You are on page 1of 7

Bàn về xã hội dân sự

08:08' AM
- Thứ tư,
15/08/200
Nguyễn Trần Bạt, Chủ tịch / Tổng giám đốc, InvestConsult 7

Khái niệm xã hội dân sự từ lâu đã trở thành một khái niệm
quan trọng và ngày càng trở nên quan trọng khi quá trình toàn
cầu hoá đang làm thế giới xích lại gần nhau hơn. Và khi các
giá trị cá nhân ngày càng được khẳng định thì một xã hội dân
sự nhằm đảm bảo quyền và lợi ích của con người ngày càng trở
nên cần thiết.

Thế kỷ Khai Sáng với nhiều tác phẩm bất hủ của các nhà triết
học nổi tiếng như Rousseau hay Montesquier tuy chưa thực sự
nhắc đến một xã hội dân sự nhưng những tư tưởng về chủ
quyền nhân dân và sự phủ định vai trò tuyệt đối của nhà nước Thông tin liên quan:
đã góp phần tạo nền tảng cho sự hình thành khái niệm xã hội  Khảo luận thứ hai về
dân sự. Từ đó đến nay, xã hội dân sự không còn là một khái chính quyền - Chính
niệm mới song cũng chưa đủ cũ để người ta thôi luận bàn về nó. quyền dân sự
[22/07/2007]
Nói cách khác, hơn 300 năm sau Thế kỷ Khai Sáng, gần 300  Xã hội dân sự: khái
năm sau khi "Khế ước xã hội" của Rousseau ra đời, loài người niệm và các vấn đề
đã có một bước tiến dài về phía xã hội dân sự nhưng vẫn còn sự [15/04/2007]
 Nhà nước pháp quyền
nhận thức khác nhau giữa các cộng đồng dân tộc. Xã hội dân và xã hội dân sự
sự, ở một số nơi, chưa được thừa nhận và tôn trọng, do đó, nó [11/11/2005]
không phát huy được vai trò của mình trong tiến trình phát
triển. Vậy xã hội dân sự là gì? Vai trò của nó cũng như tương quan giữa nó và sự phát
triển của con người là gì? Sự thiếu vắng hay không được thừa nhận xã hội dân sự ở một
số quốc gia đang phát triển có ảnh hưởng thế nào đến quá trình tổ chức và rèn luyện nền
dân chủ của các quốc gia này? Đây là một vấn đề cần được nghiên cứu và thảo luận một
cách rất nghiêm túc.

1. Xã hội dân sự và đặc điểm của nó

Xã hội dân sự là xã hội phi nhà nước

Tôi cho rằng, xã hội dân sự, hiểu một cách đơn giản nhất là xã hội phi nhà nước, ở
đó, mối quan hệ giữa con người với nhau dựa trên sự tự thảo luận và tạo ra sự đồng
thuận trên các vấn đề của cuộc sống mà không cần có sự can thiệp của nhà nước. Xã
hội dân sự là xã hội tự cân bằng. Nó có các tổ chức do xã hội lập ra để thể hiện những
loại hình ý chí khác nhau của cộng đồng. Nói cách khác, tự bản thân xã hội dân sự sẽ
điều chỉnh, hạn chế tất cả những sự cực đoan, những hành vi không phù hợp với lợi ích
cộng đồng bằng các quy tắc bất thành văn mà không cần sự tham gia của các yếu tố nhà
nước. Có thể nói tính tự lập là bản chất của xã hội dân sự, tức là xã hội tự giải quyết các
vấn đề của nó. Xã hội dân sự là xã hội tự quản lấy mình và đến một mức độ mà nó không
có khả năng để tự quản nữa thì phần còn lại rơi vào nhà nước. Rất nhiều quốc gia chậm
phát triển đã không nhận thức được điều này. Người ta luôn cho rằng nhà nước phải có
mặt trong mọi lĩnh vực của cuộc sống mà không biết rằng nhà nước là bộ phận nối dài
của xã hội dân sự để giải quyết những công việc mà bản thân xã hội không tự giải quyết
được. Thực ra, nếu chúng ta thừa nhận sự phát triển các hình thái kinh tế xã hội dẫn đến
sự ra đời của nhà nước nhằm dung hoà lợi ích của các cộng đồng người trong một xã hội
hay nếu chúng ta thừa nhận nhà nước được hình thành từ sự góp vốn tự do của con người
thì chúng ta sẽ thấy rằng, rõ ràng xã hội dân sự có trước nhà nước. Nhà nước là bộ phận
thượng tầng của xã hội, là nơi giải quyết những vấn đề xã hội đòi hỏi, hay nói cách khác,
con người tạo ra nhà nước để giải quyết những vấn đề mà tự nó không giải quyết được.
Còn nếu chúng ta quy lịch sử phát triển loài người vào lịch sử phát triển các nhà nước,
tức là nếu chúng ta cho rằng, con người chỉ trở thành con người xã hội khi có nhà nước
thì chúng ta sẽ biến nhà nước trở thành kẻ sinh ra xã hội. Và như thế, chúng ta sẽ không
thừa nhận tình trạng không có con người nằm ngoài nhà nước, và nó dẫn đến một logic là
Xã hội = Nhà nước.

Hầu hết các nước chậm phát triển hay đang phát triển đều nhận thức chưa đúng về vai trò
của nhà nước. Sự phong cho nhà nước một quyền lực quá lớn đã dẫn đến một logic
ngược lại, nhà nước không phải là nơi giải quyết những vấn đề xã hội đòi hỏi mà xã hội
là nơi để nhà nước áp đặt những đòi hỏi của mình. Sự phủ bóng quá lớn của nhà nước
xuống xã hội đã khiến đời sống dân sự của con người bị thu hẹp lại thậm chí trở thành bất
hợp pháp. Pháp luật ở một số quốc gia không thừa nhận tình trạng không có nhà nước
trong một loạt các khu vực khác nhau của đời sống và làm mất đi những yếu tố của xã hội
dân sự. Ví dụ, nhà nước không thừa nhận vai trò làm chứng của một luật sư cho các cam
kết dân sự của khách hàng mà chỉ thừa nhận sự làm chứng của các cơ quan công chứng
nhà nước. Nhận thức sai lầm về vai trò của nhà nước, con người cũng nhận thức sai lầm
về địa vị xã hội. Một số người luôn quan niệm là phải làm việc ở cơ quan nhà nước mới
có địa vị xã hội và danh dự. Do đó, con người bằng mọi giá phấn đấu để được vào biên
chế, để được bao cấp, được bảo vệ bởi nhà nước. Con người mất tự tin khi bị tách khỏi
nhà nước và con người bơ vơ về tinh thần khi ra khỏi nhà nước. Trạng thái này kéo dài ở
một số quốc gia, làm hình thành nên một nền văn hóa không có dấu hiệu dân sự. Nền văn
hóa mà người ta lấy tất cả những ưu thế trong hệ thống nhà nước làm thước đo của giá trị
thì không còn đời sống dân sự, tức là con người không có quyền lợi nào nếu không gắn
với một nhà nước cụ thể. Nhưng trong hàng trăm hành vi của con người hàng ngày, có
bao nhiêu phần trăm là hành vi mang chất lượng nhà nước và bao nhiêu hành vi mang
chất lượng tự nhiên? Và con người lành mạnh là con người hành động tự giác hay con
người hành động trong sự giục giã, giám sát và điều chỉnh của nhà nước? Nói như thế
không có nghĩa là phủ nhận vai trò điều chỉnh và giám sát của nhà nước vì rõ ràng, có
những vấn đề mà nếu nhà nước không đảm nhiệm, xã hội dân sự không thể giải quyết
nổi.

Ở đây, phải nói thêm một khía cạnh là trong một quốc gia bao giờ cũng có nhiều cộng
đồng dân sự, có nhiều quy tắc và điều này đã khiến một số người nhầm lẫn giữa các quy
tắc dân sự của cộng đồng với hương ước, lệ làng. Họ tưởng rằng đó là thể hiện cơ bản
của xã hội dân sự. Phải khẳng định rằng hương ước hay lệ làng thực chất là những quy
tắc phản ánh một xã hội khu trú và chậm tiến bộ. Nó là những thói quen văn hóa rất chậm
thay đổi, lưu truyền từ đời nọ sang đời kia, con người mặc nhiên chấp nhận nó như một
quy ước. Còn những quy tắc trong xã hội dân sự được hình thành dựa trên cơ sở sự đồng
thuận xã hội, tức là con người trực tiếp tham gia vào quá trình thương thảo về những quy
tắc và đấy là biểu hiện của trình độ phát triển cao, trong đó mỗi người dân đều ý thức
được vai trò, quyền và lợi ích của mình. Những quy tắc này có thể biến đổi theo thời gian
tùy thuộc vào trạng thái phát triển của xã hội.

Sự khác biệt giữa xã hội dân sự và xã hội công dân

Các cuộc tranh luận giữa các học giả còn xoay quanh khái niệm xã hội công dân hay xã
hội dân sự. Ban đầu, ý tưởng về "xã hội dân sự" và "xã hội công dân" gần như đồng nhất,
nhưng dần dần hai khái niệm ấy tách khỏi nhau vì trong tiến trình phát triển, con người
ngày càng thấy rõ mỗi công dân đồng thời cũng là con người với tất cả những đặc tính
phong phú của mình. Cho nên, không thể quy toàn bộ tính phong phú ấy vào trong khái
niệm công dân. Vậy xã hội công dân là gì? Tôi cho rằng, xã hội công dân là một xã hội
mà các thành viên của nó là công dân theo đúng nghĩa. Vấn đề đặt ra là công dân là gì?
Công dân là các thành viên của một xã hội hiện đại, ở đó mọi quyền của con người
đều được tôn trọng, tức là mỗi một con người trở thành chủ sở hữu xã hội và có các
quyền hiến định và pháp định rành mạch. Nói cách khác, nếu xã hội dân sự là xã hội
nằm ngoài nhà nước, không cần đến nhà nước thì xã hội công dân là pháp chế hóa xã hội
dân sự. Như vậy, xã hội dân sự rộng lớn hơn và cũng căn bản hơn nhiều so với xã hội
công dân.

Có thể nói, 80-90% hành vi hàng ngày của mỗi con người là hành vi tự nhiên, phi nhà
nước. Thử tưởng tượng con người sẽ sống, sinh hoạt như thế nào nếu hàng ngày, hàng
giờ, hàng phút anh ta mang trong mình ý niệm là một công dân? Con người làm sao có đủ
cảm hứng sáng tạo khi luôn phải mang nặng nghĩa vụ này, nghĩa vụ kia. Tuy vậy, một
con người khi sống với cộng đồng dân sự của mình, họ cũng có những thỏa thuận, có
những sự cân bằng tự nhiên của mình. Nói cách khác, xã hội dân sự đó phải nằm trong
một nhà nước cụ thể hay các cộng đồng dân sự phải nằm trong một thể chế nhà nước cụ
thể, và tất cả mọi người đều bình đẳng với nhau trước pháp luật bởi tư thế công dân của
mình. Xã hội công dân là xã hội cần đến nhà nước và nhà nước phải tuân thủ các quy luật
của xã hội công dân để hành xử. Còn xã hội dân sự là xã hội không lệ thuộc vào nhà
nước. Nói cách khác, nói đến xã hội dân sự là nói đến nhân quyền còn nói đến xã hội
công dân là nói đến dân quyền. Tuy nhiên, ở các quốc gia chậm phát triển, người ta
thường đề cao xã hội công dân thay vì xã hội dân sự, người ta cho rằng chỉ cần xã hội
công dân là đủ bởi vì họ không muốn thừa nhận nhân quyền, họ muốn khoả lấp nhân
quyền vào trong dân quyền. Xã hội dân sự là xã hội mà ở đó nhân quyền thống trị còn
dân quyền là mảnh đất chung nhau giữa con người tự nhiên với con người xã hội.
Dân quyền là cơ sở của việc hình thành nhà nước. Sau khi làm nghĩa vụ công dân thì con
người mới có quyền đòi hỏi quyền làm chủ nhà nước tức là quyền tạo ra nhà nước.
Quyền tạo ra, cải tạo và cấu trúc lại nhà nước là quyền công dân, là kết quả của việc thực
thi các nghĩa vụ công dân. Ví dụ, đóng thuế là biểu hiện cơ bản của dân quyền, còn các
quyền tự nhiên thuộc về cá nhân con người là biểu hiện của nhân quyền. Như vậy, xã hội
công dân là xã hội có liên quan chặt chẽ với nhà nước, với pháp luật còn xã hội dân sự là
xã hội tự nó, không lệ thuộc vào nhà nước. Vậy xã hội dân sự lệ thuộc vào cái gì? Bởi
nếu pháp luật là công cụ điều chỉnh mối quan hệ trong xã hội công dân thì cái gì điều
chỉnh các mối quan hệ trong xã hội dân sự? Tôi cho rằng, đó là văn hoá. Văn hoá giúp
con người xử lý các quan hệ với nhau, với cộng đồng, xử lý với những khái niệm thiêng
liêng trong đời sống dân sự, đời sống tinh thần. Và những quy tắc bất thành văn mà
con người sử dụng để điều chỉnh, để hạn chế tất cả sự cực đoan, những hành vi
không phù hợp với lợi ích công cộng chính là văn hoá. Vì thế, trong nhiều nghiên cứu
về pháp luật và nhà nước, tôi đã cho rằng mọi khế ước xã hội nếu không được xây dựng
dựa trên những kinh nghiệm văn hoá hay có khả năng biến thành văn hoá thì những khế
ước xã hội ấy chắc chắn sẽ thất bại. Do vậy, xã hội dân sự rộng hơn và cũng cơ bản hơn
nhiều so với xã hội công dân.

2. Những hệ quả của việc xã hội dân sự không được thừa nhận

Một xã hội lành mạnh là Xã hội = Nhà nước + Xã hội dân sự. Nhưng ở những quốc gia
mà nhà nước được trao cho quyền lực quá lớn thì xã hội dân sự sẽ biến dạng và trở thành
đối tượng bất hợp pháp. Phải khẳng định rằng xã hội dân sự là một không gian sống tất
yếu của con người. Vì thế, việc không thừa nhận xã hội dân sự ở một số quốc gia chậm
phát triển đã gây ra nhiều hệ quả nghiêm trọng.

Các giá trị cá nhân của con người không được tôn trọng

Một trong những cuộc cách mạng vĩ đại nhất của con người là vào thế kỷ XV, XVI,
XVII, con người bỗng nhận ra mình là một cá nhân. Chính vì nhận thức được nguyên lý
ấy mà phương Tây đã phát triển mạnh mẽ chỉ sau vài trăm năm. Rất đáng tiếc rằng cho
đến bây giờ rất nhiều dân tộc ở phương Đông vẫn chưa thức tỉnh, chưa thức tỉnh một thực
tế, một chân lý, một sự thật vô cùng quan trọng đối với tiến trình phát triển của nhân loại
là: mỗi con người là một cá nhân. Các xã hội phương Đông nói chung vẫn không tôn
trọng các giá trị cá nhân, giá trị con người, không xem giá trị con người là một trong
những chiến lược phát triển. Họ vẫn xem các giá trị chính trị, giá trị lãnh đạo, giá trị thủ
lĩnh quan trọng hơn các giá trị con người mà không biết rằng cơ sở khoa học của mọi
chính sách chính là để phục vụ con người với tư cách là một cá nhân chứ không phải với
tư cách là một khái niệm.

Phải nói rằng, khi không thừa nhận các các giá trị cá nhân và đồng nhất nó với cá nhân
chủ nghĩa là con người đã sai. Cá nhân chủ nghĩa cũng là một thuật ngữ sai hoàn toàn về
mặt triết học. Không có cá nhân chủ nghĩa mà chỉ có trạng thái cực đoan của mỗi cá
nhân. Trạng thái cực đoan của mỗi cá nhân là trạng thái hàng ngày của đời sống, do vậy
mới cần nhà nước để điều chỉnh. Con người ai cũng có khuyết điểm, nếu không có
khuyết điểm thì nhà nước sẽ không tồn tại, khuyết điểm của mỗi cá nhân là tiền đề khách
quan để nhà nước tồn tại, bởi nhà nước điều chỉnh các sai lầm của mỗi cá nhân.
Tuy nhiên, chúng ta đang sống trong thời đại toàn cầu hóa, thời đại mà quá trình tương
tác và cạnh tranh giữa các nền kinh tế ngày càng quyết liệt, bản thân con người hàng
ngày cũng phải tham gia vào cuộc cạnh tranh ấy thì mỗi con người buộc phải mài sắc
nhất khả năng của mình để có thể giành chiến thắng. Và khả năng mài sắc năng lực của
mỗi con người được quyết định bởi các giá trị cá nhân của họ. Nói cách khác, giá trị cá
nhân là sức cạnh tranh và sức cạnh tranh chính là nhân tố quan trọng nhất của một quốc
gia. Do vậy, các quốc gia phải tìm mọi cách huy động hay giải phóng nhân tố này một
cách tối đa. Điều đó có nghĩa là chúng ta cần phải củng cố địa vị nhân quyền, tôn trọng
nhân quyền, xây dựng không gian pháp luật và chính trị để bảo vệ các quyền con người.
Không có các quyền cá nhân làm tiền đề thì con người không thể có cuộc sống dân sự
lành mạnh được. Con người hành động, sáng tạo theo lẽ phải của tâm hồn. Khi con người
luôn luôn có những yếu tố nhắc nhở rằng họ là công dân thì con người không còn cuộc
sống dân sự nữa. Vì thế, một hệ thống chính trị hợp lý là con người tự giác nghĩ đến công
dân, đến quyền, đến trách nhiệm công dân của mình chừng nào cuộc sống đòi hỏi. Do đó,
xã hội phải tồn tại xã hội dân sự với tất cả tính chất tự quản của nó để hạn chế đến mức
tối đa sự cần thiết phải huy động sự can thiệp của nhà nước vào các vấn đề của đời sống
của người dân. Cần nhận thức rằng, tỷ lệ lệ thuộc hành vi hàng ngày của xã hội vào nhà
nước càng ít bao nhiêu thì xã hội càng lành mạnh bấy nhiêu vì xã hội bao gồm những con
người biết tự quản, tự lo và biết tự giác. Một xã hội mà con người biết tự quản, tự lo và tự
giác là một xã hội đòi hỏi chi phí ít tốn kém nhất cho các quản lý hành chính. Hơn nữa,
khi "tiết kiệm" nhân lực cho việc quản lý hành chính nhà nước là chúng ta làm cho xã hội
có thêm lực lượng lao động, xã hội có thêm lực lượng lao động nghĩa là có thêm lực
lượng dân sự và làm mạnh hơn khu vực sản xuất, khu vực kinh doanh...

Con người không có không gian tái xác lập trạng thái cân bằng

Người ta thường nói nhiều đến vai trò chính trị của xã hội dân sự như là vai trò tiên quyết
nhưng tôi cho rằng, vai trò quan trọng nhất của xã hội dân sự chính là nó tạo ra một
không gian sống của con người, nơi con người tái xác lập lại sự cân bằng sau những quá
trình tìm kiếm và chinh phục. Bởi dường như vẫn tồn tại một nghịch lý là sự phát triển
của con người đồng nghĩa với việc phá vỡ tỷ lệ cân bằng tự nhiên. Làm thế nào để duy trì
được tỷ lệ hợp lý mà con người vẫn phát triển là một vấn đề cực kỳ khó bởi theo tôi, con
người vẫn phải trả giá. Tuy vậy, con người phải kiên nhẫn tìm kiếm ra tỷ lệ hợp lý.
Không có cách nào khác cả, không thể xây dựng lý thuyết để đưa ra một đáp số có tính
chất định lượng và chỉ ra sự hợp lý. Con người thận trọng là con người không lao đầu vào
sự mất cân bằng, con người xác lập được, tìm thấy được sự cân bằng trong sự bừng tỉnh
của mình trong quá trình phát triển. Còn khi con người lấn lướt tự nhiên, con người ào ào
chiến thắng, con người đi lên một cách bất kể thì con người không tìm thấy, không nhận
ra các giới hạn hợp lý. Nhưng không phải tất cả mọi người đều đi tìm tỷ lệ hợp lý, tỷ lệ
hợp lý bao giờ cũng do bộ phận tinh khôn nhất, tinh túy nhất, có tầm nhìn nhất của cộng
đồng con người phát hiện. Cần phải có một đội ngũ chuyên nghiệp như vậy và đó chính
là đội ngũ trí thức. Đội ngũ trí thức là đội ngũ sinh ra để xác lập tỷ lệ hợp lý giữa tự nhiên
và phát triển. Nếu như chính trị lấn át đời sống trí tuệ, chính trị trở thành yếu tố chỉ huy
vô điều kiện đời sống trí tuệ thì thực chất con người đã phá vỡ khả năng kiểm soát tốc độ
để tìm kiếm các giới hạn của sự cân bằng. Cho nên, khi con người đi tìm một tỷ lệ hợp lý
giữa phát triển và tự nhiên thì đấy chính là đi tìm tỷ trọng của nhà nước chính trị, nhà
nước ở quy mô nào thì còn giữ được đời sống dân sự. Đời sống dân sự là cách thể hiện
tập trung nhất của cái gọi là thái độ đi tìm sự cân bằng của con người. Xã hội dân sự
là công cụ duy nhất, là cấu trúc duy nhất mà con người duy trì trạng thái bình tĩnh, trạng
thái cân bằng trong quá trình phát triển. Do vậy, nếu trả lại cho đời sống con người trạng
thái phát triển tự nhiên và nó tự cân bằng thì bản thân sự tự cân bằng đó đã là sự phát
triển vì nó hạn chế sự sai của quá trình phát triển. Còn ở một quốc gia mà xã hội dân sự
không được thừa nhận thì Xã hội = Nhà nước. Khi Xã hội = Nhà nước thì tất cả mọi
người đều phụ thuộc vào nhà nước, đều trông chờ vào nhà nước và khi chính phủ có vấn
đề thì xã hội không hoạt động được nữa, thậm chí rối loạn và dẫn đến tan rã.

Con người không có nơi trở về sau một chu trình chính trị

Con người, dù là người lao động bình thường hay một nhà lãnh đạo cấp cao thậm chí cả
tầng lớp hoạt động chính trị chuyên nghiệp, sau công việc, bao giờ cũng là sự trở về với
cuộc sống dân sự bình thường của mình. Đời sống dân sự là nơi năng lực và phẩm
hạnh của con người được tái tạo lại hàng ngày sau một chu trình làm việc, tuy nhiên,
không phải ai cũng nhận ra điều ấy, và chính vì gán vào cho nhà nước quá nhiều công
việc nên con người đã vô tình co xã hội dân sự của mình. Ở đây, tôi muốn nhấn mạnh đến
một đối tượng "nhạy cảm" là nhà chính trị và những nhà quản lý hoạt động nhà nước. Bởi
nhà nước cũng bao gồm những con người, cũng có những lúc họ rời khỏi địa vị của
người cầm quyền. Cùng với lý thuyết về nhiệm kỳ thì mọi người đều trở thành dân, cho
nên, phải có một xã hội dân sự để nhà chính trị quay trở về làm người bình thường. Nếu
không có một xã hội dân sự đủ hợp pháp, không có một cơ sở tạo ra nguồn sống hợp
pháp cho họ thì họ quay về đâu? Trong tác phẩm "Chiến tranh và hòa bình", tôi nhớ đoạn
người ta tả về công tước Nikolai Bolkonski, bố của Andrei Bolkonski, khi về ông ta có
một trang trại, ông ta có một xưởng cơ khí, ông ta làm thợ tiện, ông ta dạy con gái làm
toán giải tích.... Hiện nay, ở rất nhiều quốc gia chưa đạt đến trạng thái ấy. Có rất nhiều
nhà lãnh đạo không hiểu, thậm chí không ủng hộ khái niệm xã hội dân sự, cho nên con
người không có chỗ hạ cánh, không có chỗ quay về khi rời khỏi nhà nước.

Cùng với xã hội dân sự, phẩm hạnh và năng lực của con người được tái tạo lại hàng ngày
đồng nghĩa với việc con người có thể trở thành nguyên liệu tốt của các chu trình chính trị
khác. Nói cách khác, khi phẩm hạnh và năng lực của con người được tái tạo lại hàng
ngày, con người có thể trở thành đầu vào cho một chu trình làm việc, chu trình chính trị
khác. Nhưng quan trọng hơn cả, chỉ với xã hội dân sự, sau mọi chu trình chính trị, con
người vẫn còn là chính nó.

Không có nguồn các giải pháp cho tương lai

Tại sao ở rất nhiều quốc gia lạc hậu, các chính sách chính phủ đưa ra thường không đạt
hiệu quả như mong muốn thậm chí còn mang tính rủi ro cao? Đó là vì chúng thường
được hoạch định một cách chủ quan bởi bộ máy cầm quyền chứ không phải bằng sự thảo
luận giữa nhà nước và nhân dân, tức là nhân dân không có cơ hội thể hiện sự phản biện
nhằm làm hợp lý hóa các chính sách. Và sự không có cơ hội để thực hiện phản biện xã
hội lại bắt nguồn từ việc xã hội dân sự không được thừa nhận.

Một trong những vai trò chính trị quan trọng nhất của xã hội dân sự là nó là đối tác bình
đẳng của nhà nước, là không gian mà ở đấy mỗi người dân được thực sự tham gia vào
việc hoạch định, thực hiện và quan trọng hơn là phản biện lại các chương trình hành động
của Nhà nước. Càng ngày người ta càng thấy rõ hơn những ý nghĩa tích cực của phản
biện xã hội bởi nó tạo ra sự tương tác, sự hợp tác của các lực lượng xã hội và từ đó, nảy
sinh ra các nguồn của các giải pháp, nguồn của các ý kiến, nguồn của các sáng kiến để
tăng cường chất lượng của sự sáng suốt của những người lãnh đạo đất nước. Phản biện
xã hội còn là sự tự cân bằng về các ý kiến giữa các lực lượng xã hội khác nhau và
làm cho các hành vi của các lực lượng xã hội trở nên cân bằng hơn, hợp lý hơn. Do
vậy, nếu không có xã hội dân sự hay ở những quốc gia chậm phát triển, xã hội dân sự
chưa được thừa nhận thì xã hội đã thiếu đi một nguồn, một kênh các giải pháp để có thể
điều chỉnh hoặc làm hợp lý các chương trình hành động xã hội.

Sự bế tắc của các chính sách phát triển có thể dẫn đến sự sụp đổ của một số nhà nước
nhưng không phải lúc nào sự bế tắc của nhà nước đồng nghĩa với sự bế tắc của xã hội bởi
xã hội luôn tiềm ẩn những nhân tố mới, những giải pháp bất ngờ và vô cùng duyên dáng.
Và chính xã hội dân sự là vườn ươm những yếu tố mới để phục vụ cho sự phát triển
trong tương lai. Nguồn của việc phát triển các lực lượng phục vụ nhà nước là từ xã hội
dân sự, nếu không lấy được từ xã hội dân sự những nguồn để thay thế các lực lượng phục
vụ nhà nước thì nhà nước sẽ thoái hoá. Đầu tiên là thoái hóa về chính trị, sau đó là thoái
hóa về trí tuệ và cuối cùng là thoái hóa về đạo đức.

You might also like