You are on page 1of 52

CURRICULUM ON INTELLECTUAL PROPERTY

Professor Michael Blakeney


Queen Mary Intellectual Property Research Institute
University of London

TÀI LIỆU GIẢNG DẠY VỀ SỞ HỮU TRÍ TUỆ

Giáo sư Michael Blakeney


Viện nghiên cứu Sở hữu trí tuệ Queen Mary
Đại học London

Provided and translated by


the EC-ASEAN Intellectual Property Rights Co-operation Programme (ECAP II)

Tài liệu này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II)
dịch và cung cấp
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ cung cấp

Bài 8. Luật quốc tế về sở hữu trí tuệ

1. Luật quốc tế và quyền sở hữu trí tuệ


1.1 Giới thiệu
Quyền sở hữu trí tuệ tồn tại chủ yếu theo luật pháp quốc gia. Cái được gọi là quyền
sở hữu trí tuệ toàn cầu (quốc tế) có nghĩa là một tập hợp các quyền có khả năng được thực
thi theo pháp luật quốc gia. Tuy nhiên, có thể nói rằng ở hầu hết các nước, quyền mang
tính chất quốc gia đó không chỉ tồn tại như một hệ quả của nội luật mà còn là các nghĩa
vụ quốc tế đa phương, song phương hoặc khu vực. Ở một số hiệp hội khu vực như Liên
minh châu Âu, pháp luật khu vực có thể có hiệu lực áp dụng trực tiếp tại các quốc gia
hoặc có thể đặt ra các tiêu chuẩn về sở hữu trí tuệ cho pháp luật quốc gia. Luật sở hữu trí
tuệ quốc tế có vai trò quan trọng trong việc hài hoà hoá các quy phạm pháp luật quốc gia
về nội dung và thủ tục. Điều này là đặc biệt đúng trong trường hợp Hiệp định về các khía
cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (Hiệp định TRIPS) của WTO,
trong đó đặt ra các tiêu chuẩn mà pháp luật quốc gia phải quy định đối với việc bảo hộ
quyền sở hữu trí tuệ như là một điều kiện để trở thành thành viên của WTO.
Vì vậy, luật quốc tế có vai trò hiến định quan trọng cả ở khía cạnh quy định các thủ
tục và thể thức cho việc đàm phán về các tiêu chuẩn và chuẩn mực của quyền sở hữu trí
tuệ mang tính quốc gia và việc hài hoà hoá các tiêu chuẩn pháp luật quốc gia và khu vực
về sở hữu trí tuệ. Việc thừa nhận và áp dụng các chuẩn mực chung về sở hữu trí tuệ sẽ
được tạo điều kiện thuận lợi hơn khi các nước có thể tin tưởng rằng các nước đối tác cũng
có các chuẩn mực pháp lý tương tự.
1.2 Nguồn pháp lý của luật sở hữu trí tuệ quốc tế
Nguồn pháp lý của luật quốc tế áp dụng cho các chế định sở hữu trí tuệ quốc tế
cũng như tất cả các lĩnh vực luật quốc tế khác được quy định một cách rõ ràng tại Điều 38
Quy chế Toà án quốc tế. Điều này quy định rằng trong quá trình giải quyết các tranh chấp,
Toà án phải áp dụng:
a. các điều ước quốc tế, bất kết là chung hay riêng, thiết lập các quy tắc được
thừa nhận một cách rõ ràng bởi các nước thành viên;

2
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
b. tập quán quốc tế, với danh nghĩa là thực tiễn chung được chấp nhận như là
pháp luật;
c. các nguyên tắc chung của pháp luật được các quốc gia văn minh thừa nhận;
d. tuỳ thuộc vào các quy định của Điều 59 (trong đó cho phép toà án triệu tập
nhân chứng và chuyên gia), các phán quyết của toà án và các bài giảng của
các chuyên gia nghiên cứu có uy tín nhất của các nước, với danh nghĩa là
công cụ bổ sung để xác định các quy tắc pháp luật.
Là một phần Quy chế của Toà án thường trực quốc tế của Liên hiệp các quốc gia
(Permanent Court of International Justice of the League of Nations), điều khoản này đã
được đưa vào Quy chế của Toà án quốc tế năm 1945. Điều khoản này liệt kê một danh
mục các nguồn hiện đại cơ bản của luật quốc tế, mặc dù không chỉ ra thứ tự ưu tiên về
mặt hình thức của các nguồn này. Luật sở hữu trí tuệ quốc tế chủ yếu bắt nguồn từ luật
điều ước, tuy nhiên, với tầm quan trọng ngày càng gia tăng của việc giải quyết tranh chấp,
các nguyên tắc pháp luật chung ngày càng trở nên quan trọng hơn. Những ý kiến khẳng
định rằng các nguyên tắc về quyền con người có tính ưu việt so với luật sở hữu trí tuệ
đang đòi hỏi phải xem xét lại các nguồn quốc tế truyền thống của luật sở hữu trí tuệ.
1.2.1 Luật điều ước
Nền tảng của chế định sở hữu trí tuệ quốc tế là Công ước Pari về bảo hộ sở hữu
công nghiệp năm 1883 và Công ước Berne về bảo hộ tác phẩm văn học và nghệ thuật năm
1886. Sự phát triển từng bước của chế định sở hữu trí tuệ quốc tế được bắt đầu bằng sự ra
đời của các điều ước đặc biệt bắt nguồn từ hai điều ước nêu trên. Hai điểm xuất phát quan
trọng của quá trình này là sự ra đời của Công ước Bản quyền toàn cầu tồn tại song song
với Công ước Berne và gần đây là sự ra đời của Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến
thương mại của quyền sở hữu trí tuệ của WTO.
Các quy tắc của luật quốc tế điều chỉnh việc giải thích và áp dụng các điều ước
được quy định tại Công ước Viên về Luật Điều ước năm 1969. Hầu hết các nước đã tham
gia công ước này. Hoa Kỳ là một trường hợp ngoại lệ đặc biệt, mặc dù nước này đã ngụ ý
chấp nhận các điều khoản của công ước vì nó phản ánh luật tập quán quốc tế áp dụng
cho các điều ước quốc tế.
Mặc dù chưa được khẳng định một cách chính thức là các điều ước về việc thành
lập các tổ chức khu vực được điều chỉnh bởi Công ước Viên nhưng trên thực tế thì có thể
được hiểu là như vậy.
1.2.2 Luật tập quán quốc tế

3
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
Không giống như những lĩnh vực luật khác, luật sở hữu trí tuệ buộc phải phát triển
khá nhanh do sự thay đổi của công nghệ. Do đó, sự tiến triển theo từng bước của luật sở
hữu trí tuệ quốc tế thông qua việc áp dụng các nguyên tắc tập quán không xảy ra trong
lĩnh vực này. Tuy nhiên, ngay cả trong trường hợp sự thay đổi về luật pháp là quá chậm,
không theo kịp sự phát triển của công nghệ thì việc thiết lập các tiêu chuẩn riêng trở nên
ngày càng có ý nghĩa quan trọng. Điều này là đặc biệt đúng trong trường hợp ảnh hưởng
của internet đến luật sở hữu trí tuệ, khi mà quy định về đăng ký tên miền được dựa trên cơ
sở tự điều chỉnh.
Một vấn đề chưa được nghiên cứu là phạm vi áp dụng các tập quán pháp đối với
việc bảo hộ tài sản thực và các động sản hữu hình cho tài sản vô hình. Ngoài ra, cần phải
nghiên cứu việc áp dụng các nguyên tắc của tập quán pháp quốc tế như nguyên tắc thực
hiện nghiêm chỉnh và tận tâm các cam kết quốc tế (nguyên tắc pacta sunt servanda1) và
sự bình đẳng về mặt pháp lý giữa các quốc gia.
1.2.3 Tiền lệ pháp
Tiền lệ pháp đã được chứng minh không phải là một nguồn quan trọng của luật sở
hữu trí tuệ quốc tế. Chưa từng có vụ việc nào về sở hữu trí tuệ được đưa ra trước Toà án
quốc tế hoặc là cơ quan tiền thân của Toà án này (the Permanent Court of International
Justice). Tình trạng này đã bắt đầu thay đổi với việc xét xử các hành vi vi phạm Hiệp định
TRIPS bởi Cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO, trên cơ sở các đề xuất của một ban
bồi thẩm (panel) hoặc Cơ quan giải quyết khiếu nại (Appellate Body). Mặc dù các lập
luận của ban bồi thẩm hoặc cơ quan giải quyết khiếu nại không có giá trị ràng buộc nhưng
các ban bồi thẩm và cơ quan giải quyết khiếu nại về sau vẫn buộc phải xem xét những lập
luận đó. Đã từng có ý kiến cho rằng cần thúc đẩy các quy tắc pháp lý trong hệ thống kinh
tế quốc tế nếu các toà án quốc gia và khu vực xét xử các vấn đề thuộc nội dung của các
Hiệp định của WTO về hiệu lực của các quyết định của các ban bồi thẩm và cơ quan giải
quyết khiếu nại.2
Các toà án quốc gia và khu vực có các nguồn thẩm quyền xét xử cơ bản trong lĩnh
vực sở hữu trí tuệ, mặc dù không phải là các nguồn luật quốc tế chủ yếu theo Điều 38
Quy chế Toà án quốc tế, nhưng những nguồn này có ý nghĩa quan trọng trong việc tạo
thành tập hợp các nguyên tắc chung của luật quốc tế.

1.2.3 Các công trình nghiên cứu pháp lý


Điều 38 Quy chế Toà án quốc tế cũng đề cập đến các công trình nghiên cứu pháp
lý của các luật gia có trình độ cao như là một nguồn thứ hai của luật quốc tế. Toà án ở các
nước theo hệ thống luật chung có khuynh hướng dễ dàng chấp nhận việc tham khảo các
4
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
công trình nghiên cứu khoa học hơn là các toà án ở những nước theo hệ thống luật dân sự.
Trong lĩnh vực luật sở hữu trí tuệ quốc tế đang phát triển nhanh chóng, các công trình
nghiên cứu của các luật gia có thể đóng vai trò quan trọng trong việc tăng cường tính chắc
chắn và chặt chẽ.
1.2.4 Các nguyên tắc pháp luật chung
Bên cạnh luật điều ước, các nguyên tắc pháp luật chung là nguồn quan trọng nhất
của luật sở hữu trí tuệ quốc tế. Một số nguyên tắc chung quan trọng về thủ tục xét xử đã
được đưa vào các quy định về thực thi của Hiệp định TRIPS, chẳng hạn yêu cầu tại Điều
41.2 rằng “các thủ tục liên quan đến việc thực thi quyền sở hữu trí tuệ phải công bằng và
hợp lý” và các thủ tục này “không được phức tạp một cách không cần thiết hoặc tốn kém,
hoặc đòi hỏi những thời hạn vô lý hoặc những sự chậm trễ không được bảo đảm”. Tương
tự, yêu cầu được quy định tại Điều 41.3 rằng các quyết định “về vụ việc phải được làm
thành văn bản và có căn cứ” và rằng các quyết định này “phải được chuyển ít nhất là cho
các bên tham gia vụ kiện một cách không chậm trễ” là các nguyên tắc về thủ tục mà
người ta cho rằng đã được chấp nhận chung. Thủ tục đúng đắn được quy định trong yêu
cầu của Hiệp định TRIPS tại Điều 41.3 rằng “các quyết định phán xử vụ việc chỉ được
dựa vào chứng cứ mà các bên đều đã được tạo cơ hội trình bày ý kiến về chứng cứ đó”.
Điều 42 Hiệp định TRIPS yêu cầu rằng các thủ tục phải đúng đắn và công bằng
trong đó bị đơn phải có quyền được “thông báo bằng văn bản một cách kịp thời và chi
tiết, trong đó nêu cả căn cứ của các yêu cầu đó”. Điều này yêu cầu rằng các bên “phải có
quyền biện minh cho yêu cầu của mình và có quyền đưa ra mọi chứng cứ thích hợp” cũng
gần như đã trở thành một nguyên tắc pháp luật chung, tương tự như yêu cầu các thủ tục
không được đòi hỏi “quá mức việc đương sự buộc phải có mặt tại toà”.
Về cơ bản, các nguyên tắc chung về sự trung thực và công bằng gần như tạo thành
một phần của luật sở hữu trí tuệ quốc tế về nội dung. Học thuyết về tính cân xứng với ý
nghĩa rằng luật pháp không được đặt ra các nghĩa vụ vượt quá những gì được coi là cần
thiết để giải quyết các tình huống từ đó tạo thành một nguyên tắc pháp luật chung chi phối
hoạt động của Toà án châu Âu.
1.3 Các tổ chức quốc tế
Việc quản lý các khía cạnh của định chế sở hữu trí tuệ quốc tế được thực hiện bởi
một số tổ chức quốc tế và tổ chức liên chính phủ được thành lập theo các điều ước quốc
tế. Các tổ chức chính về sở hữu trí tuệ ở cấp quốc tế và liên chính phủ là Tổ chức Sở hữu
trí tuệ thế giới (WIPO) và Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO).
Một số khía cạnh đặc biệt của luật sở hữu trí tuệ quốc tế được giao cho một số tổ
chức quốc tế chịu trách nhiệm: bản quyền và văn hoá dân gian: Tổ chức Văn hoá, Khoa
5
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
học và Giáo dục của Liên hợp quốc (UNESCO); giống cây trồng mới: Liên minh bảo hộ
giống cây trồng (UPOV); tiếp cận tài nguyên di truyền: Tổ chức Nông Lương, Hội nghị
các bên tham gia Công ước Đa dạng sinh học (CBD), Chương trình môi trường Liên hợp
quốc (UNEP); công nghệ y học: Tổ chức Y tế thế giới (WHO); quyền kề cận: Liên minh
Viễn thông quốc tế; chuyển giao công nghệ: Tổ chức phát triển công nghiệp Liên hợp
quốc (UNIDO); chuyển giao công nghệ và ảnh hưởng của quyền sở hữu trí tuệ đối với các
nước đang phát triển: Diễn đàn Thương mại và Phát triển của Liên hợp quốc (UNCTAD).
Một số tổ chức khu vực cũng thiết lập các chuẩn mực và cơ cấu về sở hữu trí tuệ.
Những tổ chức này bao gồm Tổ chức Andean Pact, Liên minh châu Âu (Cơ quan Sáng
chế châu Âu (EPO) và Cơ quan hài hoà hoá thị trường nội địa (OHIM), Hiệp hội thương
mại tự do Bắc Mỹ (NAFTA), MERCOSUR và Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
(ASEAN). Ngoài ra, các tổ chức sở hữu trí tuệ đặc biệt đã được thành lập với chức năng
trong phạm vi khu vực. Những tổ chức này bao gồm Tổ chức Sáng chế khu vực châu Phi
(ARIPO) và Cơ quan Sáng chế Á-Âu. Trong mỗi trường hợp, các tổ chức này được thành
lập theo các điều ước quốc tế điều chỉnh chức năng và thẩm quyền của tổ chức này.
Vì mỗi tổ chức trong số này đều được thành lập theo các điều ước quốc tế, phạm vi
và hiệu lực hoạt động của tổ chức đó cũng sẽ được quy định theo các nguyên tắc giải
thích điều ước quốc tế. Trong trường hợp Liên minh châu Âu, tổ chức lâu đời nhất trong
số các tổ chức khu vực, các điều ước thành lập Liên minh có vai trò hiến định quan trọng,
trong đó các nguyên tắc chung của luật công pháp quốc tế được thay thế bởi các nguyên
tắc hiến định.
Tác động có thể dự đoán được của chế định sở hữu trí tuệ toàn cầu đối với mọi
khía cạnh của quyền con người đã làm nảy sinh vấn đề về mối quan hệ giữa sở hữu trí tuệ
và quyền con người. Trong báo cáo Phát triển con người và quyền con người, Chương
trình phát triển Liên hợp quốc đã cho rằng các khía cạnh của Hiệp định TRIPS có thể
không phù hợp với Công ước quốc tế về quyền kinh tế, xã hội và văn hoá và Công ước
quốc tế về quyền dân sự và chính trị3.
Ngày 17 tháng 8 năm 2000, Tiểu ban bảo vệ và thúc đẩy quyền con người của Liên
hợp quốc, trên cơ sở nhận thức rằng:
…có sự xung đột thực tế và tiềm tàng giữa việc thi hành Hiệp định TRIPS và việc
thực hiện các quyền về kinh tế, xã hội và văn hoá liên quan đến, ngoài những vấn
đề khác, những trở ngại cho hoạt động chuyển giao công nghệ cho các nước đang
phát triển, hệ quả của việc có được quyền hưởng thực phẩm, quyền đối với giống
cây trồng mới và việc cấp độc quyền cho các cơ thể sinh vật bị biến đổi gen, “sinh
tặc” (bio-piracy) và sự suy giảm việc kiểm soát của cộng đồng (đặc biệt là các
cộng đồng bản địa) đối với các nguồn tài nguyên di truyền và tài nguyên thiên
6
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
nhiên và các giá trị văn hoá của họ, và những hạn chế tiếp cận các loại dược phẩm
được bảo hộ độc quyền và quyền được chăm sóc sức khoẻ,
đã thông qua một nghị quyết kêu gọi giải quyết vấn đề ảnh hưởng của Hiệp định TRIPS
đến vấn đề quyền con người và quyền của các cộng đồng, trong đó có nông dân và những
nhóm người bản địa trên toàn thế giới. Nghị quyết này lưu ý rằng “những xung đột rõ
ràng” giữa các quyền sở hữu trí tuệ được quy định trong Hiệp định TRIPS và luật nhân
quyền quốc tế, đặc biệt là “việc thi hành Hiệp định TRIPS không phản ánh một cách đầy
đủ bản chất cơ bản và tính không thể phân chia của tất cả các quyền con người, bao gồm
quyền của tất cả mọi người được hưởng lợi từ sự tiến bộ khoa học và việc ứng dụng các
tiến bộ này, quyền được bảo vệ sức khoẻ, quyền đối với thực phẩm và quyền tự quyết
(Điều 2). Nghị quyết này lưu ý rằng “tất cả các Chính phủ phải ưu tiên thực hiện các
nghĩa vụ về quyền con người trong các chính sách và thoả thuận về kinh tế” (Điều 3).
Mặc khác, sự bảo đảm được quy định tại Điều 27(2) của Tuyên bố toàn cầu về
quyền con người rằng “Tất cả mọi người đều có quyền được bảo vệ lợi ích về vật chất và
tinh thần có được từ các sản phẩm khoa học, văn học và nghệ thuật mà họ là tác giả” hàm
ý rằng bản thân sự bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đã có thể là một yếu tố của quyền con
người. Điều này được nhấn mạnh trong lời văn tương tự của Điều 15.1.c Công ước quốc
tế về quyền kinh tế, xã hội và văn hoá.
Việc áp dụng sở hữu trí tuệ có vẻ như mâu thuẫn với các công ước về quyền con
người nêu trên có thể được điều hoà bằng việc đặt vai trò của quyền con người ở vị trí
tương phản như một sự biện hộ có cơ sở cho việc bảo hộ sở hữu trí tuệ và tác động của
các tiêu chuẩn về quyền con người trong việc định hướng các quyền sở hữu trí tuệ hiện
có. Mối quan ngại của Tiểu ban của Liên hợp quốc chủ yếu liên quan đến khả năng ảnh
hưởng bất lợi của quyền sở hữu trí tuệ đến việc tiếp cận thuốc. Về vấn đề này, các bên ký
kết Tuyên bố Doha về sức khoẻ cộng đồng năm 2001 đã chỉ ra rằng quyền đối với sáng
chế liên quan đến các loại thuốc chống HIV-AIDS cần nhường chỗ cho khả năng tiếp cận
không hạn chế các sản phẩm này.
Vấn đề trước đó (về mối quan hệ giữa sở hữu trí tuệ và quyền con người) được
minh chứng bởi nhu cầu của các nhóm dân cư bản địa mà việc bảo hộ sở hữu trí tuệ được
dựng lên bao quanh các tri thức truyền thống của các nhóm dân cư này.4
1.4 Giải thích các điều ước quốc tế
Các nguyên tắc cơ bản về việc giải thích điều ước trong luật quốc tế được quy định tại
Điều 31 và 32 của Công ước Viên về Luật điều ước quốc tế. Điều 31(1) quy định rằng
một điều ước “phải được giải thích một cách đúng đắn, phù hợp với nghĩa thông thường
của các điều khoản của điều ước trong ngữ cảnh của chúng và phù hợp với các mục tiêu

7
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
của điều ước”. Từ “ngữ cảnh” nhằm mục đích giải thích một điều ước, được định nghĩa
tại Điều 31(2) bổ sung cho văn bản, bao gồm cả lời nói đầu và các phụ lục, bao gồm:
(a) thoả thuận bất kỳ liên quan đến điều ước được lập giữa tất cả các bên liên quan đến
việc ký kết điều ước;
(b) văn kiện bất kỳ được một bên hoặc các bên làm ra liên quan đến việc ký kết điều
ước và được chấp nhận bởi các bên khác như là một văn kiện liên quan đến điều
ước.
Đồng thời phải xem xét, phù hợp với Điều 31(3), cùng với ngữ cảnh,
(a) thoả thuận tiếp theo bất kỳ giữa các bên về việc giải thích điều ước hoặc việc áp
dụng các điều khoản của điều ước;
(b) thực tiễn bất kỳ nảy sinh về sau trong việc áp dụng điều ước tạo thành thoả thuận
của các bên về việc giải thích điều ước;
(c) quy tắc phù hợp bất kỳ của luật quốc tế áp dụng cho các quan hệ giữa các bên;
Điều 31(4) cho phép các bên tham gia một điều ước đưa ra nghĩa cụ thể cho một thuật
ngữ hay điều khoản.
Theo Điều 32, có thể cần đến các công cụ bổ sung cho việc giải thích, bao gồm quá
trình chuẩn bị điều ước và bối cảnh ký kết điều ước, để khẳng định nghĩa nảy sinh trong
quá trình áp dụng Điều 31 hoặc để xác định nghĩa khi việc giải thích theo Điều này lại tạo
ra lưỡng nghĩa hoặc sự không rõ nghĩa hoặc dẫn tới kết quả vô lý hoặc rõ ràng là bất hợp
lý.
Những nguyên tắc giải thích điều ước này trong bối cảnh sở hữu trí tuệ đã được sử
dụng trong một số quyết định của Ban bồi thẩm và Cơ quan giải quyết khiếu nại liên quan
đến các tranh chấp nảy sinh từ Hiệp định TRIPS.
(a) Tranh chấp về việc bảo hộ sáng chế dành cho dược phẩm giữa Hoa Kỳ và Ấn
Độ (1996)
Tranh chấp này liên quan đến một đơn kiện từ Hoa Kỳ rằng Ấn Độ không thiết lập
cơ chế “hộp thư” để nhận đơn yêu cầu cấp bằng độc quyền sáng chế theo như yêu cầu của
Điều 70.8 Hiệp định TRIPS và rằng Ấn Độ đã không dành độc quyền tiếp thị như yêu cầu
của Điều 70.9. Cơ chế hộp thư được dành cho các nước đang phát triển trong giai đoạn
chuyển tiếp, trước khi các nghĩa vụ mang tính nội dung về sáng chế của Hiệp định TRIPS
có hiệu lực ở những nước này. Khi đặt ra các tiêu chuẩn áp dụng cho việc giải thích Hiệp
định TRIPS, Ban bồi thẩm đã cố gắng áp dụng các nguyên tắc giải thích theo tập quán của
công pháp quốc tế như được quy định trong Công ước Viên.5 Ban bồi thẩm đã phán quyết
rằng việc giải thích đúng đắn Hiệp định TRIPS đòi hỏi “bảo vệ những mong muốn chính
8
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
đáng xuất phát từ sự bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ” .6 Ngoài ra, Ban bồi thẩm lưu ý rằng vì
Hiệp định TRIPS là một trong số những Hiệp định Thương mại Đa phương được đàm
phán trong khuôn khổ GATT 1947 nên Hiệp định này có giá trị ràng buộc các thành viên
của GATT, những nước cũng đã thừa nhận nguyên tắc về sự mong muốn chính đáng.
Điểm (a) Điều 70.8 Hiệp định TRIPS yêu cầu rằng nếu đến thời điểm Hiệp định
WTO bắt đầu có hiệu lực, một Thành viên chưa quy định việc bảo hộ sáng chế cho dược
phẩm và các sản phẩm hoá nông thì thành viên đó phải quy định phương thức nộp đơn
yêu cấp bằng độc quyền sáng chế cho các sáng chế đó. Khi giải thích điểm này, Ban bồi
thẩm đã tuyên bố rằng “giống như các quy định khác của hiệp định, quy định này phải
được giải thích phù hợp với (i) nghĩa thông thường của các thuật ngữ này; (ii) ngữ cảnh;
và (iii) mục tiêu và mục đích của quy định này, theo các quy tắc được quy định tại Điều
31(1) của Công ước Viên”.7
Ban bồi thẩm cho rằng nghĩa thông thường của Điều 70.8(a) là dự tính thiết lập
một cơ chế cho phép nộp đơn yêu cầu cấp bằng độc quyền sáng chế có liên quan và xác
định việc nộp đơn và ngày ưu tiên “để có thể bảo đảm tính mới của sáng chế có liên quan
và ngày ưu tiên của đơn yêu cầu cấp bằng độc quyền cho sáng chế đó nhằm mục đích xác
định khả năng cấp bằng độc quyền sáng chế cho sáng chế đó tại thời điểm có quy định về
việc cấp bằng độc quyền sáng chế cho sản phẩm đối với các sáng chế này.”8 Ban bồi thẩm
cho rằng kết luận này đã được khẳng định bởi lịch sử đàm phán Hiệp định TRIPS, “theo
đó việc cấp bằng độc quyền sáng chế cho dược phẩm và các sản phẩm hoá chất nông
nghiệp là một vấn đề then chốt”.9 Ngoài ra, Ban bồi thẩm lưu ý rằng các nước cũng phải
dành độc quyền tiếp thị cho các sản phẩm nêu trên, nếu các sản phẩm này được phép tiếp
thị trong giai đoạn chuyển tiếp.
Cuối cùng, áp dụng luật học GATT liên quan đến các dự định pháp lý10, Ban bồi
thẩm thấy rằng “tính có thể dự đoán trong chế định sở hữu trí tuệ thực sự là cần thiết đối
với công dân của các Thành viên WTO khi họ đưa ra các quyết định về thương mại và
đầu tư trong quá trình kinh doanh của mình”.11
Do vậy, Ban bồi thẩm đã kết luận rằng Ấn Độ đã không thực hiện Điều 70.8(a) khi
không sửa đổi luật sáng chế của mình để cho phép nộp đơn theo cơ chế hộp thư để được
cấp bằng độc quyền sáng chế sau khi kết thúc thời hạn chuyển tiếp dành cho các nước
đang phát triển. Ban bồi thẩm cũng kết luận rằng thực tiễn quản lý không được công bố
về việc nhận đơn yêu cầu cấp bằng độc quyền sáng chế không đáp ứng các nghĩa vụ theo
quy định của Hiệp định TRIPS.12
Hội đồng giải quyết khiếu nại đã không nhất trí với kết luận về những mong muốn
chính đáng từ các Báo cáo của Ban bồi thẩm GATT 1947 trước đó. Hội đồng cho rằng vì
nguyên tắc về sự mong muốn chính đáng đã được phát triển trong bối cảnh của các đơn
9
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
kiện về sự không vi phạm nên không phù hợp để được áp dụng trong bối cảnh xử lý các
trường hợp vi phạm theo Hiệp định TRIPS.13 Hội đồng giải quyết khiếu nại cũng bác bỏ
việc gộp các mong muốn chính đáng vào nguyên tắc về “sự giải thích thiện ý” của Công
ước Viên, vì điều đó dẫn đến việc quy cho các từ ngữ và khái niệm trong Hiệp định
TRIPS những nghĩa không theo dự định như vậy.14 Hội đồng giải quyết khiếu nại đã phê
phán ban bồi thẩm về việc tạo ra “nguyên tắc giải thích của riêng mình không phù hợp với
các quy tắc giải thích theo tập quán của công pháp quốc tế cũng như thực tiễn đã có của
GATT/WTO”.15 Hội đồng tuyên bố rằng cả ban bồi thẩm và Hội đồng giải quyết khiếu
nại đều phải tuân theo các quy tắc giải thích điều ước được quy định tại Công ước Viên
và không được bổ sung hay loại bỏ các quyền hoặc nghĩa vụ được quy định trong Hiệp
định WTO”.16
Hội đồng giải quyết khiếu nại đã xem xét vấn đề thế nào là cơ chế được dự định tại
Điều 70.8(a) dành cho việc nộp đơn vào hộp thư. Áp dụng các quy tắc giải thích từ Công
ước Viên, Hội đồng tìm cách giải đáp câu hỏi này bằng cách xem xét cách hành văn của
quy định này và “phù hợp với mục tiêu và mục đích của Hiệp định TRIPS”.17 Vì mục tiêu
của Hiệp định TRIPS bao gồm “sự cần thiết phải thúc đẩy việc bảo hộ một cách có hiệu
quả và toàn diện quyền sở hữu trí tuệ”, Hội đồng giải quyết khiếu nại đã đồng ý với Ban
bồi thẩm rằng cơ chế được thiết lập theo Điều 70.8(a) phải tạo ra một cơ sở pháp lý vững
chắc để bảo đảm tính mới và quyền ưu tiên.18 Hội đồng đã kết luận rằng vì các hướng dẫn
hành chính là cơ sở của hệ thống hộp thư của Ấn Độ bị phủ nhận bởi các quy định mang
tính bắt buộc của Luật sáng chế Ấn Độ, Ấn Độ đã không tuân thủ Điều 70.8(a). Tương tự,
vì Ấn Độ không ban hành quy định về độc quyền tiếp thị theo như yêu cầu tại Điều 70.9,
Hội đồng giải quyết khiếu nại đã đồng ý rằng Ấn Độ cũng vi phạm quy định này.
(b) Tranh chấp về thời hạn bảo hộ sáng chế giữa Hoa Kỳ và Canada (2000)
Vấn đề tranh chấp trong vụ việc này là Điều 45 Luật sáng chế Canada quy định
thời hạn bảo hộ sáng chế là 17 năm đối với những bằng độc quyền sáng chế cấp trước
ngày 1.10.1989. Hoa Kỳ phản đối quy định này vì cho rằng điều đó trái với quy định về
thời hạn bảo hộ sáng chế là 20 năm theo như yêu cầu của Điều 33 Hiệp định TRIPS. Ban
bồi thẩm giải quyết vụ việc này đã đồng ý với phản đối của Hoa Kỳ.19 Canada đã phản
đối lên Hội đồng giải quyết khiếu nại rằng quyết định của Ban bồi thẩm không phù hợp
với Điều 70.1 của Hiệp định TRIPS trong đó có quy định về sự không hồi tố của các
“hành động” đã xảy ra trước ngày áp dụng Hiệp định TRIPS. Canada cũng dựa vào Điều
28 của Công ước Viên về Luật điều ước quốc tế trong đó quy định rằng các điều khoản
của một điều ước không có giá trị ràng buộc một bên liên quan đến hành động, sự kiện
hoặc tình huống bất kỳ xảy ra trước ngày điều ước quốc tế có hiệu lực đối với bên đó.

10
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
Ban bồi thẩm đã phán quyết rằng Điều 70.1 liên quan đến các hành động xảy ra
trước ngày áp dụng Hiệp định TRIPS không có ý nghĩa quan trọng hơn Điều 70.2 của
Hiệp định về “các đối tượng đang tồn tại” đã được bảo hộ tại thời điểm áp dụng Hiệp
định. Canada cho rằng phán quyết này đã không tính đến mối quan hệ về ngữ cảnh giữa
hai quy định này.
Ngoài ra, Canada cho rằng phán quyết của Ban bồi thẩm không áp dụng nguyên
tắc giải thích quy định cụ thể chiếm ưu thế so với quy định chung (lex specialis derogat
legi generali) theo đó một nguyên tắc chung như Điều 70.1 phải chịu nhường chỗ (có
hiệu lực thấp hơn) các quy định cụ thể nêu tại Điều 70.6 và 70.7 về cấp li-xăng không tự
nguyện đối với sáng chế đã được cấp bằng độc quyền sáng chế và bảo hộ ở mức cao hơn.
Khi dẫn ra lý lẽ của Canađa liên quan đến tính không hồi tố, Hội đồng giải quyết
khiếu nại áp dụng Điều 31 Công ước Viên về Luật điều ước trước hết đã viện dẫn văn bản
quy định của điều ước.20 Do đó, trên cơ sở phân tích theo văn bản này, thuật ngữ “hành
vi” mà xảy ra trước ngày áp dụng điều ước có liên quan đến các vấn đề đã được hoàn
thành vào ngày áp dụng Hiệp định TRIPS. Tuy nhiên, Hội đồng giải quyết khiếu nại cũng
lưu ý rằng về mặt chính sách, nếu cụm từ này được giải thích là bao gồm mọi tình huống
đang tiếp diễn liên quan đến các sáng chế đã được cấp bằng độc quyền sáng chế trước
ngày áp dụng Hiệp định TRIPS thì Điều 70.1 sẽ cản trở việc áp dụng gần như toàn bộ
Hiệp định TRIPS đối với những hành vi như vậy.21
Điều 28 Công ước Viên quy định rằng
Trừ khi có ý định khác được thể hiện trong điều ước hoặc được thiết lập theo cách
khác, các quy định của điều ước không có giá trị ràng buộc một bên liên quan đến hành vi
hoặc sự kiện bất kỳ đã xảy ra hoặc tình huống bất kỳ không còn tồn tại trước ngày điều
ước có hiệu lực đối với nước đó.
Hội đồng giải quyết khiếu nại quan niệm rằng nếu không có ý định trái ngược thì
Điều 28 được áp dụng cho “tình huống” bất kỳ không còn tồn tại theo một điều ước
mới.22 Để giải thích điều này, cần đến sự hỗ trợ từ phần dẫn giải về Điều 28, là một phần
của quá trình soạn thảo Công ước Viên.23
(c) Tranh chấp giữa EC và Hoa Kỳ về Điều 110(5) Luật bản quyền Hoa Kỳ
Tranh chấp này liên quan đến Điều 110(5) Luật Bản quyền Hoa Kỳ năm 1976,
được sửa đổi theo Luật về sự công bằng trong việc li-xăng tác phẩm âm nhạc năm 1998
thay thế những hạn chế đối với độc quyền được quy định cho chủ sở hữu bản quyền liên
quan đến một số hình thức trình diễn và biểu diễn công khai. Điều 110(5) (A) loại trừ ra
khỏi khái niệm xâm phạm bản quyền hành vi truyền phát sóng mang một chương trình
biểu diễn hoặc trình diễn một tác phẩm của một cơ sở thu sóng công khai trên một loại
11
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
thiết bị thu riêng lẻ thường được sử dụng ở các nơi công cộng, trừ trường hợp đã thanh
toán trực tiếp để xem hoặc nghe sóng đó, hoặc sóng đó được truyền tiếp cho công chúng.
Điều 110 (5)(B) loại trừ hành vi truyền dẫn bằng việc tạo ra một buổi phát hoặc chương
trình phát lại bao gồm một chương trình biểu diễn hoặc trình diễn một tác phẩm âm nhạc
phi nhạc kịch nhằm để cho công chúng thu, có nguồn gốc từ một trạm phát thanh hoặc
truyền hình được li-xăng (hợp pháp) với một cơ sở không lớn hơn quy mô quy định hoặc
không phải trả trực tiếp để xem hoặc nghe chương trình phát sóng hoặc phát lại sóng đó.
Mục đích của việc loại trừ theo điểm (B), theo như được trình bày trong Báo cáo
của Hạ viện, là để miễn trừ cho các cơ sở kinh doanh nhỏ “thực tế là không có cơ sở đủ
lớn để biện minh cho việc nộp tiền cho một dịch vụ âm nhạc có nền tảng thương mại”.24
EC cho rằng những ngoại lệ này không phù hợp với các nghĩa vụ của Hoa Kỳ theo
Hiệp định TRIPS, cụ thể là theo Điều 9.1, cùng với các Điều 11(1)(ii) và 11bis(1)(iii)
Công ước Berne, làm ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của chủ sở hữu quyền tác giả.
Điều 9.1 Hiệp định TRIPS yêu cầu các Thành viên WTO phải tuân thủ các điều từ 1 đến
21 Công ước Berne, trừ Điều 6bis. Do đó, Hội đồng giải quyết tranh chấp đã thừa nhận
rằng Điều 11(1)(ii) và 11bis(1)(iii) Công ước Berne đã được gộp vào Hiệp định TRIPS.
Những quy định này của Công ước Berne yêu cầu việc trình diễn trước công chúng các
tác phẩm được bảo hộ phải được phép của chủ sở hữu quyền tác giả.
Hoa Kỳ lập luận rằng Hiệp định TRIPS, trong đó có đưa vào các quy định về nội
dung của Công ước Berne, cho phép các Thành viên quy định một số giới hạn nhỏ đối với
độc quyền của chủ sở hữu quyền tác giả và rằng Điều 13 Hiệp định TRIPS quy định tiêu
chuẩn để đánh giá sự phù hợp của các hạn chế hoặc ngoại lệ đó. Điều 13 quy định rằng
“các Thành viên phải giới hạn các hạn chế hoặc ngoại lệ đối với độc quyền ở một số
trường hợp đặc biệt nhất định mà không ảnh hưởng đến việc khai thác bình thường tác
phẩm và không ảnh hưởng một cách bất hợp lý đến lợi ích hợp pháp của người nắm giữ
quyền”. Hoa Kỳ nại rằng “học thuyết về những ngoại lệ nhỏ” đã tạo thành một thực tiễn
tiếp theo sau cho các Thành viên Liên hiệp Berne theo nghĩa của Điều 31(3)(b) Công ước
Viên.
Hội đồng giải quyết tranh chấp đã giải thích rằng khi áp dụng các nguyên tắc giải
thích chung và nguyên tắc giải thích bổ sung trong Công ước Viên để giải thích một cách
thiện chí các điều khoản theo phạm vi liên quan của các điều khoản này, cần phải đưa ra
nghĩa thông thường cho các điều khoản của một điều ước “trong ngữ cảnh của các điều
khoản này và phù hợp với mục tiêu và mục đích của điều ước đó”.25
Điều 3.2 Công ước Viên quy định rằng,

12
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
Ngữ cảnh để giải thích một điều ước phải bao gồm, ngoài văn bản điều ước trong
đó có phần mở đầu và các phụ lục: (a) thoả thuận bất kỳ liên quan đến điều ước đó được
lập giữa tất cả các bên liên quan đến việc ký kết điều ước đó...
Hội nghị sửa đổi Công ước Berne tại Brussels năm 1948 đã bác bỏ việc đưa vào
Công ước Berne học thuyết về các ngoại lệ thứ yếu vì điều đó khuyến khích việc mở
rộng các ngoại lệ. Như một sự thoả hiệp, Hội nghị Brussels đã nhất trí rằng cần đưa vào
Báo cáo chung tuyên bố về khả năng quy định các ngoại lệ thứ yếu trong luật quốc gia.
Hội đồng đã lưu ý rằng Tổng thư ký đã được “uỷ thác đưa ra một chỉ dẫn rõ ràng về khả
năng dành cho pháp luật quốc gia được quy định những trường hợp thường được gọi là
những bảo lưu thứ yếu và cho rằng sự lựa chọn lời văn này đã phản ánh một sự thoả thuận
theo nghĩa của Điều 31(2)(a) Công ước Viên.26 Ngoài ra, thực tiễn của các quốc gia như
được phản ánh trong luật bản quyền quốc gia của các thành viên Liên hiệp Berne cũng
như các Thành viên WTO trước và sau ngày Hiệp định TRIPS có hiệu lực đã khẳng định
quan điểm của Hội đồng về học thuyết ngoại lệ thứ yếu.27
Căn cứ vào sự tồn tại của học thuyết về các ngoại lệ thứ yếu, Hội đồng cho rằng
học thuyết này đã được đưa vào Hiệp định TRIPS như một phần của bản thân Công ước
Berne, vì Điều 9.1 đã gộp các Điều từ 1 đến 21 của Công ước Berne. Điều này cũng được
khẳng định qua những viện dẫn đến học thuyết này trong các tài liệu đàm phán được đưa
ra trong Vòng đàm phán Uruguay.28 Do đó, học thuyết này được cho là tạo thành một
phần ngữ cảnh của Điều 11(1)(ii) và 11bis(1)(iii) Công ước Berne như đã được đưa vào
Hiệp định TRIPS. Tuy nhiên, Điều 13 Hiệp định TRIPS yêu cầu rằng các hạn chế và
ngoại lệ đối với độc quyền (1) phải được giới hạn ở một số trường hợp đặc biệt nhất định,
(2) không mâu thuẫn với việc khai thác bình thường tác phẩm, và (3) không ảnh hưởng
một cách bất hợp lý đến lợi ích hợp pháp của người nắm giữ quyền. Hội đồng đã phán
quyết rằng khi áp dụng ba điều kiện này cho một ngoại lệ trong luật quốc gia, phải tính
tới cả những hậu quả thực tế và tiềm tàng của ngoại lệ đó. Bằng cách áp dụng cách tiếp
cận này, Hội đồng đã phán quyết rằng không thể phản đối điều khoản 110(5)(A) nhưng
liên quan đến điều khoản 110(5)(B), Hoa Kỳ đã không chứng minh được rằng những
ngoại lệ mang tính thương mại của điều khoản này đã không ảnh hưởng một cách bất hợp
lý đến lợi ích hợp pháp của người nắm giữ quyền.29 Do đó, Hội đồng khuyến nghị rằng
Hội đồng giải quyết tranh chấp cần yêu cầu Hoa Kỳ làm cho khoản B trở nên phù hợp với
các nghĩa vụ theo Hiệp định TRIPS.
(d) Tranh chấp giữa EC và Hoa Kỳ về điều 211 Đạo luật Omnibus
Appropriations năm 1998 (2002)
Tranh chấp này liên quan đến một khiếu nại của EC rằng điều 211 Đạo luật
Omnibus Appropriations năm 1998 của Hoa Kỳ trái với một số quy định của Hiệp định
13
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
TRIPS, cùng với các điều tương ứng của Công ước Pari về bảo hộ sở hữu công nghiệp.
Điều 211(a)(1) Đạo luật này của Hoa Kỳ nhằm cấm các giao dịch “liên quan đến nhãn
hiệu, tên thương mại hoặc tên kinh doanh” trùng hoặc hầu như tương tự với một nhãn
hiệu, tên thương mại hoặc tên kinh doanh được sử dụng gắn liền với một doanh nghiệp
hoặc tài sản đã bị Chính phủ Cuba tịch thu, trừ trường hợp có sự đồng ý của chủ sở hữu
ban đầu, hoặc người kế thừa nhãn hiệu, tên thương mại hoặc tên kinh doanh đó.” Điều
211(a)(2) quy định rằng toà án bất kỳ của Hoa Kỳ cũng không được phép “công nhận, thi
hành hoặc phê chuẩn theo cách khác yêu cầu đòi quyền bất kỳ” của một “công dân được
chỉ định” trên cơ sở quyền theo luật chung (luật án lệ) hoặc theo Điều 515305 Phần 31,
Bộ Quy chế Hoa Kỳ, theo đó Quy chế về Kiểm soát các tài sản của Cuba đã được ban
hành.
EC đã lập luận rằng điều 211(a) (1) trái với Điều 2.1 Hiệp định TRIPS cùng với
Điều 6quinquies Công ước Pari và Điều 15.1 Hiệp định TRIPS. Lập luận này đã bị Hội
đồng giải quyết tranh chấp của WTO bác bỏ. Tuy nhiên, Hội đồng giải quyết tranh chấp
đã chấp nhận lập luận của EC rằng điều 211(a)(2) không phù hợp với Điều 16.1 và Điều
42 Hiệp định TRIPS, nhưng không trái với Điều 2.1 Hiệp định TRIPS cùng với các Điều
6bis và Điều 8 Công ước Pari và không trái với Điều 4 Hiệp định TRIPS. Hội đồng cũng
phán quyết rằng các tên thương mại không phải là một loại quyền sở hữu trí tuệ được bao
hàm trong Hiệp định TRIPS. Cả hai bên đều đã khiếu nại các phán quyết này.
Hoa Kỳ lập luận rằng giải thích về Điều 211 của Hội đồng giải quyết tranh chấp là
một vấn đề của thực tiễn và do đó không thuộc thẩm quyền phán quyết của Hội đồng giải
quyết tranh chấp vốn được giới hạn ở các vấn đề về luật pháp. Lập luận này đã bị Hội
đồng giải quyết khiếu nại bác bỏ, tiếp theo phán quyết của Hội đồng này về vụ tranh chấp
giữa Hoa Kỳ và Ấn Độ về việc cấp bằng độc quyền sáng chế cho dược phẩm, theo đó
“luật pháp cấp tỉnh cũng có thể tạo thành chứng cứ về việc tuân thủ hay không tuân thủ
các nghĩa vụ quốc tế”30 và do đó Hội đồng giải quyết khiếu nại cũng có quyền xem xét
giải thích của Hội đồng giải quyết tranh chấp về ý nghĩa của Điều 211 đạo luật này của
Hoa Kỳ.31
Vấn đề trong vụ tranh chấp này, theo đó nêu ra các câu hỏi về việc giải thích các
điều ước quốc tế, là các tên thương mại có được bao hàm bởi Hiệp định TRIPS hay
không. Điều 8 Công ước Pari quy định rằng tên thương mại “phải được bảo hộ ở tất cả
các nước thuộc Liên hiệp mà không phải thực hiện nghĩa vụ nộp đơn đăng ký, bất kể tên
thương mại đó có tạo thành một phần của nhãn hiệu hay không”. Hội đồng giải quyết
tranh chấp đã phán quyết rằng tên thương mại không thuộc các loại đối tượng sở hữu trí
tuệ mà Hiệp định TRIPS áp dụng. Hội đồng đã dựa vào Điều 1.2 Hiệp định TRIPS để đưa
ra kết luận, theo đó “Nhằm mục đích của Hiệp định này, thuật ngữ “sở hữu trí tuệ” đề cập

14
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
đến tất cả các phạm trù sở hữu trí tuệ là đối tượng của các Mục từ 1 đến 7 Phần II”. Áp
dụng các nguyên tắc giải thích quy định tại Điều 31 Công ước Viên, Hội đồng đã tuyên
bố rằng “cách giải thích theo đúng nguyên văn của Điều 1.2 là điều này đưa ra một định
nghĩa mang tính loại trừ và điều đó được khẳng định bởi cụm từ “tất cả các phạm trù”,
trong đó từ “tất cả” chỉ ra rằng đây là một danh mục không đầy đủ”.32 Về việc không
xuất hiện đối tượng tên thương mại trong các mục từ 1 đến 7 Phần II Hiệp định TRIPS,
Hội đồng đã xác nhận vấn đề này.
Hội đồng giải quyết khiếu nại không nhất trí với Hội đồng giải quyết tranh chấp về
vấn đề này. Hội đồng lưu ý rằng Điều 8 Công ước Pari chỉ liên quan đến tên thương mại
đã được nhập vào Hiệp định TRIPS theo quy định tại Điều 2.1. Hội đồng giải quyết khiếu
nại đã dẫn chiếu đến tuyên bố trước đó của mình trong vụ US-Gasoline, rằng
Một trong số những hệ quả của “quy tắc giải thích chung” trong Công ước Viên là
việc giải thích phải đưa ra nghĩa và hiệu lực cho tất cả các điều khoản của một
điều ước. Người giải thích không được tự do đưa ra một cách giải thích có thể dẫn
đến kết cục là làm cho cả các điều khoản hoặc các đoạn văn của một điều ước trở
nên thừa hoặc vô nghĩa.33
Hội đồng giải quyết khiếu nại cho rằng giải thích của Hội đồng giải quyết tranh chấp có
thể có nghĩa rằng việc đưa Điều 8 Công ước Pari vào Hiệp định TRIPS là vô nghĩa. Hội
đồng giải quyết khiếu nại cũng đã bác bỏ giải thích của Hội đồng giải quyết tranh chấp về
lịch sử đàm phán Hiệp định TRIPS. Cụ thể, Hội đồng đã phản bác những tài liệu mà Hội
đồng giải quyết tranh chấp đã dựa vào để giải thích là không có sự đề cập đến tên thương
mại.34
Hội đồng giải quyết khiếu nại đã đưa ra một trong số những kết luận là điều 211
đạo luật của Hoa Kỳ không phù hợp với Điều 2.1 Hiệp định TRIPS, cũng như Điều 8 của
Công ước Paris.

1
Nguyên tắc về việc các điều ước quốc tế phải được thi hành một cách thiện chí.
2
T. Cottier, ‘Dispute Settlement in the World Trade Organization: Characteristics
and Structural Implications for the European Union’ (1998) 35 Common Market Law Rev.
325.
3
UNDP, Human Rights and Human Development, New York, UNDP, 2000, 83-88.

15
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
4
Xem UN Commission on Human Rights, Sub-Commission on Prevention of
Discrimination and Protection of Minorities, ‘Draft UN Declaration on the Rights
of Indigenous Peoples’ (1995) 34 ILM 541.
5
WTO, Báo cáo của Hội đồng giải quyết tranh chấp, WT/DS50/R, 5 tháng 9 năm
1997, đoạn 7.18.
6
Trong cùng tài liệu nêu trên .
7
Trong cùng tài liệu nêu trên, đoạn 7.24.
8
Trong cùng tài liệu nêu trên, đoạn 7.27.
9
Trong cùng tài liệu nêu trên, đoạn 7.29.
10
Ví dụ, Báo cáo của Hội đồng giải quyết khiếu nại của WTO về vụ “Thuế của Hoa
Kỳ áp dụng cho dầu lửa và một số chất được nhập khẩu” ngày 17 tháng 6 năm
1987, BISD/34S/1, đoạn 5.2.2.
11
Báo cáo của Hội đồng giải quyết tranh chấp của WTOWT/DS50/R, 5/9/1997, đoạn
7.30.
12
Trong cùng tài liệu nêu trên, đoạn 742.
13
Báo cáo của Hội đồng giải quyết khiếu nại của WTO về ‘Việc bảo hộ patent của
Ấn Độ đối với dược phẩm và sản phẩm hoá nông”, 1997, đoạn 34-42.
14
Trong cùng tài liệu nêu trên, đoạn 45.
15
Trong cùng tài liệu nêu trên, đoạn 46.
16
Trong cùng tài liệu nêu trên
17
Trong cùng tài liệu nêu trên, đoạn 55.
18
Trong cùng tài liệu nêu trên, đoạn 57.
19
Báo cáo của Hội đồng giải quyết tranh chấp, WT/DS170/R, 5/5/2000, đoạn 7.1.
20
Báo cáo của Cơ quan giải quyết khiếu nại, WT/DS170/170/AB/R, 17/9/2000, đoạn
53.
21
Trong cùng tài liệu nêu trên, đoạn 59-60.
22
Trong cùng tài liệu nêu trên, đoạn 72.
23
Trong cùng tài liệu nêu trên, đoạn 73.
16
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
24
Báo cáo của Uỷ ban Tư pháp Hạ viện, Tiểu ban Toà án, và

Báo cáo của Hạ viện về vấn đề sở hữu trí tuệ số 94-1733, 94th Cong 2nd Sess. 75
(1976) được trích dẫn cùng tài liệu nêu trên, đoạn 2.5.
25
Báo cáo của Ban bồi thẩm WT/DS160/R, 15/06/2000, đoạn 6.43.
26
Trong cùng tài liệu nêu trên, đoạn 6.53
27
Trong cùng tài liệu nêu trên, đoạn 6.55.
28
Trong cùng tài liệu nêu trên, đoạn 6.60-6.66.
29
Trong cùng tài liệu nêu trên, đoạn 6.265.
30
Báo cáo của Hội đồng giải quyết khiếu nại WT/DS50/AB/R, được thông qua ngày
16/01/1998, đoạn 65.
31
Báo cáo của Hội đồng giải quyết khiếu nại WT/DS176/AB/R, được thông qua
ngày 2/01/2002, đoạn 105.
32
Báo cáo của Ban bồi thẩm WT/DS/176/R, 6/8/2001, đoạn 8.26.
33
Báo cáo của Hội đồng giải quyết khiếu nại, United States-Standards for
Reformulated and Conventional Gasoline, WT/DS2/AB/R, thông qua ngày
01/11/1996, đoạn 106.
34
Báo cáo của Hội đồng giải quyết khiếu nại trong tài liệu nêu trên, đoạn 339.

2. Công ước Pari về bảo hộ sở hữu công nghiệp năm 1883

Lịch sử
Trong suốt cuối thế kỷ 19, trước khi có sự ra đời của các công ước quốc tế trong
lĩnh vực sở hữu công nghiệp, việc bảo hộ các quyền sở hữu công nghiệp tại các quốc gia
khác nhau trên thế giới là khó khăn vì luật pháp tại các nước này rất đa dạng. Hơn nữa,
đơn yêu cầu cấp bằng độc quyền sáng chế phải được nộp đồng thời tại tất cả các quốc gia
nhằm tránh hệ quả là việc công bố tại một quốc gia sẽ làm mất tính mới của sáng chế đó
tại các quốc gia khác. Những vấn đề thực tiễn này đã thúc đẩy mong muốn khắc phục
được các trở ngại đó.

17
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
Trong nửa cuối thế kỷ 19, sự phát triển của công nghệ theo xu hướng quốc tế hoá
và sự tăng trưởng của thương mại quốc tế khiến cho việc hài hoà hoá pháp luật về sở hữu
công nghiệp về cả lĩnh vực nhãn hiệu và sáng chế trở nên cấp thiết.

Khi Chính phủ hai nước Áo-Hungary mời các quốc gia khác tham dự một triển lãm
quốc tế về sáng chế được tổ chức tại Viên năm 1873 thì một thực tế đã cản trở sự tham dự
này là nhiều khách mời nước ngoài không sẵn sàng trưng bày các sáng chế của họ tại triển
lãm đó do chưa có sự bảo hộ pháp lý thoả đáng đối với các sáng chế được mang đến triển
lãm đó.

Điều này dẫn đến hai xu hướng: thứ nhất, một luật đặc biệt của Áo bảo đảm sự bảo
hộ tạm thời cho sáng chế, nhãn hiệu, nhãn hiệu và kiểu dáng công nghiệp của tất cả những
người nước ngoài tham gia triển lãm đó. Thứ hai, Hội nghị Viên về cải cách chế độ bảo
hộ sáng chế đã được nhóm họp trong cùng năm đó, năm 1973. Hội nghị đã soạn thảo một
số nguyên tắc là cơ sở cần có của một hệ thống sáng chế hữu ích và có hiệu quả và cũng
đã thúc giục các chính phủ “phải tạo ra một thoả thuận sơ bộ quốc tế về bảo hộ sáng chế
càng sớm càng tốt.”

Tiếp theo Hội nghị Viên, một Hội nghị quốc tế về sở hữu công nghiệp đã được
nhóm họp tại Pari năm 1878. Kết quả chính của hội nghị này là một quyết định rằng một
trong số các chính phủ được yêu cầu phải triệu tập một hội nghị ngoại giao quốc tế “với
nhiệm vụ là xác định cơ sở của một hệ thống pháp luật thống nhất” trong lĩnh vực sở hữu
công nghiệp.

Sau hội nghị đó, bản dự thảo cuối cùng đề xuất thành lập một “hiệp hội” quốc tế về
bảo hộ sở hữu công nghiệp đã được chuẩn bị tại Pháp và đã được Chính phủ Pháp gửi tới
nhiều quốc gia khác cùng với lời mời tham dự Hội nghị quốc tế vào năm 1880 tại Pari.
Hội nghị quốc tế đó đã thông qua một bản dự thảo công ước mà về cơ bản bao gồm
những quy định chủ yếu của Công ước Pari ngày nay.

Năm 1883, một Hội nghị ngoại giao mới được nhóm họp tại Pari, kết thúc bằng
việc ký kết và thông qua lần cuối cùng Công ước Pari về bảo hộ sở hữu công nghiệp.
Công ước Pari đã được 11 quốc gia tham gia ký kết: Bỉ, Bra-xin, El Sanvado, Pháp,
Guatemala, Italia, Hà Lan, Bồ Đào Nha, Secbia, Tây Ban Nha và Thuỵ Sĩ. Khi Công ước
có hiệu lực vào ngày 7 tháng 7 năm 1884 thì Vương quốc Anh, Tuynidi và Ecuado cũng
đã tham gia Công ước, khiến số lượng thành viên ban đầu tăng lên thành 14. Chỉ trong
vòng một phần tư đầu thế kỷ 20 và đặc biệt là sau Chiến tranh thế giới thứ II, số lượng
thành viên của Công ước Pari đã tăng lên đáng kể.
18
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
Công ước Pari đã được sửa đổi nhiều lần từ sau khi được ký kết vào năm 1883.
Mỗi một hội nghị sửa đổi, bắt đầu từ Hội nghị Brussel năm 1990, đều kết thúc bằng việc
thông qua một Văn kiện sửa đổi của Công ước Pari.Trừ những văn kiện tại hội nghị sửa
đổi Brussel (năm 1897 và 1900) và Washington D.C. (năm 1911) không còn hiệu lực, tất
cả những văn kiện trước đó vẫn có ý nghĩa, mặc dù phần lớn các quốc gia hiện nay đều là
thành viên của văn kiện mới nhất, Văn kiện Stockholm năm 1967.

Các quy định cơ bản

Các quy định của Công ước Pari có thể được chia thành bốn phạm trù chính:

- phạm trù thứ nhất bao gồm những nguyên tắc của luật nội dung về bảo đảm
quyền cơ bản – chế độ đối xử quốc gia – tại mỗi quốc gia thành viên;

- phạm trù thứ hai thiết lập một quyền cơ bản khác, đó là quyền hưởng ưu tiên;

- phạm trù thứ ba xác định một số nguyên tắc chung trong lĩnh vực luật nội dung,
bao gồm các nguyên tắc xác lập quyền và nghĩa vụ của các thể nhân và pháp nhân, hoặc
những nguyên tắc yêu cầu hoặc cho phép các quốc gia thành viên được xây dựng luật
pháp theo những nguyên tắc đó;

- phạm trù thứ tư giải quyết về khuôn khổ hành chính được tạo lập để thực thi
Công ước và những điều khoản cuối cùng của Công ước.

Đối xử quốc gia

Đối xử quốc gia có nghĩa là, liên quan đến việc bảo hộ sở hữu công nghiệp, mỗi
quốc gia thành viên Công ước Pari phải dành sự bảo hộ cho công dân của các quốc gia
thành viên khác như sự bảo hộ được dành cho công dân của nước mình. Các điều khoản
có liên quan được quy định tại Điều 2 và 3 của Công ước.

Chế độ đối xử quốc gia còn được trao cho công dân của những nước không phải là
thành viên của Công ước Pari nhưng họ cư trú tại một quốc gia thành viên hoặc nếu họ có
cơ sở công nghiệp hoặc thương mại “có hiệu quả và có thực” tại quốc gia đó. Tuy nhiên,
không đặt ra yêu cầu về cư trú hoặc cơ sở kinh doanh tại nước được yêu cầu bảo hộ như
là một điều kiện để được hưởng sự bảo hộ đối với công dân của các quốc gia thành viên.

Nguyên tắc đối xử quốc gia không chỉ bảo đảm rằng những người nước ngoài sẽ
được bảo hộ mà họ còn không bị phân biệt đối xử theo cách thức bất kỳ. Thường thì sẽ rất
19
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
khó khăn và đôi khi không thể có được sự bảo hộ thoả đáng cho sáng chế, nhãn hiệu và
các đối tượng sở hữu công nghiệp khác ở nước ngoài nếu không có nguyên tắc này.

Nguyên tắc đối xử quốc gia được áp dụng trước hết cho tất cả các “công dân” của
các quốc gia thành viên. Thuật ngữ “công dân” bao gồm cả thể nhân và pháp nhân. Đối
với pháp nhân, có thể sẽ gặp khó khăn khi xác định pháp nhân đó mang quốc tịch của
quốc gia nào. Nói chung, thường thì các pháp nhân không thể có nhiều quốc tịch theo
nhiều luật quốc gia khác nhau theo nghĩa hẹp của từ này (từ quốc tịch). Tất nhiên, các
doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước của một quốc gia thành viên hoặc các pháp nhân
khác được thành lập theo luật công của quốc gia đó phải được coi là công dân của quốc
gia thành viên này. Các pháp nhân được thành lập theo luật tư của một quốc gia thành
viên thường sẽ là công dân của quốc gia đó. Nếu họ có trụ sở chính đặt tại một quốc gia
thành viên khác thì họ cũng có thể được coi là công dân của nước mà họ đặt trụ sở. Theo
Điều 2(1), nguyên tắc đối xử quốc gia được áp dụng với tất cả các điều kiện thuận lợi mà
luật pháp của các quốc gia khác nhau dành cho công dân.

Quyền ưu tiên

Quyền ưu tiên có nghĩa là trên cơ sở một đơn hợp lệ yêu cầu bảo hộ quyền sở hữu
công nghiệp do một người nộp tại một trong số các quốc gia thành viên, chính người này
(hoặc người được kế thừa quyền này), trong một thời hạn nhất định (6 hoặc 12 tháng) có
thể nộp đơn yêu cầu bảo hộ tại tất cả các quốc gia thành viên khác. Những đơn nộp sau sẽ
được coi như được nộp cùng ngày với đơn nộp sớm nhất. Vì vậy, những đơn nộp sau
được hưởng quyền ưu tiên đối với tất cả các đơn liên quan tới cùng một sáng chế được
nộp sau ngày đơn đầu tiên được nộp. Các đơn này cũng sẽ được hưởng chế độ ưu tiên đối
với tất cả những hành động được tiến hành sau ngày đó mà thường có khả năng làm mất
quyền của người nộp đơn hoặc làm mất khả năng được cấp bằng độc quyền sáng chế cho
sáng chế của người nộp đơn. Những quy định liên quan tới quyền ưu tiên được đề cập tại
Điều 4 của Công ước.

Quyền ưu tiên tạo ra nhiều thuận lợi về mặt thực tế đối với người nộp đơn muốn có
được sự bảo hộ tại nhiều quốc gia. Người nộp đơn không buộc phải nộp tất cả các đơn tại
nước mình và nước ngoài vào cùng một thời điểm bởi người nộp đơn có 6 hoặc 12 tháng
tuỳ theo sự lựa chọn của mình để quyết định yêu cầu bảo hộ tại quốc gia nào. Người nộp
đơn có thể sử dụng thời hạn này để tổ chức thực hiện các bước nhằm tìm kiếm sự bảo hộ
ở các nước khác nhau trong từng trường hợp cụ thể.

20
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
Người được hưởng quyền ưu tiên là người bất kỳ có quyền được hưởng lợi từ
nguyên tắc đối xử quốc gia, nộp đơn yêu cầu cấp bằng độc quyền sáng chế hoặc một
quyền sở hữu công nghiệp khác một cách hợp lệ tại một trong số các quốc gia thành viên.

Quyền ưu tiên chỉ có thể dựa trên đơn đầu tiên đối với cùng một quyền sở hữu
công nghiệp mà đã được nộp tại một quốc gia thành viên. Vì vậy, không thể căn cứ vào
đơn thứ hai, có thể là một đơn sửa đổi và sau đó sử dụng đơn thứ hai này như cơ sở hưởng
quyền ưu tiên. Lý do của nguyên tắc này là rõ ràng: một đơn yêu cầu bảo hộ không thể
cho phép một chuỗi bất tận các yêu cầu hưởng quyền ưu tiên cho cùng một đối tượng, bởi
trên thực tế điều này có thể kéo dài đáng kể thời hạn bảo hộ cho đối tượng đó.

Điều 4A91) của Công ước Pari thừa nhận một cách rõ ràng rằng quyền ưu tiên
cũng có thể được áp dụng cho người kế thừa của người nộp đơn đầu tiên. Quyền ưu tiên
cũng có thể được chuyển giao cho người kế thừa mà không gắn với việc chuyển giao
đồng thời đơn đầu tiên. Đặc biệt, điều này cũng cho phép chuyển giao quyền ưu tiên cho
những người khác nhau ở những nước khác nhau, một thông lệ đã trở nên phổ biến.

Đơn sau phải đề cập tới cùng một đối tượng như đơn đầu tiên, là cơ sở yêu cầu
hưởng quyền ưu tiên. Nói cách khác, đối tượng của cả hai đơn đều phải cùng là một sáng
chế, một mẫu hữu ích, một nhãn hiệu hoặc một kiểu dáng công nghiệp. Tuy nhiên, có thể
sử dụng đơn đầu tiên yêu cầu cấp bằng độc quyền sáng chế cho sáng chế làm cơ sở hưởng
quyền ưu tiên cho đăng ký mẫu hữu ích và ngược lại. Sự thay đổi hình thức bảo hộ tương
tự theo cả hai hướng như vậy cũng có thể được thực hiện giữa mẫu hữu ích và kiểu dáng
công nghiệp, phù hợp với luật pháp quốc gia.

Đơn đầu tiên phải được “nộp một cách hợp lệ” nhằm tạo cơ sở cho việc yêu cầu
hưởng quyền ưu tiên. Mọi việc nộp đơn tương đương với việc nộp đơn quốc gia hợp lệ
đều là cơ sở hợp lệ cho việc yêu cầu hưởng quyền ưu tiên. Việc nộp đơn quốc gia hợp lệ
có nghĩa là việc nộp đơn bất kỳ đủ để xác lập ngày nộp đơn ở nước có liên quan. Khái
niệm đơn “quốc gia” bao gồm cả những đơn được nộp theo các điều ước song phương
hoặc đa phương được ký kết giữa các quốc gia thành viên.

Việc huỷ bỏ, rút, từ chối đơn đầu tiên không làm mất khả năng là cơ sở yêu cầu
hưởng quyền ưu tiên của đơn này. Quyền ưu tiên vẫn tồn tại ngay cả khi đơn đầu tiên là
cơ sở của việc yêu cầu hưởng quyền ưu tiên đó không còn tồn tại.

Hiệu lực của quyền ưu tiên được quy định tại Điều 4B. Có thể tóm tắt quy định này
như sau, như một hệ quả của yêu cầu hưởng quyền ưu tiên, đơn nộp sau phải được coi
21
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
như đã được nộp vào thời điểm nộp đơn của đơn đầu tiên ở một nước thành viên khác, là
cơ sở của việc yêu cầu hưởng quyền ưu tiên của đơn đó. Bởi hệ quả của quyền ưu tiên, tất
cả những hoạt động diễn ra trong suốt thời gian từ ngày nộp đơn của đơn đầu tiên và đến
những đơn nộp sau, được gọi là giai đoạn ưu tiên, không thể làm mất quyền mà là đối
tượng của đơn nộp sau.

Về ví dụ cụ thể, điều này có nghĩa là đơn yêu cầu cấp bằng độc quyền sáng chế
cho cùng một sáng chế được một bên thứ ba nộp trong giai đoạn ưu tiên sẽ không tạo ra
quyền ưu tiên, mặc dù đơn đó được nộp trước cả đơn nộp sau. Tương tự, một sự công bố
hoặc việc sử dụng công khai sáng chế mà là đối tượng của đơn nộp sau trong giai đoạn ưu
tiên sẽ không làm mất tính mới hay trình độ sáng tạo của sáng chế đó. Vì mục đích đó,
không cần quan tâm đến việc công bố do người nộp đơn hay do chính tác giả sáng chế
hay một bên thứ ba thực hiện.

Độ dài của giai đoạn ưu tiên đối với các đối tượng sở hữu công nghiệp là khác
nhau. Đối với bằng độc quyền sáng chế và mẫu hữu ích, giai đoạn ưu tiên là 12 tháng, đối
với kiểu dáng công nghiệp và nhãn hiệu thì thời hạn này là 6 tháng. Khi xác định độ dài
của giai đoạn ưu tiên, Công ước Pari đã phải tính đến những lợi ích xung đột giữa người
nộp đơn và các bên thứ ba. Giai đoạn ưu tiên hiện được quy định trong Công ước Pari
dường như đã tạo ra sự cân bằng hợp lý giữa hai chủ thể này.

Quyền ưu tiên được Công ước thừa nhận cho phép yêu cầu hưởng quyền “ưu tiên
kép” và “ưu tiên từng phần”. Vì vậy, đơn nộp sau không chỉ có thể yêu cầu quyền ưu tiên
trên cơ sở một đơn nộp sớm hơn mà còn có thể kết hợp quyền ưu tiên trên cơ sở nhiều
đơn nộp trước mà mỗi đơn trước đó có liên quan đến những điểm khác nhau của đối
tượng nêu trong đơn nộp sau. Hơn nữa, trong đơn nộp sau, các yếu tố có yêu cầu hưởng
quyền ưu tiên có thể được kết hợp với những yếu tố không hưởng quyền ưu tiên. Trong
tất cả những trường hợp này, tất nhiên là đơn nộp sau phải phù hợp với yêu cầu về tính
thống nhất của sáng chế.

Những khả năng này phù hợp với một nhu cầu thực tế. Thường thì sau khi nộp đơn
lần đầu tiên, những cải tiến hay bổ sung đối với sáng chế mà là đối tượng của những đơn
nộp sau tại nước xuất xứ. Trong những trường hợp như vậy, rất thiết thực khi kết hợp
những đơn nộp trước thành một đơn nộp sau và tiến hành nộp đơn này ở một nước thành
viên khác trước khi kết thúc năm ưu tiên. Sự kết hợp này có tính khả thi ngay cả trong
trường hợp các yêu cầu hưởng quyền ưu tiên kép bắt nguồn từ các quốc gia thành viên
khác nhau.

22
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
Các quy định liên quan đến patent

Sự độc lập của các bằng độc quyền sáng chế

Bằng độc quyền sáng chế được cấp ở các quốc gia thành viên cho công dân hay
người cư trú tại các quốc gia thành viên phải được coi là độc lập với các bằng độc quyền
sáng chế cấp cho cùng một sáng chế ở các nước khác, kể cả các quốc gia không phải là
thành viên. Nguyên tắc về “tính độc lập” của các bằng độc quyền sáng chế này được quy
định tại Điều 4bis.

Lý do cơ bản và luận điểm chính của nguyên tắc này là luật pháp và các thông lệ
hành chính quốc gia thường khác nhau. Một quyết định không cấp hoặc huỷ bỏ hiệu lực
một bằng độc quyền sáng chế ở một nước nhất định trên cơ sở luật pháp của nước này
thường sẽ không liên quan đến hoàn cảnh pháp lý khác nhau ở các nước khác. Sẽ là
không hợp lý khi độc quyền của chủ sở hữu sáng chế ở các nước khác bị mất với lý do
người đó bị mất độc quyền đối với sáng chế ở một nước cụ thể vì không nộp lệ phí duy trì
hiệu lực ở nước đó, hoặc với lý do bằng độc quyền sáng chế bị huỷ bỏ hiệu lực ở nước đó
vì một lý do mà luật pháp của các nước khác đó không quy định.

Một điểm đặc biệt của nguyên tắc độc lập của bằng độc quyền sáng chế được quy
định tại Điều 4bis(5). Điều khoản này quy định bằng độc quyền sáng chế được cấp trên cơ
sở một đơn có yêu cầu hưởng quyền ưu tiên của một hoặc nhiều đơn được nộp ở nước
ngoài phải có thời hạn hiệu lực bằng thời hạn hiệu lực như thể các bằng độc quyền sáng
chế đó được cấp mà không có yêu cầu hưởng quyền ưu tiên.

Nhập khẩu, không khai thác và li-xăng cưỡng bức

Các vấn đề về việc nhập khẩu các vật phẩm chứa sáng chế, việc không thực hiện
sáng chế đã được cấp bằng độc quyền và li-xăng cưỡng bức được quy định tại Điều 5.A
của Công ước. Đối với vấn đề nhập khẩu, điều này quy định rằng việc nhập khẩu bởi chủ
bằng độc quyền vào một quốc gia nơi bằng độc quyền sáng chế được cấp, các vật phẩm
chứa sáng chế và được sản xuất tại quốc gia bất kỳ của Liên hiệp sẽ không dẫn đến việc
tước quyền theo bằng độc quyền sáng chế đó.

Đối với việc khai thác bằng độc quyền sáng chế và li-xăng cưỡng bức, bản chất
của các quy định tại Điều 5A là mỗi quốc gia có thể tiến hành các biện pháp pháp lý quy
định việc cấp li-xăng cưỡng bức. Những li-xăng cưỡng bức này nhằm ngăn chặn sự lạm

23
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
dụng có thể nảy sinh từ độc quyền được cấp theo bằng độc quyền sáng chế, ví dụ việc
không khai thác sáng chế hoặc khai thác sáng chế không đầy đủ.

Việc cấp li-xăng cưỡng bức căn cứ vào việc không khai thác hoặc khai thác không
đầy đủ là biện pháp cưỡng bức thông dụng nhất chống lại chủ sở hữu để ngăn chặn sự lạm
dụng quyền được cấp theo bằng độc quyền sáng chế. Việc này được quy định rõ ràng tại
Điều 5A.

Lý lẽ chính cho việc bắt buộc khai thác một sáng chế tại một quốc gia cụ thể là sự
cân nhắc rằng, để thúc đẩy việc công nghiệp hoá của một quốc gia, các bằng độc quyền
sáng chế không nên được sử dụng chỉ để ngăn cản việc khai thác sáng chế đó tại nước đó
hoặc để dành độc quyền nhập khẩu vật phẩm đã được cấp bằng độc quyền sáng chế cho
chủ sở hữu. Đúng hơn là chế độ độc quyền sáng chế nên được sử dụng để du nhập công
nghệ mới vào nước đó. Nhưng việc chủ bằng độc quyền có thực sự muốn làm vậy hay
không thì trước hết họ cần cân nhắc về mặt kinh tế và sau đó là về thời gian. Việc khai
thác sáng chế ở tất cả các nước thường không có hiệu quả kinh tế. Hơn nữa, có một sự
thừa nhận chung rằng việc khai thác ngay tức khắc tại tất cả các nước là điều không khả
thi. Do đó, Điều 5A đã cố gắng tạo ra sự cân bằng giữa các lợi ích xung đột này.

Không được phép cấp li-xăng cưỡng bức do không khai thác sáng chế hoặc khai
thác sáng chế không đầy đủ trước khi kết thúc một thời hạn nhất định. Thời hạn này sẽ hết
hạn hoặc là 4 năm kể từ ngày nộp đơn yêu cầu cấp bằng độc quyền sáng chế hoặc 3 năm
kể từ ngày cấp bằng độc quyền sáng chế. Thời hạn được áp dụng cho từng trường hợp là
thời hạn kết thúc sau.

Thời hạn 3 năm hoặc 4 năm nêu trên là thời hạn tối thiểu. Chủ sở hữu bằng độc
quyền phải được dành thời hạn dài hơn nếu người đó có thể đưa ra được những lý do hợp
pháp cho sự không hành động của mình – ví dụ các trở ngại về mặt pháp lý, kinh tế hoặc
kỹ thuật cản trở việc khai thác hoặc khai thác mở rộng sáng chế ở trong nước. Nếu điều
đó được chứng minh thì yêu cầu cấp li-xăng cưỡng bức phải bị từ chối, ít nhất là trong
một thời hạn nhất định. Thời hạn 3 năm hoặc 4 năm nêu trên cũng là thời hạn tối thiểu
theo nghĩa luật quốc gia có thể quy định thời hạn dài hơn.

Li-xăng cưỡng bức do không khai thác hoặc khai thác không đầy đủ phải là một li-
xăng không độc quyền và chỉ có thể được chuyển giao cùng với doanh nghiệp được
hưởng lợi từ li-xăng cưỡng bức đó. Chủ sở hữu bằng độc quyền phải được giữ lại quyền
cấp các li-xăng không độc quyền khác và quyền tự mình khai thác sáng chế. Ngoài ra, vì
li-xăng cưỡng bức được cấp cho một doanh nghiệp cụ thể trên cơ sở năng lực đã biết của
24
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
doanh nghiệp đó, nó sẽ ràng buộc với doanh nghiệp đó và không thể được chuyển giao
riêng rẽ với doanh nghiệp. Những hạn chế này nhằm ngăn chặn một người được cấp li-
xăng cưỡng bức dành được lợi thế hơn trên thị trường hơn là được bảo đảm bởi mục đích
của li-xăng cưỡng bức, đó là bảo đảm khai thác đầy đủ sáng chế đó ở trong nước.

Tất cả những quy định đặc biệt về cấp li-xăng cưỡng bức này nêu tại Điều 5A(4)
chỉ được áp dụng cho các li-xăng cưỡng bức vì lý do không khai thác hoặc khai thác một
cách không đầy đủ. Các quy định này không được áp dụng cho các loại li-xăng cưỡng bức
khác mà luật quốc gia được tự do quy định. Các loại li-xăng cưỡng bức khác đó có thể
được cấp để ngăn ngừa những sự lạm dụng khác, ví dụ giá quá cao hoặc các điều kiện
không hợp lý đối với một li-xăng theo hợp đồng hoặc các biện pháp hạn chế khác làm tổn
hại đến sự phát triển công nghiệp.

Li-xăng cưỡng bức cũng có thể được cấp với lý do bảo đảm lợi ích công cộng
trong trường hợp không có sự lạm dụng quyền của chủ sở hữu bằng độc quyền sáng chế,
ví dụ trong lĩnh vực an ninh quốc phòng hoặc sức khoẻ cộng đồng.

Tuy nhiên, cần lưu ý rằng Điều 31 Hiệp định TRIPS còn quy định một số điều
kiện đối với việc sử dụng đối tượng của một bằng độc quyền sáng chế mà không được sự
cho phép của người nắm quyền.

Giai đoạn ân hạn đối với việc nộp lệ phí duy trì hiệu lực

Điều 5bis quy định về giai đoạn ân hạn đối với việc nộp lệ phí duy trì hiệu lực
quyền sở hữu công nghiệp và việc khôi phục hiệu lực bằng độc quyền sáng chế trong
trường hợp không nộp lệ phí duy trì hiệu lực.

Các quy định liên quan đến nhãn hiệu

Sử dụng nhãn hiệu

Điều 5C(1) liên quan đến việc sử dụng bắt buộc nhãn hiệu đã được đăng ký. Một
số nước quy định việc đăng ký nhãn hiệu cũng yêu cầu rằng một khi nhãn hiệu đã được
đăng ký thì nhãn hiệu đó phải được sử dụng trong một thời hạn nhất định. Nếu việc sử
dụng không được đáp ứng, nhãn hiệu có thể bị xoá khỏi đăng bạ. Nhằm mục đích này,
thuật ngữ “sử dụng” thường được hiểu là việc bán hàng hoá mang nhãn hiệu, mặc dù luật
pháp quốc gia có thể quy định rộng hơn về cách thức sử dụng nhãn hiệu để đáp ứng yêu
cầu này. Điều khoản trên quy định rằng khi có yêu cầu về việc bắt buộc sử dụng, đăng ký

25
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
nhãn hiệu có thể bị huỷ bỏ do việc không sử dụng nhãn hiệu chỉ sau một thời hạn hợp lý
và nếu chủ sở hữu không thể biện minh được cho việc không sử dụng đó.

Định nghĩa về “thời hạn hợp lý” được dành cho pháp luật quốc gia của các nước có
liên quan quy định, hoặc nếu không thì dành cho các cơ quan có thẩm quyền giải quyết
những trường hợp như vậy. Thời hạn hợp lý này được đặt ra nhằm tạo cho chủ sở hữu
nhãn hiệu thời gian và cơ hội đủ để chuẩn bị cho việc sử dụng thích hợp, có tính đến thực
tế là trong nhiều trường hợp chủ sở hữu nhãn hiệu phải sử dụng nhãn hiệu của mình ở
nhiều nước.

Biện minh của chủ sở hữu nhãn hiệu về việc không sử dụng có thể được chấp nhận
nếu điều đó là do các hoàn cảnh kinh tế hoặc pháp lý vượt ra khỏi tầm kiểm soát của chủ
sở hữu nhãn hiệu, ví dụ nếu chính phủ có các quy định cấm hoặc trì hoãn nhập khẩu các
hàng hoá gắn nhãn hiệu.

Giai đoạn ân hạn đối với việc nộp lệ phí gia hạn

Điều 5bis quy định một giai đoạn ân hạn đối với việc nộp lệ phí duy trì các quyền
sở hữu công nghiệp. Đối với nhãn hiệu, quy định này chủ yếu liên quan đến việc nộp phí
gia hạn, vì nhờ việc gia hạn mà đăng ký nhãn hiệu (và do đó quyền phụ thuộc vào đăng
ký đó) được duy trì. Việc không gia hạn đăng ký nhãn hiệu thường sẽ kéo theo việc mất
hiệu lực của đăng ký đó và trong một số trường hợp sẽ làm chấm dứt quyền đối với nhãn
hiệu. Giai đoạn ân hạn được quy định theo Công ước nhằm giảm bớt nguy cơ mất nhãn
hiệu do sự chậm trễ ngoài ý muốn trong việc nộp phí gia hạn.

Tính độc lập của các nhãn hiệu

Điều 6 Công ước thiết lập một nguyên tắc quan trọng về tính độc lập của các nhãn
hiệu ở các quốc gia thành viên khác nhau của Liên hiệp, và đặc biệt là sự độc lập của các
nhãn hiệu được nộp đơn hoặc được đăng ký ở nước xuất xứ với những nhãn hiệu được
nộp đơn hoặc được đăng ký ở các quốc gia khác trong Liên hiệp.

Nhãn hiệu nổi tiếng

Điều 6bis buộc một quốc gia thành viên phải từ chối hoặc huỷ bỏ đăng ký hoặc
cấm sử dụng một nhãn hiệu có khả năng gây nhẫm lẫn với một nhãn hiệu khác đã nổi
tiếng tại quốc gia thành viên đó. Quy định tại Điều này nhằm mở rộng sự bảo hộ đối với
một nhãn hiệu được coi là nổi tiếng ở một quốc gia thành viên ngay cả khi nhãn hiệu đó
chưa được đăng ký hoặc sử dụng ở quốc gia đó. Việc bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng không
26
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
bắt nguồn từ đăng ký nhãn hiệu này để ngăn cản việc đăng ký hoặc sử dụng một nhãn
hiệu xung đột mà bắt nguồn từ chính danh tiếng của nhãn hiệu nổi tiếng đó.

Nhãn hiệu được bảo hộ theo Điều 6bis phải là nhãn hiệu “nổi tiếng” theo sự xác
định của các cơ quan hành chính hoặc các cơ quan xét xử có thẩm quyền ở một quốc gia
thành viên. Một nhãn hiệu có thể chưa từng được sử dụng ở một quốc gia theo nghĩa là
hàng hoá mang nhãn hiệu chưa được bán ở đó nhưng nhãn hiệu đó vẫn có thể là nhãn
hiệu nổi tiếng ở quốc gia này do việc quảng cáo ở quốc gia đó hoặc sự tác động của quảng
cáo ở các nước khác vào quốc gia đó.

Việc bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng theo Điều 6bis chỉ tồn tại khi nhãn hiệu xung đột
đã được nộp đơn, được đăng ký hoặc được sử dụng cho hàng hoá trùng hoặc tương tự,
theo sự xác định của cơ quan hành chính hoặc xét xử có thẩm quyền của quốc gia nơi mà
nhãn hiệu được yêu cầu bảo hộ.

Chuyển nhượng nhãn hiệu

Điều 6quater Công ước quy định rằng sẽ là đủ để thừa nhận hiệu lực của việc
chuyển nhượng nhãn hiệu ở một quốc gia thành viên nếu phần hoạt động kinh doanh hoặc
uy tín đã có ở quốc gia đó cũng được chuyển nhượng cho bên chuyển nhượng, cùng với
độc quyền sản xuất ở quốc gia đó hoặc bán ở đó, hàng hoá mang nhãn hiệu được chuyển
nhượng. Do đó một quốc gia thành viên được tự do yêu cầu, đối với hiệu lực của việc
chuyển nhượng nhãn hiệu, phải đồng thời chuyển giao doanh nghiệp sở hữu nhãn hiệu
đó, song những yêu cầu như vậy không được phép mở rộng tới những phần của doanh
nghiệp đặt tại các nước khác.

Kiểu dáng công nghiệp

Điều 5quinquies chỉ quy định về nghĩa vụ của tất cả các quốc gia thành viên phải
bảo hộ kiểu dáng công nghiệp. Công ước không quy định về cách thức bảo hộ kiểu dáng
công nghiệp mà các nước phải quy định.

Tên thương mại

Điều 8 quy định rằng tên thương mại phải được bảo hộ ở tất cả các quốc gia của
Liên hiệp mà không được đặt ra nghĩa vụ nộp đơn đăng ký, bất kể tên thương mại có tạo
thành một phần nhãn hiệu hay không. Định nghĩa tên thương mại nhằm mục đích bảo hộ

27
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
và cách thức thực thi việc bảo hộ là các vấn đề được dành cho luật pháp quốc gia của các
quốc gia có liên quan điều chỉnh. Vì vậy, việc bảo hộ có thể bắt nguồn từ luật riêng về
tên thương mại hoặc bắt nguồn từ luật chung về chống cạnh tranh không lành mạnh hoặc
luật về quyền nhân thân.

Tên gọi xuất xứ và chỉ dẫn nguồn gốc

Tên gọi xuất xứ và chỉ dẫn nguồn gốc nằm trong số những đối tượng được bảo hộ
quyền sở hữu công nghiệp theo Công ước Pari (Điều 1(2)).

Cạnh tranh không lành mạnh

Điều 10 Công ước quy định rằng các quốc gia trong Liên hiệp phải bảo đảm việc
bảo hộ một cách có hiệu quả cho những bên có quyền hưởng lợi từ Công ước để chống
lại sự cạnh tranh không lành mạnh. Công ước không quy định cụ thể về cách thức dành sự
bảo hộ đó mà để việc này cho luật pháp mỗi quốc gia thành viên quy định.

Điều 10bis định nghĩa các hành vi cạnh tranh không lành mạnh là những hành vi
cạnh tranh trái với thực tiễn trung thực trong các hoạt động thương mại hay công nghiệp.
Hơn nữa, Điều này còn đưa ra một số ví dụ điển hình về các hành vi cạnh tranh không
lành mạnh cần phải bị ngăn cấm.

3. Công ước Berne về bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật

Lịch sử

Nhu cầu cần có một hệ thống thống nhất đã dẫn tới việc soạn thảo và thông qua
Công ước Berne về bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật ngày 9 tháng 9 năm 1886.
Công ước Berne đã được sửa đổi nhiều lần để hoàn thiện hệ thống bảo hộ quốc tế mà
Công ước quy định. Đã có nhiều thay đổi để đối phó với những thách thức nảy sinh do sự
phát triển nhanh chóng của công nghệ trong lĩnh vực sử dụng tác phẩm của tác giả, để
công nhận những quyền mới, đồng thời cho phép các phiên bản sửa đổi phù hợp đối với
các quyền đã được quy định. Lần sửa đổi lớn đầu tiên được thực hiện ở Berlin năm 1908
và sau đó là những lần sửa đổi tại Rome năm 1928, tại Brusells năm 1948, tại Stockholm
năm 1967 và tại Pari năm 1971.

Các quy định cơ bản

Các nguyên tắc cơ bản

28
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
Công ước dựa trên ba nguyên tắc cơ bản. Thứ nhất, đó là nguyên tắc “đối xử quốc
gia”, theo đó các tác phẩm có xuất xứ từ một quốc gia trong số các quốc gia thành viên
được dành sự bảo hộ tương tự ở mỗi quốc gia thành viên như sự bảo hộ được dành cho
những tác phẩm của công dân nước họ. Thứ hai, đó là nguyên tắc bảo hộ mặc nhiên, theo
đó sự đối xử quốc gia như nêu trên không phụ thuộc vào hình thức bất kỳ; nói cách khác,
sự bảo hộ là mặc nhiên và không phụ thuộc vào bất kỳ thủ tục đăng ký, nộp lưu nào hoặc
những thủ tục tương tự. Thứ ba là tính độc lập của sự bảo hộ, theo đó việc hưởng và thực
hiện các quyền độc lập với sự bảo hộ ở nước xuất xứ của tác phẩm.

Các tác phẩm được bảo hộ

Điều 2 Công ước nêu một danh mục không hạn chế (có tính chất minh hoạ và
không đầy đủ) các tác phẩm được bảo hộ, bao gồm sản phẩm nguyên gốc bất kỳ trong
lĩnh vực văn học, khoa học và nghệ thuật, không phân biệt hình thức và cách thức thể
hiện. Các tác phẩm phái sinh là những tác phẩm dựa trên những tác phẩm đang tồn tại
khác, như các tác phẩm dịch, phóng tác, chuyển thể âm nhạc và các tác phẩm chuyển thể
từ các tác phẩm văn học và nghệ thuật, cũng được dành sự bảo hộ tương tự như tác phẩm
gốc (Điều 2(3)). Sự bảo hộ đối với một số loại hình tác phẩm không mang tính bắt buộc;
do đó mỗi quốc gia thành viên của Công ước Berne có thể quyết định phạm vi bảo độ đối
với các văn bản chính thức của các văn bản pháp luật, văn bản hành chính và văn bản có
tính chất pháp lý (Điều 2(4)), tác phẩm nghệ thuật ứng dụng (Điều 2(7)), bài giảng, diễn
văn và các tác phẩm nói khác (Điều 2bis(2)) và các tác phẩm văn hoá dân gian (Điều
15(4)). Hơn nữa, Điều 2(2) còn quy định khả năng bảo hộ những tác phẩm hoặc những
loại hình cụ thể khác tuỳ thuộc vào sự thể hiện dưới hình thức vật chất của những tác
phẩm đó. Ví dụ, việc bảo hộ các tác phẩm múa có thể phụ thuộc vào hình thức thể hiện
của chúng.

Chủ sở hữu quyền

Điều 2(6) quy định rằng sự bảo hộ theo Công ước là nhằm mang lại lợi ích cho tác
giả và người thừa kế của tác giả. Tuy nhiên, đối với một số loại hình tác phẩm, như tác
phẩm điện ảnh (Điều 14bis), luật quốc gia nơi quyền tác giả được yêu cầu bảo hộ sẽ điều
chỉnh vấn đề quyền sở hữu bản quyền

Những người được bảo hộ

Các tác giả của tác phẩm được bảo hộ, đối với cả những tác phẩm chưa công bố
hay đã công bố, phù hợp với Điều 3, nếu họ là công dân của hoặc người cư trú tại một
29
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
quốc gia thành viên; hoặc nếu họ không phải là công dân của hoặc là người cư trú tại một
quốc gia thành viên thì họ phải là người công bố lần đầu tiên tác phẩm của mình tại một
quốc gia thành viên hoặc công bố đồng thời tại một quốc gia thành viên và một quốc gia
không phải là thành viên.

Các quyền được bảo hộ

Các độc quyền được dành cho tác giả theo Công ước bao gồm quyền dịch (Điều 8), quyền
nhân bản theo cách thức hoặc hình thức bất kỳ, bao gồm cả việc ghi hình hoặc ghi âm bất
kỳ (Điều 9), quyền biểu diễn các tác phẩm kịch, nhạc kịch và tác phẩm âm nhạc (Điều
11), quyền phát sóng và truyền đến công chúng bằng phương tiện vô tuyến, phát sóng
hoặc bằng loa phóng thanh hoặc bằng phương tiện phát sóng tương tự bất kỳ khác đối với
tác phẩm (Điều 11bis), quyền diễn xướng trước công chúng (Điều ter), quyền cải biên,
phóng tác hoặc các hình thức chuyển thể khác đối với một tác phẩm (Điều 12) và quyền
làm các tác phẩm phóng tác điện ảnh và nhân bản một tác phẩm Điều 14). Cái gọi là
“droit de suite” (quyền dõi theo) được quy định tại Điều 14ter (liên quan đến bản gốc của
tác phẩm nghệ thuật hoặc các bản gốc viết tay) mang tính tuỳ chọn và chỉ được áp dụng
nếu luật pháp quốc gia của tác giả cho phép. Không phụ thuộc vào các quyền kinh tế của
tác giả, Điều 6bis quy định về “quyền nhân thân” rằng tác giả có quyền yêu cầu về địa vị
tác giả đối với tác phẩm của mình và được phản đối mọi sự xuyên tạc, cắt xén hay các
hình thức biến đổi khác hoặc các hành vi vi phạm khác đối với tác phẩm làm phương hại
tới danh dự hoặc danh tiếng của tác giả.

Các hạn chế

Như một sự đối trọng với các tiêu chuẩn bảo hộ tối thiểu, còn có những quy định
khác trong Công ước Berne hạn chế sự áp dụng nghiêm ngặt các quy tắc về độc quyền.
Công ước quy định khả năng sử dụng các tác phẩm được bảo hộ trong những trường hợp
đặc biệt mà không cần sự cho phép của chủ sở hữu bản quyền và không phải trả thù lao
cho việc sử dụng đó. Những ngoại lệ như vậy, thường được gọi là việc sử dụng tự do các
tác phẩm được bảo hộ, được quy định tại Điều 9(2) (nhân bản trong một số trường hợp
nhất định), Điều 10 (trích dẫn và sử dụng tác phẩm dưới hình thức minh hoạ cho mục
đích giảng dạy), Điều 10bis (nhân bản các bài báo hoặc các bài viết tương tự và sử dụng
tác phẩm nhằm mục đích báo cáo các sự kiện hiện thời) và Điều 11bis(3) (ghi tạm thời).
Có hai trường hợp mà Công ước Berne quy định về khả năng được cấp li-xăng cưỡng
bức— quy định tại Điều 11bis(2), đối với quyền phát sóng và truyền tới công chúng bằng
phương tiện vô tuyến, bằng việc phát sóng lại hoặc bằng việc phóng thanh hoặc phương

30
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
tiện tương tự bất kỳ khác đối với tác phẩm và Điều 13(1) đối với quyền ghi các tác phẩm
âm nhạc.

Trong phạm vi liên quan đến độc quyền dịch, Công ước Berne đưa ra một sự lựa
chọn theo đó khi gia nhập Công ước, một nước đang phát triển có thể bảo lưu theo
nguyên tắc được gọi là “nguyên tắc 10 năm” (Điều 30(2)(b)). Điều này quy định về khả
năng giảm thời hạn bảo hộ đối với độc quyền dịch; theo nguyên tắc nêu trên, quyền này
sẽ không còn tồn tại nếu tác giả không sử dụng quyền này trong vòng 10 năm kể từ ngày
công bố lần đầu tiên tác phẩm gốc dưới hình thức công bố hoặc cho công bố một bản dịch
sang ngôn ngữ được yêu cầu bảo hộ tại một trong số các nước thành viên.

Thời hạn bảo hộ

Các tiêu chuẩn bảo hộ tối thiểu được quy định tại Công ước Berne cũng liên quan
đến thời hạn bảo hộ. Điều 7 quy định một thời hạn bảo hộ tối thiểu, là toàn bộ cuộc đời
của tác giả cộng thêm 50 năm sau khi tác giả chết.

Tuy nhiên, có những ngoại lệ dành cho nguyên tắc cơ bản này đối với một số loại
hình tác phẩm nhất định. Đối với các tác phẩm điện ảnh, thời hạn này là 50 năm sau khi
tác phẩm được công khai hoá tới công chúng hoặc nếu chưa được công khai tới công
chúng thì thời hạn này là 50 năm sau khi tác phẩm được thực hiện. Đối với các tác phẩm
nhiếp ảnh và tác phẩm nghệ thuật ứng dụng, thời hạn bảo hộ tối thiểu là 25 năm kể từ khi
tác phẩm được thực hiện. (Điều 7(4)).

Phần lớn các nước trên thế giới đều quy định thời hạn bảo hộ là suốt cuộc đời tác
giả và 50 năm sau khi tác giả chết vì điều này tỏ ra là công bằng và hợp lý khi thời hạn
nên bao gồm cả cuộc đời tác giả và cuộc đời của người con của tác giả đó; quy định này
cũng nhằm tạo ra sự khích lệ cần thiết để khuyến khích sáng tạo và tạo nên sự cân bằng
hợp lý giữa lợi ích của tác giả và nhu cầu của xã hội.

Liên quan đến quyền nhân thân, thời hạn bảo hộ kéo dài ít nhất là đến khi hết hạn
quyền kinh tế .

Các nước đang phát triển và Công ước Berne

Vấn đề đặc biệt được quan tâm tại lần sửa đổi Công ước Berne gần đây nhất vẫn là
việc củng cố thêm Công ước, trong khi tiếp tục quan tâm tới những lo ngại của các nước
đang phát triển. Do đó, Văn kiện mới nhất (Văn kiện Pari 1971) của Công ước Berne
công nhận một quyền đặc biệt dành cho các nước đang phát triển. Văn kiện này quy định
31
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
rằng đối với tác phẩm chưa công bố, nếu không xác định được danh tính của tác giả
nhưng lại có cơ sở bất kỳ để cho rằng người đó là công dân của một nước thành viên của
Liên hiệp thì quyền đối với tác phẩm đó phải được công nhận ở tất cả các nước thành viên
của Liên hiệp. Bằng quy định này, Công ước Berne đã trao cho các nước đang phát triển
khả năng bảo hộ những tác phẩm nghệ thuật dân gian của mình ở nước ngoài. Vấn đề đặt
ra đối với pháp luật của nước xuất xứ của các tác phẩm như vậy là phải chỉ định cơ quan
có thẩm quyền đại diện cho tác giả vô danh để bảo hộ và thực thi các quyền của tác giả tại
các nước trong Liên hiệp. Bằng việc quy định các hoạt động của cơ quan được Nhà nước
chỉ định, Công ước Berne trao cho các nước đang phát triển, những nước mà các tác phẩm
nghệ thuật dân gian là một phần di sản của họ, khả năng bảo hộ các tác phẩm đó.

Các quy định cụ thể liên quan đến các nước đang phát triển đã được đưa vào phần
Phụ lục, một phần không tách rời của Văn kiện Pari. Phụ lục này quy định khả năng cấp
li-xăng cưỡng bức không độc quyền và không được chuyển giao đối với (i) việc dịch
nhằm mục đích phục vụ việc giảng dạy, học tập hoặc nghiên cứu và (ii) việc nhân bản để
sử dụng liên quan đến các hoạt động truyền thụ kiến thức mang tính hệ thống, các tác
phẩm được bảo hộ theo Công ước. Những li-xăng này có thể được cơ quan có thẩm quyền
của nước đang phát triển có liên quan cấp sau khi kết thúc một thời hạn nhất định và tuân
thủ các thủ tục nhất định. Họ phải quyết định việc đền bù cho chủ sở hữu quyền. Nói cách
khác, bên được cấp li-xăng cưỡng bức phải thanh toán khoản tiền bản quyền phù hợp với
các chuẩn mực về tiền bản quyền mà thông thường phải trả trong các trường hợp li-xăng
được cấp theo hợp đồng giữa các bên của hai nước liên quan. Ngoài ra, phải có các quy
định nhằm bảo đảm việc dịch đúng hoặc nhân bản chính xác tác phẩm trong phạm vi cho
phép, và phải nêu tên tác giả trên tất cả các bản sao của bản dịch và nhân bản đó. Tuy
nhiên, không được phép xuất khẩu các bản sao của bản dịch và nhân bản đã được làm ra
và công bố theo li-xăng cưỡng bức. Vì li-xăng này là li-xăng không độc quyền, chủ sở
hữu quyền tác giả được phép đưa ra thị trường các bản sao tương tự của mình, trên cơ sở
đó quyền tiếp tục làm bản sao của bên nhận li-xăng có thể sẽ chấm dứt.

Điều 9.1 Hiệp định TRIPS, có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 1995, buộc các
Thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới phải “tuân thủ các Điều từ 1 đến 21 của
Công ước Berne (1971) và Phụ lục của Công ước này”. Tuy nhiên, liên quan đến quyền
nhân thân được đề cập tại Điều 6bis Công ước Berne, Điều 9.1 Hiệp định TRIPS quy định
rằng “các Thành viên không có các quyền và nghĩa vụ theo Hiệp định này đối với các
quyền được cấp theo Điều 6bis Công ước đó hoặc các quyền được bắt nguồn từ đó”.
Ngoại lệ về quyền nhân thân này được đưa vào Hiệp định theo đòi hỏi của Hoa Kỳ vì họ
có vấn đề với khái niệm đó.

32
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
Nguyên tắc đối xử quốc gia theo Công ước Berne được chấp nhận theo Điều 3 của
Hiệp định TRIPS và Điều 2.2 Hiệp định TRIPS quy định rằng không một quy định nào
trong các phần từ I đến IV của Hiệp định này liên quan đến các nguyên tắc cơ bản, khả
năng có được, phạm vi, việc sử dụng và thực thi quyền sở hữu trí tuệ, cũng như việc đạt
được và duy trì các quyền này “ảnh hưởng đến các nghĩa vụ đang tồn tại mà các Thành
viên có thể có đối với nhau theo Công ước Berne”

Cuối cùng, các quy định về quyền tác giả của Hiệp định TRIPS mở rộng một số
quy định về nội dung của Công ước Berne. Do đó, ví dụ, Điều 10.1 quy định rằng “phần
mềm máy tính, bất kể dưới dạng mã nguồn hay mã máy, phải được bảo hộ như các tác
phẩm viết theo Công ước Berne (1971)”. Các điều khoản cụ thể khác liên quan đến quyền
cho thuê, thời hạn bảo hộ, các hạn chế và ngoại lệ và việc bảo hộ người biểu diễn, nhà sản
xuất bản ghi âm và các tổ chức phát sóng.

4. Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí
tuệ của WTO (Hiệp định TRIPS)

Sở hữu trí tuệ với danh nghĩa là một vấn đề thương mại của thế giới trước Vòng
đàm phán Uruguay

Từ cuối những năm 1970, đã tồn tại sự nhận thức ngày càng gia tăng, đặc biệt là
Hoa Kỳ, rằng việc giả mạo sản phẩm mang nhãn hiệu có ảnh hưởng lớn đến doanh số
thương mại. Năm 1979, Hoa Kỳ và Cộng đồng châu Âu đã đạt được một thoả thuận về
một bản dự thảo “Hiệp định về các biện pháp ngăn cản nhập khẩu hàng hoá giả mạo”.
Trong giai đoạn từ năm 1980 đến năm 1982, một số cuộc họp không chính thức với một
số nước công nghiệp phát triển đã cho ra đời bản dự thảo sửa đổi của Bộ luật chống hàng
giả.

Trong giai đoạn 1982-1986, một Uỷ ban chuẩn bị của GATT đã xác định các vấn
đề cần quan tâm của Vòng đàm phán GATT sắp tới. Hoa Kỳ đã đề xuất rằng Vòng đàm
phán này cần xem xét tất cả các quyền sở hữu trí tuệ và khẳng định rằng GATT là một
diễn đàn phù hợp để tìm kiếm việc thực thi quyền sở hữu trí tuệ. Các cuộc đàm phán sau
đó do các Đại sứ của Thuỵ Sĩ và Colombia chủ trì đã tìm kiếm một sự thoả hiệp giữa các
quan điểm đối nghịch về thẩm quyền pháp lý của GATT về những vấn đề này và đã đưa
ra một bản đề xuất làm cơ sở cho Tuyên bố Bộ trưởng vào ngày 20.9.1986 về việc khởi
động Vòng đàm phán Uruguay.

Vòng đàm phán Uruguay


33
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
Khi xác định các chủ đề đàm phán của Vòng đàm phán này, Tuyên bố Bộ trưởng
giải thích rằng

Để giảm bớt những lệch lạc và những trở ngại cho hoạt động thương mại quốc tế,
lưu ý tới sự cần thiết phải thúc đẩy việc bảo hộ một cách có hiệu quả và thoả đáng
các quyền sở hữu trí tuệ, và bảo đảm rằng các biện pháp và thủ tục thực thi quyền
sở hữu trí tuệ không trở thành các rào cản đối với hoạt động thương mại hợp pháp,
các cuộc đàm phán phải nhằm mục đích làm rõ các quy định của GATT và soạn
thảo kỹ lưỡng thành các quy tắc và nguyên tắc mới phù hợp.

Các cuộc đàm phán phải đạt được mục đích xây dựng một khuôn khổ đa phương
về các nguyên tắc và quy tắc liên quan đến thương mại quốc tế trong lĩnh vực hàng
giả, trong đó có tính đến các hoạt động đã được thực hiện trong khuôn khổ GATT.

Kế hoạch đàm phán được lập ra theo Quyết định ngày 28 tháng 1 năm 1987 với
tiêu đề “Các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ, kể cả buôn bán
hàng giả”, đã xác định rằng giai đoạn khởi động của quá trình đàm phán cần giải quyết
vấn đề thu thập các tài liệu thực tế có liên quan và đệ trình các văn kiện của các bên có
quan tâm. Đáp lại đề xuất này, ngày 19 tháng 10 năm 1987, Cơ quan Đại diện Thương
mại Hoa Kỳ tại Geneva đã đệ trình một đề xuất mang tính nội dung về việc cấm buôn
bán các hàng hoá xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ bằng việc thực hiện các biện pháp kiểm
soát hải quan và thông qua việc ban hành và thực hiện các chuẩn mực pháp lý đối với việc
bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ.

Các cuộc đàm phán sau đó của Vòng đàm phán bị đình lại và gần như là thất bại
do sự bế tắc trong các chính sách về nông nghiệp. Trước khi rà soát giữa kỳ dự kiến vào
tháng 12 năm 1988, thoả thuận đã đạt được hoặc gần với 11 lĩnh vực đang đàm phán
khác. Một ngoại lệ đối với thoả thuận về hàng loạt vấn đề này là sở hữu trí tuệ, khi dưới
sự đứng đầu của Ấn Độ và Braxin, các nước đang phát triển tiếp tục nêu vấn đề về sự phù
hợp của sở hữu trí tuệ với GATT, đặc biệt là do sự tồn tại của WIPO.

Một yếu tố then chốt trong sự thành công cuối cùng của việc đưa Hiệp định TRIPS
và GATT là sự sẵn sàng của Hoa Kỳ trong việc xác định các mục tiêu đàm phán của họ
thông qua pháp luật thương mại trong nước. Sự bế tắc ở GATT đã dẫn đến việc năm 1984
Hoa Kỳ sửa đổi điều khoản 301 của Luật Thương mại năm 1974, cho phép Tổng thống
tìm kiếm các biện pháp loại bỏ các hoạt động thương mại “không thể biện minh hoặc
không hợp lý”. Đạo luật thuế quan và thương mại năm 1984 đã quy định một cách rõ ràng

34
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
về khả năng khởi kiện về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ theo điều khoản 301, theo đó yêu
cầu hoạt động rà soát hằng năm của Đại diện Thương mại Hoa Kỳ (USTR) về các hoạt
động sở hữu trí tuệ của các đối tác thương mại của Hoa Kỳ. USTR được yêu cầu phải xác
định “các nước bị để ý hàng đầu” (“priority foreign countries”), là những nước từ chối
“bảo hộ đầy đủ và thoả đáng quyền sở hữu trí tuệ” hoặc những nước “từ chối quyền tiếp
cận thị trường công bằng và hợp lý” đối với các thương nhân Hoa Kỳ. USTR còn có
nghĩa vụ xếp các nước này vào danh sách “watch list” hoặc “priority watch list” để tiến
hành điều tra nhanh (fast track investigation) và sau đó tiến hành các biện pháp trả đũa
thương mại dưới hình thức tăng thuế nhập khẩu hoặc hạn chế nhập khẩu. Điều khoản đặc
biệt 301 được gắn mục đích rõ ràng là một sự bổ sung cho chiến lược đàm phán về TRIPS
của Hoa Kỳ.

Phiên Rà soát giữa kỳ được tổ chức tại Montreal vào cuối năm 1988 chỉ mang lại
một sự đồng thuận nhỏ về quan điểm của các nhóm nước công nghiệp hoá và các nước
đang phát triển. Tuy nhiên, một sự đột phá mang tính quyết định đã đạt được tại cuộc họp
vào tháng 4 năm 1989 của Uỷ ban Đàm phán Thương mại, theo đó một Thoả thuận khung
về phương hướng đàm phán tiếp theo về quyền sở hữu trí tuệ đã được dàn xếp. Thoả
thuận khung này bao gồm việc chấp nhận (i) khả năng áp dụng những nguyên tắc cơ bản
của GATT và các thoả thuận và công ước về sở hữu trí tuệ có liên quan; (b) quy định các
chuẩn mực và nguyên tắc thoả đáng liên quan đến khả năng có được, phạm vi và việc sử
dụng các quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại; (c) quy định các biện pháp có
hiệu quả để thực thi các quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại; và quy định các
thủ tục có hiệu quả và phù hợp để ngăn ngừa và giải quyết các tranh chấp giữa các chính
phủ, trong đó có khả năng áp dụng các thủ tục của GATT.

Trong năm 1989, nhóm đàm phán về TRIPS đã nhận được các văn bản đệ trình từ
một số nước và vào đầu năm 1990 số văn bản này đã giảm xuống con số 5. Các văn bản
được đệ trình bởi Cộng đồng châu Âu, Nhật Bản, Thuỵ Sĩ và Hoa Kỳ và một văn bản
được đề xuất bởi một nhóm các nước đang phát triển. Các phiên bản tiếp theo trong năm
1990 đã được tập hợp trong bản Dự thảo Hiệp định TRIPS đệ trình ngày 22 tháng 11 năm
1990 cho Hội nghị Bộ trưởng dự kiến họp ở Brussel ngày 3 tháng 12 năm 1990. Vẫn tồn
tại một số khác biệt về một số vấn đề cụ thể liên quan đến các nguyên tắc của luật sáng
chế và luật bản quyền, cũng như những vấn đề quan trọng hơn liên quan đến việc đưa sở
hữu trí tuệ vào GATT và khả năng áp dụng các thủ tục giải quyết tranh chấp cho sở hữu
trí tuệ. Tại bất kỳ sự kiện nào, các mối lo ngại này đều bị bỏ qua do hội nghị Brussel sụp
đổ vì bế tắc trong vấn đề nông nghiệp.

35
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
Vòng đàm phán Uruguay đã được khởi động vào năm sau đó, với những nỗ lực
phối hợp của Tổng giám đốc GATT để xác định các vấn đề cần có giải pháp. Nhóm đàm
phán về TRIPS đã nhận được các dự thảo văn kiện tiếp theo trong năm 1991 và vào tháng
11 năm 1991, Tổng giám đốc Arthur Dunkel đã đưa ra một bản báo cáo về tiến trình trong
đó xác định 20 vấn đề về sở hữu trí tuệ cần phải có giải pháp. Với một sự tiến triển ấn
tượng trong thời gian sau đó, Tổng giám đốc GATT đã nỗ lực thúc đẩy kết thúc Vòng
đàm phán Uruguay bằng việc đệ trình một bản dự thảo Văn bản cuối cùng kèm theo các
Kết quả của Vòng đàm phán Thương mại đa phương Uruguay, bao gồm một văn kiện
TRIPS mới trong đó cố gắng giải quyết những khó khăn còn tồn tại bằng việc đề xuất
phương án thoả hiệp.

Các cuộc đàm phán đã được khởi động lại tại Geneva cuối năm 1992 sau khi có
giải pháp cho những bất đồng giữa Cộng đồng châu Âu và Hoa Kỳ về các chính sách
nông nghiệp và cả Ấn Độ và Hoa Kỳ đều đề xuất các bản sửa đổi cho bản dự thảo của
Tổng giám đốc Dunkel. Kết cục là bản dự thảo cuối của Hiệp định TRIPS, được thông
qua khi Vòng Uruguay kết thúc tại Hội nghị Bộ trưởng ở Marrakesh ngày 12 đến 15
tháng 4 năm 1994, rất giống với bản Dự thảo của Tổng giám đốc Dunkel cả về hình thức
và nội dung.

Thi hành và Rà soát

Giới thiệu

Hiệp định TRIPS có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 1995. Các bên tham gia đàm
phán nhận thức rõ rằng nhu cầu cấp thiết về việc đàm phán dẫn tới sự ra đời của một văn
bản mà cần có những sửa đổi và hoàn thiện tiếp theo và rằng việc thi hành nhanh hay
chậm phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế của mỗi nước. Do đó, gắn liền với Hiệp
định TRIPS cần phải có một lịch trình sửa đổi áp dụng đối với một số quy định cụ thể về
nội dung; chỉ dẫn địa lý (Điều 23.4); khả năng cấp bằng độc quyền sáng chế cho các sáng
chế về sinh học (Điều 27.3.b); và các trường hợp “không vi phạm” (Điều 64). Ngoài ra,
Điều 71 yêu cầu Hội đồng TRIPS phải rà soát việc thi hành Hiệp định sau khi kết thúc
thời hạn 5 năm kể từ ngày Hiệp định bắt đầu có hiệu lực và sau đó cứ hai năm một lần.

Các thành viên WTO là nước phát triển có nghĩa vụ theo Điều 65(1) Hiệp định
TRIPS phải thi hành các quy định này trong vòng một năm kể từ khi Hiệp định có hiệu
lực, tức là cho đến ngày 31 tháng 12 năm 1995. Các thành viên là nước đang phát triển
được dành thêm thời gian ân hạn 4 năm theo Điều 65(2).

36
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
Một số nước đang phát triển đã chỉ ra rằng giai đoạn 5 năm chuyển tiếp cho việc
thi hành được quy định theo Điều 65.2 là không đủ để thực hiện các nhiệm vụ hành chính
phức tạp và tốn kém theo Hiệp định TRIPS, chẳng hạn việc hiện đại hoá cơ sở hạ tầng
hành chính của họ (các cơ quan sở hữu trí tuệ và hệ thống cơ quan hải quan, xét xử), cũng
như việc ban hành các luật sở hữu trí tuệ mới. Vì vậy, các nước này muốn được kéo dài
thời hạn chuyển tiếp dành cho các nước đang phát triển.

Vấn đề này đã được Hội đồng TRIPS bàn đến và được đề cập trong các thông báo
của các nước gửi cho WTO trước Hội nghị Bộ trưởng Seattle được tổ chức vào tháng 11
năm 1999. Mặc dù hội nghị Seattle đã bị huỷ bỏ, mối quan tâm của các nước đang phát
triển trong việc tìm kiếm sự sửa đổi các quy tắc của Hiệp định TRIPS vẫn được nhắc lại
tại Hội nghị Bộ trưởng Doha được tổ chức vào tháng 11 năm 2001.

Khoản 18 và 19 Tuyên bố Bộ trưởng được đưa ra tại Doha tuyên bố:

18. Nhằm hoàn thành công việc đã được bắt đầu tại Hội đồng về các khía cạnh liên
quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (Hội đồng TRIPS) đối với việc thực hiện
Điều 23.4, chúng tôi nhất trí đàm phán về việc thiết lập một hệ thống đa phương thông
báo và đăng ký chỉ dẫn địa lý của rượu vang và rượu mạnh tại Phiên họp thứ 5 của Hội
nghị Bộ trưởng. Chúng tôi ghi nhận rằng các vấn đề liên quan tới việc mở rộng sự bảo
hộ chỉ dẫn địa lý được quy định tại Điều 23 liên quan đến các sản phẩm khác không kể
rượu vang và rượu mạnh sẽ được giải quyết tại Hội đồng TRIPS theo khoản 12 của
Tuyên bố này.

19. Chúng tôi chỉ thị cho Hội đồng TRIPS, trong khi thực hiện chương trình làm việc
trong đó có việc rà soát Điều 27.3.b, rà soát việc thực hiện Hiệp định TRIPS theo Điều
71.1 và những vấn đề dự kiến quy định trong khoản 12 của Tuyên bố này, phải xem
xét, không kể những lĩnh vực khác, quan hệ giữa Hiệp định TRIPS và Công ước về Đa
dạng sinh học, bảo vệ tri thức truyền thống và văn hoá dân gian cũng như những diễn
biến mới liên quan khác được các nước thành viên nêu ra theo Điều 71.1. Để thực hiện
nhiệm vụ này, Hội đồng TRIPS phải tuân thủ các mục tiêu và nguyên tắc được quy
định tại Điều 7 và Điều 8 của Hiệp định TRIPS và phải cân nhắc một cách đầy đủ đến
quy mô phát triển.”

Cả hai chủ đề nêu tại khoản 18 và khoản 19 của Tuyên bố Doha đều thuộc lịch trình rà
soát lại Hiệp định TRIPS.

Thực tiễn thi hành Hiệp định TRIPS


37
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
Cấp độ quốc gia

Các nước đã trở thành thành viên WTO có nghĩa vụ sửa đổi hệ thống pháp luật về
sở hữu trí tuệ của mình cho phù hợp với Hiệp định TRIPS và đưa vào áp dụng các cơ chế
thực thi được quy định trong Hiệp định. Kết quả của việc này là sự hài hoà hoá quốc tế về
các tiêu chuẩn bảo hộ pháp lý và việc thực thi quyền sở hữu trí tuệ.

Tuy nhiên, cần lưu ý rằng Hiệp định TRIPS không phải là một tập hợp đầy đủ các
chuẩn mực về sở hữu trí tuệ mà đơn giản chỉ quy định những tiêu chuẩn tối thiểu trong
một số lĩnh vực then chốt. Hiệp định dành một số khả năng linh hoạt và một số lĩnh vực
quan trọng của việc thực hiện quyền sở hữu trí tuệ để các chính phủ quốc gia điều chỉnh.
Những vấn đề này bao gồm các phương thức được sử dụng để thực hiện các nghĩa vụ theo
Hiệp định TRIPS (ví dụ, lựa chọn hệ thống riêng cho việc bảo hộ giống cây trồng; nội
dung các ngoại lệ hạn chế đối với bản quyền, quyền đối với sáng chế, kiểu dáng và nhãn
hiệu (ví dụ, việc sao chép hạn chế nhằm mục đích giáo dục); lựa chọn hệ thống đăng ký
hoặc hệ thống không yêu cầu về hình thức (ví dụ đối với thiết kế bố trí mạch tích hợp); và
thiết lập các tiêu chuẩn vượt quá tiêu chuẩn tối thiểu của Hiệp định TRIPS, còn được gọi
là “TRIPS cộng”),

Ngoài ra, trong chừng mực nào đó, vai trò hài hoà hoá của Hiệp định TRIPS còn bị
suy yếu bởi các thoả thuận song phương về sở hữu trí tuệ, những thoả thuận áp đặt một số
tiêu chuẩn cao hơn Hiệp định TRIPS. Ví dụ, EU và Hoa Kỳ đã ký kết một số hiệp định
thương mại tự do trong đó có thay đổi các tiêu chuẩn của TRIPS. Một vấn đề khác cần
phải được giải quyết là phạm vi mà các tiêu chuẩn này được mở rộng đến các bên ký kết
Hiệp định TRIPS thông qua nguyên tắc đối xử tối huệ quốc được quy định tại Điều 4.

Cấp độ khu vực

Một số thoả thuận khu vực về sở hữu trí tuệ quy định việc chấp nhận và thực hiện
Hiệp định TRIPS và các tiêu chuẩn của Hiệp định TRIPS. Ví dụ, Hiệp định khung của
ASEAN về sở hữu trí tuệ và Hiệp định của APEC đề cập một cách rõ ràng đến việc thi
hành các tiêu chuẩn của Hiệp định TRIPS. Hiệp định NAFTA có từ trước nhưng cũng có
nhiều nội dung tương tự như Hiệp định TRIPS. Tương tự, các Chỉ thị khác nhau của EU
về sở hữu trí tuệ, ví dụ Chỉ thị về nhãn hiệu năm 1994, cũng có những quy định phản ánh
nội dung của Hiệp định TRIPS và vì vậy nó ràng buộc các Nước thành viên thi hành các
tiêu chuẩn của Hiệp định TRIPS.

Thực thi quyền theo Hiệp định TRIPS


38
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
Việc thi hành có ý nghĩa quan trọng trên thực tế đối với Hiệp định TRIPS nằm ở
các quy định về thực thi, theo đó hàng loạt các chế tài về thực thi được quy định cho các
chủ thể quyền sở hữu trí tuệ. Các Điều từ 41 đến 50 yêu cầu các thành viên WTO quy
định đầy đủ các thủ tục và chế tài thực thi dân sự. Các Điều từ 51 đến 60 buộc các thành
viên WTO quy định các thủ tục kiểm soát biên giới cho phép áp dụng các thủ tục hải quan
để ngăn chặn việc nhập khẩu hàng hoá giả mạo nhãn hiệu và hàng sao chép lậu. Các công
ước quốc tế về sở hữu trí tuệ trước đây không quan tâm đến vấn đề thực thi dân sự. Giờ
đây, các chủ thể quyền có thể đòi hỏi các nước quy định các thủ tục để họ có thể thực thi
quyền của mình.

(a) Thực thi bằng biện pháp dân sự

Điều 42 yêu cầu rằng các thủ tục thực thi phải đúng đắn và công bằng theo đó bị
đơn phải có quyền được “thông báo bằng văn bản một cách kịp thời và chi tiết, trong đó
nêu cả căn cứ của các yêu cầu”. Điều 42 cũng yêu cầu về việc cho phép sự hiện diện của
cố vấn pháp luật độc lập. Các bên tham gia thủ tục đó “phải có quyền biện minh cho yêu
cầu của mình và có quyền đưa ra mọi chứng cứ thích hợp”, các thủ tục không được yêu
cầu “quá mức việc đương sự buộc phải có mặt tại toà”.

Tương tự như thông lệ trong các thủ tục dân sự ở hầu hết các nước, Điều 43.1 quy
định các thủ tục liên quan đến việc phát hiện và quản lý lời khai, khi một bên “đã đưa ra
chứng cứ có thể có được một cách hợp lý đủ để biện minh cho những yêu cầu của mình
và đã chỉ ra chứng cứ thích hợp để biện minh cho các yêu cầu đó của mình nhưng nằm
dưới sự kiểm soát của bên kia”. Điều 43.2 cho phép các Thành viên cho các cơ quan xét
xử được “quyền ra quyết định tạm thời và quyết định cuối cùng, khẳng định hoặc phủ
định, dựa trên cơ sở những thông tin được đệ trình”. Điều này bao gồm cả “đơn tố cáo
hoặc đơn kiện của bên chịu bất lợi vì bị từ chối không được tiếp cận thông tin”.

Điều 50.1 quy định rằng các cơ quan xét xử phải có quyền “ra lệnh áp dụng các
biện pháp tạm thời khẩn cấp và hữu hiệu: “b) để bảo toàn các chứng cứ liên quan đến
hành vi bị khiếu kiện là xâm phạm quyền”. Theo như lệnh Anton Piller, Điều 50.2 cho
phép các cơ quan xét xử được “ra lệnh áp dụng các biện pháp tạm thời theo yêu cầu của
một bên, nếu phù hợp, … khi có thể thấy rằng chứng cứ đang có nguy cơ bị thủ tiêu”.
Ngoài ra, cơ quan xét xử có thể có quyền theo Điều 50.3 “yêu cầu nguyên đơn cung cấp
chứng cứ bất kỳ có thể có được một cách hợp lý, đủ sức thuyết phục rằng nguyên đơn là
chủ thể quyền” và rằng hành vi xâm phạm đã xảy ra hoặc có nguy cơ xảy ra. Hơn nữa,
Điều 50.5 quy định rằng để hỗ trợ cơ quan có thẩm quyền sẽ thực thi biện pháp tạm thời,
39
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
“nguyên đơn có thể được yêu cầu cung cấp thông tin khác cần thiết cho việc xác định
hàng hoá có liên quan”.

Điều 44 cho phép dành cho các cơ quan xét xử quyền “ra lệnh cho một bên chấm
dứt hành vi xâm phạm nhằm, ngoài các mục đích khác, ngăn chặn hàng hoá nhập khẩu
xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ vào lưu thông trong các kênh thương mại nằm trong lãnh
thổ của mình”

Điều 45.1 quy định rằng các cơ quan xét xử phải có quyền ra lệnh “buộc người
xâm phạm phải trả cho chủ thể quyền khoản đền bù thoả đáng để bồi thường cho những
thiệt hại mà chủ thể quyền sở hữu trí tuệ đã phải gánh chịu do hành vi xâm phạm của
người thực hiện hành vi xâm phạm quyền khi đã biết hoặc có cơ sở để biết điều đó.”

Nhằm ngăn chặn một cách hữu hiệu hành vi xâm phạm quyền, Điều 46 cho phép
các thành viên quy định thẩm quyền cho các cơ quan xét xử “để ra lệnh, mà không có bồi
thường dưới hình thức bất kỳ, buộc những hàng hoá xâm phạm quyền do các cơ quan đó
phát hiện phải bị xử lý bên ngoài các kênh thương mại theo cách thức tránh gây thiệt hại
bất kỳ cho chủ thể quyền”. Nếu hiến pháp hiện hành có quy định thì hàng hoá xâm phạm
quyền có thể bị tiêu huỷ. Một thẩm quyền bổ sung được quy định cho các cơ quan xét xử
là thẩm quyền “ra lệnh buộc xử lý các vật liệu và phương tiện được sử dụng chủ yếu để
sản xuất hàng hoá xâm phạm quyền bên ngoài các các kênh thương mại theo cách thức
nhằm giảm đến mức tối thiểu nguy cơ tiếp diễn hành vi xâm phạm quyền”. Khi xem xét
các yêu cầu xử lý hoặc tiêu huỷ hàng hoá xâm phạm quyền và phương tiện được sử dụng
để sản xuất hàng hoá xâm phạm quyền, các cơ quan xét xử phải chú ý đến “sự cần thiết
phải có tính tương xứng giữa các biện pháp chế tài và mức độ nghiêm trọng của hành vi
xâm phạm quyền cũng như phải chú ý đến lợi ích của các bên thứ ba.” Đối với hàng hoá
giả mạo nhãn hiệu, Điều 46 quy định rằng “trừ những trường hợp ngoại lệ, việc đơn thuần
loại bỏ nhãn hiệu gắn trên hàng hoá một cách bất hợp pháp không đủ để cho phép hàng
hoá đó được đưa vào lưu thông trong các kênh thương mại”.

Một sự phát triển đặc biệt hữu ích là thẩm quyền được quy định theo Điều 47 “để
ra lệnh buộc người xâm phạm phải thông tin cho chủ thể quyền biết về những người tham
gia vào việc sản xuất và phân phối hàng hoá hoặc dịch vụ xâm phạm quyền và về các
kênh phân phối của những người đó”. Điều 47 khuyến nghị không thực hiện thẩm quyền
này trong trường hợp điều đó là “không tương xứng với mức độ nghiêm trọng của hành vi
xâm phạm quyền”.

40
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
Trong trường hợp “các biện pháp thực thi bị lạm dụng”, Điều 48.1 quy định rằng
các cơ quan xét xử phải có quyền ra lệnh buộc bên “đã đưa ra yêu cầu thực hiện các biện
pháp chế tài” phải “bồi thường một cách thoả đáng cho những thiệt hại do sự lạm dụng đó
gây ra” cho bên đã bị áp dụng các biện pháp đó hoặc bị hạn chế một cách sai trái. Điều
48.1 cũng quy định rằng nguyên đơn phải trả cho bị đơn “các khoản chi phí đại diện thích
hợp”.

(b) Các chế tài hình sự

Điều 61 quy định rằng các Thành viên phải quy định các thủ tục và hình phạt hình
sự “để áp dụng ít nhất đối với các trường hợp cố ý giả mạo nhãn hiệu hoặc sao chép lậu
với quy mô thương mại”. Các hình phạt hình sự được liệt kê tại Điều này là: “phạt tù
và/hoặc phạt tiền đủ để ngăn ngừa hành vi xâm phạm quyền, tương ứng với mức phạt
được áp dụng cho các tội phạm có mức độ nghiêm trọng tương đương”. Ngoài ra, trong
những trường hợp thích hợp, Điều 61 quy định về việc “bắt giữ, tịch thu và tiêu huỷ hàng
hoá xâm phạm quyền và vật liệu và các phương tiện bất kỳ chủ yếu được sử dụng để thực
hiện hành vi phạm tội”. Điều 61 cũng quy định các thủ tục và chế tài hình sự được áp
dụng trong các trường hợp xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ khác, “đặc biệt là trường hợp
cố ý xâm phạm và xâm phạm với quy mô thương mại”.

(c) Các biện pháp kiểm soát biên giới

Một sự đổi mới quan trọng của Hiệp định TRIPS là việc các thành viên WTO phải
quy định và thi hành các biện pháp kiểm soát biên giới để bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ.
Trên cơ sở mối quan ngại về hoạt động thương mại hàng giả mạo và hàng sao chép lậu đã
thúc đẩy sự quan tâm của GATT đến vấn đề bảo hộ sở hữu trí tuệ, có lẽ mọi người đều
cho rằng các kiến trúc sư soạn thảo Hiệp định TRIPS sẽ trông cậy vào sự hỗ trợ của các
cơ quan hải quan để ngăn chặn hoạt động thương mại này. Mục 4 Phần III thiết lập một
cơ chế đình chỉ việc đưa vào lưu thông hàng hoá bị nghi ngờ là giả mạo nhãn hiệu hoặc
hàng hoá sao chép lậu. Việc đình chỉ thông quan có thể được thực hiện trên cơ sở đơn yêu
cầu của chủ thể quyền hoặc do các cơ quan kiểm soát biên giới chủ động thực hiện.

Điều 51 yêu cầu các Thành viên phải

ban hành và thực hiện các thủ tục cho phép chủ thể quyền, khi có những căn cứ
hợp lý để nghi ngờ rằng việc nhập khẩu các hàng hoá mang nhãn hiệu giả mạo
hoặc hàng hoá sao chép lậu có thể xảy ra, được đệ đơn cho các cơ quan hành chính

41
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
hoặc cơ quan xét xử có thẩm quyền yêu cầu các cơ quan hải quan đình chỉ thông
quan để ngăn chặn hàng hoá đó vào lưu thông tự do.

Theo như chú thích của quy định này, thuật ngữ “hàng hoá giả mạo nhãn hiệu”
được định nghĩa là “hàng hoá bất kỳ, kể cả bao bì, mang nhãn hiệu trùng với nhãn hiệu đã
được đăng ký hợp pháp cho hàng hoá đó hoặc không thể phân biệt với nhãn hiệu đó về
những khía cạnh cơ bản, mà không được phép và do vậy xâm phạm quyền của chủ sở hữu
nhãn hiệu đó theo luật của nước nhập khẩu”. Thuật ngữ “hàng hóa sao chép lậu” được
định nghĩa là “hàng hoá bất kỳ là bản sao được làm ra mà không có sự đồng ý của người
nắm giữ quyền hoặc người được phép của người nắm giữ quyền ở nước sản xuất, và hàng
hoá đó được làm ra trực tiếp hoặc gián tiếp từ một sản phẩm mà việc làm ra bản sao sản
phẩm đó cấu thành hành vi xâm phạm quyền tác giả hoặc quyền liên quan theo luật của
nước nhập khẩu.”

Ngoài việc đình chỉ thông quan hàng hoá bị nghi ngờ giả mạo nhãn hiệu hoặc hàng
hoá sao chép lậu, Điều 51 còn quy định rằng biện pháp đình chỉ thông quan cũng có thể
được áp dụng đối với hành vi xâm phạm các quyền sở hữu trí tuệ khác.

Một sự đổi mới đặc biệt hữu ích trong quy định về kiểm soát biên giới là thẩm
quyền được trao theo Điều 57 cho phép các Thành viên quy định cho các cơ quan có thẩm
quyền, đối với vụ việc được phán quyết thuận theo yêu cầu của chủ thể quyền, quyền
thông báo cho chủ thể quyền biết về “tên và địa chỉ của người gửi hàng, người nhập khẩu
và người nhập khẩu theo uỷ thác và về số lượng của hàng hoá đó”. Điều này sẽ hỗ trợ một
cách rõ ràng cho chủ thể quyền trong việc tiếp tục điều tra để phát hiện ra những người
khác có liên quan đến hàng giả mạo và hàng sao chép lậu.

Điều 58 dự tính rằng các Thành viên có thể cho phép các cơ quan có thẩm quyền
chủ động hành động trong việc đình chỉ thông quan hàng hoá nếu họ có được những
chứng cứ hiển nhiên về sự xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ. Trong những tình huống như
vậy, Điều này cho phép các cơ quan có thẩm quyền được “yêu cầu chủ thể quyền cung
cấp những thông tin có thể giúp họ thực hiện quyền lực đó”

Thi hành các tiêu chuẩn của Hiệp định TRIPS

Hiệp định TRIPS buộc các Nước thành viên phải ban hành pháp luật về sở hữu trí
tuệ tuân thủ các tiêu chuẩn tối thiểu được quy định trong Hiệp định. Vì Hiệp định liên
quan đến một số tiêu chuẩn được đề cập trong các điều ước về sở hữu trí tuệ đã tồn tại từ
trước, ví dụ Công ước Pari, Công ước Berne và Công ước Rome, do vậy vấn đề thi hành

42
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
các tiêu chuẩn của Hiệp định TRIPS không phải là vấn đề quá khó khăn đối với hầu hết
các nước. Sau đây là những lĩnh vực mà có thể yêu cầu phải có quy định pháp luật mới để
điều chỉnh.

Nhãn hiệu

Các yêu cầu của Hiệp định TRIPS thường sẽ đòi hỏi các nước thành viên phải mở
rộng việc kiểm tra khả năng được đăng ký của nhãn hiệu, chấp nhận chế độ kiểm tra của
Hiệp định TRIPS về “có khả năng phân biệt” bổ sung cho khả năng tự phân biệt. Với một
số nước, định nghĩa về dấu hiệu có khả năng đăng ký của Hiệp định TRIPS là một lĩnh
vực then chốt của việc sửa đổi pháp luật trong nước vì đã có sự thừa nhận rộng rãi rằng
thị trường đã mở rộng đến mức định nghĩa trước đây về “nhãn hiệu” không thể hiện đầy
đủ phạm vi các dấu hiệu phân biệt được sử dụng trong thương mại. Hiệp định TRIPS đã
đưa ra một điểm phân biệt rất hữu ích giữa bản thân một nhãn hiệu với các dấu hiệu hoặc
sự kết hợp của các dấu hiệu có thể tạo thành một nhãn hiệu. Hiệp định TRIPS cũng chứa
đựng một tiêu chí hữu ích về khả năng nhìn thấy được bằng mắt thường đối với các dấu
hiệu có khả năng đăng ký mà có thể bao gồm các khía cạnh của bao bì, hình dạng sản
phẩm, màu sắc, âm thanh hoặc mùi vị.

Hiệp định TRIPS tiếp tục áp dụng các tiêu chuẩn cụ thể cho việc bảo hộ nhãn hiệu nổi
tiếng được quy định tại Công ước Pari và làm rõ cũng như bổ sung các quy định này, cụ
thể là

o bằng việc mở rộng việc bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng cho các dịch vụ,

o bằng việc quy định rằng bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng áp dụng cho các hành vi sử
dụng liên quan đến các hàng hoá hoặc dịch vụ không liên quan đến hàng hoá hoặc
dịch vụ đã đăng ký, với điều kiện việc sử dụng nhãn hiệu như vậy có thể biểu thị
một mối quan hệ với chủ sở hữu nhãn hiệu và lợi ích của chủ sở hữu có thể bị thiệt
hại.

o bằng việc yêu cầu rằng trong quá trình xác định một nhãn hiệu có nổi tiếng hay
không, phải tính đến sự biết đến nhãn hiệu của bộ phận công chúng có liên quan,
trong đó có việc biết đến nhãn hiệu do kết quả của hoạt động quảng cáo nhãn hiệu.

Sáng chế

Đối với hầu hết các nước phát triển, các nghĩa vụ liên quan đến sáng chế của Hiệp
định TRIPS chủ yếu đòi hỏi:
43
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
o kéo dài thời hạn bảo hộ sáng chế chuẩn lên 20 năm

o chuyển nghĩa vụ chứng minh trong các vụ xâm phạm độc quyền đối với sáng chế
về quy trình, với điều kiện toà án phải tính đến các lợi ích hợp pháp của bị đơn
trong việc bảo vệ bí mật kinh doanh và bí mật sản xuất

o áp dụng các quy định của Điều 31 về li-xăng cưỡng bức, đặc biệt yêu cầu đối với
toà án trong việc xác định người nộp đơn yêu cầu cấp li-xăng cưỡng bức đã nỗ lực
trong một thời hạn hợp lý để được chủ sở hữu bằng độc quyền sáng chế cho phép
khai thác sáng chế với những điều khoản và điều kiện hợp lý.

Đối với một số nước đang phát triển, việc mở rộng phạm vi bảo hộ tới các quy trình
cũng như các sản phẩm đòi hỏi những thay đổi đáng kể về luật pháp.

Bằng độc quyền sáng chế, Quyền đối với giống cây trồng và sáng chế về công nghệ
sinh học

Điều 27.3(b) Hiệp định TRIPS yêu cầu rằng “các Thành viên phải bảo hộ giống
cây trồng hoặc theo bằng độc quyền sáng chế hoặc theo một hệ thống riêng hữu hiệu hoặc
theo hệ thống kết hợp cả hai”. Điều này cũng quy định rằng “các quy định của khoản này
phải được rà soát lại sau 4 năm kể từ ngày Hiệp định WTO bắt đầu có hiệu lực”. Theo sự
rà soát được bắt đầu vào năm 1999, đã có một sự tranh cãi sôi nổi về nội dung của các hệ
thống riêng có thể tuân thủ Điều 27.3(b).

Vì không có quy định nào của Hiệp định TRIPS dẫn chiếu đến Công ước quốc tế
về bảo hộ giống cây trồng mới (Công ước UPOV), cần cân nhắc đến sự chậm trễ trong
việc thiết lập một hệ thống riêng. Hơn nữa, các yếu tố then chốt cho việc phát triển hệ
thống riêng là không rõ ràng hoặc không được xác định. Trước hết, có thể có nhiều cách
thức xác định thuật ngữ giống cây trồng. Để được bảo hộ theo hệ thống quyền của nhà tạo
giống cây trồng truyền thống (PBR), giống cây trồng phải đáp ứng tiêu chuẩn về tính
khác biệt, tính đồng nhất và tính ổn định (DUS). Có ý kiến đề xuất rằng “tính đồng nhất”
và “tính ổn định” có thể được thay thế bằng tiêu chuẩn về khả năng nhận dạng, cho phép
gộp các quần thể cây trồng mà không đồng nhất hơn, nhờ vậy quan tâm được đến lợi ích
của các cộng đồng bản địa. Phạm vi bảo hộ có thể chỉ giới hạn ở các bộ phận nhân giống
của cây hoặc có thể được mở rộng để bao gồm cả các vật liệu thu hoạch.

44
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
Thứ hai, Hiệp định TRIPS không cấm phát triển các hệ thống bảo hộ bổ sung, cũng
không cấm bảo hộ đối tượng bổ sung để bảo vệ các hệ thống tri thức bản địa và các đổi
mới không chính thống, cũng như để ngăn ngừa sự chiếm đoạt bất hợp pháp.

Việc soạn thảo và thông qua Hiệp định TRIPS ban đầu về cơ bản không có sự
tham gia tích cực của các nước đang phát triển. Quan điểm đàm phán chính của các nước
đang phát triển trong suốt Vòng Uruguay là vấn đề về sự phù hợp của sở hữu trí tuệ với
GATT, đặc biệt là vì WIPO đã được thành lập với tư cách là một cơ quan chuyên môn về
sở hữu trí tuệ của Liên hợp quốc. Sự không tham gia của các nước đang phát triển trong
việc giải quyết các nội dung của Hiệp định TRIPS trong Vòng đàm phán Uruguay đã
được khắc phục bằng việc tham gia tích cực của họ trong tiến trình rà soát. Hàng loạt các
nhóm nước đang phát triển theo khu vực đã tổ chức các cuộc họp để thoả thuận với nhau
về quan điểm đàm phán chung đối với việc rà soát Hiệp định TRIPS cũng như Công ước
về đa dạng sinh học.

Một Thông báo do Kenya gửi WTO thay mặt cho Nhóm châu Phi hỗ trợ các nội
dung chuẩn bị cho Hội nghị Bộ trưởng năm 1999 đã chỉ ra rằng vì hạn chót để các nước
đang phát triển thực hiện các nghĩa vụ của Hiệp định TRIPS là tháng 1 năm 2000 nên việc
rà soát sẽ được thực hiện trước khi các nước đang phát triển thực thi nghĩa vụ của mình.
Vì các nước đang phát triển có thể không có đủ kinh nghiệm về sự vận hành của Hiệp
định nên họ có thể không có cơ hội từ trước để tiến hành các nghiên cứu đánh giá tác
động của việc thực hiện Hiệp định này.

Hơn nữa, Thông báo này cũng chỉ ra rằng việc rà soát cần lường trước tác động
của các tranh cãi tại những diễn đàn có liên quan khác như CBD, UPOV, FAO, Thoả
thuận quốc tế về các nguồn gen thực vật (International Undertaking on Plant Genetic
Resources) và sự phát triển luật mẫu của OAU về quyền của cộng đồng và kiểm soát việc
tiếp cận nguồn sinh học. Các nước đang phát triển cũng đề xuất cho phép kéo dài thêm 5
năm trước khi rà soát Điều 27.3(b).

Nhóm các nước châu Phi đã đề xuất rằng “sau câu về bảo hộ giống cây trồng nêu
trong Điều 27.3(b), cần chèn vào một chú thích tuyên bố rằng luật riêng bất kỳ về bảo hộ
giống cây trồng đều có thể quy định:

(i) việc bảo hộ các kết quả đổi mới của các cộng đồng nông dân bản địa và địa
phương, phù hợp với Công ước về đa dạng sinh học và Thoả thuận quốc tế về
nguồn gen thực vật;

45
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
(ii) sự tiếp tục của các thực tiễn nông nghiệp truyền thống, trong đó có quyền giữ
lại, trao đổi và giữ hạt giống và bán sản phẩm thu hoạch;

(iii) ngăn cản quyền hoặc thực tiễn phản cạnh tranh, những hoạt động sẽ đe doạ
quyền được tiếp cận lương thực của người dân ở các nước đang phát triển, như
được phép theo Điều 31 của Hiệp định TRIPS.”

Vào ngày 4 tháng 10 năm 1999, Bolivia, Columbia, Ecuador, Nicaragua và Pêru
đã có đề xuất cụ thể rằng Hội nghị Bộ trưởng Seattle giao nhiệm vụ trong khuôn khổ
Vòng đàm phán

(a) phối hợp với các tổ chức quốc tế có liên quan khác, tiến hành nghiên cứu để
đưa ra các khuyến nghị về các cách thức phù hợp nhất để công nhận và bảo vệ
tri thức truyền thống dưới danh nghĩa là một đối tượng của quyền sở hữu trí
tuệ.

(b) Trên cơ sở các khuyến nghị nêu trên, khởi xướng các cuộc đàm phán nhằm
thiết lập một khuôn khổ pháp lý đa phương cho phép bảo hộ có hiệu quả đối
với các hình thức diễn đạt và biểu hiện của tri thức truyền thống.

(c) Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý được dự kiến nêu tại điểm (b) trên đây để cuối
cùng sẽ đưa vào thành một phần kết quả của vòng đàm phán thương mại này.

Thông báo ngày 6 tháng 8 năm 1999 của Venezuela đề xuất rằng Hội nghị Bộ
trưởng Seattle nên xem xét việc thiết lập “một hệ thống bảo hộ sở hữu trí tuệ - trên cơ sở
bắt buộc trong khuôn khổ Hiệp định TRIPS - với một nội dung mang tính đạo đức và kinh
tế áp dụng cho tri thức truyền thống của các cộng đồng bản địa và địa phương, cùng với
việc thừa nhận nhu cầu xác định rõ các quyền của các chủ thể quyền tập thể".

Như được giải thích tại các tài liệu khác, Hội đồng TRIPS hiện đang xem xét một
số đề xuất về việc xác định các phương án lựa chọn về hệ thống riêng theo Điều 27.3(b).
Nhiệm vụ nghiên cứu để đưa tri thức truyền thống vào chế định sở hữu trí tuệ được
chuyển giao cho WIPO.

Quyền tác giả và quyền liên quan

Các nghĩa vụ về quyền tác giả của Hiệp định TRIPS không đưa ra các nghĩa vụ thi
hành đặc biệt khó khăn đối với các Nước thành viên vì hầu như chỉ yêu cầu việc thực hiện

46
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
các nghĩa vụ mà các Nước thành viên đã chấp nhận theo Công ước Berne. Các nghĩa vụ
mới cơ bản đối với các Nước thành viên là:

o Bảo hộ chương trình máy tính như các tác phẩm văn học;

o Dành quyền cho những người biểu diễn có “khả năng ngăn cản” việc ghi âm trái
phép các chương trình biểu diễn của họ và làm bản sao các bản ghi âm hoặc phát
sóng trái phép âm thanh các buổi biểu diễn trực tiếp của họ.

Thiết kế bố trí (Topographies) mạch tích hợp

Đối với hầu hết các nước đang phát triển, các nghĩa vụ nêu trong các Điều từ 35
đến 37 về bảo hộ thiết kế bố trí mạch tích hợp đòi hỏi phải ban hành các quy định pháp
luật mới. Chưa có nhiều mối quan tâm từ các quốc gia sản xuất mạch tích hợp về việc ban
hành các quy định pháp luật mới này.

Bảo hộ thông tin bí mật

Ở hầu hết các nước theo hệ thống luật án lệ, pháp luật và các nguyên tắc luật chung
đủ để thi hành các nghĩa vụ theo Điều 39 Hiệp định TRIPS về bảo hộ dữ liệu bí mật. Tuy
nhiên, cần phải xây dựng một số quy định pháp luật để bảo hộ dữ liệu thử nghiệm liên
quan đến dược phẩm và các hoá chất nông nghiệp và thú y.

Kiểm soát các hoạt động phản cạnh tranh trong các li-xăng theo hợp đồng (Điều 40)

Điều 40.2 Hiệp định TRIPS cho phép các nước thành viên ngăn cấm hoặc kiểm
soát các hoạt động li-xăng gắn liền với quyền sở hữu trí tuệ có tác động bất lợi đến hoạt
động cạnh tranh trên thị trường có liên quan. Điều này tạo cơ hội cho các nước áp dụng
các biện pháp loại bỏ các hoạt động phản cạnh tranh bằng các biện pháp theo luật cạnh
tranh hoặc trong các quy định pháp luật về chuyển giao công nghệ.

5. Nguyên tắc song phương trong vấn đề sở hữu trí tuệ

Giới thiệu

Một điều rõ ràng là trong mọi giai đoạn đàm phán Hiệp định TRIPS, những người
tham gia đàm phán chính (Hoa Kỳ, EC và Nhật Bản) cho rằng Hiệp định TRIPS chỉ quy
định những nghĩa vụ tối thiểu. Hiệp định TRIPS dành cho các Thành viên quyền tự quyết
trong việc thực hiện “sự bảo hộ có phạm vi rộng hơn” so với các tiêu chuẩn bảo hộ theo
quy định Hiệp định TRIPS (xem Điều 1.1.). Hiệp định TRIPS cũng cho phép các thành
47
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
viên quy định một cách cụ thể một số tiêu chuẩn được lựa chọn trong số các tiêu chuẩn
hoặc lựa chọn khi chấp nhận các tiêu chuẩn (các tiêu chuẩn được tạo ra theo sự lựa chọn).
Vì vậy, Điều 27.3 cho phép các thành viên quy định một cách cụ thể các tiêu chuẩn về
khả năng cấp bằng độc quyền sáng chế bằng việc loại trừ một số đối tượng không được
cấp bằng độc quyền sáng chế và Điều 27.3(b) cho phép các thành viên quyền lựa chọn
cách thức bảo hộ giống cây trồng. Các quy định chuyển tiếp nêu tại Điều 65 và 66 dành
quyền cho các nước đang phát triển, các nước vốn có nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung
và các nước kém phát triển quyết định thời điểm thông qua và thi hành các tiêu chuẩn của
Hiệp định TRIPS.

Một thoả thuận song phương mà

(a) đòi hỏi một Thành viên phải thi hành một tiêu chuẩn có phạm vi rộng hơn; hoặc

(b) loại bỏ quyền lựa chọn của một Thành viên theo tiêu chuẩn của Hiệp định
TRIPS,

được coi là có tiêu chuẩn cao hơn TRIPS. Các hiệp ước song phương cũng quy định
những tiêu chuẩn về những vấn đề mà Hiệp định TRIPS không giải quyết (ví dụ, việc
nhân bản trong luật bản quyền có bao gồm việc sao tạm thời hay không) và do đó hoàn
toàn không phải là cao hơn TRIPS.

Để giảm chi phí cho việc thực hiện nguyên tắc song phương, Hoa Kỳ đã phát triển
một số mô hình hoặc nguyên mẫu của các hiệp ước song phương mà nước này mong
muốn ký kết với các nước khác.

Hiệp định Thương mại tự do Hoa Kỳ - Jordan

Hiệp định Thương mại tự do Hoa Kỳ - Jordan là một ví dụ khác về hiệp định mẫu
theo dạng này. Đây là một hiệp định có phạm vi điều chỉnh rộng, bao gồm các quy định
liên quan đến thương mại hàng hoá, thương mại dịch vụ, quyền sở hữu trí tuệ, môi trường
và lao động, thương mại điện tử và mua sắm chính phủ. Trái với các quy định tương đối
mềm dẻo về môi trường và lao động (ví dụ mỗi Bên “phải cố gắng bảo đảm” rằng các tiêu
chuẩn về lao động của mình phù hợp với các chuẩn mực quốc tế (Điều 6.3), các quy định
về sở hữu trí tuệ dài và chi tiết hơn. Những nội dung cao hơn tiêu chuẩn của Hiệp định
TRIPS trong Hiệp định thương mại tự do Hoa Kỳ - Jordan bao gồm:

• Yêu cầu mỗi Bên phải thi hành Công ước UPOV và Jordan phải gia nhập Công
ước UPOV trong vòng 12 tháng;
48
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
• Dành cho tác giả, người biểu diễn và nhà sản xuất bản ghi âm độc quyền nhập
khẩu;

• Quy định việc sử dụng phần mềm máy tính của chính phủ;

• Thu hẹp các căn cứ loại trừ khả năng cấp bằng độc quyền sáng chế (về cơ bản
loại bỏ các căn cứ loại trừ theo Điều 27.3(b));

• Quy định li-xăng cưỡng bức được soạn lại, giới hạn việc sử dụng li-xăng cưỡng
bức trong những trường hợp cụ thể hơn so với quy định của Hiệp định TRIPS,
đặt ra các điều kiện cho việc sử dụng li-xăng cưỡng bức. (Các trường hợp cụ thể
này là nhằm xử lý các hành động phản cạnh tranh, sử dụng vì mục đích công
cộng phi thương mại, các tình huống khẩn cấp quốc gia và các trường hợp khẩn
cấp khác, và vì lý do không đáp ứng yêu cầu về việc sử dụng); và

• Nghĩa vụ quy định kéo dài thời hạn bảo hộ sáng chế để đền bù cho chủ sở hữu
bằng độc quyền sáng chế vì những chậm trễ do pháp luật gây ra đối với khả
năng khai thác độc quyền đối với sáng chế.

Có một số khía cạnh quan trọng khác khiến hiệp định này trở thành có tiêu chuẩn
cao hơn Hiệp định TRIPS hoặc tạo ra bước phát triển về quyền sở hữu trí tuệ vượt ra khỏi
phạm vi của Hiệp định TRIPS. Nhìn chung, rõ ràng là Hoa Kỳ đã thiết lập một hiệp định
mẫu giải quyết được các vấn đề đã nhìn thấy trước từ Hiệp định TRIPS hoặc giải quyết
được một số vấn đề không rõ ràng của Hiệp định TRIPS. Theo đó, ví dụ Điều 39.3 Hiệp
định TRIPS yêu cầu các Thành viên phải bảo hộ dữ liệu được nộp trong đơn xin phép
tiếp thị dược phẩm hoặc sản phẩm hoá nông chứa “các hoá chất mới”, đã để ngỏ vấn đề
thế nào là một hoá chất mới, trong khi đó Hiệp định thương mại tự do Hoa Kỳ - Jordan
quy định rằng độc quyền đối với hoá chất mới bao gồm cả “độc quyền đối với các dạng
sử dụng mới của một hoá chất đã biết trong thời hạn 3 năm”.

Tác động của nguyên tắc đối xử tối huệ quốc (MFN) đối với nguyên tắc song phương

Nguyên tắc MFN từng là một nguyên tắc then chốt điều chỉnh các quan hệ thương
mại giữa các quốc gia, đặc biệt là trong khuôn khổ của GATT. Hiệp định TRIPS quy định
về nguyên tắc này tại Điều 4. Theo nội dung của điều này, trường hợp một Thành viên
của TRIPS dành “một sự ưu tiên, chiếu cố, đặc quyền hoặc sự miễn trừ bất kỳ” cho công
dân của nước bất kỳ khác (tức là nước này không nhất thiết phải là thành viên của Hiệp
định TRIPS) thì cũng phải dành sự ưu đãi tương tự cho công dân của các thành viên khác
49
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
của Hiệp định TRIPS. Việc áp dụng nguyên tắc này được hạn chế (ví dụ, không được áp
dụng cho các thoả thuận quốc tế (như thoả thuận song phương về sở hữu trí tuệ) có hiệu
lực trước khi Hiệp định WTO có hiệu lực (trừ các thoả thuận tạo ra sự phân biệt đối xử
tuỳ tiện hoặc bất hợp lý đối với công dân của các Thành viên khác)).

Tác động lớn của nguyên tắc MFN là cân bằng việc dành các đặc quyền và ưu đãi
giữa các thành viên của một nhóm các quốc gia có quan hệ thương mại được điều chỉnh
theo nguyên tắc này. Trong trường hợp Hiệp định TRIPS, nguyên tắc MFN đã được soạn
thảo theo cách khiến cho nguyên tắc này được áp dụng theo một cách thức tương đối
không hạn chế. Ví dụ, điều khoản này không tương đương với Điều XXIV. Mỗi khi các
nước đang phát triển là thành viên WTO ký kết một thoả thuận quốc tế, bất kể là song
phương hay đa phương, theo đó dành sự ưu đãi nhiều hơn so với Hiệp định TRIPS cho
một quốc gia khác thì sẽ dẫn đến việc nguyên tắc MFN sẽ buộc các nước đang phát triển
này phải dành những sự ưu đãi đó cho tất cả các thành viên WTO (tuỳ thuộc vào việc đáp
ứng các điều kiện quy định tại Điều 4).

Điều này có nghĩa là nguyên tắc MFN trong Hiệp định TRIPS khi được kết hợp
với các thoả thuận song phương sẽ làm lợi cho hai nhà xuất khẩu sở hữu trí tuệ hàng đầu
thế giới, đó là Hoa Kỳ và Liên minh châu Âu. Một khi Hoa Kỳ đàm phán một hiệp định
với một thành viên WTO là nước đang phát triển, nguyên tắc MFN đảm bảo rằng EU sẽ
được hưởng lợi từ các tiêu chuẩn mà Hoa Kỳ đạt được. Cũng như vậy trong trường hợp
EU đạt được các lợi ích từ một thoả thuận song phương liên quan tới sở hữu trí tuệ. Ngoài
ra, điều này cũng đúng trong trường hợp Hoa Kỳ và EU đàm phán với nhau các thoả
thuận song phương chứa đựng các tiêu chuẩn cao hơn TRIPS, những tiêu chuẩn này sẽ trở
thành những mục tiêu thực tiễn của các tiêu chuẩn tối thiểu mới mà vòng đàm phán
thương mại bất kỳ của WTO trong tương lai sẽ phải đạt được.

Điểm then chốt là nguyên tắc MFN khi được kết hợp với nguyên tắc song phương
về sở hữu trí tuệ sẽ có tác dụng mở rộng và thiết lập các tiêu chuẩn tối thiểu mới về sở
hữu trí tuệ nhanh hơn.

Tài liệu tham khảo

Abbott, Frederick M., Thomas Cottier, Francis Gurry, The International Intellectual
Property System, Commentary and Materials, Kluwer Law International, 1999.

Antons, C. M. Blakeney và C. Heath, Intellectual Property Harmonisation Within


ASEAN and APEC, The Hague: Kluwer Law International, 2004.

50
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
Battiste, Marie, Protecting Indigenous Knowledge And Heritage: A Global Challenge,
Saskatoon: Purich Pub., 2000.

Black, Trevor, Intellectual Property In The Digital Era, London: Sweet & Maxwell,
2002.

Blakeney, M Trade Related Aspects of Intellectual Property Rights: A Concise Guide to


the TRIPS Agreement, Sweet & Maxwell, London, 1996

Cooper Dreyfuss, Rochelle & Zimmerman, Diane Leenheer & First, Harry, Expanding
The Boundaries Of Intellectual Property : Innovation Policy For The Knowledge Society,
Oxford ; New York : Oxford University Press, 2001.

Correa, Carlos M. Abdulqawi A. Yusuf eds, Intellectual Property and International


Trade: The TRIPS Agreement, Kluwer Law International, London, Boston, 1998

D’Amato, Anthony and Doris E. Long eds, International Intellectual Property Law,
Kluwer Law International, London; Boston, 2001

Doern, G. Bruce, Global Change And Intellectual Property Agencies: An Institutional


Perspective, London: Pinter, 1999.

Drahos, Peter and Mayne, Ruth, Global Intellectual Property Rights: Knowledge, Access
& Development, Macmillan 2001.

Endeshaw Assafa, Intellectual property policy for non-industrial countries Aldershot:


Dartmouth 1996.

Ficsor, Mihály, The Law Of Copyright And The Internet: The 1996 WIPO Treaties, Their
Interpretation And Implementation, Oxford University Press, 2002.

Gervais Daniel, The TRIPS Agreement: Drafting History and Analysis, Sweet & Maxwell,
London, 1998.

Goldstein, Paul, International Intellectual Property Law: Cases and Materials, New
York: Foundation Press, 2001

Heath, Christopher, Intellectual Property In The Digital Age: Challenges For Asia, The
Hague; Boston: Kluwer Law International, 2001.

Ilardi, A and M. Blakeney, International Encyclopaedia of Intellectual Property Treaties


Oxford: Oxford University Press 2004.

Letterman, G. Gregory, Basics Of International Intellectual Property Law, Ardsley, N.Y.:


Transnational Publishers, 2001.

51
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
Maskus Keith E., Intellectual Property Rights in the Global Economy, Washington, D.C.
Institute for International Economics, 2000.

May, Christopher and Sell, Susan, A Critical International History of Intellectual


Property Rights, Lynne Rienner Publishers 2005.

Nolff, Markus, Trips, PCT, And Global Patent Procurement, London: Kluwer Law
International, 2001.

Petersmann, Ernst-Ulrich and Harrison, James eds., Reforming the World Trading System:
Legitimacy, Efficiency and Democratic Governance, Oxford University Press, 2005.

Primo Braga, Carlos A, Intellectual Property Rights And Economic Development.


Washington, D.C.: World Bank, 2000.

Reinbothe, Jorg, The WIPO Treaties 1996: The WIPO Copyright Treaty And The WIPO
Performances And Phonograms Treaty, London: Butterworths, 2002.

Sell Susan, Private Power, Public Law: The Globalization of Intellectual Property Rights,
Cambridge University Press, May 2003

WIPO, Guide To Intellectual Property Worldwide, Geneva: WIPO, 2000.

52
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp

You might also like