Professional Documents
Culture Documents
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU.........................................................................................2
NỘI DUNG
Phần I. Gian lận và sai sót với vấn đề kiểm toán .................................... 4
I/ Khái niệm .................................................................................4
1. Gian lận ..................................................................................4
2. Sai sót ..................................................................................5
3. So sánh gian lận và sai sót .............................................................6
II/ Các hình thức biểu hiện .............................................................7
1. Hình thức biểu hiện của gian lận........................................................7
2. Hình thức biểu hiện của sai sót ........................................................7
III/ Các nhân tố ảnh hưởng đến gian lận và sai sót ..............................7
IV/ Trách nhiệm của kiểm toán viên đối với gian lận và sai sót............9
Phần II. Thực trạng gian lận và sai sót trong kiểm toán hiện nay ..........13
I/ Các hành vi gian lận và sai sót trong kiểm toán tài chính ..................13
II/ Các hành vi gian lận và sai sót trong kiểm toán hoạt động................15
III/ Các hành vi gian lận và sai sót trong kiểm toán tuân thủ.................19
IV/ Các hành vi gian lận và sai sót của các công ty kiểm toán...............20
Phần III. Những giải pháp nhằm hạn chế các hành vi sai phạm.............23
trong kiểm toán.
LỜI KẾT ................................................................................................28
TÀI KIỆU THAM KHẢO......................................................................29
Trong quá trình kiểm toán luôn tìm ẩn những gian lận và sai sót
không phát hiện được và làm sai lệch báo cáo tài chính. Để giảm rủi ro
không phát hiện được gian lận gây ảnh hưởng trọng yếu đến báo cáo tài
chính và đưa ra ý kiến đúng đắn về báo cáo tài chính, kiểm toán viên cần
quan tâm nghiên cứu vấn đề gian lận và khả năng xảy ra gian lận trong quá
trình kiểm toán. Trong thực tế luôn tồn tại sự khác biệt giữa kỳ vọng của
người sử dụng báo cáo tài chính mong chờ ở kiểm toán viên và những gì
kiểm toán viên có thể đáp ứng được vì người sử dụng cho rằng kiểm toán
viên đảm bảo được báo cáo tài chính trung thực và hợp lý một cách tuyệt
đối nhưng kiểm toán viên không thể làm được. Để thu hẹp sự cách biệt này
thì kiểm toán viên ngoài việc phải giải thích cho người sử dụng báo cáo tài
chính hiểu được phạm vi và hạn chế của ngành kiểm toán thì phải không
ngừng nâng cao năng lực cá nhân chuyên môn nhằm phát hiện ra được
những gian lận và sai sót gây sai lệch trọng yếu đến báo cáo tài chính.
Trong giai đoạn Việt Nam vừa mới gia nhập WTO - Tổ chức
Thương mại Thế giới thì nền kinh tế nước ta đang đứng trước một thách
thức mới và ngành kiểm toán Việt Nam cũng bước vào giai đoạn phát triển
vượt bậc với nhiều khó khăn và cơ hội mới. Các doanh nghiệp kiểm toán
được thành lập cạnh tranh khốc liệt. Thế nên các doanh nghiệp có xu
hướng gian lận nhằm phục vụ những mục đích của cá nhân doanh nghiệp
làm tổn hại đến lợi ích của cộng đồng.
Hơn nữa trong tình hình gần đây, có nhiều vụ kiện mà kiểm toán viên trực
tiếp bị ảnh hưởng bởi lẽ báo cáo tài chính đã được kiểm toán còn chứa
đựng gian lận tổn hại nghiêm trọng đến lợi ích của người sử dụng mà kiểm
toán viên trong quá trình kiểm toán không phát hiện được. Điều này đã làm
giảm sút nghiêm trọng uy tín và hình tượng nghề nghiệp kiểm toán.
Chính vì tất cả những điều đó nên chúng ta không ngừng tìm hiểu về
gian lận và sai sót trong kế toán và kiểm toán .Để hiểu rõ hơn về những
gian lận và sai sót đó tôi xin trình bày về đề tài : “ GIAN LẬN VÀ SAI
SÓT VỚI VẤN ĐỀ KIỂM TOÁN”
I. Khái niệm :
1) Gian lận :
Gian lận là những hành vi cố ý làm sai lệch thông tin kinh tế, tài chính
do một hay nhiều người trong đơn vị hoặc bên thứ ba thực hiện, làm ảnh
hưởng đến đối tượng kiểm toán.
Trong lĩnh vực tài chính kế toán, gian lận có thể đơn thuần là hành vi
cố ý xâm phạm tài sản, biển thủ công quỹ, tham ô, tham nhũng ...Song xâm
phạm tài sản thường gắn với xuyên tạc về thông tin kế toán như ghi chép
các nghiệp vụ không đúng sự thật,giả mạo hoặc sửa chữa chứng từ, dấu
diếm hồ sơ tài liệu, bịt đầu mối thông tin...
Ví dụ : Khi đang kiểm tra việc cắt giảm doanh số bán hàng ở một khách
hàng, trong số các nghiệp vụ đã được chọn lựa, kiểm toán viên đã bắt gặp
một nghiệp vụ liên quan đến doanh số từ một khách hàng mà dựa vào việc
đánh giá tình hình kinh doanh ở các phần hành kiểm toán khác, kiểm toán
viên nhận ra khách hàng này là một người mua chính. Nghiệp vụ này xảy
ra không thường xuyên, và được đánh giá là trọng yếu.Những tài liệu có
liên quan đến nghiệp vụ này được thu thập. Những tài liệu này bao gồm
những bằng chứng liên quan đến việc chi trả của các khoản phải thu sau
ngày kết thúc Báo cáo tài chính năm. Tuy nhiên tài liệu liên quan đến việc
giao hàng bẳng đường thuỷ đã không được cung cấp. Quá trình phân tích
đã chỉ ra rằng không hề có việc ghi chép quá trình vận chuyển. Mặc dù có
bằng chứng của việc chi trả, nhưng không hề có bằng chứng chứng minh
rằng hàng hóa đã được giao.Việc phân tích thêm nữa được mở rộng, hoá
đơn của công ty được kiểm toán viên yêu cầu. Kiểm toán viên chứng minh
được vài hoá đơn “dịch vụ đặc biệt” đã được giao cho khách hàng khi công
ty được chi trả. Những hoá đơn này ít chi tiết hơn hẳn những hoá đơn khác
trong tập hồ sơ và không được được làm sáng tỏ hơn qua các đơn đặt hàng
hay là các giấy tờ phải thu. Tổng số hoá đơn đặc biệt này đã chứng minh
được rằng nghiệp vụ bán hàng đó hoàn toàn đáng nghi vấn.Việc phát hiện
này được trao đổi với Giám đốc tài chính, người sẽ đưa ra lời giải thích
thiếu chính xác. Sau khi tiếp xúc với ban quản trị, kiểm toán viên gặp lại
Giám đốc tài chính và báo rằng việc điều tra đang được xem xét. Giám đốc
tài chính đã thông đồng với Giám đốc điều hành xây dựng kế hoạch để
tăng doanh số nhằm đạt được mục tiêu doanh thu. Khi muốn hợp thức hoá,
Giám đốc tài chính đã chọn một khách hàng chính, để thực hiện kế hoạch
này. Vị giám đốc tài chính sẽ từng kỳ trực tiếp hướng dẫn khách hàng ghi
hoá đơn và trả trong vòng 30 ngày. Sau đó, Giám đốc tài chính này sẽ phối
hợp và “tạo ra” doanh số ảo đến công ty của người mua với số tiền tương
đương. Trong vòng 30 ngày chi trả doanh số ảo này, khách hàng sẽ trì hoãn
việc chi trả. Vào cuối kỳ kế toán, kế hoạch này đã khiến khoản bán hàng
không trung thực này được ghi nhận vào doanh thu. Điều này cho phép họ
đạt được mục tiêu doanh số.
2) Sai sót :
Sai sót là những lỗi không cố ý có ảnh hưởng đến đối tượng kiểm
toán.
Sai sót có thể là nhầm lẫn hoặc bỏ sót không cố ý các thông tin, tài sản
tạo thông tin sai lệch về thông tin hoặc về tài sản .Tất nhiên sai sót cũng có
thể nghiêm trọng như: Vi phạm quy định về tài chính kế toán, sai sót lặp đi
lặp lại hoặc có qui mô lớn....song đều không cố ý.
3) So sánh gian lận và sai sót :
Giống nhau: Đều là sai phạm, làm lệch lạc thông tin, phản ánh sai
thực tế.
Khác nhau:
Các mặt Gian lận Sai sót
so sánh
- Hành vi có tính toán, - Hành vi không có chủ
có chủ ý nhằm mục ý,chỉ là vô tình bỏ sót, hoặc
đích vụ lợi. do năng lực hạn chế, thiếu
Về mặt thận trọng trong công
hình thức việc,...gây ra sai phạm.
phần đã phát hiện ra sai sót nhưng chỉ tập trung suy nghĩ để làm sáng tỏ
các nghi ngờ về gian lận.
Dựa trên việc đánh giá rủi ro, kiểm toán viên phải thiết kế và thực hiện
các thủ tục kiểm toán để có thể bảo đảm thủ tục hợp lý rằng sẽ phát hiện
được các sai lệch do gian lận và sai sót gây ra có thể tạo ảnh hưởng trọng
yếu đến toàn bộ báo cáo tài chính. Nói cách khác, dù rằng cuộc kiểm toán
có những hạn chế tiềm tàn như đã nêu, nhưng kiểm toán viên vẫn luôn phải
có thái độ hoài nghi nghề nghiệp.
Khi các thủ tục kiểm toán trên cung cấp bằng chứng cho thấy khả năng
có những gian lận và sai sót, kiểm toán viên phải đánh giá ảnh hưởng của
chúng đến báo cáo tài chính. Nếu nhận thấy rằng chúng có thể ảnh hưởng
trọng yếu, kiểm toán viên phải thực hiện các thủ tục kiểm toán bổ sung.
Sau khi đã thực hiện các thủ tục bổ sung, thế nhưng vẫn còn nghi vấn về
khả năg có gian lận và sai sót kiểm toán viên cần phải:
+ Trao đổi với người quản lí về các vấn đề cần phải điều chỉnh hay công
bố trên báo cáo tài chính.
+ Xem xét ảnh hưởng của sự kiện đến báo cáo tài và báo cáo kiểm toán.
+ Riêng đối với các sai sót quan trọng và các hành vi gian lận, kiểm toán
viên cần xem xét ảnh hưởng của chúng đến khía cạnh khác của cuộc kiểm
toán, nhất là độ tin cậy vào các giải trình của giám đốc.
Kiểm toán viên cũng thường phải thông báo cho người quản lý khi nghi
ngờ rằng gian lận là có thực dù rằng nó có thể chưa ảnh hưởng trọng yếu
đến báo cáo tài chính.Kiểm toán viên cũng phải thông báo về các sai sót
quan trọng hoặc những hành vi gian lận thực sự xảy ra.
Trừ khi mọi việc quá rõ ràng, còn nhìn chung kiểm toán viên không được
quan niệm rằng các sai sót và gian lận xảy ra là đơn chiếc và biệt lập.Vì
bản chất những sai sót là thường phát hiện theo dây chuyền nên kiểm toán
viên phải thận trọng trong phát hiện sai sót, mối tương quan của những sai
sót này với sai sót kia có thể dẫn tới sai lầm nghiêm trọng của báo cáo tài
chính.
Khi kiểm toán viên gặp phải những trường hợp nghi ngờ các nhà quản lý
doanh nghiệp có liên quan đến những vấn đề gian lận, kiểm toán viên cần
cân nhắc kỹ các ưu, nhược điểm của đương sự cũng như cần cân nhắc nên
trao đổi phát giác với ai là tốt hơn.Kiểm toán viên cấn phải luôn luôn ghi
nhớ là hệ thống kiểm soát nội bộ có thể trở nên hoàn toàn vô hiệu đối với
gian lận của các nhà quản lý doanh nghiệp và các nhà quản lý doanh
nghiệp có thể :
Bất chất mọi sự kiểm tra, ngược lại họ còn có quyền ra lệnh ngăn
chặn sự kiểm tra của cấp dưới.
Ra lệnh cho cấp dưới ghi chép các nghệp vụ thiếu trung thực hoặc là
bưng bít họ.
Giấu diếm các thông tin liên quan đến nghiệp vụ.
Trong quá trình kiểm toán, kiểm toán viên không nhất thiết phải chỉ ra sự
thiếu trung thực của các nhà quản lý, nhưng phải đề phòng khả năng xảy ra
các trường hợp tương tự:
- Thông tin được cung cấp một cách miễn cưỡng hoặc chỉ
cung cấp sau khi đã trì hoãn một cách vô lý.
- Các nhà quản lý doanh nghiệp hạn chế phạm vi kiểm
toán.
Kiểm toán viên phát hiện ra các vấn đề quan trọng mà trước đó không
được thể hiện qua kiểm toán.
Nếu kiểm toán viên nghi ngờ có thành viên nào đó trong ban lãnh đạo
doanh nghiệp gian lận thì phải thực hiện các biện pháp đẻ xác minh hoặc
xoá bỏ các nghi vấn.Khi đã tin chắc là có gian lận hoặc không thể xoá bỏ
được nghi ngờ về gian lận của lãnh đạo doanh nghiệp thì phải tìm các đại
diện khác để thay thế hoặc tìm các bằng chứng kiểm toán khác.Khi cấp
lãnh đạo cao nhất của doanh nghiệp bị nghi ngờ, kiểm toán viên sẽ gặp khó
khăn trong việc lựa chọn đại diện thay thế và trong việc thu thập các bằng
chứng kiểm toán.Trong trường hợp đó, kiểm toán viên không thể hoàn tất
công việc kiểm toán của mình và cần phải xin ý kiến tư vấn pháp lý để có
các hành động phù hợp với thực tế.
Cuối cùng, nếu đơn vị không có những giải pháp thích hợp đối với các
hành vi gian lận, kiểm toán viên còn phải xem xét đến khả năng rút khỏi
hợp đồng kiểm toán.
PHẦN II: THỰC TRẠNG GIAN LẬN VÀ SAI SÓT TRONG KIỂM
TOÁN HIỆN NAY:
I. Các hành vi gian lận và sai sót trong kiểm toán tài chính:
Kiểm toán tài chính là việc thu thập và đánh giá các bằng chứng kiểm
toán của kiểm toán viên để nhằm xác định tính trung thực và hợp lý trên
các khía cạnh trọng yếu của báo cáo tài chính.
Kiểm toán tài chính là loại hình kiểm toán để kiểm tra, đánh giá, xác
nhận, tính đúng đắn, trung thực của báo cáo tài chính.Nhưng khi đánh giá
một báo cáo tài chính là trung thực và hợp lý thì điều đó không có nghĩa
đơn vị có báo cáo tài chính tốt đẹp.Sau đây là một số sai sót và gian lận
trong kiểm toán tài chính:
Khi kiểm toán viên tiến hành kiểm toán thì họ làm đúng theo qui
định của chuẩn mực kiểm toán khi xác định tính chính xác và trung thực
của các nghiệp vụ kiểm toán, họ chỉ kiểm toán trên hồ sơ giấy tờ mà không
thực hiện xem xét trên thực tế. Vì vậy mà kiểm toán viên không thể phát
hiện ra được những sai phạm của các công ty được kiểm toán,bởi họ cố ý
làm sai lệch thông tin kinh tế tài chính. Chẳng hạn như hành vi xuyên tạc,
làm giả chứng từ liên quan đến kiểm toán báo cáo tài chính, hoặc ghi chép
các nghiệp vụ kinh tế phát sinh không đúng ,không đủ...
Báo cáo tài chính là hệ thống báo cáo được lập theo các chuẩn mực
và chế độ kế toán hiện hành phản ánh các thông tin kinh tế tài chính chủ
yếu của đơn vị,là đối tượng giành được sự quan tâm trực tiếp của tất cả các
tổ chức ,cá nhân bên trong lẫn bên ngoài đơn vị.Tất cả các đối tượng này
đều mong muốn có được một báo cáo tài chính phản ánh trung thực tình
hình tài chính của đơn vị trong một thời kì,một thời điểm nhất định nào
đó.Khi kiểm toán viên tiến hành kiểm toán báo cáo tài chính thì họ sẽ đưa
ra các ý kiến loại trừ và một sai sót xảy ra là các ý kiến loại trừ của kiểm
toán viên trong báo cáo kiểm toán đối với công ty kiểm toán có thông
tin không đầy đủ, gây hiểu nhầm cho các nhà đầu tư.
Hiện nay, số lượng doanh nghiệp kiểm toán rất khiêm tốn so với nhu
cầu thực tế. Với số lượng công ty kiểm toán ít như vậy thì dễ gây ra sự độc
quyền và sự gian lận do thiếu cơ hội cho khách hàng lựa chọn vì công ty
kiểm toán không nhiều. Hơn nữa, trên thị trường chứng khoán cũng có
nhiều công ty nhỏ, công ty mới niêm yết, việc thuê kiểm toán báo cáo tài
chính rất khó vì các công ty kiểm toán đã có nhiều khách hàng lớn, khách
hàng truyền thống. Lượng doanh nghiệp được chấp thuận kiểm toán cho
các doanh nghiệp tăng không cao , số lượng kiểm toán viên có chứng chỉ
hành nghề ít và trình độ còn thấp nên có nhiều sai sót trong thu thập thông
tin và đánh giá báo cáo kiểm toán. Hầu hết các công ty thường chỉ chú
trọng đến dịch vụ kiểm toán báo cáo tài chính nhưng khả năng doanh
nghiệp kiểm toán đáp ứng nhu cầu của khách hàng thấp và có nhiều sai sót.
Khi kiểm toán báo cáo tài chính kiểm toán viên không giữ được thái
độ hoài nghi nghề nghiệp: Đó là vì cách thức diễn giải thông tin thường bị
chi phối bởi các ý tưởng chủ quan, ngay cả khi các công ty kiểm toán viên
mong muốn đưa ra những lập luận thật sự khách quan. Công ty kiểm toán
thường bỏ qua những thông tin không có lợi cho việc đưa ra kết luận cuối
cùng và thường tiếp nhận một cách dễ dàng, không cần phê phán, những
thông tin có lợi cho việc đưa ra kết luận đó. Chính vì vậy,mà kiểm toán
viên thường không nhận ra những sai lầm mà họ đã mắc phải trong quá
trình xử lí thông tin và có thể tưởng lầm rằng quá trình đó không có gì sai
sót.Trên thực tế, các kiểm toán viên có thể có quan hệ thân thiện với doanh
nghiệp được kiểm toán, do đó họ không muốn đưa ra những kết luận bất
lợi cho doanh nghiệp. Nếu trong tài liệu kế toán của doanh nghiệp có
những sai sót, rất có thể kiểm toán viên, với tinh thần ủng hộ doanh
nghiệp, cũng không phát hiện ra những sai sót đó và tán thành những kết
luận đã nêu trong tài liệu đó.
Trong qúa trình kiểm toán,kiểm toán viên phát hiện những sai sót và
gian lận trong báo cáo tài chính nhưng lại không thông báo kịp thời cho
các cơ quan có thẩm quyền chức năng khi phát hiện công ty được kiểm
toán có những sai phạm trọng yếu, đặc biệt là không thông báo cho ủy ban
chứng khoán biết đối với những sai phạm này của công ty có niêm yết trên
thị trường chứng khoán.
Nhìn chung, các doanh nghiệp kiểm toán được chấp thuận đã đáp
ứng được những nhu cầu về kiểm toán của các công ty phát hành, niêm yết
và kinh doanh chứng khoán. Tuy nhiên, yêu cầu của các doanh nghiệp
kiểm toán chứng khoán bị “quá tải” trước đòi hỏi kiểm toán của các doanh
nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán.Nhưng khi kiểm toán đối với
một số nghiệp vụ kế toán quan trọng của doanh nghiệp niêm yết, nhiều
doanh nghiệp kiểm toán chưa phản ánh được đầy đủ do thiếu các chuẩn
mực kế toán và kiểm toán phù hợp trong quy định chế độ kế toán hiện
hành như việc tăng vốn điều lệ, cổ phiếu quỹ... Thậm chí, nhiều doanh
nghiệp kiểm toán còn bỏ qua sai sót rõ ràng của doanh nghiệp niêm yết.
Hơn nữa, một số báo cáo tài chính của công ty phát hành và niêm yết được
kiểm toán phần thuyết minh còn sơ sài, gây khó khăn cho ủy ban chứng
khoán nhà nước, cũng như các nhà đầu tư trong việc theo dõi và đánh giá
tình hình hoạt động của các công ty này trên thị trường chứng khoán. Đặc
biệt, là những chỉ tiêu có biến động lớn trong báo cáo chính.
II. Các hành vi gian lận và sai sót trong kiểm toán hoạt động :
Kiểm toán hoạt động là loại hình kiểm toán nhằm đánh giá và nâng cao
3E của các hoạt động, nghiệp vụ cụ thể ở đơn vị được kiểm toán.Kiểm toán
hoạt động thường hướng tới giải quyết hai vấn đề :
Xác định tính trung thực của thông tin tài chính cùng
với xác nhận mức an toàn của các nghiệp vụ tài chính và chất lượng của hệ
thống kiểm soát nội bộ.
Hướng vào những thành tích và hiệu quả trong đó cần
xem xét việc thiết lập hệ thống thông tin và quản lý cũng như việc điều
hành hướng tới tối ưu hóa việc sử dụng các nguồn lực.Trong tổ chức, quy
trình cũng như kết quả kiểm toán của kiểm toán hoạt động không dễ dàng
xác định thành những tiêu chuẩn ,những biểu mẫu như kiểm toán tài
chính .Vì 3E trong quá trình hoạt động rất khó đánh giá một cách khách
quan, chính xác do các đơn vị, các doanh nghiệp có qui mô, có lĩnh vực
hoạt động kinh doanh khác nhau thì 3E của chúng cũng khác nhau.Vì vậy
mà kiểm toán hoạt động trong quá trình kiểm toán cũng xảy ra không ít
gian lận và sai sót.
công trình hoặc đã đưa công trình vào sử dụng nhưng chưa nghiệm thu,
bàn giao, chưa tạm nhập tài sản để khấu hao…
- Các biên bản nghiệm thu lập không đúng mẫu biểu, đúng
thành phần quy định, nội dung trong biên bản nghiệm thu không đầy đủ, rõ
ràng.
Báo cáo quyết toán không được lập đầy đủ và đúng mẫu, đúng thời gian
quy định, các nguồn vốn sử dụng cho dự án không được lập riêng, …
- Căn cứ vào sổ nhật ký công trình kiểm toán viên xác định
ngày đơn vị nghiệm thu và bàn giao đưa công trình vào sử dụng không
đúng quy định.
Trong kiểm toán việc chấp hành chế độ tài chính kế toán của Nhà
nước có những gian lận và sai sót :
- Công tác tạm ứng vốn, cho các đơn vị tham gia thi công
và tỷ lệ tiền bảo hành công trình chưa đúng quy định.
- Hạch toán các khoản lãi tiền gửi chưa kịp thời, đầy đủ.
- Công tác theo dõi công nợ, giấy xác nhận nợ đối với
những khoản thanh toán trong XDCB chưa đầy đủ.
- Chứng từ chi tiêu của Ban quản lý chưa hợp pháp, hợp lệ
hoặc chi những khoản không có trong quy định.
- Không hạch toán đầy đủ đối với các nguồn thu như: Thu
tiền bán thanh lý tài sản, thu bán phế liệu khi phá dỡ công trình cũ, thu bán
hồ sơ mời thầu và một số khoản thu khác.
- Một số đơn vị đựơc kiểm toán chủ đầu tư thanh toán tạm
ứng khối lượng cho nhà thầu vượt quy định (khối lượng nghiệm thu thấp
hơn giá trị tạm ứng)
- Hầu hết chứng từ chi tiêu của Ban Quản lý chủ yếu viết
tay Kiểm toán viên cần đối chiếu với quy định, tài sản của Ban Quản lý
không theo dõi đầy đủ, cuối năm không kiểm kê, báo cáo.
- Một số khoản thu như thu bán Hồ sơ mời thầu, thu bán
phế liệu khi giải phóng mặt bằng... không hạch toán vào nguồn thu.
III. Các hành vi gian lận và sai sót trong kiểm toán tuân thủ :
Kiểm toán tuân thủ là loại hình kiểm toán để kiểm tra, đánh giá và xác
nhận việc tuân thủ pháp luật nội quy, quy chế mà đơn vị kiểm toán phải
thực hiện.
Kiểm toán tuân thủ thường thực hiện thông qua hai hình thức :
- Sử dụng kiểm tra của cơ quan kiểm toán nhà nước đối với các đơn vị sử
dụng kinh phí của nhà nước về việc chấp hành các chế độ chính sách, quy
định của nhà nước trong việc sử dụng vốn, sử dụng kinh phí, chuẩn mực sử
dụng là các qui định của nhà nước.
- Sự kiểm tra mức độ tuân thủ của các quy chế ở những đơn vị trực thuộc
do cơ quan cấp trên tiến hành.
• Sau đây là một số gian lận và sai sót trong kiểm toán tuân thủ:
Trong quá trình kiểm toán thuế, kiểm toán viên có sự gian lận
và sai sót trong việc tuân thủ các luật thuế ở đơn vị như :
- Sai sót trong Quyết toán thuế: Dòng thuế đã nộp năm
quyết toán: Ghi sai là số đã nộp cho năm báo cáo (bao gồm cả thuế đã nộp
vào tháng 1 năm sau nộp cho tháng 12 năm trước). Đúng ra là số đã thực
nộp trong năm báo cáo (bao gồm những chứng từ nộp từ ngày 1/1 đến
31/12 của năm báo cáo, không phân biệt nộp cho năm báo cáo hay truy
nộp cho các năm trước). Không thiết lập đầy đủ hồ sơ về tài sản cố định,
mua sắm TSCĐ không có hoá đơn hợp lệ. - Thiếu bảng đăng ký tiền
lương; hạch toán chi phí tiền lương nhưng thiếu hợp đồng lao động; bảng
lương không có người ký nhận.
- Thiếu bảng kê hồ sơ quyết toán thuế (liệt kê danh sách hồ
sơ đính kèm theo nhằm tránh thất lạc).
- Doanh nghiệp được thụ hưởng chế độ miễn giảm do ưu
đãi đầu tư nhưng quên hoặc không biết cách hạch toán và báo cáo quyết
toán với cơ quan thuế; hoặc chờ cơ quan thuế đến kiểm tra để xác định số
thuế được miễn giảm.
- Không thuyết minh sự sai biệt giữa hoá đơn và tờ khai
Hải quan; giữa hoá đơn và chứng từ thanh toán.
- Thiếu chứng từ thanh toán hợp pháp.
- Đối với kiểm toán nhà nước thì có gian lận trong việc sử
dụng không hợp lí và làng phí các nguồn kinh phí của nhà nước, không
chấp hành các chính sách, chế độ về tài chính, kế toán.
- Kiểm toán không chấp hành các điều khoản của hợp
đồng tín dụng đối với đơn vị sử dụng vốn vay của ngân hàng.
IV. Các hành vi gian lận và sai sót của các công ty kiểm toán :
Hiện nay, mới chỉ có quy định về việc thay đổi đối tác chính thuộc một
công ty kiểm toán mà chưa có quy định về việc phải thay đổi việc lựa chọn
công ty làm dịch vụ kiểm toán. Do đó các doanh nghiệp vẫn có xu hướng
lựa chọn một công ty kiểm toán thân thiện với doanh nghiệp, đồng thời
cũng có các công ty kiểm toán tìm cách ủng hộ doanh nghiệp trong quá
trình tiến hành dịch vụ kiểm toán, và khi đó, dù hữu ý hay vô tình, công ty
kiểm toán thường phạm phải những sai sót nhất định trong khâu kiểm toán.
Sau đây là hành vi gian lận và sai sót của một số công ty kiểm
toán:
ban chứng khoán Mỹ (SEC) đã buộc tội 06 kiểm toán viên của Ernst &
Young. Sáu kiểm toán viên của E&Y bị cáo buộc có liên quan đến gian lận
kế toán tại tập đoàn Bally Total Fitness Holding. Ủy ban chứng khoán Mỹ
cáo buộc Bally tội gian lận kế toán thông qua ghi tăng doanh thu dẫn đến
thu nhập thuần cao hơn thực tế, cũng như ghi thiếu chi phí. Những hành vi
này đã thổi phồng giá trị thuần của Bally, công ty có trụ sở tại Chicago.
E&Y đã đưa ra ý kiến kiểm toán chấp nhận toàn phần chỉ ra rằng Báo cáo
tài chính của Bally từ năm 2001 đến 2003 phù hợp với các nguyên tắc kế
toán được chấp nhận chung, và việc kiểm toán của E&Y được tiến hành
theo tiêu chuẩn của Hội đồng kiểm soát Kế toán các Công ty đại chúng
(PCAOB)). E&Y đã xác định Bally là một khách hàng rủi ro vì hai nguyên
nhân. Thứ nhất, các nhà quản lý của Bally đã từng là Giám đốc kiểm toán
của E&Y, những người đã từng sử dụng các nguyên tắc và ước tính kế toán
trong việc phù phép lợi nhuận. Thứ hai, các khoản lương thưởng của các
giám đốc của Bally “phụ thuộc quá mức vào các khoản lợi nhuận ngắn
hạn”. SEC cũng lưu ý rằng “trong số hơn 10.000 khách hàng kiểm toán ở
Bắc Mỹ, E&Y đã cho rằng Bally là một trong số 18 khách hàng rủi ro nhất
và là khách hàng rủi ro nhất khu vực Lake Michigan”.Tuy nhiên, Ủy ban
chứng khoán Mỹ kết luận rằng kiểm toán viên đã đưa ra ý kiến “không
trung thực và gây hiểu nhầm”, họ cũng lưu ý rằng “E&Y đã biết hoặc cần
phải biết về các gian lận của Bally trong báo cáo tài chính”. E&Y và các
kiểm toán viên tham gia hợp đồng kiểm toán với Bally đã không thực hiện
đầy đủ trách nhiệm tối thiểu của họ với tư cách là người giám sát, thậm chí
khi E&Y nhận biết rằng Bally là một khách hàng kiểm toán rủi ro nhất của
hãng.
Gian lận và sai sót của công ty TNHH Dịch vụ Tư vấn tài chính
kế toán và kiểm toán phía Nam: Chánh Thanh tra Uỷ ban Chứng khoán
PHẦN III: NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM HẠN CHẾ CÁC HÀNH VI
SAI PHẠM TRONG KIỂM TOÁN:
1) Về phía công ty kiểm toán độc lập :Các công ty kiểm toán cần chú ý
đến việc xây dựng chính sách đãi ngộ cho đội ngũ nhân viên của công ty
mình ngày một tốt hơn; Ban hành các quy định và chế tài cụ thể liên quan
đến việc xử lý các vi phạm về quy định của công ty, vi phạm đạo đức hành
nghề của các KTV; Xây dựng các quy trình thực hiện công việc một cách
cụ thể và chặt chẽ hơn là căn cứ kiểm soát và đánh giá hoạt động của các
phòng ban, bộ phận, cá nhân trong đơn vị; chú trọng đến việc liên kết với
các đối tác, các tập đoàn kiểm toán trong việc hoàn thiện chương trình
kiểm toán, thủ tục kiểm toán, phương pháp kiểm toán và đào tạo, cập nhập
kiến thức, nâng cao trình độ cho KTV; chú trọng đến công tác luân chuyển
cán bộ, nhân viên; công tác nghiên cứu thị trường; tổ chức thăm dò ý kiến
khách hàng kiểm toán.
2) Về phía Bộ Tài chính, Hiệp hội nghề nghiệp: Đẩy nhanh tiến độ
soạn thảo Luật kiểm toán độc lập; Xây dựng lộ trình nghiên cứu, soạn thảo
và ban hành các thông tư hướng dẫn các chuẩn mực kế toán, chí ít cũng là
các chuẩn mực kiểm toán cơ bản; Tăng cường công tác kiểm soát chất
lượng hàng năm đối với các công ty kiểm toán (mở rộng phạm vi và thời
gian thực hiện việc kiểm tra); Đánh giá và xếp hạng các công ty kiểm toán
hàng năm; Ban hành quy định về tiêu chí đánh giá, chấm điểm chất lượng
cuộc kiểm toán; Đẩy mạnh công tác khuyến khích thi đua, bầu chọn công
ty kiểm toán điển hình, cá nhân xuất sắc.
• Một giải pháp để nâng cao hiệu quả của chống gian lận là tạo
ra một không khí nơi mà nhân viên cảm thấy tự tin khi tố cáo những hành
vi sai trái mà không bị thù hằn, ngay cả dường như có sự liên quan của Ban
quản trị. Toby Bishop, chủ tịch và là giám đốc điều hành của Hiệp hội
Thanh tra gian lận ( the Association of Certified Fraud Examiners
(ACFE)), một tổ chức chống lại những hành vi gian lận lớn nhất thế giới.
Ông Bishop còn cho rằng " Nếu công ty không có một chương trình chống
gian lận hiệu quả , họ sẽ phải gánh chịu rất nhiều rủi ro”
Hạn chế thời lượng các hợp đồng kiểm toán và luân chuyển công ty
kiểm toán . Để khắc phục được những thách thức từ mối quan hệ kiểm toán
và khách hàng, cần thực hiện việc chuyển đổi các công ty kiểm toán. Hợp
đồng kiểm toán chỉ nên được ký kết với một thời hạn ngắn, từ 1-3 năm. Lý
do của sự phụ thuộc của các công ty kiểm toán đối với các khách hàng là
muốn duy trì mối quan hệ lâu dài. Bên cạnh lợi ích kinh tế, những hợp
đồng có thời gian dài thường kéo theo mối quan hệ cá nhân, tâm lý nhượng
bộ khách hàng quen biết và xu hướng dựa vào số liệu kiểm toán của các
năm trước để lập báo cáo kiểm toán cho năm nay. Như đã phân tích ở trên,
đây là những yếu tố chủ yếu làm suy giảm tính độc lập và chất lượng của
các cuộc kiểm toán.
3) Kiểm soát chặt chẽ cơ cấu dịch vụ phi kiểm toán :
Dịch vụ phi kiểm toán, như tư vấn thuế, tư vấn đầu tư là một phần trong cơ
cấu các sản phẩm dịch vụ mà hãng kiểm toán cung cấp cho khách hàng và
là cơ sở quan trọng tăng cường chất lượng dịch vụ kiểm toán. Việc cân đối
tỷ trọng các dịch vụ phi kiểm toán này là rất cần thiết đối với sự phát triển
của dịch vụ kiểm toán trên cơ sở gia tăng chất lượng thực tế mà khách
hàng có thể cảm nhận được từ dịch vụ của công ty kiểm toán. Những số
liệu thống kê gần đây cho thấy hiện đang có hiện tượng tập trung vào các
dịch vụ kiểm toán báo cáo tài chính hay tư vấn thuế với hơn 70% doanh
thu từ hai hoạt động này. Tuy nhiên, sự mất cân đối này sẽ là yếu tố tiềm
ẩn làm tăng tính hình thức của dịch vụ kiểm toán và làm giảm chất lượng
dịch vụ kiểm toán.
4) Minh bạch hoá chi phí kiểm toán : Chi phí kiểm toán
cần được cụ thể hoá bằng cách chuyển từ chi phí trọn gói cho cuộc kiểm
toán sang chi phí dễ đo lường và kiểm soát (ví dụ như tính phí kiểm toán
theo thời gian). Hội kiểm toán viên hành nghề Việt Nam (VACPA) hoặc
Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước cần có biểu phí kiểm toán để so sánh và
phát hiện các mức phí bất thường. Bản thân các công ty kiểm toán cũng
cần minh bạch hoá các chi phí kiểm toán bằng việc lưu giữ và trình bày số
liệu về thời gian thực hiện mỗi cuộc kiểm toán và mức phí áp dụng cho
khách hàng. Ngoài ra cũng cần cân nhắc các yếu tố ảnh hưởng đến chi phí
kiểm toán như danh tiếng của hãng kiểm toán, hiệu suất và kinh nghiệm
thực hiện kiểm toán.
• Một số quy tắc cơ bản cho việc chủ động thiết lập môi trường
kiểm soát hiệu quả đối với rủi ro về gian lận:
Đóng vai trò là một phần trong cơ cấu
quản trị kiểm soát DN, chương trình kiểm soát rủi ro về gian lận nên được
thiết lập bao gồm những chính sách văn bản để quán triệt kỳ vọng của ban
lãnh đạo đơn vị về việc kiểm soát rủi ro gian lận.
Cần thông báo định kỳ về ảnh hưởng của
rủi ro gian lận để xác định được những tình huống và vụ việc cụ thể có thể
xảy ra.
Xây dựng kỹ năng phòng chống một cách
khả thi những vụ việc liên quan tới rủi ro gian lận trọng yếu có thể xảy ra
nhằm giảm thiểu tác động đến đơn vị.
Xây dựng kỹ năng phát hiện để tìm ra các
vụ việc gian lận khi các phương tiện phòng chống không đạt hiệu quả,
hoặc khi nhận thấy rủi ro là không thể giảm thiểu.
Thiết lập quy trình báo cáo để tập trung
dữ liệu đầu vào về gian lận tiềm tàng và sử dụng cách thức tiếp cận có sự
phối hợp giữa các bên để điều tra và đưa ra giải pháp khắc phục, nhằm
đảm bảo gian lận tiềm tàng được phát hiện một cách phù hợp và kịp thời.
Cần đưa ra những quy định nhằm loại bỏ
tình trạng nhiều kiểm toán viên cần quan tâm đến phản ứng của doanh
nghiệp được kiểm toán khi nhận được kết quả kiểm toán. Một trong những
biện pháp có thể áp dụng là không cho phép công ty kiểm toán vừa làm
dịch vụ kiểm toán, vừa làm dịch vụ tư vấn đối với doanh nghiệp được kiểm
toán. Nếu một công ty kiểm toán tiến hành đồng thời hai dịch vụ đó đối với
một doanh nghiệp thì việc đưa ra những kết luận kiểm toán thiếu khách
quan là tất yếu, vì khi đó công ty kiểm toán sẽ phải chịu áp lực của tình
trạng xung đột giữa những quyền lợi khác nhau liên quan đến hai dịch vụ
đó. Để có những kết quả kiểm toán trung thực, trước hết cần phải tách biệt
hai loại hình dịch vụ đó.
Có người cho rằng để tránh sai sót kiểm toán, chỉ cần tuyển dụng
những kiểm toán viên có trình độ nghiệp vụ vững vàng. Nhưng thực tế lại
không phải là như vậy, vì nhiều khi bản thân kiểm toán viên bị ngoại cảnh
chi phối rất mạnh mẽ. Các cấp lãnh đạo trong ngành kiểm toán càng phải
hiểu rõ điều đó, nghĩa là phải nắm được bản chất vấn đề, phải thấy được
nguồn gốc của những sai sót kiểm toán và đề ra những biện pháp hữu hiệu
chống sai sót.
Đương nhiên, đề xuất những giải pháp cụ thể nhằm ngăn ngừa sai sót
kiểm toán không phải là một công việc đơn giản, đặc biệt là trong những
hoàn cảnh xã hội phức tạp, trong đó có những mối quan hệ riêng giữa kiểm
toán viên và doanh nghiệp được kiểm toán, nguồn gốc của những sai lệch
tinh vi. Vụ bê bối tài chính Enron chính là một thí dụ điển hình về những
quan hệ ngầm giữa một doanh nghiệp và một số kiểm toán viên.
Vì vậy, chúng ta cần xây dựng một cơ chế sao cho trong con mắt của
các doanh nghiệp, các kiểm toán viên đóng vai trò tương tự vai trò của các
nhân viên thuế vụ, chứ không phải là vai trò đối tác hay tư vấn. Đó là một
cơ chế nhằm định rõ ranh giới giữa doanh nghiệp và công ty kiểm toán và
có tác dụng hạn chế các tình trạng sai lệch trong hoạt động kiểm toán.
Nếu không tiến hành một cuộc cải cách triệt để đối với lĩnh vực kiểm toán
với những giải pháp khả thi và hữu hiệu thì khó mà ngăn chặn được những
sai sót kiểm toán và cũng khó mà lường hết được những tác hại của chúng.
Phát hiện được gian lận luôn là một thách thức với các kiểm toán
viên trong điều kiện kinh tế bình thường và càng trở nên khó khăn hơn
trong điều kiện kinh tế khủng hoảng, khi mà nhân lực thì cắt giảm và các
nhà quản lý thì chịu nhiều áp lực từ thị trường và cổ đông.
Một trong những gian lận khó phát hiện là gian lận xuất phát từ chính ban
lãnh đạo đơn vị kiểm toán. Kiểm toán viên cần phải thu thập thêm thông
tin về tính chính trực của ban lãnh đạo trong quá trình kiểm toán thông qua
việc quan sát và đánh giá văn hóa doanh nghiệp, văn hóa lãnh đạo, môi
trường làm việc, cơ chế lương thưởng và tuyển dụng của DN. Ngoài ra nên
thu thập thông tin từ nhân viên cấp dưới, phỏng vấn riêng rẽ từng người
trong ban lãnh đạo DN và so sánh thông tin cung cấp bởi họ xem có sự sai
lệch, mâu thuẫn gì không.
Trên đây là một số vấn đề về gian lận và sai sót với vấn đề kiểm
toán mà tôi đã trình bài, trong quá trình tìm hiểu còn rất nhiều sai sót,mong
cô và các bạn góp ý thêm.