Professional Documents
Culture Documents
Este cũng như andehit và xeton cũng đều có khả năng chuyển thành dạng enol, nhưng
khi nồng độ este trong dung dịch qúa cao thì sẽ dẫn đến việc enolat mới sinh ra tấn
công vào nhóm C = O của este theo một cơ chế tương tự như andol hóa để tạo thành
một trạng thái chuyển tiếp tứ diện, sau đó dẫn đến sự tách loại anion etoxit để hình
thành sản phẩm ngưng tụ. Phản ứng như vậy được gọi là ngưng tụ Claisen
Cũng tương tự như andol hóa, việc ngưng tụ hai este khác nhau cũng cho một loạt 4
sản phẩm, để tránh tình trạng đó thì người ta sử dụng một este không có hydro anpha.
Xét ví dụ về sự ngưng tụ giữa etylaxetat và etyl benzoat sẽ thấy rõ vấn đề:
Các beta - xetoeste sinh ra từ phản ứng Claisen thường không bền và dễ tách loại
nhóm cacboxyl để thành xeton tương ứng. Phản ứng decacboxyl hóa đi theo các bước
là thuỷ phân để trở về nhóm -COOH. Phản ứng decacboxyl hóa xảy ra theo cơ chế tạo
thành trạng thái chuyển tiếp vòng, trong đó beta - xetoaxit sẽ chuyển thành dạng enol.
Nếu như ta bằt đầu phản ứng với cùng một este thì ta sẽ thu được một xeton đối xứng.
Như vậy đây là một phương pháp hết sức hữu hiệu để tổng hợp xeton đối xứng. Nếu
hai este khác nhau thì sẽ xảy ra sự ngưng tụ hỗn tạp và xeton nhận được không còn
đối xứng nữa.
Một ví dụ về phản ứng ngưng tụ Claisen trong tổng hợp hữu cơ là sự tổng hợp 2,6 -
dimetyl-4-heptanon như được dẫn ra dưới đây:
Phản ứng ngưng tụ Dieckmann là một trường hợp riêng của phản ứng Claisen khi hai
nhóm chức este đều ở trên cùng một phân tử. Phản ứng này chỉ xảy ra khi hai nhóm
este ở vị trí 1, 6 và 1,7. Do sản phẩm sinh ra là vòng 5 và 6 cạnh là bền vững.
Vào năm 1912, khi đun nóng allyl vinyl ether, ông Claisen thu được sản phẩm
là một alpha, beta bất bão hòa ketone thông qua phản ứng chuyển vị [3,3]-
sigmatropic của ether ban đầu.
Sau đây là những loại phản ứng Claisen và tương tự Claisen khác nhau.
Chuyển vị Bellus-Claisen
Phản ứng chuyển vị Bellus-Claisen là loại phản ứng giữa allylic ether, amine,
và thioether với ketenes tạo thành sản phẩm là γ,δ-unsaturated ester, amide,
và thioester tương ứng.[10][11][12]
Chuyển vị Eschenmoser-Claisen
Phản ứng chuyển vị Eschenmoser-Claisen (phá hiện năm 1964 bởi Albert
Eschenmoser) là phản ứng điều chế alpha, gamma bất bão hòa amide từ
allylic alcohol.
Chuyển vị Ireland-Claisen
Chuyển vị Ireland-Claisen là phản ứng giữa allylic acetate với một baz mạnh
như Lithium diisopropylamide (LDA) hay BuLi tạo thành gamma, delta bất bão
hòa acid carboxylic.
Chuyển vị Overman
Chuyển vị Overman (đặt tên theo ông Larry Overman) là một loại chuyển vị
Claisen của allylic trichloroacetimidate thành allylic trichloroacetamide ở nhiệt
độ cao.
Phản ứng xảy ra khi ion enolat phản ứng với hợp chất alpha, beta cacbonyl không no
theo cơ chế như sau. Phản ứng như vậy được gọi là phản ứng cộng Michael:
Phản ứng cộng Michael có rất nhiều ứng dụng, như trong các sơ đồ sau:
Về phản ứng vòng hóa Robinson, thực chất gồm hai giai đoạn nối tiếp nhau, giai đoạn
đầu là ngưng tụ loại andol, sau đó là cộng Michael để thu được sản phẩm. Ví dụ:
Phản ứng Suzuki:
I. Lược sử:
Năm 1979, Phản ứng ghép mạch sử dụng hợp chất cơ bo sử dụng chất xúc
tác là muối paladi (II) halogenua diễn ra tốt khi có mặt dung dịch nước của
bazơ mạnh. Đây là một phản ứng có tầm ứng dụng rộng rãi trong việc tạo
thành liên kết C-C bên cạnh các phản ứng tương tự của các hợp chất cơ
nguyên tố như cơ magie; kẽm, thiếc hay silic. Bây giờ thì hầu hết các hợp
chất cơ nguyên tố đều tham gia phản ứng tăng mạch nhưng trong những
năm gần đây thì các nghiên cứu đều tập trung nghiên cứu vào các hợp chất
cơ bo để có thể ứng dụng được phản ứng này trong công nghiệp cũng như
PTN vì nó là những tác nhân thuận tiện, bền nhiệt và trơ với nước cũng như
oxy nên ta có thể cầm trên tay mà không nhất thiết phải có phương pháp bảo
hộ đặc biệt nào.
II. Phản ứng Suzuki và cơ chế phản ứng
Phản ưng Suzuki là phản ứng ghép mạch sử dụng hợp chất cơ bo có dạng:
Cơ chế của phản ứng Suzuki có thể diễn tả tốt nhất bằng một chu trình khép
kín có dạng như sau:
a) Cộng oxy hóa: Phản ứng của hợp phần halogenua với phức paladi-(0) sinh
ra phức paladi-(II)
b) Chuyển vị nhóm thế xung quanh nguyên tử trung tâm: Chuyển nhóm R' từ
bo đến trung tâm của phức là ion paladi, dẫn đến kết qủa là phức paladi-(II)
chứa cả hai gốc R và R' đã được liên kết với nhau
c) Tách khử: Sản phẩm ghép tách ra khỏi phức và hoàn trả lại xúc tác
Axit boronic trước tiên chuyển thành hợp phần hoạt động có trạng thái
chuyển tiếp tứ diện với tâm là nguyên tử bo sau khi cho nó phản ứng với một
bazơ mạnh. Halogenua hay triflat (OTf = triflorometansunfonat) được sử dụng
để đóng vai trò là tác nhân R-X của phản ứng. Tốc độ của phản ứng tăng
cùng với sự tăng tính oxy hóa của anion X-. Phụ thuộc vào tốc độ của nhóm
đi ra X thì tốc độ phản ứng giảm theo thứ tự: I>OTf>Br>>Cl
Một ý nghĩa rất quan trọng của phản ứng này là sự cho phép tổng hợp các
biphenyl mà không hề bị cản trở không gian. Ví dụ:
I. Giới thiệu:
Hầu hết các phản ứng hữu cơ xảy ra theo cơ chế phân cực theo kiểu một tác nhân
nucleophin cho 2e với một tác nhân electrophin để hình thành liên kết mới. Phần khác
lại phản ứng theo kiểu gốc tự do, mỗi chất phản ứng cho 1e để hình thành liên kết
mới. Và hiện nay hầu hết các phản ứng theo hai kiểu này đã được hiểu biết một cách
tường tận.
Một loại thứ 3 nữa của phản ứng hữu cơ là phản ứng pericyclic (ta sẽ gọi là phản ứng
peri hóa) là phản ứng không hề xảy ra theo hai hướng trên mà là một qúa trình đồng
bộ xảy ra theo một trạng thái chuyển tiếp vòng (phản ứng một giai đoạn). Phản ứng
này có 3 loại: phản ứng vòng hóa electron (đi không sâu lắm), phản ứng cộng vòng
(nghiên cứu kỹ phản ứng Diels-Alder, những ai muốn tìm hiểu kỹ hơn vui lòng làm
BT6 đề thi IChO 36 nhé) và phản ứng chuyển vị Sigma (cái này ta không xét).
II. Quy tắc cơ bản của phản ứng peri hóa: Quy tắc Woodward - Hoffmann
1. Obitan phân tử trong hệ liên hợp pi
Dựa vào thuyết obitan phân tử (MO) thì các obitan p trong nguyên tử cacbon lai hóa
sp2 trong một polien liên hợp tạo thành một hệ thống các obitan pi có năng lượng phụ
thuộc vào số nút mà chúng có giữa các hạt nhân. Những hệ thống có obitan với số nút
bé sẽ có mức năng lượng bé hơn gọi là các MO liên kết. Ngược lại là MO phản liên
kết. Ta dễ dàng nhận thấy điều này trong thí dụ sau: (đường chấm chấm chỉ mặt
phẳng nút). Xét 1,3 - butadien.
Điều thú vị nhất của phản ứng chính là hóa học lập thể của nó. Với tác dụng của hai
tác nhân là ánh sáng và nhiệt độ thì phản ứng vòng hóa (2E, 4Z, 6E)-octatrien dẫn đến
những kết qủa rất khác nhau:
Để giải thích kết qủa trên thì chúng ta sẽ xem xét 2MO có sự xen phủ để hình thành
liên kết mới. Ở đây xảy ra hai khả năng. Các thuỳ cùng màu có thể ở cùng phía hay
khác phía đối với mặt phẳng phân tử.
Để tạo thành liên kết thì các obitan pi này phải quay ra sao đó để cho các phần tạo
thành liên kết (cùng màu) phải xen phủ với nhau. Nếu hai thuỳ cùng màu ở cùng phía
so với mặt phẳng phân tử thì chúng phải quay ngược chiều nhau (disrorator) còn nếu
ở trường hợp hai obitan cùng màu ở khác phía so với mặt phẳng phân tử thì chúng
phải quay cùng chiều nhau (conrotator). Để dễ hình dung ta xem hình sau:
Lưu ý rằng: tuỳ thuộc vào sự đóng mở vòng do obitan quay cùng chiều và ngược
chiều nhau thì ảnh hưởng đến mặt lập thể của phản ứng. Nay ta xét lại phản ứng đóng
vòng (2E, 4Z, 6E)-octatrien khi có xúc tác là nhiệt độ và ánh sáng, các bạn tự lý giải
thử xem trường hợp nào các obitan quay ngược chiều còn obitan nào thì quay cùng
chiều nhé
Để phản ứng cộng xảy ra dễ dàng hơn thì hai thuỳ đối xứng của hai chất phản ứng
phải có tính đối xứng và có vị trí thuận lợi nhất để có thể hình thành liên kết. Điều này
có thể được thực hiện bởi hai cách: Tấn công supra (suprafacial) và antara
(antarafacial). Sự tấn công supra xảy ra khi các thuỳ có tính đối xứng như nhau nằm
đối diện nhau còn tấn công antara xảy ra khi một thuỳ của chất phản ứng nằm trên
cùng một mặt phẳng còn thùy của chất còn lại nằm dưới mặt phẳng. Xem hình:
Đối với phản ứng cộng đóng vòng [4+2] này thì chúng ta sẽ xét LUMO của dien và
HOMO của anken (Có thể chọn HOMO của dien và LUMO của anken). Sự đối xứng
của hai trạng thái này thì dẫn đến sự tấn công supra (xem hình). Sự tấn công supra
làm bảo toàn cấu hình của anken ban đầu cũng như dạng s-cis (hai liên kết đôi nằm về
một phía của liên kết đơn) của dien (chỉ có dạng s-cis của dien mới tham gia phản ứng
mà thôi) còn sự tấn công antara làm thay đổi cấu hình của sản phẩm (do một trong số
các chất ban đầu phải quay). Trong phản ứng Diels-Alder thì có sự bảo toàn cấu hình
(do có sự tấn công supra)
Giới thiệu về phản ứng khử Corey - Bakishi - Shibata (còn gọi tắt là phản ứng
khử CBS).
Trước tiên nói sơ qua về bài tổng hợp đó, đó là 4/5 dãy chuyển hóa của bài
20, Bài tập chuẩn bị cho IChO 38th, Gyeongsan, Hàn Quốc.
Phản ứng tiếp diễn, năng lượng tiếp tục tăng lên cho đến khi hình thành liên
kết giữa cacbon và tác nhân nucleophin. Năng lượng giải phóng ra đủ để bù
lại mức năng lượng cần thiết để bẻ gãy liên kết cacbon - halogen. Ở thời
điểm hình thành trạng thái chuyển tiếp thì năng lượng đạt cực đại, đó là thời
điểm mà 1/2 liên kết cacbon - halogen bị bẻ gãy và 1/2 liên kết cacbon -
nucleophin được hình thành. Lúc này sẽ có hai con đường làm giảm năng
lượng của hệ là trở lại chất phản ứng hoặc hình thành sản phẩm. Bức tranh
về trạng thái chuyển tiếp chính là chìa khóa để hiểu rõ tính chất của phản ứng
này.
Mức năng lượng cần thiết để đưa chất phản ứng và tác nhân nucleophin đến
trạng thái chuyển tiếp (transition state) được gọi là năng lượng hoạt hóa của
phản ứng. Phản ứng xảy ra càng nhanh khi năng lượng hoạt hóa càng nhỏ.
Bây giờ chúng ta sẽ nghiên cứu về cấu trúc của trạng thái chuyển tiếp:
Khi hai nhóm thế chính gắn vào cacbon bị ảnh hưởng bởi nguyên tử hydro thì
lực tương tác giữa nguyên tử hydro và nhóm thế nhỏ và không cần phải tốn
nhiều năng lượng để thắng lực này---> năng lượng hoạt hóa thấp. Khi thay H
bằng một nhóm -CH3 chẳng hạn thì năng lượng hoạt hóa sẽ tăng lên, phản
ứng xảy ra chậm hơn. Chính vì vậy thứ tự tham gia phản ứng SN2 như sau:
metyl > dẫn xuất bậc 1 > dẫn xuất bậc 2 > dẫn xuất bậc 3.
Nghiên cứu về trạng thái chuyển tiếp của phản ứng SN2 sẽ cho ta thấy một
tính chất khác của phản ứng này. Hãy lưu ý rằng là tác nhân nucleophin tấn
công từ phía sau so với hướng mà nhóm halogen đi ra. .
Kết qủa của qúa trình này là sự đổi quay. Nếu chúng ta vẽ công thức 3D thì
sẽ dễ dàng thấy được tính chất này. Ví dụ:
Nếu như chất phản ứng có cấu hình R thì sản phẩm sẽ có cấu hình S và
ngược lại. Tức là nếu như chúng ta hiểu được cấu hình của chất đầu thì
chúng ta sẽ dễ dàng suy ra được cấu hình của sản phẩm và ngược lại nếu
trong một phản ứng thế mà có sự đổi quay thì đó là phản ứng SN2.
Nguyên tử cacbon ở chất phản ứng có trạng thái lai hóa sp3 và điều này cũng
được giữ nguyên ở sản phẩm. Ở trạng thái chuyển tiếp thì ba nhóm thế đính
với C không tham gia phản ứng hầu như là phẳng, điều này là do nguyên tử
cacbon lúc này ở trạng thái lai hóa sp2. Chính vì vậy ta có thể kết luận rằng
phản ứng thế SN2 chỉ có thể xảy ra ở nguyên tử cacbon lai hóa sp3 mà thôi.
Tốc độ của phản ứng phụ thuộc vào nồng độ của chất ban đầu và sản phẩm
theo biểu thức: v = k[Nu][dẫn xuất Halogen]
Ở trạng thái chuyển tiếp thì liên kết cacbon - halogen bị đứt ra cho nên nếu
liên kết này càng dễ đứt thì phản ứng càng dễ. Vậy thứ tự tham gia phản ứng
SN2 giảm theo thứ tự: RI > RBr > RCl > RF
Liên kết C - F thì rất bền nên khó bị bẻ gãy, còn dẫn xuất iot thì rất hoạt động
nên khó có thể bảo quản nó. Chính vì vậy sự lựa chọn tốt nhất là dẫn xuất
brom hay clo.
Chính vì trong tiến trình phản ứng có sự tạo thành cacbocation nên sẽ xảy ra
khả năng chuyển vị thành cacbocation bền hơn. Điều này chúng ta sẽ xét
sau.
Sau đây ta sẽ xem xét ảnh hưởng của các yếu tố đến phản ứng và hóa lập
thể của phản ứng
Sau đây ta sẽ xem xét ảnh hưởng của các yếu tố đến phản ứng và hóa lập
thể của phản ứng
Trong các hợp chất vòng xiclohexan thì sự tách E2 chỉ xảy ra khi các nhóm thế ở vị trí diaxial đối
với nhau, vì điều này thỏa mãn điều kiện các trung tâm phản ứng ở vị trí anti:
Ngoài ra người ta cũng đã tìm đựơc một số phản ứng tách syn E2, nhưng ít được nghiên cứu do tính
ít phổ biến của nó:
Đối với phản ứng tách E1 thì đi qua trung gian là cacbocation, và hầu hết các phản ứng tách theo E1
đều cho trans-anken bền hơn
Phản ứng E1cB thường xảy ra với các nhóm đi ra khó, và đi qua trung gian cacbanion ví dụ:
Tuy nhiên nếu trong hệ phản ứng có một tác nhân bazơ như pyridin thì sẽ lại cho sản
phẩm nghịch chuyển cấu hình như SN2
4) Phản ứng SE :
Thường phản ứng SE hay gặp trong các hệ thơm và ít gây ra ảnh hưởng về sự thay đổi
cấu hình nhưng nó lại làm thay đổi nhiều sự định hướng nhóm thế trong một số
trường hợp vì kích thước nhóm thế quá lớn. Chẳng hạn như áp dụng phản ứng Friedel
- Crafts vào tert-butylbenzen cho sản phẩm thế chủ yếu vào vị trí para
Với phản ứng cộng electrophin vào liên kết bội thì tuỳ từng tác nhân mà có thể quan
sát được các mô hình lập thể khác nhau. Trường hợp hay gặp nhất là các phản ứng
cộng trans khi cho anken tác dụng với halogen. Các phản ứng này đi qua một cation
oni vòng trung gian (chỉ có clo và brom mới có được khả năng này). Các cation oni
vòng này đã đựơc thực nghịêm xác nhận bằng NMR, điều đó chứng minh tính đúng
đắn của cơ chế này
Sản phẩm của đồng phân trans là đồng phân meso, còn cis là một cặp đối quang
Khi tiến hành cộng hydro halogenua vào anken người ta cũng quan sát thấy hướng
cộng trong đại đa số trường hợp là trans. Điều này dẫn tới một ý nghĩ là cơ chế sẽ đi
qua một ion vòng cầu hidrogenoni trung gian gây cản trở lập thể. Thực tế điều này tuy
được chấp nhận, nhưng số bằng chứng thực nghiệm hiện vẫn chưa nhiều:
Ngoài ra người ta cũng quan sát được phản ứng cộng cis vào anken, thuộc loại này là
cơ chế oxy hóa anken bởi OsO4, bởi KMnO4 và phản ứng cộng B2H6 vào anken
Đặc biệt là cơ chế phản ứng cộng hydro vào anken là một quá trình cộng cis:
Đây là cơ chế cộng hydro vào anken với xúc tác Wilkinson
Đây là cơ chế cộng hydro và anken với xúc tác hấp phụ (Ni, Pt...)
Về phản ứng cộng AN sẽ giới thiệu đôi chút về quy tăc Cram, là phương
pháp hay gặp trong chương trình phổ thông, sau đó sẽ mở ra một mô hình
hiện đại hơn là mô hình Felkin - Anh
Quy tắc Cram cho phản ứng cộng nucleophin vào hợp chất cacbonyl có thể
được minh họa như sau:
Và có thể được phát biểu dưới dạng: "Tác nhân nucleophin sẽ tấn công vào
hướng ít bị chắn lập thể nhất để tạo sản phẩm chính" (hướng giữa nhóm thế
lớn nhất và bé nhất, hay hướng Si trên hình vẽ)
Hiện quy luật này chỉ còn đúng với phản ứng cộng hợp chất cơ magie
(RMgBr) vào hợp chất cacbonyl:
Mô hình Felkin - Anh (hay Felkin - Nguyen) về phản ứng cộng Nucleophin vào
andehit và xeton
1. Lời mở đầu:
Về phản ứng cộng tác nhân nucleophin vào hợp chất cacbonyl thì hiện nay người ta
sử dụng mô hình Felkin - Anh. Chúng ta không đề cập đến quy tắc Cram là do nó chỉ
có tính chất kinh nghiệm, cho đến nay chúng ta đã hiểu một cách thấu đáo hơn bản
chất của vấn đề, và quan trọng nhất là một số dự đoán theo quy tắc Cram cho kết quả
sai lệch với thực tế, các thí nghiệm và suy nghĩ logic luôn chiếm một vị trí quan trọng
ưu tiên hơn là các quy tắc chỉ mang tính kinh nghiệm. Sau đây anh sẽ giới thiệu kỹ
mô hình này như là một bài đọc thêm mang tính chất tham khảo, để mọi người tiếp
cận được hơn với hóa học hữu cơ hiện đại (Tạt qua VN một tí: Ở VN chưa hề đưa thứ
này vào giảng dạy, mà chỉ toàn học quy tắc Cram, chán. Thế này thì đến lúc nào giáo
dục Việt Nam mới bắt kịp thế giới ???)
Đây là hai cấu dạng bền nhất so với tất cả các cấu dạng có thể có của hợp chất đang
xét
Nhìn vào mô hình bên phải, ta thấy rằng các tác nhân nucelophin tấn công một góc
lệch 30o so với các nhóm thế, như vậy có thể có khả năng xảy ra tương tác không
gian giữa tác nhân nucleophin với các nhóm thế này. Nhìn vào mô hình bên trái thì
tác nhân nucleophin lúc này tấn công ở hướng gần với H, tương tác không gian lúc
này gần như có thể bỏ qua được. Như vậy thì rõ ràng sản phẩm chính sẽ là sản phẩm
như hình vẽ bên trái. Điều này sẽ dẫn đến sự tạo thành các đồng phân quang học
không đối quang như hình vẽ sau:
Click this bar to view the full image.
Với Nu là Et thì ta thu được kết quả phù hợp. Nhưng điều quan trọng hơn là chúng ta
đã xấy dựng được một mô hình, gọi là mô hình Felkin - Anh, đã được xây dựng bằng
cách tính toán lý thuyết và kết quả thực nghiệm. Trong mô hình này thì việc xác định
cấu dạng nào bền hơn hoàn toàn không cần thiết nữa, bởi vì các kết quả thực nghiệm
đã cho thấy rằng cho dù cấu dạng bên trái (hình 2) có lượng nhiều hay ít trong hỗn
hợp các cấu dạng thì sản phẩm chính vẫn cứ xảy ra theo hướng đó.
Điều duy nhất để lưu ý ở đây là hướng tân công của tác nhân nucleophin tấn công vào
nhóm C = O ở một góc độ là xấp xỉ 107o (có tài liệu là 109, nhưng nói chung trong
khoảng đó ). Điều này do hai nhà tinh thể học là Burgi và Dunitz tìm ra được bằng
thực nghiệm vào năm 1970, góc này được gọi là góc Burgi - Dunitz.(chứ không phải
là 90 độ như lâu nay vẫn nghĩ đâu à)
Công thức đúng của sản phẩm của ví dụ trên được dự đoán theo mô hình Felkin - Anh
như sau:
Tiếp theo ta sẽ xét đến các yếu tổ liên quan đến mô hình và cách sử dụng tốt mô hình
a) Yếu tố obitan
Xét một giai đoạn trong quá trình tổng hợp chất chống ung thư Dolastatin của Reetz:
Vì sao sự chọn lọc lập thể lại tốt đến thế khi mà cả hai nhóm thế của nguyên tử C
alpha là NBn2 và CH(Me)Et có kích thước gần như nhau
Lý do ở đây là ảnh hưởng của nhóm kéo electron NBn2 lên MO của nhóm C = O, làm
cho nhóm C = O hoạt hóa hơn. Nhìn hình vẽ sau để hiểu rõ hơn:
Hình vẽ trên được giải thích như sau: Sự hiện diện của nhóm C - X âm điện đã làm
giảm năng lượng của LUMO nên nhóm cacbonyl trở nên hoạt động hơn. Khả năng tổ
hợp các MO của C alpha và C (của C = O) khả thi hơn, tác nhân nucleophin tấn công
vào dễ hơn.
Lưu ý:
1) X không phải là nhóm đi ra dễ (vì nếu dễ thì sẽ xảy ra phản ứng thế)
2) Cấu dạng ổn định nhất là cấu dạng mà nhóm thế cồng kềnh vuông góc với C = O,
nhưng cấu dạng phản ứng mạnh nhất chính là cấu dạng mà X vuông góc với nhóm C
= O (do lúc này ảnh hưởng của nhóm thế lên C = O là mạnh nhất).
b) Yếu tố tạo phức chelat (vòng càng)
Thỉnh thoảng lại xảy ra phản ứng kiểu như sau:
Điều này được giải thích bằng sự tạo phức vòng càng giữa Mg. Thực nghiệm đã
chứng minh rằng tính chọn lọc hướng phản ứng luôn tăng lên khi có sự tạo thành
trạng thái chuyển tiếp vòng. Chính vì vậy không có gì ngạc nhiên khi kết quả đi
ngược lại với mô hình Felkin - Anh vốn chỉ áp dụng khi không có sự tạo thành trạng
thái chuyển tiếp vòng.
Như chúng ta đã biết thì andehit và xeton nằm cân bằng với dạng enol của nó trong
dung dịch. Nhưng nếu nồng độ hợp chất cabonyl trong dung dịch là khác lớn thì enol
có thể đóng vai trò như là tác nhân nucleophin tấn công AN vào nhóm C = O của hợp
chất cacbonyl bất kỳ trong dung dịch (kể cả chính nó). Kết qủa là hình thành một liên
kết giữa nguyên tử cacbon alpha của một hợp chất cacbonyl và nguyên tử C của nhóm
C = O trong hợp chất cacbonyl khác. Phản ứng như vậy được gọi là phản ứng andol
hóa. Xét ví dụ axetandehit:
Phản ứng này cũng có thể xảy ra với cả xeton. Nói chung phản ứng andol hóa xảy ra
được khi có nguyên tử hydro ở bên cạnh cacbon anpha. Nếu không có thì sẽ xảy ra
phản ứng Canizzaro (chuyển vị hydrua để hình thành anion cacboxylat và ancol).
Hợp chất beta - hydroxicacbonyl bền vững trong môi trường bazơ nhưng không bền
trong môi trường axit. Trong môi trường này thì xảy ra sự tách nước để tạo thành hợp
chất cacbonyl không no:
Phản ứng andol hóa có rất nhiều ứng dụng trong tổng hợp hữu cơ, nó rất có gía trị
trong việc hình thành nối đôi C = C, để tạo thành hợp chất cacbonyl liên hợp dạng C
= C - C = O có nhiều ứng dụng. Sau đây là sơ đồ tổng hợp 2 - etylhex-2-en-1-al.
Tất nhiên ta cũng có khả năng ngưng tụ hai loại hợp chất cacbonyl khác nhau, trong
trường hợp này thì sẽ có đến 4 sản phẩm ngưng tụ (tự mà xác định lấy ). Để tránh
hiện tượng đó thì thường người ta cho một chất trong số hai chất phản ứng là không
có nguyên tử hydro anpha. Một ví dụ là tổng hợp 4 - phenylbut - 3 - en - 2 - on như
dẫn ra ở dưới