ông Phan Hữu Thắng: Cố gắng sẽ đạt bằng năm nay tức là từ 11 đến 12 tỷ USD.

Xin chân thành cảm ơn ông.

Thanh Trường (Thực hiện)

You might also like