You are on page 1of 76

CURRICULUM ON INTELLECTUAL PROPERTY

Professor Michael Blakeney


Queen Mary Intellectual Property Research Institute
University of London

TÀI LIỆU GIẢNG DẠY VỀ SỞ HỮU TRÍ TUỆ

Giáo sư Michael Blakeney


Viện nghiên cứu Sở hữu trí tuệ Queen Mary
Đại học London

Provided and translated by


the EC-ASEAN Intellectual Property Rights Co-operation Programme (ECAP II)

Tài liệu này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II)
dịch và cung cấp
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ cung cấp

Bài 4. Nhãn hiệu và chỉ dẫn địa lý

Nhãn hiệu

1. Giới thiệu

‰ Lịch sử

Việc sử dụng nhãn hiệu trên thị trường là một hình thức đặc biệt quan trọng trong giao
thương ở các xã hội trước khi có chữ viết và xã hội mà một số ngôn ngữ đã được sử
dụng. Nhãn hiệu tạo ra một cách thức truyền tin thuận tiện và súc tích về hàng hóa mà
nhãn hiệu được gắn lên. Những hình thức ban đầu của nhãn hiệu hiện đại là việc sử dụng
các nhãn mác trên công-ten-nơ, các công cụ, viên gạch và các vật dụng tương tự ở thời
kỳ Ai-cập và Lưỡng Hà cổ đại. Dường như mục đích ban đầu của những dấu hiệu này là
để chỉ quyền sở hữu, nhưng chúng cũng liên quan đến phương pháp nhận biết nhà sản
xuất các vật dụng được gắn nhãn mác.

Cuộc cách mạng công nghiệp bắt đầu tại nước Anh vào thế kỷ 18 đã chứng kiến sự phát
triển của nhãn hiệu hiện đại. Nhu cầu phát triển này phát sinh do kết quả của những thay
đổi to lớn trong quá trình sản xuất và phân phối thời kỳ đó. Việc mất đi quan hệ cá nhân
giữa nhà sản xuất và người tiêu dùng, thông qua sự phát triển của nền sản xuất ở quy mô
lớn trong các nhà máy được đặt tách ra khỏi các thị trường mà hàng hóa được bán đã
dẫn đến sự cần thiết phải có sự cải cách về nhãn hiệu cho biểu tượng của sự tín nhiệm và
danh tiếng của nhà sản xuất. Nhiều nhãn hiệu nổi tiếng xuất hiện vào cuối thế kỷ 19 và
đầu thế kỷ 20. Ví dụ, nhãn hiệu "Sunlight” của W.H. Lever, có lẽ là nhãn hiệu đầu tiên
sử dụng các kỹ thuật tiếp thị hiện đại liên quan đến sản phẩm tiêu dùng, được xây dựng
vào giữa thế kỷ thứ 19. Các nhãn hiệu nổi tiếng khác cũng xuất hiện trong thời kỳ này là
"Singer" (1851), "Vaseline" (1878), "Coca Cola" (1886), "Kodak" (1888), và
"Kellogg's" (1915).

Việc sử dụng nhãn hiệu trong quá trình tiếp thị hàng hóa không chỉ quan trọng đối với
nền kinh tế công nghiệp nội địa, mà còn có ý nghĩa to lớn trong thương mại quốc tế. Rõ
ràng là nhu cầu và hoạt động của các thương nhân quốc tế là động lực để áp dụng các
chế độ pháp lý, cả trong nội địa và quốc tế, để điều chỉnh nhãn hiệu. Các nhu cầu của
thương mại quốc tế dẫn tới sự hình thành, bắt đầu từ cuối thế kỷ 19, các hiệp ước và
công ước quốc tế về sở hữu trí tuệ khác nhau.
2
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
‰ Chức năng của nhãn hiệu

(a) Chỉ dẫn nguồn gốc

Luật nhãn hiệu được xây dựng từ những hành vi giả mạo gây thiệt hại cho người khác,
đó là hành vi theo thông luật nhằm ngăn chặn việc đánh cắp uy tín thương mại của
người khác. Nhãn hiệu được coi là biểu tượng tinh túy của uy tín thương mại. Thiệt hại
do xâm phạm độc quyền đối với nhãn hiệu gây ra là việc tách hàng hóa ra khỏi người
sở hữu nhãn hiệu. Do vậy, nguyên tắc ban đầu của luật nhãn hiệu là nhãn hiệu phải thể
hiện nguồn gốc của hàng hóa và dịch vụ. Việc xâm phạm nhãn hiệu xảy ra khi một
người thể hiện sai về nguồn gốc thương mại của hàng hóa. Sự mập mờ về chức năng
nguồn gốc của nhãn hiệu xuất hiện cùng với sự phát triển của tiếp thị toàn cầu thông
qua việc chuyển quyền sử dụng nhãn hiệu. Ở nhiều nước, toà án được lập ra để thúc
đẩy hoạt động chuyển quyền sử dụng, với điều kiện chủ sở hữu nhãn hiệu thực hiện
quyền kiểm soát đối với chất lượng của hàng hóa được bán bởi bên được chuyển
nhượng quyền (bên nhận li-xăng). Một tác động quan trọng đối với các nước đang phát
triển, liên quan tới nguyên tắc kiểm soát chất lượng này, là hợp đồng chuyển quyền sử
dụng nhãn hiệu sẽ bị ràng buộc bởi công nghệ phù hợp nhằm đảm bảo việc duy trì chất
lượng.

(b) Quảng cáo hoặc tiếp thị

Một chức năng đặc biệt quan trọng của nhãn hiệu là việc sử dụng chúng để quảng cáo và
tiếp thị sản phẩm. Cách thức mà nhãn hiệu thúc đẩy quá trình này là dựa vào khả năng
phân biệt và nhận dạng hàng hóa và dịch vụ. Điều này là đặc biệt quan trọng ở các thị
trường nơi mà sự gia tăng của các hàng hóa cùng loại cho phép người tiêu dùng nhận
dạng hàng hóa của một thương gia cụ thể. Do vậy, ở thị trường nông sản, nơi các sản
phẩm có xu hướng cùng loại đã đạt được một số thành công trong việc tiếp thị chuối
"Chiquita" và cam "Jaffa". Cuba đã đạt được thành công với nhãn hiệu "Bacardi" cho
rượu rum và "Havana" cho xì-gà.

Nhãn hiệu là một cách thức cô đọng để chỉ sản phẩm. Do chi phí quảng cáo, đặc biệt là
qua phương tiện truyền thông điện tử, việc sử dụng nhãn hiệu sẽ làm giảm lượng thông
tin cần truyền đạt. Sự thành công của quảng cáo làm tăng sức mạnh thị trường của chủ
sở hữu nhãn hiệu đối với hàng hóa mang nhãn hiệu. Sức mạnh thị trường của chủ sở hữu
nhãn hiệu càng lớn thì càng dễ dàng xâm nhập vào các thị trường nước ngoài. Sự tăng
trưởng thương mại quốc tế là một trong số các hệ quả của sự phát triển các hoạt động
quảng cáo quốc tế. Chức năng phân biệt và quảng bá của nhãn hiệu không phải không
bị chỉ trích. Người ta cho rằng trong thị trường của các sản phẩm cùng loại, người tiêu
3
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
dùng thường bị thuyết phục là các sản phẩm tương tự trên thực tế lại không giống nhau.
Do đó, sự lựa chọn của người tiêu dùng nhìn bề ngoài có vẻ được mở rộng trong khi sự
lựa chọn thực tế thì vẫn giữ nguyên. Mặt khác, sự phát triển của nhãn hiệu được quảng
cáo lại là một động lực cho người quảng cáo nhằm đảm bảo việc mua bán lặp lại để thu
hồi chi phí quảng cáo, thông qua việc chào bán hàng hóa có chất lượng cao.

(c) Bảo đảm chất lượng

Do người tiêu dùng có thể sử dụng nhãn hiệu để nhận biết loại hàng hóa sẽ thỏa mãn
nhu cầu của họ, nên đã tạo ra động lực cho các nhà sản xuất và phân phối nhằm đáp
ứng nguyện vọng chính đáng của người tiêu dùng về chất lượng sản phẩm. Do đó, việc
sử dụng nhãn hiệu có khuynh hướng khuyến khích chủ sở hữu nhãn hiệu duy trì chất
lượng ổn định cho hàng hóa và dịch vụ được chào bán dưới nhãn hiệu của họ. Điều
này được nhấn mạnh bởi yêu cầu của pháp luật đối với việc kiểm soát chất lượng trong
các hợp đồng chuyển quyền sử dụng nhãn hiệu.

Giá trị cố hữu trong việc giành được sự trung thành của người tiêu dùng đối với một
nhãn hiệu cụ thể thông qua việc duy trì chất lượng ổn định của sản phẩm, được xem
như là “danh tiếng” đi kèm với nhãn hiệu. Người tiêu dùng sử dụng thông tin về nguồn
gốc cũng như chất lượng có thể tin được của sản phẩm để củng cố quyết tâm mua hàng
của mình. Ở những nơi chỉ có một nhãn hiệu tồn tại, người tiêu dùng sử dụng thông tin
này để quyết định có mua hàng hay không. Lợi ích của điều này đối với người tiêu
dùng, như đã dẫn, là họ có thể tránh được những sai lầm khi quyết định mua hàng.

Câu hỏi tự đánh giá

SAQ 1 Ở mức độ nào việc bảo hộ nhãn hiệu có thể được xem như một hình thức
bảo vệ người tiêu dùng với chi phí thấp?

A. Nhãn hiệu là một hình thức "tốc ký", mà người tiêu dùng có thể dựa vào
để lựa chọn đúng sản phẩm. Việc người tiêu dùng sử dụng nhãn hiệu sẽ
làm giảm chi phí thông tin liên quan đến việc đánh giá chất lượng sản
phẩm và cho phép người tiêu dùng tiết kiệm các nguồn lực mà lẽ ra phải
chi phí cho việc thu thập thông tin về sản phẩm. Trong hệ thống pháp
luật mà không có các quy định về bảo vệ người tiêu dùng hoặc quy định
về tiêu chuẩn sản phẩm, hàng hóa ví dụ, thực phẩm hay dược phẩm, thì
nhãn hiệu có một chức năng quan trọng không đơn thuần là chỉ báo về
chất lượng mà còn chỉ báo về tính an toàn và sự phù hợp với mục đích sử
dụng.

4
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
Luật nhãn hiệu đưa ra biện pháp để chủ sở hữu quyền chống lại những kẻ
làm giả nhãn hiệu của họ, thì cũng đồng thời đưa ra biện pháp chống lại sự
lừa dối người tiêu dùng. Đối với các nước đang phát triển không có sẵn
nguồn ngân sách, sự hấp dẫn đặc biệt của biện pháp này là hình thức bảo
vệ người tiêu dùng này tự trang trải kinh phí. Các ý tưởng tiếp thị được
triển khai nhằm chống lại việc lừa dối người tiêu dùng. Chủ sở hữu nhãn
hiệu sẽ là người cảnh giác nhất trong việc giám sát hoạt động lừa dối và áp
dụng các hoạt động thực thi chống lại người có hành vi xâm phạm. Điều
này là đặc biệt quan trọng đối với các sản phẩm trong lĩnh vực y tế và
dược phẩm.

‰ Định nghĩa

(a) Nhãn hiệu

Điều 15(1) Hiệp định TRIPS định nghĩa nhãn hiệu như sau:
Bất kỳ dấu hiệu, hoặc sự kết hợp các dấu hiệu nào có khả năng phân biệt hàng
hoá hoặc dịch vụ của người này với người khác, đều có khả năng tạo thành
nhãn hiệu. Các dấu hiệu đó, đặc biệt là các từ ngữ liên quan đến tên riêng, ký
tự, số, các yếu tố hình họa và sự kết hợp các màu sắc cũng như sự kết hợp bất
kỳ các dấu hiệu nêu trên, phải được đăng ký nhãn hiệu. Trong trường hợp bản
thân các dấu hiệu không có khả năng phân biệt hàng hoá hoặc dịch vụ tương
ứng, các quốc gia Thành viên có thể quy định khả năng được đăng ký dựa trên
sự phân biệt đạt được thông qua việc sử dụng. Các quốc gia Thành viên có thể
yêu cầu, như một điều kiện để đăng ký, các dấu hiệu để đăng ký phải là hữu
hình.
Điều 15.4 của Hiệp định TRIPS quy định rằng: “bản chất của hàng hoá hoặc dịch vụ
mang nhãn hiệu không ảnh hưởng tới khả năng được đăng ký của nhãn hiệu đó”. Quy
định này, trực tiếp trích dẫn Điều 7 của Công ước Paris, nhằm bảo vệ các quyền đối
với nhãn hiệu cho dù việc bán hàng hóa hoặc cung ứng dịch vụ liên quan đến nhãn
hiệu được đăng ký bị cấm hoặc là đối tượng độc quyền hoặc nhượng quyền.

(b) Nhãn hiệu dịch vụ

Phù hợp với pháp luật nhãn hiệu hiện đại, Hiệp định TRIPS và Điều 16 Hiệp ước Luật
nhãn hiệu (TLT) quy định rằng nhãn hiệu được đăng ký cho cả hàng hóa và dịch vụ.
Công ước Paris quy định cho các bên ký kết “cam kết bảo hộ nhãn hiệu dịch vụ”,
nhưng nghĩa vụ này không mang tính bắt buộc. Ngày nay, hầu hết các nước áp dụng
hệ thống Phân loại quốc tế về hàng hóa và dịch vụ theo Thỏa ước Nice, trong đó quy
định việc đăng ký nhãn hiệu cho 38 nhóm hàng hóa và 8 nhóm dịch vụ.
5
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
Nhãn hiệu dịch vụ chủ yếu thực hiện chức năng chỉ nguồn gốc và phân biệt dịch vụ
tương tự như nhãn hiệu đối với hàng hóa. Đôi khi, việc bảo hộ nhãn hiệu dịch vụ
được quy định bởi phần sửa đổi ngay trong luật nhãn hiệu hiện hành, đơn giản quy
định áp dụng đối với nhãn hiệu dịch vụ, với những sửa đổi thích hợp từ các quy định
về bảo hộ nhãn hiệu. Do vậy, nhãn hiệu dịch vụ có thể được đăng ký, gia hạn và hủy
bỏ với cách thức tương tự như nhãn hiệu hàng hóa; hơn nữa, chúng được chuyển
nhượng và chuyển quyền sử dụng theo cùng điều kiện. Do đó, các quy tắc được định
ra cho nhãn hiệu hàng hóa, về nguyên tắc, được áp dụng theo cách tương tự như đối
với nhãn hiệu dịch vụ.

(c) Nhãn hiệu tập thể

Nhãn hiệu tập thể có thể được sở hữu bởi một hiệp hội mà các thành viên của hiệp hội
đó có thể sử dụng nhãn hiệu này nếu họ đáp ứng đầy đủ các yêu cầu được quy định
tại quy chế liên quan đến việc sử dụng nhãn hiệu tập thể. Như vậy, chức năng của
nhãn hiệu tập thể là thông tin cho công chúng biết về những đặc điểm đặc trưng của
sản phẩm sử dụng nhãn hiệu tập thể. Một doanh nghiệp được quyền sử dụng nhãn
hiệu tập thể bên cạnh đó thì có thể sử dụng nhãn hiệu riêng của mình.

Quy chế sử dụng nhãn hiệu tập thể thường phải có trong đơn yêu cầu đăng ký nhãn
hiệu tập thể và những sửa đổi liên quan đến quy chế phải được thông báo cho Cơ
quan Nhãn hiệu. Tại một số quốc gia (như Cộng hoà Liên bang Đức, Phần Lan, Na
Uy, Thuỵ Điển và Thuỵ Sĩ), việc đăng ký nhãn hiệu có thể bị huỷ bỏ nếu nhãn hiệu
đó được sử dụng trái với các quy định của quy chế hoặc theo cách thức lừa đối công
chúng.

Công ước Paris có các quy định về nhãn hiệu tập thể nêu tại Điều 7bis. Điều này buộc
một nước Thành viên chấp nhận việc nộp đơn và bảo hộ, theo các điều kiện cụ thể do
nước đó quy định, nhãn hiệu tập thể của "các hiệp hội". Đây thường là các hiệp hội
các nhà sản xuất, chế tạo, phân phối, bán hàng hoặc các thương gia khác về hàng hóa
được chế tạo hoặc sản xuất tại một nước, khu vực hoặc địa phương cụ thể hoặc hàng
hóa có các đặc tính chung khác. Nhãn hiệu tập thể của các quốc gia hoặc các cơ quan
nhà nước khác không chịu sự điều chỉnh của các quy định này.

Để được áp dụng Điều 7bis, hoạt động của các hiệp hội sở hữu các nhãn hiệu tập thể
phải không trái với pháp luật của nước sở tại. Hiệp hội không phải chứng minh rằng
họ tuân thủ pháp luật của nước sở tại, nhưng việc đăng ký và bảo hộ nhãn hiệu tập thể
của họ có thể bị từ chối nếu sự tồn tại của hiệp hội đó bị cho là trái với các quy định
của pháp luật.
6
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
Việc từ chối đăng ký và bảo hộ nhãn hiệu tập thể không căn cứ vào việc hiệp hội
không được thành lập ở nước nơi muốn có được sự bảo hộ, hoặc không được thành
lập phù hợp với pháp luật của nước đó. Điều 7bis bổ sung thêm các điều kiện là hiệp
hội thậm chí có thể không bị yêu cầu phải sở hữu cơ sở công nghiệp hoặc thương mại
ở bất kỳ nơi nào. Nói cách khác, một hiệp hội mà bản thân không sở hữu bất kỳ cơ sở
công nghiệp hay thương mại nào có thể là hiệp hội chỉ đơn thuần mà chỉ đơn giản
kiểm soát việc sử dụng nhãn hiệu tập thể bởi những người khác.

Đặc biệt, các quy định này đảm bảo rằng nhãn hiệu tập thể được chấp nhận đăng ký
và bảo hộ ở các nước khác ngoài nước mà hiệp hội sở hữu nhãn hiệu tập thể được
thành lập. Điều này có nghĩa là việc hiệp hội đó không được thành lập phù hợp với
luật pháp của nước muốn nhận được sự bảo hộ thì không có lý do gì để từ chối việc
bảo hộ này. Mặt khác, Công ước thừa nhận quyền của mỗi quốc gia thành viên trong
việc áp dụng các điều kiện bảo hộ của riêng mình và từ chối bảo hộ nếu nhãn hiệu trái
với lợi ích công cộng.

(d) Nhãn hiệu chứng nhận

Nhãn hiệu chứng nhận chỉ có thể được sử dụng phù hợp với các tiêu chuẩn xác định.
Sự khác biệt cơ bản giữa nhãn hiệu tập thể và nhãn hiệu chứng nhận là nhãn hiệu tập
thể chỉ có thể được sử dụng bởi các doanh nghiệp cụ thể, ví dụ, các thành viên của
hiệp hội sở hữu nhãn hiệu tập thể, trong khi nhãn hiệu chứng nhận có thể được sử
dụng bởi bất kỳ ai tuân thủ đúng những tiêu chuẩn xác định.

Một điều kiện quan trọng đối với việc đăng ký nhãn hiệu chứng nhận là chủ thể nộp
đơn đăng ký phải có “thẩm quyền chứng nhận” các sản phẩm có liên quan. Vì vậy,
chủ sở hữu nhãn hiệu chứng nhận phải là người đại diện cho các sản phẩm mang nhãn
hiệu chứng nhận.

Định nghĩa “nhãn hiệu chứng nhận” không giống nhau ở tất cả các quốc gia. Tại Hoa
Kỳ, không phải bất kỳ ai tuân thủ tiêu chuẩn đã xác định đều có thể sử dụng nhãn
hiệu chứng nhận, mà chỉ các doanh nghiệp đã được chủ sở hữu nhãn hiệu chứng nhận
cho phép mới được sử dụng nhãn hiệu đó. Như vậy, tại Hoa Kỳ sự khác biệt giữa
nhãn hiệu chứng nhận và nhãn hiệu tập thể nhỏ hơn so với các nước khác, nó chỉ liên
quan tới mục đích của hai loại nhãn hiệu: nhãn hiệu chứng nhận chỉ ra một số tiêu
chuẩn của sản phẩm hoặc dịch vụ, còn nhãn hiệu tập thể chỉ ra tư cách thành viên của
người sử dụng nó trong một tổ chức cụ thể.

7
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
Câu hỏi tự đánh giá

SAQ 2 Sự khác biệt chủ yếu giữa nhãn hiệu tập thể và nhãn hiệu chứng nhận là
gì?

A. Nhãn hiệu chứng nhận chỉ ra nguồn gốc cụ thể, nguyên liệu và cách thức
sản xuất, chất lượng, v.v.. của hàng hóa hoặc dịch vụ; nhãn hiệu chứng
nhận phân biệt hàng hóa hay dịch vụ của một hiệp hội cụ thể.
Bất kỳ ai cung cấp hàng hóa hoặc dịch vụ với những đặc tính được chỉ
định đều có quyền sử dụng nhãn hiệu chứng nhận, trong khi đó phải là
thành viên của một hiệp hội cụ thể mới được sử dụng nhãn hiệu tập thể.

Chủ sở hữu nhãn hiệu chứng nhận không được kinh doanh hàng hóa
hoặc dịch vụ, nhưng sự hạn chế này không áp dụng đối với nhãn hiệu tập
thể.

2. Đăng ký nhãn hiệu

‰ Đơn đăng ký

Đơn đăng ký nhãn hiệu phải được nộp tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền mà ở hầu
hết các nước đều là cơ quan có thẩm quyền xử lý đơn yêu cầu cấp Bằng độc quyền
sáng chế. Cơ quan đó thường được gọi là “Cơ quan Sở hữu công nghiệp” hay “Cơ
quan Sáng chế và Nhãn hiệu” hay “Cơ quan Nhãn hiệu”.

Thông thường, các nước quy định mẫu đơn, việc sử dụng mẫu đơn này là bắt buộc tại
một số nước. Phải điền đầy đủ tên và địa chỉ người nộp đơn vào mẫu đơn này. Người
nước ngoài vừa phải nêu rõ địa chỉ nhận thư tại nước sở tại vừa phải sử dụng một
người có thẩm quyền đại diện để ký đơn với tư cách người nộp đơn. Thông thường,
các thủ tục về hình thức khác cũng được yêu cầu, như việc chứng thực bởi công
chứng hoặc hợp pháp hóa.

Dấu hiệu yêu cầu đăng ký phải được thể hiện trong đơn hay trong phần phụ lục của
đơn. Nếu dấu hiệu dự định cần được đăng ký có màu sắc thì màu sắc phải được yêu
cầu bảo hộ và bản mẫu có màu hoặc bản mô tả về màu các màu phải được nộp.

Nếu đăng ký dấu hiệu ba chiều, cần phải nêu rõ là yêu cầu bảo hộ dấu hiệu ở dạng ba
chiều của nó.

8
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
Người nộp đơn cũng phải liệt kê danh mục hàng hoá sử dụng nhãn hiệu đăng ký.
Thông thường, luật nhãn hiệu quy định phân loại hàng hoá nhằm phục vụ cho việc
đăng ký. Tại một số nước, mỗi nhóm hàng hoá cần làm một đơn riêng. Trong khi các
nước khác, chỉ cần một đơn cũng có thể đăng ký cho nhiều nhóm. Hầu hết các nước
đều phân loại các nhóm hàng hoá và dịch vụ để đăng ký theo Thoả ước Nice về phân
loại quốc tế hàng hoá và dịch vụ nhằm đăng ký nhãn hiệu.

Cuối cùng, người nộp đơn phải nộp một hoặc nhiều loại lệ phí cho việc đăng ký nhãn
hiệu. Một quốc gia có thể quy định một loại lệ phí duy nhất, loại lệ phí gộp tất cả
hoặc các loại lệ phí cho nhiều đơn (lệ phí nộp đơn, lệ phí phân loại, lệ phí thẩm định,
lệ phí đăng ký,v.v.)

‰ Thẩm định

Thông thường, các nước chỉ chấp nhận đơn đăng ký nhãn hiệu nếu đơn đó đáp ứng
đầy đủ các yêu cầu về hình thức. Ngoài ra, hầu hết các nước đều quy định việc thẩm
định nội dung đơn vì lợi ích của công chúng và các đối thủ cạnh tranh.

Nhãn hiệu có thể được thẩm định theo các căn cứ tuyệt đối và khách quan để từ chối,
đó là xem xét chúng có tính phân biệt, có gian lận hay trái với đạo đức,v.v. hay
không.

Pháp luật nhiều quốc gia cũng quy định việc thẩm định theo các căn cứ tương đối, đó
là, việc xem các quyền được yêu cầu bảo hộ có tương tự hoặc trùng lặp với các quyền
trước đó đã được nộp đơn đăng ký hoặc cấp cho các hàng hoá trùng hoặc tương tự
hay không. Việc thẩm định đó có thể được tiến hành một cách đương nhiên và/hoặc
dựa trên cơ sở thủ tục phản đối.

Nói chung, có thể nhận thấy ba cách tiếp cận điển hình ở quy mô quốc tế:

(a) Hệ thống pháp luật của Anh quy định việc thẩm định của Cơ quan dựa
trên các căn cứ tuyệt đối và tương đối, đồng thời cũng dựa trên thủ tục
phản đối. Hệ thống này cũng được áp dụng tại châu Âu, như tại Bồ Đào
Nha, Tây Ban Nha và các nước Bắc Âu.
(b) Việc thẩm định chỉ dựa trên các căn cứ tuyệt đối. Pháp luật không quy
định về thủ tục phản đối mà để ngỏ cho chủ sở hữu các quyền có trước
tiến hành thủ tục kiện đòi huỷ bỏ hiệu lực đăng ký hoặc khởi kiện hành
vi xâm phạm do việc đăng ký hoặc sử dụng một dấu hiệu có sau. Hệ
thống này được áp dụng theo luật Nhãn hiệu cũ của Pháp và Thuỵ Sĩ -

9
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
song cả hai quốc gia này đều quy định về thủ tục phản đối trong luật
mới của họ.

Hệ thống của Đức quy định việc thẩm định của Cơ quan đăng ký dựa trên các căn cứ
tuyệt đối và cũng áp dụng việc phản đối theo thủ tục hành chính, theo đó, chủ sở hữu
các quyền có trước có thể phản đối đơn đăng ký nhãn hiệu xâm phạm quyền bằng một
thủ tục đơn giản và không quá tốn kém. Hệ thống này là sự thoả hiệp giữa các hệ
thống cực đoan hơn nêu trên và theo xu hướng hiện đại được phản ánh trong Hệ thống
Nhãn hiệu cộng đồng của châu Âu.

3. Dấu hiệu có thể được đăng ký

Hầu hết pháp luật về nhãn hiệu đều quy định rằng đơn đăng ký nhãn hiệu có thể bị từ
chối đăng ký dựa trên cả căn cứ tuyệt đối và căn cứ tương đối. Các căn cứ tuyệt đối để
từ chối có thể bao gồm:
• Nhãn hiệu không phải là dấu hiệu có khả năng thể hiện dưới dạng đồ họa;
• Nhãn hiệu không có khả năng phân biệt hàng hóa hoặc dịch vụ của người nộp
đơn với hàng hóa hoặc dịch vụ của các doanh nghiệp khác;
• Nhãn hiệu chỉ bao gồm các dấu hiệu hoặc chỉ dẫn dùng để chỉ chủng loại, chất
lượng, số lượng, mục đích dự kiến, giá trị, nguồn gốc địa lý, thời gian sản xuất
hàng hóa hoặc cung cấp dịch vụ, hoặc các đặc tính riêng khác của hàng hòa
hoặc dịch vụ trong thương mại;
• Nhãn hiệu trái với chính sách công cộng hoặc các nguyên tắc đạo đức được
chấp nhận;
• Nhãn hiệu có tính lừa dối;
• Đăng ký trái với pháp luật; đăng ký liên quan đến một biểu tượng đặc biệt để
bảo hộ; hoặc
• Đơn được làm với mục đích không trung thực.

Các căn cứ tương đối để từ chối đăng ký gồm cả việc xung đột với các nhãn hiệu trước
đó. Do đó, việc đăng ký có thể bị từ chối vì:
• Nhãn hiệu tương tự với nhãn hiệu trước đó và hàng hóa hoặc dịch vụ sử dụng
nhãn hiệu tương tự với hàng hóa hoặc dịch vụ mang nhãn hiệu được bảo hộ
trước đó;
• Nhãn hiệu tương tự với nhãn hiệu trước đó và được đăng ký cho hàng hóa hoặc
dịch vụ tương tự với hàng hóa hoặc dịch vụ mang nhãn hiệu trước đó được bảo
hộ và có khả năng gây nhầm lẫn cho công chúng;
• Nhãn hiệu tương tự hoặc giống với các nhãn hiệu trước đó và được đăng ký cho
hàng hóa và dịch vụ cùng loại với hàng hóa và dịch vụ mang nhãn hiệu được

10
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
bảo hộ và sự tồn tại của nhãn hiệu có thể gây ra sự nhầm lẫn đối với công
chúng; và
• Nhãn hiệu trùng hoặc tương tự với nhãn hiệu trước đã nổi tiếng, hoặc có uy tín
trong một phạm vi nhất định, kể cả khi nhãn hiệu của người nộp đơn dự định sử
dụng cho hàng hóa/dịch vụ không tương tự với hàng hóa/dịch vụ đã được đăng
ký trước và khi việc sử dụng nhãn hiệu của người nộp đơn có thể lợi dụng một
cách không lành mạnh hoặc gây bất lợi cho đặc tính phân biệt của nhãn hiệu có
trước đó.
Ở một số hệ thống pháp luật, đơn đăng ký nhãn hiệu xung đột với nhãn hiệu có trước
đó sẽ được chấp nhận nếu đã và đang có “người sử dụng đồng thời trung thực” một
nhãn hiệu có sau mà không có sự phản đối của chủ sở hữu nhãn hiệu có trước đó để
đăng ký . Cũng có quy định yêu cầu có sự đồng ý của chủ sở hữu nhãn hiệu có trước
đó đối với việc đăng ký nhãn hiệu có sau.

Các căn cứ tuyệt đối và tương đối để từ chối được xem xét dưới đây.

‰ Các dấu hiệu có khả năng thể hiện dưới dạng đồ họa

Theo Điều 15.1 và Điều 2.1 của Hiệp ước Luật Nhãn hiệu (TLT), các quốc gia Thành
viên có thể yêu cầu, như một điều kiện đăng ký, các dấu hiệu phải có thể thấy được
một cách hữu hình. Có hai lý do giải thích yêu cầu này. Thứ nhất, thương nhân phải có
khả năng tìm hiểu một cách chắc chắn và chính xác về những gì đối thủ cạnh tranh
của mình đã đăng ký. Thứ hai, yêu cầu này có phép cơ quan nhãn hiệu xác định một
cách chắc chắn rằng nhãn hiệu bao gồm những gì để có thể thực hiện quá trình thẩm
định và công bố đơn đăng ký.

Như vậy, các dạng dấu hiệu có thể được đăng ký là:
- Từ ngữ: Nhóm này bao gồm tên công ty, họ, tên riêng, và từ ngữ bất kỳ
nào khác hoặc tập hợp các từ ngữ, dù được sáng tạo ra hay không và các khẩu
hiệu.
- Ký tự và con số: Một hoặc nhiều ký tự, một hoặc nhiều số hoặc sự kết hợp
bất kỳ của các ký tự và số.
- Hình họa: Nhóm này bao gồm các hình họa tưởng tượng, các hình vẽ, biểu
tượng và cả sự thể hiện hai chiều của hàng hóa hoặc bao bì .
- Sự kết hợp bất kỳ các dấu hiệu nêu trên, bao gồm cả lôgô và nhãn sản
phẩm.
- Nhãn hiệu màu: Nhóm này bao gồm các từ ngữ, hình họa và sự kết hợp bất
kỳ các dấu hiệu đó bằng màu sắc, cũng như việc kết hợp màu sắc và bản thân màu
sắc. Một số nhãn hiệu đăng ký sử dụng chuẩn màu PANTONE như một nguồn
tham khảo cho nhãn hiệu màu. Việc mô tả các màu sắc bằng từ ngữ là được phép.
11
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
- Dấu hiệu ba chiều: Loại điển hình của các dấu hiệu ba chiều hình dáng của
hàng hóa hoặc bao bì của chúng. Một số nước cho phép đăng ký nhãn hiệu ba
chiều, yêu cầu người nộp đơn nộp cả sự thể hiện hai chiều của dấu hiệu ba chiều
(bản vẽ, ảnh hoặc sự thể hiện bất kỳ có thể in được) hoặc một bản mô tả (hoặc cả
hai). Cần ghi nhận rằng một số nước loại trừ việc đăng ký dấu hiệu ba chiều là
hình dáng tự nhiên của hàng hóa hoặc chức năng của hàng hóa mà theo đó hình
dáng của hàng hóa tạo ra giá trị quan trọng của hàng hóa.
- Dấu hiệu có thể nghe thấy được: với điều kiện các dấu hiệu này được đăng
ký hoặc là thông qua các nốt nhạc hoặc thông qua bản mô tả (ví dụ,: tiếng khóc
của động vật). Một số nước cho phép đăng ký nhãn hiệu âm thanh. Khi âm thanh
được thu âm và băng catxet được nộp cho Cơ quan nhãn hiệu để đăng ký.
- Nhãn hiệu có thể ngửi được (Nhãn hiệu mùi): có các tiêu chuẩn được chấp
nhận về mùi thơm, ví dụ, Tiêu chuẩn Zwaardemaker (1985) và Tiêu chuẩn
Linnaeus (1756), tuy nhiên, bản mô tả bằng từ ngữ thông thường cũng được phép
(ví dụ, “mùi của cỏ mới cắt” dùng cho bóng ten-nít).
- Các dấu hiệu (vô hình) khác: Ví dụ về các dấu hiệu này là các dấu hiệu
được cảm nhận bằng xúc giác.

Cần ghi nhận rằng, như sẽ được bàn luận dưới đây, để mỗi loại dấu hiệu này có thể
được đăng ký, chúng phải thực hiện được chức năng của nhãn hiệu trong việc phân
biệt nguồn gốc của hàng hóa và dịch vụ.

Ví dụ, các dấu hiệu dưới đây đã bị Cơ quan Nhãn hiệu Anh từ chối vì không phải là
các mô tả đồ họa chính xác đầy đủ về nhãn hiệu:
• “kẹo ngọt gắn trên que”
• “thẻ tuần hoàn nén mô tả đồ thị nhịp tim nổi trên cả hai mặt, trong đó một mặt
chứa đựng một số từ ngữ và cụm từ mô tả bên trong đồ thị nhịp tim”.
• “máy hút bụi có thiết bị che phủ bên trong một cái vỏ bằng nhựa”.

Câu hỏi tự đánh giá

SAQ 3 (a) Việc bố trí ba lưỡi dao cạo trên một bàn cạo, theo hình tam giác đều,
có thể được đăng ký như một nhãn hiệu hình khối không?

A. Thứ nhất, việc bố trí lưỡi dao cạo có thể được thể hiện bằng đồ họa
dưới dạng hai chiều. Việc bố trí lưỡi dao cạo phải có khả năng được
người tiêu dùng phân biệt là sản phẩm của một doanh nghiệp cá biệt .
Việc đăng ký sẽ phải thỏa mãn điều kiện là dấu hiệu không phát sinh
từ chính trạng thái tự nhiên của dao cạo, hoặc liên quan đến chức năng
của dao cạo, hoặc hình khối đó mang lại giá trị quan trọng cho dao
12
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
cạo. Tòa án khi được yêu cầu xem xét tình huống thực tế trong vụ kiện
giữa Philips và Remington đã quyết định rằng việc bố trí đầu lưỡi dao
cạo không có tính phân biệt hoặc bị loại trừ đăng ký, vì nó liên quan
đến chức năng của hàng hóa.

SAQ 3 (b) Lý do bác bỏ việc đăng ký nước hoa như một nhãn hiệu có thể là gì?

A. Luật nhãn hiệu xác định sự phân biệt giữa nhãn hiệu và sản phẩm
mang nhãn hiệu đó. Do đó, nếu nước hoa là sản phẩm thì sự phân biệt
này sẽ mất đi.

SAQ 3 (c) Bạn có nghĩ rằng bản mô tả dưới đây được đăng ký như một nhãn hiệu
màu: “một bình thủy tinh màu xanh có các đặc tính quang học là nếu
thành bình dày 3mm, thì ở ngoài trời bình sẽ có bước sóng mạnh nhất
từ 472 đến 474 nanômét, độ tinh khiết 44-48% và độ sáng quang học
32%”?

A. Biết rằng ảnh phổ kế sẽ cần phải yêu cầu chuyển các đặc tính quang
học này thành “màu xanh cô ban”, nếu rất có thể việc đăng ký theo
quan điểm là nhãn hiệu màu không được bộc lộ đầy đủ cho người đọc
bản đăng ký. Tương tự, nhãn hiệu nước hoa mà được mô tả bằng việc
liên hệ đến việc mô tả sắc phổ khí là không được bộc lộ một cách đầy
đủ cho việc đăng ký.

‰ Tính phân biệt

Tiêu chí đối với đăng ký được đề cập trong Điều 15.1 Hiệp định TRIPs và Công ước
Paris là tiêu chí về tính phân biệt. Ví dụ, Điều 6quinquies, s.B.2 Công ước Paris cho
phép từ chối đăng ký nhãn hiệu mà ‘không hề có bất cứ đặc điểm phân biệt nào’. Việc
kiểm tra liệu một nhãn hiệu có tính phân biệt hay không bị giới hạn phụ thuộc vào sự
nhận biết của người tiêu dùng hoặc ít nhất là những người mà dấu hiệu hướng tới. Một
dấu hiệu được coi là có tính phân biệt đối với hàng hóa mang dấu hiệu đó nếu nó được
nhận biết bởi những người mà nó hướng đến như một loại hàng hóa xác định từ một
nguồn thương mại cụ thể hoặc có khả năng được nhận biết như vậy.

Các ví dụ về việc thiếu tính phân biệt của một nhãn hiệu bao gồm: dấu hiệu quá đơn
giản (hình một ngôi sao, một vương miện hoặc một chữ cái đơn lẻ) hoặc quá phức tạp
(tạo ra ấn tượng là một sự tô điểm hoặc trang trí cho hàng hóa liên quan, hoặc đơn

13
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
thuần là một khẩu hiệu bao gồm một lời khuyến nghị mua hoặc sử dụng hàng hóa đó),
hoặc khi dấu hiệu được xem xét đã trở thành phổ thông.

Dấu hiệu có tính phân biệt sẵn có

Hầu hết các luật nhãn hiệu đều phân biệt dấu hiệu có tính phân biệt sẵn có và các dấu
hiệu có thể trở nên phân biệt thông qua việc sử dụng. Sự khác biệt này được chỉ ra
trong Điều 15.1 Hiệp định TRIPs, theo đó quy định rằng ‘trường hợp bản thân các dấu
hiệu không có khả năng phân biệt hàng hóa hoặc dịch vụ tương ứng, các quốc gia
thành viên có thể quy định khả năng được đăng ký phụ thuộc vào tính phân biệt có
được thông qua việc sử dụng’.

Nhãn hiệu nhìn chung được hiểu là có tính phân biệt sẵn có nếu sự kết hợp nhãn hiệu
đó với sản phẩm sử dụng nhãn hiệu đó là ngẫu hứng có tính chất tưởng tượng. Ví dụ
điển hình về nhãn hiệu có tính phân biệt sẵn có là các từ tự đặt như KODAK, LEGO
hoặc XEROX. Cũng như các từ ngữ có mối quan hệ ngẫu hứng với sản phẩm mà
chúng mô tả có thể có tính phân biệt, như APPLE cho máy tính hoặc CAMEL cho
thuốc lá. Tên công ty có thể được xem là có tính phân biệt nếu được đưa ra dưới dạng
ký tự hoặc sự bố trí có tính phân biệt.

Theo quy tắc chung, một nhãn hiệu sẽ được coi là thiếu tính phân biệt nếu nó mô tả về
sản phẩm hoặc chất lượng của sản phẩm. Nhãn hiệu mô tả kiểu này có khả năng trở
nên có tính phân biệt khi ý nghĩa thứ hai bắt nguồn từ một công ty riêng biệt đã được
người tiêu dùng nhận biết mà trở nên quan trọng hơn là tính chất mô tả của dấu hiệu
đó. Ví dụ, trong vụ kiện ở Anh giữa Reddaway và Banham (1896), nhãn hiệu CAMEL
HAIR BELTING đã được người tiêu dùng có liên quan giải nghĩa là sản phẩm dây đai
bắt nguồn từ nguyên đơn.

Dưới đây là những nhãn hiệu đã bị bác bỏ ở Anh:

COFFEE HOUSE AROMA cho cà phê;


EASY FLOSSING cho “tăm xỉa răng tơ sồi”;
MINI CLAW cho dụng cụ làm vườn;
MINILITE cho bánh xe ô tô trọng tải nhẹ;
TREAT cho các loại nước sốt và xi rô tráng miệng;
WEB LINK cho một thiết bị phần mềm máy tính;
XPRESSLINK cho một thiết bị viễn thông.

Dưới đây là những nhãn hiệu đã bị bác bỏ tại OHIM:


1005 PURE GOODNESS cho mỹ phẩm;
14
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
COMPLETE cho xà phòng và mỹ phẩm;
ENVIRO-CHEM cho các dụng cụ đo lường và lắp đặt liên quan đến ô nhiễm, kiểm
soát và giảm ô nhiễm;
GLOBAL CHILLER cho các thiết bị làm lạnh;
GREENFILTER cho máy lọc;
LANDSCAPE cho đồ dùng nội thất, văn phòng, nhà bếp và các dịch vụ lắp đặt;
NATURAL BEAUTY cho xà phòng và nước hoa;
PETIT BEBE cho quần áo, giầy dép và mũ;
SO SOFT cho sữa, bơ và bơ thực vật;
SUPREME cho ảnh chụp;
ULTRA MOIST cho mỹ phẩm và xà phòng;
WWW.PRIMEBROKER.COM cho công cụ phần mềm cung cấp thông tin về cổ phiếu
và chứng khoán.

Dưới đây là những đơn đăng ký không bị từ chối:

Ở Anh:

ABERCROMBIE cho quần áo (vì có ít hơn 100 lần xuất hiện tên này trong danh bạ
điện thoại của thành phố lớn bất kỳ).
MISTER LONG cho kem, với điều kiện kem không dài một cách bất bình thường.

Tại OHIM:

CHEMFINDER cho phần mềm dùng trong tra cứu thuốc;


IMAGESTREAM cho phần mềm máy tính;
LASTING PERFORMANCE cho xà phòng rửa;
MAXIMA cho dụng cụ y tế và phẫu thuật;
NETMEETING cho các chương trình máy tính để giao tiếp qua các mạng máy tính;
RENOWN cho hành lý;
SMART OS cho phần mềm máy tính.

Câu hỏi tự đánh giá

Câu 4 (a) Bạn hình dung cơ quan nhãn hiệu sẽ quyết định thế nào về các đơn đăng
ký sau:
(i) THE WORLD’S FINEST cho thuốc lá;
(ii) CH25 cho nước hoa;
(iii) RAYMOND cho các dịch vụ làm tóc;
(iv) MAGNIFIQUE cho các trò chơi máy tính;
15
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
(v) HOLLY cho các dịch vụ kiến trúc cảnh quan;
(vi) SAKATA cho mực in và thuốc màu;
(vii) Một thiết bị có phần mô tả đồ họa một công-te-nơ chở dầu;
(viii) PORTFOLIO cho sách và vật mang dữ liệu từ tính;
(ix) LEND LEASE cho việc cung cấp các dịch vụ kiến trúc, xây dựng,
nhà cửa, cảnh quan làm vườn, xây dựng khách sạn và thiết kế
công nghiệp.

Trả lời.
(i) Sự diễn đạt này có thể được xem như một sự tự phóng đại quá
mức (“chỉ rít một hơi thuốc”) khi dùng cho thuốc lá, vì vậy, không
có ý nghĩa và có khả năng được đăng ký.
(ii) Hầu hết các cơ quan nhãn hiệu sẵn sàng đăng ký tổ hợp các từ và
các chữ cái, với điều kiện chúng không có nghĩa. Một ngoại lệ là
con số 4711 cho nước hoa, có liên hệ với địa chỉ ở Cologne nơi
sản xuất nước hoa Cologne có thương hiệu nổi tiếng trong một
thời gian dài.
(iii) Việc sử dụng tên riêng cho các tiệm uốn tóc là rất phổ biến và do
đó khiến cho dấu hiệu này không có tính phân biệt.
(iv) Mặc dù là một từ tiếng Pháp thông dụng mang nghĩa “nguy nga,
tráng lệ” nhưng có thể được đăng ký cho các trò chơi trên máy
tính nếu từ đó không được sử dụng một cách rộng rãi như một sự
mô tả chất lượng trong ngành công nghiệp này.
(v) Holly vừa là tên riêng ở các nước nói tiếng Anh vừa là tên một
loại cây bụi nên có thể coi là thiếu khả năng phân biệt đối với các
dịch vụ cảnh quan.
(vi) SAKATA là một thành phố của Nhật Bản với hơn 100.000 dân, là
một trung tâm sản xuất đồng thời cũng là một tên họ khá thông
dụng của Nhật Bản, do đó có thể không đủ khả năng phân biệt đối
với mực và thuốc màu.
(vii) Vì các nhà cung cấp dầu khác có thể muốn sử dụng thiết bị này,
cũng như các phiên bản ba chiều của nó nên nhãn hiệu này có thể
không được đăng ký trừ khi công-te-nơ đó có điểm khác biệt
riêng.
(viii) Việc sử dụng nhãn hiệu này đối với sách có thể không mang tính
phân biệt, nhưng nó có thể được chấp nhận khi sử dụng cho máy
ảnh mang dữ liệu từ tính.
(ix) Việc cung cấp các dịch vụ dịch vụ thiết kế kiến trúc, xây dựng,
cảnh quan làm vườn và thiết kế công nghiệp có thể không bị từ
chối vì dấu hiệu này chỉ ám chỉ các dịch vụ đó chứ không có mối
16
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
liên hệ trực tiếp và tức thì giữa các dịch vụ đó với việc cho thuê
mượn tài sản.

Câu 4 (b) Tại sao bạn lại nghĩ rằng những dấu hiệu từ ngữ: GAP (cho quần áo),
VIRGIN (cho hàng không), MARS (cho sôcôla), AMAZON (cho cửa
hàng sách trực tuyến) và MONT BLANC (cho các dụng cụ để viết) được
xem xét là các nhãn hiệu có khả năng phân biệt?

Trả lời. Vì những dấu hiệu này là có tính chất ngẫu hứng trong quan hệ với
các sản phẩm sử dụng dấu hiệu đó.

‰ Tính chất chung

Một hiện tượng nghịch lý trong luật nhãn hiệu đó là việc mất tính phân biệt khi một
nhãn hiệu trở nên gắn bó với loại sản phẩm sử dụng nó đến mức trở thành một sự mô
tả chung về sản phẩm đó. Ví dụ, các thuật ngữ chung “đồ nội thất” (chỉ đồ đạc nội thất
nói chung và cũng để chỉ bàn, ghế, v.v.) và “ghế” (để chỉ ghế). Các nhãn hiệu như
FRIGIDAIRE, CELLOPHANE, ESCALATOR, GRAMOPHONE và LINOLEUM
được đăng ký như các nhãn hiệu có tính phân biệt, về cơ bản đã trở thành các thuật
ngữ chung vì chúng là sản phẩm duy nhất trong nhóm sản phẩm của mình và vì chủ sở
hữu các nhãn hiệu đó đã không nỗ lực để ngăn cản chúng trở thành các từ chung. Ví
dụ, khi một tờ báo hoặc tạp chí sử dụng một nhãn hiệu theo cách chung chung thì chủ
sở hữu nhãn hiệu cần yêu cầu phải đăng thông báo đính chính lại cách sử dụng đó. Ví
dụ, mô tả trong một quảng cáo về dao cạo râu điện là “dao cạo râu điện ROLLS
ROYCE” cần được chủ sở hữu nhãn hiệu ROLLS ROYCE đính chính lại rằng nhãn
hiệu này là tài sản của Hãng ôtô Rolls Royce và nó chỉ được sử dụng trên xe ôtô do
hãng sản xuất.

Câu hỏi tự đánh giá

Câu 5 Báo cáo dưới đây xuất hiện trên một tờ báo. Hãy viết lại với sự dẫn
chiếu thỏa đáng tới quyền của các chủ sở hữu nhãn hiệu.

“Một nhóm thanh niên mặc đồ ray-ban và nike đã đột nhập vào
portacabin. Chúng cuỗm theo một loạt Rolexes và thoát khỏi hiện
trường trên những ván trượt bị một chiếc Mercedes đuổi theo rất sát.”

Trả lời. “Một nhóm thanh niên đeo kính râm hiệu RAY-BAN đã đột nhập vào
tòa nhà PORTACABIN. Chúng cuỗm theo một loạt đồng hồ hiệu

17
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
ROLEX và thoát khỏi hiện trường trên những ván trượt bị một chiếc xe
ôtô hiệu MERCEDES đuổi theo rất sát.”

‰ Nhãn hiệu bao gồm “các dấu hiệu hoặc chỉ dẫn riêng được sử dụng trong
thương mại có thể được dùng để chỉ chủng loại, chất lượng, số lượng, mục đích
dự kiến, giá trị, nguồn gốc địa lý, thời gian sản xuất hàng hóa hoặc cung cấp
dịch vụ hoặc các đặc điểm riêng khác của hàng hóa hoặc dịch vụ”;

Điều 6quinquies Công ước Paris quy định, bằng cách diễn đạt như trên, về việc từ chối
đăng lý các dấu hiệu có tính chất mô tả hàng hóa hoặc dịch vụ hoặc một số đặc tính
của hàng hóa/dịch vụ đó. Ý nghĩa của việc loại trừ này là nhằm giữ các dấu hiệu hoặc
chỉ dẫn mà những người kinh doanh thương mại trung thực có thể muốn sử dụng
không vì động cơ sai trái.

Ví dụ, ở Anh và OHIM đã từ chối đăng ký các nhãn hiệu theo nhiều căn cứ khác nhau
như:

Từ ngữ tán dương

Bị từ chối

100% PURE GOODNESS cho mỹ phẩm và dầu gội;


LASTING PERFORMANCE cho nước hoa, tinh dầu và mỹ phẩm;
OPTIMA cho máy dưỡng khí;
SUPREME cho các sản phẩm nhiếp ảnh;
TREAT cho các loại nước sốt và xi rô tráng miệng.

Không bị từ chối

MAXIMA cho thiết bị y tế và phẫu thuật.

Chỉ dẫn địa lý

Bị từ chối

ISLE OF SKYE cho rượu mạnh và rượu mùi, vì đó là hòn đảo Scôt-len nơi sản xuất
rượu whisky.

18
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
Không bị từ chối

VAL D’ISERE cho quần áo lót phụ nữ, vì không nhận định rằng sản phẩm may mặc
này được sản xuất trong khu trượt tuyết đó.

Dấu hiệu mô tả

Bị từ chối

BABY-DRY cho tã dùng một lần;


BROADBAND CODE MULTIPLE ACCESS cho các hệ thống viễn thông;
COFFEEMIX cho máy pha cà phê;
COMFORT PLUS cho thảm và các vật trải sàn;
COMPANYLINE cho các hoạt động bảo hiểm và tài chính;
COMPLETE cho xà phòng và mỹ phẩm;
DOUBLEMINT cho kẹo cao su, mỹ phẩm, thuốc đánh răng và các dược liệu bào chế;
ENAMELIZE cho thuốc đánh răng;
EUROLAMB cho thịt cừu;
FOODSAVER và FRESHSAVER cho máy đóng gói chân không;
FROOT LOOPS cho ngũ cốc;
GLOBAL CHILLER cho các thiết bị làm lạnh;
JIVE cho các loại băng tiếng và băng hình;
LANDSCAPE cho đồ đạc nội thất, văn phòng và nhà bếp;
MINI CLAW cho dụng cụ làm vườn;
ONE TOUCH VIEW cho điện thoại;
PETIT BEBE cho quần áo và giầy dép trẻ em;
PORTFOLIO cho sách và các ấn phẩm in;
WWW.PRIMEBROKERS.COM cho công cụ phần mềm buôn bán cổ phiếu doanh
nghiệp.

Không bị từ chối

LIGHT GREEN và YELLOW cho kẹo cao su;


OILGEAR cho máy bơm nước và ôtô, động cơ ôtô;
SWEDISH FORMULA cho mỹ phẩm, xà phòng và dầu gội.

Câu hỏi tự đánh giá

Câu 6 (a) Bình luận về khả năng được đăng ký của các nhãn hiệu dưới đây:
(i) KETTLE CLEAN cho chất pha chế làm sạch cặn;
19
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
(ii) BUDGET cho dịch vụ cho thuê ôtô;
(iii) OVERNIGHT cho dịch vụ giao hàng;
(iv) QUIKSLIM cho đồ ăn kiêng;
(v) Hình vẽ một chùm nho cho dịch vụ giải khát.

Trả lời Mỗi nhãn hiệu nêu trên đều có thể được người kinh doanh sử dụng với
dụng ý tốt.

Khi xem xét một thuật ngữ có tính thông dụng trong thương mại hay không, Cơ quan
đăng ký sẽ dùng các danh bạ và từ điển để xác định việc sử dụng nhãn hiệu có là thông
lệ trong thương mại hay không.

Tính phân biệt có được thông qua việc sử dụng

Khi xác định một nhãn hiệu có trở nên có tính phân biệt thông qua việc sử dụng hay
không, sẽ thực hiện một đánh giá tổng thể để xem xem liệu nhãn hiệu đó có dẫn đến
việc nhận diện được sản phẩm bắt nguồn từ một doanh nghiệp riêng biệt và do đó phân
biệt nó với sản phẩm của các doanh nghiệp khác. Nhận thức về nhãn hiệu trong tâm trí
người tiêu dùng bình thường về hàng hóa hoặc dịch vụ đóng vai trò quyết định.

Câu hỏi tự đánh giá

Câu 7 Chứng cứ nào sẽ được dựa vào để xác định tính phân biệt của một nhãn
hiệu có được thông qua việc sử dụng?

Trả lời. Điểm xuất phát sẽ thường là các chứng cứ tài chính về doanh thu, chi phí
quảng cáo và xúc tiến hàng hóa hoặc dịch vụ cùng với các ví dụ về việc
nhãn hiệu được sử dụng trong thực tế như thế nào. Nguồn chứng cứ tốt
nhất là nhóm người tiêu dùng có liên quan. Các cuộc thăm dò thị trường
được tổ chức tốt cũng có thể có tính thuyết phục.

‰ Nhãn hiệu trái với lợi ích công cộng hoặc các quy tắc đạo đức đã được chấp
nhận;

Căn cứ loại trừ này được thiết lập nhằm ngăn chặn việc đăng ký nhãn hiệu có thể xúc
phạm đến một bộ phận công chúng. Việc xúc phạm có thể phát sinh bởi các vấn đề về
chủng tộc, giới tính, tín ngưỡng tôn giáo hoặc các vấn đề chung về sở thích và lễ giáo.
Việc xúc phạm có thể bằng hình ảnh hoặc từ ngữ. Những nhãn hiệu khuyến khích hoặc
cổ động cho các hành vi tội phạm là ví dụ rõ ràng về loại nhãn hiệu có thể bị loại trừ
này.
20
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
‰ Nhãn hiệu gây nhầm lẫn

Căn cứ loại trừ tuyệt đối việc đăng ký này liên quan đến tính gây nhầm lẫn sẵn có của
chính bản thân nhãn hiệu hơn là sự tương tự gây nhầm lẫn của nó với một nhãn hiệu
khác. Ví dụ về nhãn hiệu có tính gây nhầm lẫn sẵn có là:

• ORLWOOLA cho quần áo không làm toàn bằng len;


• CHINA-THERM cho cốc nhựa cách nhiệt;
• FILLET-O-FISH cho đồ ăn chỉ có thành phần cá;
• ROYAL WORCESTER ám chỉ sự sai lệch về sự bảo trợ của hoàng gia
cho đồ sứ từ vùng Worcester Hoa Kỳ.

‰ Nhãn hiệu trái pháp luật

Một số quốc gia cấm các nhãn hiệu bị cấm theo quy định của các luật không phải là
luật nhãn hiệu. Ví dụ về các nhãn hiệu bất hợp pháp là:

• Sử dụng dấu hiệu Chữ thập đỏ trái với quy định nêu tại phần 6 Luật
Công ước Genevơ 1957;
• Sử dụng từ ngữ hoặc các thành phần trái với pháp luật về phân biệt
chủng tộc hoặc hằn thù chủng tộc;
• Sử dụng sai lệch các chỉ dẫn địa lý đã được bảo hộ như “Champagne”
hoặc “Cognac”.

‰ Biểu tượng đã được bảo hộ một cách đặc biệt

Hầu hết các luật nhãn hiệu đều loại trừ việc bảo hộ các biểu tượng đặc biệt nhất định
đã được bảo hộ. Chúng bao gồm:

• Quốc huy của các nước ký kết Công ước Paris;


• Biểu tượng của các tổ chức quốc tế nhất định;
• Các biểu tượng Olympic.

‰ Đơn đăng ký không trung thực

21
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
Nhiều luật nhãn hiệu quy định việc từ chối các đơn đăng ký không trung thực.
Trường hợp phổ biến nhất về hành vi không trung thực là đơn được làm bởi những
người không phải là chủ sở hữu nhãn hiệu.

Ví dụ:

• Đăng ký trái phép nhãn hiệu nổi tiếng bởi các bên thứ ba;
• Đăng ký nhãn hiệu bởi bên nhận li-xăng hoặc nhà phân phối sản phẩm mang
nhãn hiệu;
• Đăng ký nhãn hiệu bởi những người nộp đơn không thành công để chỉ định các
nhà phân phối sản phẩm mang nhãn hiệu đó;
• Đơn đăng ký có dụng ý xấu khi sử dụng nhãn hiệu;
• Người nộp đơn biết rằng người khác có ý định sử dụng và/hoặc đăng ký nhãn
hiệu, đặc biệt khi người nộp đơn có quan hệ với người này, ví dụ, người phân
phối, đại lý hoặc người lao động.

Việc kiểm nghiệm ý đồ không trung thực ở chỗ liệu người nộp đơn có thể được cho là
tuân thủ đúng các tiêu chuẩn về hành vi thương mại đã được thiết lập hay không.

Công ước Paris không cho phép việc bảo hộ nhãn hiệu gồm ‘một dấu hiệu hoặc chỉ
dẫn được sử dụng trong lĩnh vực thương mại có liên quan để chỉ chủng loại, chất
lượng, số lượng, mục đích sử dụng, giá trị, xuất xứ, hoặc thời gian sản xuất hoặc đã trở
thành thông dụng trong ngôn ngữ hiện thời hoặc trong các tập quán thương mại lành
mạnh và lâu đời tại các nước có yêu cầu bảo hộ’.

‰ Các căn cứ tương đối để từ chối đăng ký

Đăng ký có thể bị từ chối theo Công ước Paris đối với các nhãn hiệu ‘khi chúng về bản
chất xâm phạm quyền có được của các bên thứ ba ở nước có yêu cầu bảo hộ’. Điều
này được chỉ ra rằng các quyền của bên thứ ba này có thể liên quan đến các nhãn hiệu
đã được bảo hộ ở nước có liên quan, hoặc các quyền SHTT và các quyền có liên quan
khác như ‘quyền đối với tên thương mại hoặc bản quyền hoặc …nếu một nhãn hiệu
xâm phạm quyền riêng tư của người khác’.

Một nhãn hiệu sẽ xâm phạm các quyền có được của bên thứ ba nếu:

• Các nhãn hiệu và hàng hóa/dịch vụ sử dụng các nhãn hiệu đó giống nhau;
• Có khả năng gây nhầm lẫn cho công chúng vì sự giống nhau của nhãn hiệu
hoặc hàng hóa/dịch vụ; và

22
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
• Khi nhãn hiệu có trước đã có danh tiếng hoặc nổi tiếng trong nước và việc sử
dụng nhãn hiệu đăng ký sau có thể gây bất lợi hoặc thiệt hại cho đặc tính hoặc
danh tiếng của nhãn hiệu có trước.

Nhãn hiệu giống nhau cho hàng hóa hoặc dịch vụ giống nhau

Căn cứ tương đối đầu tiên để từ chối đơn đăng ký nhãn hiệu là khi nhãn của người nộp
đơn giống với một nhãn hiệu có trước đã được đăng ký cho cùng loại hàng hóa hoặc
dịch vụ như nhãn của người nộp đơn. Nhãn hiệu có trước là nhãn hiệu có ngày nộp
đơn đăng ký sớm hơn hoặc có ngày ưu tiên sớm hơn có thể được yêu cầu theo Công
ước Paris.

Nhãn hiệu tương tự hoặc giống nhau cho hàng hóa hoặc dịch vụ tương tự hoặc giống
nhau, nếu có khả năng gây nhầm lẫn

Đăng ký nhãn hiệu có thể bị từ chối theo các căn cứ tương nếu có khả năng gây nhầm
lẫn trong một bộ phận công chúng liên quan tới:

• Một nhãn hiệu có trước tương tự được đăng ký cho hàng hóa hoặc dịch vụ
tương tự với hàng hóa/dịch vụ mà người nộp đơn yêu cầu; hoặc
• Một nhãn hiệu có trước tương tự được đăng ký cho cùng loại hàng hóa hoặc
dịch vụ mà người nộp đơn yêu cầu.

Khi đánh giá khả năng gây nhầm lẫn, tòa án có xu hướng đánh giá ở cấp độ toàn cầu
về tính tương tự về cách thể hiện, sự phát âm hoặc ý nghĩa của các nhãn hiệu đang
được xem xét, lưu ý các thành tố đặc thù và quan trọng cũng như mức độ tương tự
giữa các hàng hóa hoặc dịch vụ có liên quan. Do đó, mức độ ít giống nhau hơn về
nhãn hiệu có thể được bù lại bởi mức độ giống nhau nhiều hơn về hàng hóa hoặc dịch
vụ, hoặc ngược lại.

Chuẩn nhận thức có xu hướng được chấp nhận là mức độ nhận thức của người tiêu
dùng trung bình. Thực tế được tính đến là người tiêu dùng trung bình sẽ chỉ nhớ lại
một cách không đầy đủ về nhãn hiệu có trước. Mức độ quan tâm đó của của người tiêu
dùng đó có thể là rất khác nhau phụ thuộc vào chủng loại hàng hóa hoặc dịch vụ và
hoàn cảnh mà chúng được đưa ra thị trường. Do đó, hàng hóa giá rẻ bán ở siêu thị để
trên cùng giá với các hàng hóa tương tự sẽ thường ít được quan tâm hơn hàng hóa giá
cao bán ở phòng trưng bày.

Theo nguyên tắc chung, nhãn hiệu có trước càng có tính phân biệt thì càng có khả
năng bị gây nhầm lẫn. Để đánh giá, tòa án sẽ chú ý tới thị phần của nhãn hiệu, mức độ
23
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
sử dụng, khu vực địa lý có sản phẩm mang nhãn hiệu, chi phí cho quảng cáo và xúc
tiến thương mại, mức độ nhận biết về nhãn hiệu của công chúng có liên quan.

Ví dụ về hàng hóa hoặc dịch vụ bị cho là tương tự theo các quyết định của Cơ quan
đăng ký Anh và OHIM:

• Cà phê, chè và cacao được xem là tương tự với các chất thay thế cà phê do cách
sử dụng tương tự;
• Phân bón hữu cơ được xem là hàng hóa tương tự với các hóa chất sử dụng trong
nghề làm vườn và lâm nghiệp;
• Rượu vang tương tự với whisky và các dịch vụ quầy rượu;
• Dịch vụ của các thẩm mỹ viện tương tự với hoạt động kinh doanh hỗ trợ dùng
các chế phẩm làm đẹp.

Hàng hóa và dịch vụ được xem là không tương tự bao gồm:

• Túi, vali và ví làm bằng da với bật lửa hút thuốc và nhiên liệu dùng cho bật lửa;
• Túi thể thao, túi dùng để mua sắm, túi dùng trong nhà vệ sinh và các túi chìa
khóa với quần áo.

Câu hỏi tự đánh giá

Câu 8 Chủ sở hữu nhãn hiệu đã được đăng ký SOUTHERN CROSS cho máy
và dụng cụ vắt sữa có thể phản đối được việc đăng ký cùng nhãn hiệu đó
cho tủ lạnh, máy giặt và các đồ dùng gia đình không?

Trả lời. Vì nhãn hiệu là giống nhau nên câu trả lời sẽ phụ thuộc vào việc liệu
những loại hàng hóa đó có được xem là tương tự nhau theo người tiêu
dùng trung bình đánh giá không. Điều này sẽ bị tác động bởi các kênh
thương mại mà hàng hóa đó được bán ra. Ví dụ, trong trường hợp thực tế
ở Australia, tại các vùng nông thôn người ta thấy rằng máy vắt sữa được
bán trong cùng cửa hàng bán đồ dùng gia đình và do đó người tiêu dùng
có thể bị nhầm lẫn bởi việc sử dụng một nhãn hiệu giống nhau cho các
hàng hóa này.

‰ Nhãn hiệu nổi tiếng

Có một cơ chế bảo hộ đặc biệt cho các nhãn hiệu được coi là “nổi tiếng”. Cơ chế này
được thiết lập theo Điều 6bis(1) Công ước Paris, theo đó cho phép các nước thành viên
của Liên minh Paris
24
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
.
..từ chối hoặc hủy bỏ đăng ký, cấm sử dụng nhãn hiệu mà nhãn hiệu đó là sự
sao chép, bắt chước, biên dịch và có khả năng gây nhầm lẫn với nhãn hiệu đã
được cơ quan có thẩm quyền của nước đăng ký hoặc nước sử dụng coi là nhãn
hiệu nổi tiếng tại nước đó của người được Công ước cho hưởng lợi thế sử dụng
nhãn hiệu đó trên các loại hàng hóa giống hoặc tương tự.

Điều này cũng được áp dụng ‘khi thành phần chủ yếu của nhãn hiệu là sự sao chép của
một nhãn hiệu nổi tiếng hoặc là sự bắt chước có khả năng gây nhầm lẫn với nhãn hiệu
đó’. Thời hạn 5 năm kể từ ngày đăng ký được cho phép theo Điều 6bis(2) để hủy bỏ
các đăng ký trái phép nhãn hiệu nổi tiếng nhưng với những nhãn hiệu ‘đăng ký hoặc
sử dụng với dụng ý xấu’ thì Điều 6bis(3) không quy định thời hạn để yêu cầu hủy bỏ
hoặc cấm một nhãn hiệu nổi tiếng trái phép. Điều 16.2 Hiệp định TRIPs quy định rằng
‘Điều 6bis Công ước Paris (1967) sẽ được áp dụng với những sửa đổi thích hợp đối
với các dịch vụ’ và Điều 16.3 quy định ‘Điều 6bis Công ước Paris (1967) sẽ được áp
dụng với những sửa đổi thích hợp cho hàng hóa hoặc dịch vụ không tương tự với hàng
hóa hoặc dịch vụ mà nhãn hiệu đã đăng ký.

Lợi ích của cơ chế bảo hộ theo các điều khoản tương ứng của Công ước Paris là việc
bảo hộ này có thể được thực hiện thậm chí không cần phải đăng ký. Vấn đề bảo hộ
nhãn hiệu nổi tiếng thường phát sinh trong các thị trường mới, thường ở các nước
trước đó đã đóng cửa với các thương gia nước ngoài hoặc do sự phát triển kinh tế
nhanh chóng đã trở nên hấp dẫn với các nhà cung ứng sản phẩm đã có thương hiệu.

Điều 16.2 quy định rằng ‘[i]để xác định một nhãn hiệu có nổi tiếng hay không cần phải
xem xét danh tiếng của nhãn hiệu đó trong bộ phận dân chúng có liên quan....’Bằng
chứng về khảo sát thị trường thường được sử dụng để chứng minh danh tiếng của một
nhãn hiệu đối với công chúng.

Điều 16.2 cũng đề cập đến ‘danh tiếng...có được nhờ hoạt động quảng bá nhãn hiệu
đó’ để xác định một nhãn hiệu có nổi tiếng hay không.

Phiên họpWIPO tháng 9/1999 của Hội đồng Công ước Paris và Đại hội đồng của
WIPO đã thông qua Bản kiến nghị chung sau đây của Ủy ban thường trực về sáng chế
(SCP) liên quan đến các quy định về việc bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng:

Xác định nhãn hiệu nổi tiếng

25
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
Khi xác định một nhãn hiệu có phải là nhãn hiệu nổi tiếng hay không, SCP khuyến
nghị các cơ quan có thẩm quyền nên xem xét tất cả các trường hợp có thể kết luận
nhãn hiệu đó là nổi tiếng. Cụ thể là:

(i) mức độ hiểu biết hoặc nhận biết nhãn hiệu của bộ phận công chúng có
liên quan;
(ii) thời hạn, phạm vi và khu vực địa lý có sử dụng nhãn hiệu;
(iii) thời hạn, phạm vi và khu vực địa lý có hoạt động quảng bá nhãn hiệu
bao gồm quảng cáo, công bố và trưng bày hàng hóa và/hoặc dịch vụ
mang nhãn hiệu đó ở các hội chợ, triển lãm;
(iv) thời hạn và khu vực địa lý mà nhãn hiệu đã được đăng ký và/hoặc nộp
đơn đăng ký nhãn hiệu, phản ánh việc sử dụng hoặc nhận biết về nhãn
hiệu đó;
(v) kết quả thực hiện thành công các quyền đối với nhãn hiệu, đặc biệt là
mức độ nhãn hiệu được thừa nhận là nổi tiếng bởi các cơ quan có thẩm
quyền; và
(vi) giá trị đi kèm với nhãn hiệu.

Phải thừa nhận rằng việc xác định nhãn hiệu nổi tiếng trong mỗi trường hợp phụ thuộc
vào từng hoàn cảnh đặc thù. Trong một số trường hợp, tất cả các yếu tố đều có thể có
liên quan. Trong các trường hợp khác, chỉ có một số yếu tố có liên quan.

Bộ phận công chúng có liên quan để xác định danh tiếng của một nhãn hiệu có thể bao
gồm:

(i) người tiêu dùng thực tế và/hoặc tiềm năng của loại hàng hóa và/hoặc
dịch vụ mang nhãn hiệu;
(ii) người tham gia vào các kênh phân phối loại hàng hóa và/hoặc dịch vụ
mang nhãn hiệu;
(iii) các chu kỳ kinh doanh liên quan tới loại hàng hóa và/hoặc dịch vụ mang
nhãn hiệu.

SCP khuyến nghị rằng, khi một nhãn hiệu được xác định là nổi tiếng trong ít nhất một
bộ phận công chúng có liên quan ở một nước thành viên, thì nhãn hiệu đó sẽ được
nước thành viên đó coi là nhãn hiệu nổi tiếng.

SCP khuyến nghị rằng, một nước thành viên sẽ không đòi hỏi các trường hợp sau như
một điều kiện để xác định nhãn hiệu có nổi tiếng hay không:
(i) nhãn hiệu đã và đang được sử dụng, đăng ký hoặc đơn đăng ký nhãn hiệu
đã được nộp ở một nước hoặc có chỉ định nước thành viên đó;
26
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
(ii) nhãn hiệu được biết đến một cách rộng rãi hoặc được đăng ký hoặc đơn
đăng ký nhãn hiệu đã được nộp tại hoặc có chỉ định bất kỳ hệ thống tài
phán nào ngoài nước thành viên;
(iii) nhãn hiệu đó được biết đến một cách rộng rãi bởi bộ phận lớn công
chúng ở nước thành viên.
Tuy nhiên, một nước thành viên có thể yêu cầu nhãn hiệu phải được biết đến rộng rãi
trong một hoặc nhiều hệ thống tài phán khác ngoài nước thành viên.

Nhãn hiệu có tranh chấp

SCP khuyến nghị rằng, một nhãn hiệu sẽ được xem là đang tranh chấp với một nhãn
hiệu nổi tiếng khi nhãn hiệu đó hoặc thành phần chủ yếu của nhãn hiệu đó là sự sao
chép, bắt chước, biên dịch nhãn hiệu nổi tiếng có khả năng gây nhầm lẫn, nếu nhãn
hiệu đó hoặc thành phần chủ yếu của nhãn hiệu đó đang được sử dụng là đối tượng của
đơn đăng ký hoặc được đăng ký cho hàng hóa và/hoặc dịch vụ giống hoặc tương tự với
hàng hóa và/hoặc dịch vụ mang nhãn hiệu nổi tiếng. Trường hợp này xảy ra, không
phụ thuộc vào hàng hóa và/hoặc dịch vụ mang nhãn hiệu, khi việc sử dụng nhãn hiệu
có thể:

(i) cho thấy mối quan hệ giữa hàng hóa và/hoặc dịch vụ mang nhãn hiệu là
đối tượng của đơn đăng ký hoặc đã được đăng ký với chủ sở hữu nhãn
hiệu nổi tiếng, và có thể gây thiệt hại cho lợi ích của chủ sở hữu đó; việc
sử dụng nhãn hiệu đó có thể làm tổn hại hoặc làm giảm đặc tính phân biệt
của nhãn hiệu nổi tiếng một cách sai trái;
(ii) lợi dụng một cách sai trái về đặc tính phân biệt của nhãn hiệu nổi tiếng.

Để xác định một nhãn hiệu có tranh chấp với một nhãn hiệu nổi tiếng hay không, nước
thành viên không bị yêu cầu phải xác định liệu nhãn hiệu có được sử dụng, đăng ký
hoặc đơn đăng ký đã được nộp hay không tại hoặc có chỉ định nước thành viên cho
hàng hóa và/hoặc dịch vụ giống hoặc tương tự với hàng hóa và/hoặc dịch vụ mang
nhãn hiệu nổi tiếng trước khi nhãn hiệu nổi tiếng đó trở nên nổi tiếng ở nước thành
viên đó, ngoại trừ việc nhãn hiệu được sử dụng, đăng ký hoặc nộp đơn đăng ký với
dụng ý xấu.

Thủ tục phản đối, đình chỉ hiệu lực và ngăn cấm việc sử dụng

Nếu luật áp dụng cho phép các bên thứ ba phản đối đăng ký của một nhãn hiệu, SCP
khuyến nghị rằng việc tranh chấp với một nhãn hiệu nổi tiếng sẽ tạo thành một căn cứ
cho việc phản đối.

27
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
Chủ sở hữu nhãn hiệu nổi tiếng, trong thời hạn không dưới 5 năm kể từ ngày việc đăng
ký nhãn hiệu được cơ quan nhãn hiệu công bố công khai, được quyền yêu cầu đình chỉ
hiệu lực đăng ký nhãn hiệu có tranh chấp với nhãn hiệu nổi tiếng bằng một quyết định
của cơ quan có thẩm quyền.

Nếu đăng ký nhãn hiệu bị đình chỉ hiệu lực theo quyết định chủ động của cơ quan có
thẩm quyền, thì trong thời hạn không dưới 5 năm kể từ ngày cơ quan nhãn hiệu công
bố công khai về việc đăng ký, tranh chấp với nhãn hiệu nổi tiếng sẽ là căn cứ cho việc
đình chỉ này.

Chủ sở hữu nhãn hiệu nổi tiếng có quyền yêu cầu ngăn cấm việc sử dụng nhãn hiệu có
tranh chấp với nhãn hiệu nổi tiếng bằng một quyết định của cơ quan có thẩm quyền.
Yêu cầu đó sẽ được chấp nhận trong thời hạn không dưới 5 năm kể từ thời điểm chủ
sở hữu nhãn hiệu nổi tiếng biết được việc sử dụng nhãn hiệu có tranh chấp. Tuy nhiên,
trong trường hợp nhãn hiệu đăng ký có dụng ý xấu thì không hạn chế thời hạn yêu cầu
đình chỉ đăng ký của nhãn hiệu có tranh chấp với nhãn hiệu nổi tiếng.

Để xác định dụng ý xấu, cơ quan có thẩm quyền sẽ xem xét người có đăng ký hoặc
người sử dụng nhãn hiệu có tranh chấp với nhãn hiệu nổi tiếng vào thời điểm nhãn
hiệu được đăng ký hoặc sử dụng hoặc nộp đơn đăng ký có biết hoặc có lý do để biết
nhãn hiệu nổi tiếng đó hay không.

Các dấu hiệu kinh doanh/tên hiệu kinh doanh có tranh chấp

Cuối cùng, SCP đưa ra vấn đề về các tên hiệu kinh doanh có tranh chấp. Một tên hiệu
kinh doanh theo quy định được xem là có tranh chấp với một nhãn hiệu nổi tiếng nếu
tên hiệu đó hoặc thành phần chủ yếu của nó là sự sao chép, bắt chước, biên dịch hoặc
chuyển ngữ từ nhãn hiệu nổi tiếng và thỏa mãn ít nhất một trong số các điều kiện sau:

(i) việc sử dụng tên hiệu kinh doanh cho thấy có mối quan hệ giữa hoạt
động kinh doanh sử dụng tên hiệu với chủ sở hữu nhãn hiệu nổi tiếng và
có khả năng làm thiệt hại đến lợi ích của chủ sở hữu đó;
(ii) việc sử dụng tên hiệu kinh doanh có thể làm tổn hại hoặc giảm sút đặc
tính phân biệt của nhãn hiệu nổi tiếng một cách sai trái;
(iii) việc sử dụng tên hiệu kinh doanh lợi dụng một cách sai trái đặc tính phân
biệt của nhãn hiệu nổi tiếng.

Chủ sở hữu nhãn hiệu nổi tiếng có quyền yêu cầu ngăn cấm việc sử dụng tên hiệu kinh
doanh có tranh chấp với nhãn hiệu nổi tiếng bằng một quyết định của cơ quan có thẩm
quyền. Yêu cầu đó sẽ được chấp nhận trong thời hạn không dưới 5 năm kể từ thời
28
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
điểm chủ sở hữu nhãn hiệu nổi tiếng biết được việc sử dụng tên hiệu kinh doanh có
tranh chấp. Không giới hạn thời hạn trên đối với trường hợp có dụng ý xấu.

Câu hỏi tự đánh giá

Câu 9 Những yếu tố nào sẽ được thẩm định để xác định một nhãn hiệu có nổi
tiếng hay không?

Trả lời. Trong các yếu tố sẽ được xem xét để đánh giá mức độ nổi tiếng của một
nhãn hiệu gồm có (i) chi phí dành cho quảng cáo và phạm vi tuyên
truyền quảng cáo đến các các khách hàng mục tiêu có liên quan; (ii) lịch
sử đăng ký nhãn hiệu bao gồm ngày đăng ký đầu tiên ở nước cụ thể; (iii)
phạm vi đăng ký nhãn hiệu ở cấp độ toàn cầu; (iv) tuyên bố của cơ quan
nhãn hiệu trong các vụ phản đối hoặc của tòa án về danh tiếng của nhãn
hiệu; và (v) giá trị của nhãn hiệu như là một tài sản trong sổ sách kế toán
của một công ty.

Quyền của chủ sở hữu nhãn hiệu nổi tiếng theo Công ước Paris bao gồm việc ngăn cản
bên thứ ba không được phép đăng ký hoặc sử dụng nhãn hiệu đó cho hàng hóa giống
hoặc tương tự. Điều 16.3 Hiệp định TRIPS mở rộng sự bảo hộ theo Công ước Paris

...hàng hóa hoặc dịch vụ không tương tự với hàng hóa hoặc dịch vụ mang nhãn
hiệu được đăng ký kèm theo một nhãn hiệu với điều kiện việc sử dụng nhãn
hiệu đó cho những hàng hóa hoặc dịch vụ nêu trên chỉ ra rằng có một mối liên
hệ giữa hàng hóa hoặc dịch vụ đó với chủ sở hữu nhãn hiệu đã đăng ký và với
điều kiện lợi ích của chủ sở hữu nhãn hiệu đã đăng ký có nguy cơ bị việc sử
dụng nêu trên gây tổn hại.

Tại Hoa Kỳ, chủ sở hữu nhãn hiệu nổi tiếng có thể kiện việc sử dụng nhãn hiệu không
được phép của bên thứ ba cho nhóm hàng hóa hoặc dịch vụ không trùng với nhóm
hàng hóa hoặc dịch vụ đi kèm với nhãn hiệu đã đăng ký vì làm lu mờ hoặc ảnh hưởng
xấu đến danh tiếng của nhãn hiệu. Tại châu Âu, việc bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng đạt
được bằng cách ngăn cấm các hành vi lợi dụng một cách sai trái danh tiếng của nhãn
hiệu và các hành vi gây tổn hại đến đặc tính phân biệt hoặc danh tiếng của nhãn hiệu.

‰ Thời hạn và gia hạn

Điều 18 Hiệp định TRIP quy định ‘đăng ký lần đầu và mỗi lần gia hạn đăng ký một
nhãn hiệu có thời hạn không dưới 7 năm’. Điều khoản này cũng quy định về việc
không giới hạn số lần gia hạn. Điều này không đề cập đến thời điểm bắt đầu có hiệu
29
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
lực bảo hộ. Có hai khả năng là việc bảo hộ bắt đầu từ ngày nộp đơn, đây là cách phổ
biến nhất trong các luật nhãn hiệu, hoặc từ ngày đăng ký theo cách tiếp cận ở Hoa Kỳ.
Tuy nhiên, theo điều 4 Công ước Paris quyền ưu tiên sẽ được tính ngược trở lại ngày
nộp đơn đăng ký, với điều kiện đơn nộp ở nước ngoài phải được nộp trong vòng 6
tháng kể từ ngày nộp đơn đầu tiên.

‰ Các quyền phát sinh từ đăng ký nhãn hiệu

Chủ sở hữu nhãn hiệu đã được đăng ký có độc quyền sử dụng nhãn hiệu. Định nghĩa
ngắn gọn về các đối tượng cụ thể của các quyền đối với nhãn hiệu bao gồm: quyền sử
dụng nhãn hiệu và quyền ngăn cấm người khác sử dụng nhãn hiệu đó.

(a) Quyền sử dụng nhãn hiệu

Quyền sử dụng tuyệt đối này thuộc về chủ sở hữu nhãn hiệu được ghi nhận trong hầu
hết các luật nhãn hiệu. Đương nhiên, quyền sử dụng cũng phụ thuộc vào các luật và
các quyền khác như một quyền bất kỳ khác được pháp luật quy định. Những điều
được phép theo luật nhãn hiệu có thể lại bị cấm theo luật cạnh tranh hoặc bởi quy tắc
công cộng.

Quyền sử dụng nghĩa là (i) quyền của chủ sở hữu nhãn hiệu gắn nhãn hiệu lên hàng
hóa, côngtenơ, bao gói, nhãn, v.v. hoặc sử dụng nhãn hiệu theo cách thức bất kỳ khác
liên quan tới hàng hóa mang nhãn hiệu đã được đăng ký; (ii) quyền của chủ sở hữu
nhãn hiệu sử dụng nhãn hiệu của mình trong quảng cáo, giấy tờ, tài liệu giao dịch
kinh doanh, v.v. và (iii) quyền giới thiệu hàng hóa ra thị trường với nhãn hiệu đó.

Tuy nhiên khi chủ sở hữu nhãn hiệu đã đưa sản phẩm ra thị trường với nhãn hiệu của
mình, chủ sở hữu đó không thể phản đối việc bán thêm sản phẩm trong chu trình
thương mại. Điều này là bản chất của nguyên tắc được gọi là khai thác hết quyền đối
với nhãn hiệu. Một số nước không cho phép phản đối việc nhập khẩu song song sản
phẩm đã được chủ sở hữu nhãn hiệu hoặc bên thứ ba được phép của chủ sở hữu đó
đưa ra tiêu thụ ở thị trường nước ngoài. Các quốc gia khác lại cấm việc nhập khẩu
song song như vậy bởi áp dụng nguyên tắc lãnh thổ của quyền.

Liên minh châu Âu (EU) áp dụng nguyên tắc khai thác hết quyền đối với hàng hóa
lần đầu được đưa ra thị trường ở EU. Việc phản đối chỉ có thể được áp dụng đối với
hàng hóa nhập khẩu vào một nước EU từ hàng hóa lần đầu được bán ở các nước
thành viên EU khác khi chủ sở hữu nhãn hiệu có thể được cho là không chắc chắn
đồng ý xuất khẩu hàng hóa đó. Theo luật EU, chủ sở hữu nhãn hiệu có thể ngăn cản

30
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
các hàng hóa mang nhãn hiệu nhập khẩu từ các nước bên ngoài EU, khi không có sự
đồng ý của chủ sở hữu nhãn hiệu về việc tái xuất hàng hóa.

Một số nước cũng đưa ra quyết định chủ sở hữu nhãn hiệu có thể phản đối việc nhập
khẩu song song phụ thuộc vào việc liệu người tiêu dùng có bị nhầm lẫn về các đặc
tính hoặc chất lượng của hàng hóa nhập khẩu hay không. Ví dụ, nếu hàng hóa mang
nhãn hiệu của một nước được đóng gói lại trong các thùng cáctông để xuất khẩu sang
một nước khác, và nếu việc đóng gói lại này là do chất lượng thấp, ví dụ, điều kiện
hàng hóa không tốt, thì sự phản đối có thể được tiến hành đối với việc nhập khẩu
hàng hóa bị đóng gói lại đó.

Câu hỏi tự đánh giá

Câu 10 Các dược phẩm mang nhãn hiệu được đưa ra thị trường Trung Quốc,
trên bao bì in chữ Trung Quốc. Người bán hàng ở cửa hàng giảm giá tại
Anh mua các dược phẩm này ở Trung Quốc và đóng gói lại trong bao bì
bằng tiếng Anh cùng với nhãn hiệu gốc. Chủ nhãn hiệu có thế phản đối
việc bán dược phẩm đó ở Anh hay không?

Trả lời Câu hỏi đầu tiên cần được trả lời là chủ sở hữu nhãn hiệu có cho phép
người mua ở Trung Quốc bán hàng ở ngoài nước này hay không. Thứ
hai, tòa án sẽ phải xem xét liệu việc đóng gói lại có ảnh hưởng xấu đến
các điều kiện của hàng hóa hay không. Tòa án quyết định rằng vấn đề
về điều kiện liên quan đến cả điều kiện vật chất và điều kiện “tinh thần”
của hàng hóa, nghĩa là uy tín của hàng hóa. Nếu việc đóng gói lại đã
làm tổn hại chất lượng của dược phẩm thì chủ sở hữu nhãn hiệu có thể
phản đối. Ngoài ra, nếu việc bán giảm giá do người nhập khẩu quyết
định có thể bị coi là làm tổn hại uy tín của hàng hóa thì đây cũng là một
căn cứ khác để phản đối việc nhập khẩu.

(b) Quyền ngăn cấm người khác thực hiện hành vi xâm phạm về sử dụng nhãn
hiệu

Với chức năng cơ bản của nhãn hiệu là phân biệt hàng hóa của chủ sở hữu với hàng
hóa của chủ sở hữu khác nên chủ sở hữu nhãn hiệu có thể phản đối việc sử dụng nhãn
hiệu tương tự gây nhầm lẫn nhằm ngăn không cho người tiêu dùng và công chúng nói
chung bị nhầm lẫn. Điều này là cốt lõi của quyền độc quyền cấp cho chủ sở hữu nhãn
hiệu thông qua việc đăng ký.

Các yếu tố xâm phạm quyền nhãn hiệu mà chủ sở hữu nhãn hiệu phải chứng minh là:
31
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
• Sử dụng trong thương mại
• Gắn với hàng hóa hoặc dịch vụ
• Dấu hiệu trùng với nhãn hiệu đã đăng ký cho cùng loại hàng hóa hoặc dịch vụ,
Hoặc
• Tương tự với nhãn hiệu đã đăng ký và sử dụng cho cùng loại hàng hóa hoặc
dịch vụ, có khả năng gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng
Hoặc
• Trùng với nhãn hiệu đã đăng ký và sử dụng cho cùng loại hàng hóa hoặc dịch
vụ
Hoặc
• Là nhãn hiệu nổi tiếng hoặc có danh tiếng đáng kể ở một quốc gia và sử dụng
cho hàng hóa hoặc dịch vụ không tương tự

• Không thuộc một trong số các trường hợp phòng vệ được phép đối với người
sử dụng nhãn hiệu

‰ Sử dụng

Một nhãn hiệu được coi là được sử dụng khi:


• Được gắn trên hàng hóa hoặc bao bì hàng hóa;
• Xuất hiện trên hàng hóa đưa ra thị trường;
• Xuất hiện trên hàng hóa nhập khẩu;
• Được sử dụng trong quảng cáo hoặc giấy tờ giao dịch;
• Được sử dụng với ý nghĩa là nhãn hiệu xác định nguồn gốc của hàng hóa hoặc
dịch vụ.

Khi một nhãn hiệu đã đăng ký được sử dụng bởi người không phải là chủ sở hữu nhãn
hiệu trong quảng cáo so sánh thì điều này được xem là không sử dụng nhãn hiệu.

Câu hỏi tự đánh giá

Câu 11 Một người quảng cáo dịch vụ điện thoại di động đưa ra một quảng cáo
so sánh tỷ lệ quảng cáo của các đối thủ cạnh tranh được nêu tên. Nếu
các tên này cũng được đăng ký nhãn hiệu, thì chủ sở hữu các nhãn hiệu
đó có thể viện dẫn sự việc nêu trên để khởi kiện về hành vi xâm phạm
quyền đối với nhãn hiệu hay không?

32
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
Trả lời Vấn đề này có thể được điều chỉnh bởi pháp luật về quảng cáo so sánh,
theo đó có thể đòi hỏi rằng việc so sánh là được phép với điều kiện phải
hợp lý. Ngoài ra, cũng có ý kiến cho rằng việc sử dụng nhãn hiệu của
đối thủ cạnh tranh là không nhằm mục đích của nhãn hiệu để chỉ dẫn
gốc, mà chỉ nhằm mục đích phân biệt hàng hóa thuộc sở hữu của thương
nhân với hàng hóa của đối thủ cạnh tranh.

‰ Sử dụng một dấu hiệu cho hàng hóa hoặc dịch vụ

Để cấu thành hành vi xâm phạm quyền, dấu hiệu phải được sử dụng kèm với hàng hóa
hoặc dịch vụ. Các quy định về nhãn hiệu trong Hiệp định TRIPS cũng như Công ước
Paris đều không đưa ra định nghĩa “sử dụng”. Do đó, một nhãn hiệu không được sử
dụng theo ý nghĩa thích đáng trừ khi nó như một chỉ dẫn về nguồn gốc hàng hóa. Như
vậy, sử dụng trong quảng cáo so sánh hoặc nhằm mục đích biểu thị chất lượng sẽ
không phải là sử dụng nhãn hiệu. Thông thường, một nhãn hiệu sẽ được sử dụng gắn
với hàng hóa hoặc dịch vụ đã đăng ký. Điều này có thể thông qua việc gắn nhãn hiệu
lên hàng hóa hoặc bao bì của hàng hóa hoặc trong các tài liệu giao dịch thương mại,
như hóa đơn hoặc bảng giá. Trong một số hệ thống pháp luật, việc sử dụng nhãn hiệu
trong quảng cáo hoặc các hình thức xúc tiến khác sẽ là bằng chứng cho việc sử dụng,
tuy nhiên, cũng có thể yêu cầu rằng việc sử dụng phải đồng thời với việc cung cấp
hàng hóa trên thị trường để được coi là “trong quá trình thương mại”.

Câu hỏi tự đánh giá

Câu 12 Trong một quảng cáo, một thương nhân so sánh sản phẩm của mình với
sản phẩm của đối thủ cạnh tranh. Quảng cáo đó đề cập đến sản phẩm của
đối thủ cạnh tranh bằng cách mô phỏng bao bì kể cả nhãn hiệu gắn trên
sản phẩm của đối thủ cạnh tranh. Đây có phải là hành vi sử dụng xâm
phạm quyền hay không?

Trả lời. Luật nhãn hiệu không quy định việc sử dụng nhãn hiệu nhằm để chỉ
nguồn gốc hàng hóa của người kinh doanh. Việc sử dụng nhằm mục đích
so sánh thường không được coi là việc sử dụng nhãn hiệu.

Việc đăng ký trái phép tên miền Internet là nhãn hiệu đã đăng ký của người khác sẽ
không bị coi là hành vi sử dụng nhãn hiệu đó cho hàng hóa hoặc dịch vụ, khi việc
đăng ký được thực hiện chỉ vì mục đích bán lại tên miền đó. Tất nhiên, hành vi này có
thể bị điều chỉnh bởi các quy định về tên miền được đăng ký.

33
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
‰ Sử dụng dấu hiệu trùng với nhãn hiệu đã đăng ký cho hàng hóa hoặc dịch vụ cùng
loại

Loại xâm phạm quyền này thường đòi hỏi toà án so sánh nhãn hiệu bị nghi ngờ xâm
phạm quyền với giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu cấp cho chủ sở hữu và so sánh
hàng hóa hoặc dịch vụ mang nhãn hiệu với nhóm hàng hóa hoặc dịch vụ mang nhãn
hiệu đã được đăng ký.

‰ Sử dụng dấu hiệu khi nhãn hiệu và hàng hóa hoặc dịch vụ tương tự hoặc giống
nhau

Trong trường hợp khi có các nhãn hiệu tương tự cho cùng loại hàng hóa hoặc dịch vụ
hoặc khi hàng hóa hoặc dịch vụ tương tự sử dụng các nhãn hiệu giống nhau thì nhất
định sẽ có khả năng gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng. Thông thường, các thẩm định
về khả năng nhầm lẫn được sử dụng để đánh giá mức độ nhầm lẫn phục vụ mục đích
đăng ký. Do đó, như một quy tắc chung, hàng hóa là tương tự nếu khi được chào bán
dưới cùng một nhãn hiệu tương tự thì công chúng tiêu dùng có khả năng tin rằng hàng
hóa đó có cùng nguồn gốc. Cần xem xét mọi chi tiết gồm bản chất của hàng hóa, mục
đích sử dụng, các kênh thương mại phân phối hàng hóa, đặc biệt là nguồn gốc thông
thường của hàng hóa và các điểm bán lẻ thông thường.

Một khía cạnh khác là bản chất và thành phần của hàng hóa. Nếu phần lớn hàng hóa
được sản xuất từ cùng nguyên liệu thì chúng sẽ được coi là tương tự, thậm chí nếu
chúng được sử dụng cho các mục đích khác nhau. Nguyên liệu thô và sản phẩm hoàn
thiện được sản xuất từ nguyên liệu thô thường là không giống nhau, tuy nhiên, chúng
lại không được bán ra thị trường bởi cùng một công ty.

Nhãn hiệu ít nhiều có thể giống nhau. Việc thẩm định để xem liệu chúng có tương tự
đến mức gây nhầm lẫn hay không. Một nhãn hiệu bị coi là tương tự đến mức gây
nhầm lẫn với nhãn hiệu có trước đó nếu nó được sử dụng cho hàng hóa tương tự và
trùng với nhãn hiệu có trước đó đến mức mà người tiêu dùng có thể bị nhầm lẫn về
nguồn gốc của hàng hóa. Nếu người tiêu dùng bị nhầm lẫn, vai trò phân biệt của nhãn
hiệu không phát huy tác dụng và người tiêu dùng có thể không mua được sản phẩm
mong muốn. Điều này là không tốt đối với người tiêu dùng cũng như đối với chủ sở
hữu nhãn hiệu sẽ không bán được hàng hóa.

Việc thẩm định không cần thiết nhằm vào sự cố ý gây nhầm lẫn từ phía người xâm
phạm quyền cũng như nhầm lẫn trên thực tế. Khả năng gây nhầm lẫn mới là nội dung
cần thẩm định.

34
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
Vấn đề quan trọng nhất là người tiêu dùng không trực tiếp so sánh các nhãn hiệu;
nhìn chung, người tiêu dùng phải đối mặt với nhãn hiệu bị xâm phạm quyền trong cửa
hiệu mà không nhìn thấy sản phẩm mang nhãn hiệu mà người đó biết và nhớ chính
xác ít hay nhiều. Người đó sẽ nhầm lẫn giữa các sản phẩm được chào bán dưới nhãn
hiệu xâm phạm quyền và sản phẩm thật mà người đó thực sự muốn mua. Trong tình
huống này, cần phải lưu ý rằng người mua trung bình cũng chỉ có trí nhớ trung bình
và rằng việc người đó nghi ngờ nhãn hiệu đang gặp có phải là nhãn hiệu đã biết hay
không là đủ.

Do ngay từ ban đầu người tiêu dùng bình thường không thể nhận ra sự khác biệt giữa
các nhãn hiệu mà đã có thể nhận ra nếu người đó bỏ thời gian tìm hiểu nhãn hiệu, và
sản phẩm gắn với nhãn hiệu được chào bán một cách cẩn thận hơn nên ấn tượng đầu
tiên của người đó sẽ có tính quyết định. Điều này là đặc biệt đúng đối với các sản
phẩm tiêu dùng phổ biến được chào bán trong các cửa hàng tự phục vụ.

Ngoài ra, người tiêu dùng bình thường, trình độ văn hóa thấp và trẻ em thường dễ bị
nhẫm lẫn hơn. Người mua thiết bị, ôtô hoặc máy bay sành điệu và đắt tiền rõ ràng sẽ
cẩn thận hơn người tiêu dùng trong các cửa hàng tự phục vụ. Do đó, trong các lĩnh
vực này, các nhãn hiệu rất giống nhau sẽ cùng tồn tại, dễ có khả năng gây nhầm lẫn
nếu chúng được sử dụng cho những loại hàng hóa tiêu dùng phổ biến.

Khi thẩm định tính tương tự của các nhãn hiệu thì chúng cần được so sánh một cách
tổng thể và cần chú trọng hơn vào các yếu tố giống nhau có thể dẫn đến sự nhầm lẫn
mà không cần tập trung vào những khác biệt mà người tiêu dùng trung bình đã bỏ
qua. Mặc dù nguyên tắc cơ bản về so sánh nhãn hiệu này là tổng thể và không chia
các nhãn hiệu thành từng phần nhưng cấu trúc của các dấu hiệu là quan trọng. Các
tiền tố phổ biến thường quan trọng hơn các hậu tố; nếu hai dấu hiệu rất giống nhau
hoặc trùng lặp ở phần tiền tố, chúng có khả năng bị nhầm lẫn cao hơn là giống nhau ở
phần hậu tố. Các từ dài có các ký tự đầu tiên giống nhau hoặc trùng lặp có nhiều khả
năng bị nhầm lẫn hơn là các từ ngắn với ký tự đầu khác nhau.

Các nhãn hiệu có tính phân biệt cao (các nhãn hiệu từ đặt hoặc ngẫu hứng) có khả
năng bị nhầm lẫn nhiều hơn là các nhãn hiệu mang nghĩa kết hợp liên quan đến hàng
hóa mà nhãn hiệu được đăng ký.

Sự nhầm lẫn có thể phát sinh từ sự tương tự trong cách viết, cách phát âm và ý nghĩa
của dấu hiệu, và sự tương tự ở một trong số các nội dung này cũng đủ để cấu thành
hành vi xâm phạm quyền nếu nó gây nhầm lẫn cho công chúng.

Câu hỏi tự đánh giá


35
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
Câu 13 Những yếu tố nào được xem xét khi đánh giá nhãn hiệu SOLAROID
tương tự gây nhầm lẫn với POLAROID?

Trả lời. Sự tương tự trong thể hiện đồ họa của nhãn hiệu; tương tự trong cách
phát âm; tương tự về ý nghĩa và ý tưởng được truyền đạt bởi cả hai nhãn
hiệu; bản chất của hàng hóa mang nhãn hiệu; mục đích sử dụng nhãn
hiệu và các kênh thương mại phân phối hàng hóa.

‰ Biện hộ cho hành vi xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu đã được đăng ký

Người sử dụng nhãn hiệu đang bị chủ sở hữu nhãn hiệu đã đăng ký phản đối sẽ có thể
tránh được trách nhiệm pháp lý nếu người đó có thể đưa ra một trong số những lý lẽ
biện hộ sau:
• Hành vi bị khiếu kiện được thực hiện với sự đồng ý của chủ sở hữu;
• Đăng ký hết hiệu lực hoặc bị hủy bỏ;
• Bị đơn có quyền độc lập sử dụng nhãn hiệu;
• Bị đơn chỉ đơn thuần sử dụng tên riêng và địa chỉ riêng của mình;
• Bị đơn đang sử dụng các chỉ dẫn liên quan đến các đặc tính riêng của hàng hóa
hoặc dịch vụ của mình;
• Bị đơn đang thể hiện mục đích dự kiến của hàng hóa và dịch vụ;
• Các lý lẽ biện hộ khác.

Sự cho phép

Hầu hết các luật nhãn hiệu đều quy định rõ rằng các quyền độc quyền đối với nhãn
hiệu bị xâm phạm bằng việc sử dụng nhãn hiệu mà không được sự đồng ý của chủ sở
hữu nhãn hiệu. Việc thiếu sự đồng ý này phải được chủ sở hữu nhãn hiệu xác nhận.
Nếu bị đơn dựa vào một hợp đồng li-xăng cụ thể hoặc sự cho phép khác trong việc sử
dụng nhãn hiệu thì bị đơn có trách nhiệm chứng minh sự đồng ý của chủ sở hữu.

Xâm phạm hiệu lực của đăng ký

Sẽ là không phổ biến đối với một hành vi xâm phạm quyền của bị đơn nhằm tìm kiếm
sự hủy bỏ nhãn hiệu của nguyên đơn. Các căn cứ hủy bỏ được đề cập dưới đây.

Quyền sử dụng độc lập nhãn hiệu đã đăng ký

Hầu hết các luật nhãn hiệu đều giới hạn quyền của chủ sở hữu nhãn hiệu thực hiện
hành vi chống lại việc sử dụng nhãn hiệu có trước, thường là các nhãn hiệu đã và
36
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
đang được sử dụng trong vùng. Thông thường, phần lớn các luật nhãn hiệu đều yêu
cầu việc sử dụng này phải là liên tục. Ví dụ, một nhãn hiệu có thể đã và đang được sử
dụng trên cơ sở không đăng ký bởi một người trước chủ sở hữu có đăng ký. Lý lẽ
biện hộ này sẽ là quan trọng đối với nhãn hiệu được cấp bởi các liên minh sở hữu trí
tuệ khu vực, khi mà các trường hợp sử dụng đồng thời tại các nước khác nhau có thể
xảy ra.

Sử dụng tên riêng và địa chỉ riêng

Một nhãn hiệu đã được đăng ký thường sẽ không bị xâm phạm quyền đối với nó nếu
bị đơn sử dụng tên riêng và địa chỉ riêng của họ, với điều kiện việc sử dụng đó phù
hợp với các tập quán thương mại trung thực. Tên riêng của bị đơn sẽ là thứ mà thông
qua đó nó được người tiêu dùng biết đến. Ví dụ, chủ sở hữu nhãn hiệu MERCURY
COMMUNICATIONS cho các dịch vụ viễn thông có thế kiện MERCURY
INTERACTIVE sử dụng tên riêng của mình cho các dịch vụ tương tự khi chủ sở hữu
được khách hàng của mình biết đến là MERCURY.

Việc bị đơn sử dụng một cách trung thực nhãn hiệu của nguyên đơn có thể được xác
định dựa vào mục đích sử dụng, nghĩa là: xem xét hành vi nào trong thương mại có
thể được coi là hành vi sử dụng trung thực, hoặc dựa trên cơ sở mục đích, nếu thông
qua đó việc sử dụng được xem là trung thực.

Sử dụng các chỉ dẫn liên quan đến các đặc tính của hàng hóa hoặc dịch vụ

Hầu hết các luật nhãn hiệu đều quy định rằng một nhãn hiệu đã được đăng ký sẽ
không bị xâm phạm quyền đối với nó thông qua việc sử dụng các chỉ dẫn liên quan
đến chủng loại, chất lượng, số lượng, mục đích dự kiến, giá trị, nguồn gốc, thời gian
sản xuất hàng hóa hoặc cung cấp dịch vụ hoặc các đặc tính khác của hàng hóa hoặc
dịch vụ, với điều kiện việc sử dụng này phù hợp với các tập quán thương mại trung
thực. Các khó khăn phát sinh khi nhãn hiệu của người khác được sử dụng nhằm chỉ
các đặc tính so sánh về hàng hóa hoặc dịch vụ. Một hành vi sử dụng so sánh trung
thực về nhãn hiệu của người khác có thể không bị phản đối.

Mục đích dự kiến của hàng hóa hoặc dịch vụ

Một nhãn hiệu đã được đăng ký sẽ không bị xâm phạm các quyền đối với nó trong
khi sử dụng để chỉ mục đích dự kiến của sản phẩm, như các linh kiện hoặc bộ phận
rời, miễn là việc sử dụng đó phù hợp với các tập quán thương mại trung thực.

Phim này phù hợp với máy ảnh KODAK


37
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
Nhà buôn VOLVO độc lập
Chuyên gia BMW

Các lý lẽ biện hộ khác

Các hành vi không được chấp nhận về phía nguyên đơn cũng có thể tạo ra sự biện hộ
cho hành vi xâm phạm quyền. Trong một số hệ thống pháp luật, việc trì hoãn lâu dài
trong thực thi quyền về nhãn hiệu của một người có thể được xem như sự chấp thuận
cho người khác sử dụng nhãn hiệu đó.

Tương tự, việc sử dụng nhãn hiệu bởi người khởi kiện nhằm hỗ trợ hành vi gian lận
hoặc lừa dối sẽ bị coi là hành vi không được chấp nhận. Ví dụ, việc sử dụng một nhãn
hiệu hình ảnh nhằm chỉ xì gà được sản xuất tại Cuba trong khi chúng lại được sản
xuất ở một nơi khác, có thể sẽ không giúp người khiếu kiện chống lại thương nhân đã
sử dụng nhãn hiệu hình ảnh tương tự để chỉ dẫn về nguồn gốc thật ở Cu-ba.

‰ Hủy nhãn hiệu trong Đăng bạ do không sử dụng

Nếu chủ sở hữu không gia hạn đăng ký nhãn hiệu của mình hoặc chính xác hơn là
không nộp lệ phí gia hạn, điều này sẽ dẫn đến việc hủy bỏ nhãn hiệu khỏi Đăng bạ.
Các cơ quan đăng ký thường cho phép một ân hạn để thanh toán khoản lệ phí gia hạn
(thường là có tính phụ phí).

Chủ nhãn hiệu đăng ký có thể tự mình, vào bất cứ thời điểm nào, từ bỏ việc đăng ký
đối với toàn bộ hoặc một phần hàng hóa mang nhãn hiệu đăng ký. Do đó, theo yêu
cầu của chủ nhãn hiệu đăng ký, về nguyên tắc, các cơ quan có thẩm quyền sẽ hủy bỏ
nhãn hiệu toàn phần hoặc từng phần.

Nếu chủ sở hữu nhãn hiệu không sử dụng nhãn hiệu của mình trong một khoảng thời
gian ân hạn được pháp luật quy định, thì bên có liên quan bất kỳ, về nguyên tắc, cũng
có thể yêu cầu việc hủy bỏ này. Nếu chủ sở hữu không thể giải thích một cách thỏa
đáng cho việc không sử dụng thì tòa án sẽ ra lệnh hủy bỏ đăng ký. Nếu chủ sở hữu có
thể chứng minh việc sử dụng hoặc giải thích một cách thỏa đáng về việc không sử
dụng nhưng chỉ đối với một số hàng hóa đã đăng ký thì tòa án sẽ ra lệnh hủy bỏ từng
phần. Việc hủy bỏ từng phần sẽ được thực hiện đối với tất cả các hàng hóa được đăng
ký mà không thể chứng minh việc sử dụng hoặc ít nhất là đối với tất cả các hàng hóa
không cùng loại với hàng hóa mà chủ sở hữu đã sử dụng.

Nếu nhãn hiệu bao gồm một dấu hiệu không được đăng ký, nó có thể bị tòa án tuyên
bố vô hiệu theo yêu cầu của bên có liên quan bất kỳ. Đôi khi, các luật nhãn hiệu cũng
38
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
quy định những thủ tục đương nhiên cho mục đích đó. Hậu quả của việc tuyên bố này
là nhãn hiệu bị hủy bỏ khỏi Đăng bạ.

Thông thường, việc hủy bỏ khỏi Đăng bạ chỉ được thực hiện nếu có căn cứ vô hiệu
khi hàng hóa được đăng ký. Hơn nữa, ngay cả khi nhãn hiệu không được đăng ký do
thiếu tính phân biệt thì việc hủy bỏ nhãn hiệu sẽ bị loại trừ nếu trong thời gian đó
nhãn hiệu trở nên phân biệt được thông qua việc sử dụng.

Tuy nhiên, tính phân biệt có đó không thể cản trở việc hủy bỏ nhãn hiệu chứa các
thuật ngữ chung và có tính lừa dối.

Ở hầu hết các nước, việc sử dụng nhãn hiệu được đòi hỏi nhằm duy trì việc đăng ký.
Trong trường hợp này, Điều 19 Hiệp định TRIPS quy định rằng “việc đăng ký chỉ có
thể bị hủy bỏ sau một thời gian gián đọan không sử dụng ít nhất là 03 năm, trừ khi chủ
sở hữu nêu ra các lý do chính đáng về sự tồn tại của các trở ngại cho việc sử dụng
này”. Lý do chính đáng giải thích việc không sử dụng được công nhận trong Điều này
là “những hoàn cảnh phát sinh không phụ thuộc vào ý chí của chủ sở hữu nhãn hiệu”
như “hạn chế xuất khẩu hoặc các yêu cầu khác của chính phủ đối với hàng hóa hoặc
dịch vụ được bảo hộ theo nhãn hiệu”.

‰ Chuyển quyền sử dụng nhãn hiệu

Điều 19.2 Hiệp định TRIPS cho phép việc “sử dụng nhãn hiệu bởi người khác” phải
được “thừa nhận là sử dụng nhãn hiệu nhằm mục đích duy trì đăng ký”, với điều kiện
việc sử dụng nhãn hiệu đó “nằm dưới sự kiểm soát của chủ sở hữu”. Việc sử dụng có
kiểm soát này của bên thứ ba được ủy quyền thường được thực hiện thông qua hình
thức li-xăng. Điều 21 Hiệp định TRIPS cho phép các quốc gia thành viên quy định về
việc chuyển quyền sử dụng nhãn hiệu. Trong một số hệ thống pháp luật, quy định này
sẽ được thực hiện thông qua hệ thống của người sử dụng có đăng ký, và cơ quan đăng
ký có quyền quyết định liệu li-xăng có liên quan đến lợi ích công cộng hay không. Yêu
cầu về kiểm soát của bên cấp li-xăng được giải thích thông qua nhận thức về chức
năng cơ bản của nhãn hiệu như một chỉ dẫn cho người tiêu dùng về nguồn gốc của
hàng hóa hoặc dịch vụ. Do đó, việc bất kỳ người khác ngoài chủ sở hữu sử dụng nhãn
hiệu, thì ban đầu, đều là lừa dối. Để khắc phục tình trạng người tiêu dùng có khả năng
bị lừa dối trong trường hợp nguồn gốc của hàng hóa là của bên nhận li-xăng, mà
không phải của chủ sở hữu nhãn hiệu, pháp luật đã quy định cho phép chuyển quyền
sử dụng (li-xăng) như là biện pháp tốt thứ hai, thừa nhận rằng chức năng thứ hai của
nhãn hiệu là đảm bảo chất lượng thông qua việc quy định rằng bên cấp li-xăng phải
thực hiện việc kiểm soát bên nhận li-xăng một cách đầy đủ. Các quy định về việc kiểm
soát chất lượng sẽ thường bao gồm một số điều khoản quy định về việc sử dụng các
39
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
thành phần, phương pháp sản xuất, thử nghiệm và lấy mẫu. Các điều khoản li-xăng có
thể gây cản trở thương mại, ví dụ, yêu cầu của bên nhận li-xăng về quyền độc quyền,
yêu cầu về giá bán hoặc giá bán lại hoặc hạn chế bên nhận li-xăng phân phối hàng hóa
ở một số lãnh thổ sẽ bị coi là phạm luật. Có thể viện dẫn Điều 8.2 của Hiệp định
TRIPS, trong đó quy định sự cần thiết phải có các biện pháp “nhằm ngăn chặn việc
lạm dụng các quyền sở hữu trí tuệ của chủ sở hữu quyền hoặc áp dụng các hành động
cản trở thương mại một cách bất hợp pháp”.

Về cơ bản, hệ thống bảo hộ nhãn hiệu không áp đặt các thủ tục về chuyển quyền sử
dụng nhãn hiệu. Điểm quan trọng duy nhất mang tính cố hữu của hệ thống là chủ sở
hữu thực hiện việc kiểm soát có hiệu quả đối với bên nhận li-xăng. Tầm quan trọng
của nguyên tắc này được thừa nhận chung, mặc dù chỉ có một số ít luật pháp quy định
về việc kiểm soát chất lượng trong các quy định về li-xăng nhãn hiệu (ví dụ, trong
pháp luật của Hoa Kỳ và Sri Lanka). Thực vậy, văn bản hợp đồng sẽ là vô ích kể cả
khi nó được đăng ký trong Đăng bạ và chứa đựng các điều khoản về mọi hình thức
kiểm soát, nếu pháp luật không quy định về hậu quả pháp lý đối với việc không thực
hiện việc kiểm soát. Tuy nhiên, nhiều luật nhãn hiệu quy định nghĩa vụ đăng ký li-
xăng và thông thường người đăng bạ sẽ nghiên cứu kỹ lưỡng các điều kiện mà bên
cấp li-xăng áp đặt cho bên nhận li-xăng.

Một loại thủ tục đặc biệt về việc chuyển quyền sử dụng nhãn hiệu là Hệ thống về Hợp
đồng của người sử dụng được đăng ký của Anh. Nếu loại hợp đồng này được đăng
ký, thì việc sử dụng nhãn hiệu bởi người sử dụng được đăng ký sẽ được xem như sử
dụng bởi chủ sở hữu nhãn hiệu. Tuy nhiên, đây không phải là hợp đồng li-xăng thực
tế giữa các bên phải đăng ký; pháp luật quy định một loại mẫu đơn giản, với một số
điều kiện nhất định sẽ được điền vào trước khi người đăng bạ công nhận hợp đồng
của người sử dụng được đăng ký. Điều kiện li-xăng chủ yếu mà cơ quan nhãn hiệu
yêu cầu sẽ là yêu cầu bên cấp li-xăng thực hiện kiểm việc soát chất lượng.

Do Sổ đăng ký nhãn hiệu sẽ bị để ngỏ cho việc điều tra, nên các bên trong hợp đồng
li-xăng thường không đăng ký tất cả các điều kiện của hợp đồng mà chỉ đăng ký theo
một mẫu đơn giản.

Câu hỏi tự đánh giá

Câu 11. Tại sao các quy định về kiểm soát chất lượng là cần thiết trong hợp
đồng chuyển quyền sử dụng (li-xăng) nhãn hiệu?

40
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
Trả lời. Để khắc phục khả năng nhầm lẫn vốn có trong thực tiễn khi chủ
nhãn hiệu không phải là nguồn cung cấp các sản phẩm mang nhãn
hiệu

‰ Chuyển nhượng nhãn hiệu

Chuyển nhượng là hình thức phổ biến nhất để thay đổi quyền sở hữu về nhãn hiệu.
Các quy định về chuyển nhượng thông thường, nhưng không nhất thiết, là một phần
của hợp đồng mua bán, theo đó nhãn hiệu được bán để đổi lấy một khoản tiền nhất
định. Pháp luật của một số nước cho phép chuyển nhượng nhãn hiệu chỉ khi đi kèm
với danh tiếng gắn với nhãn hiệu. Việc chuyển nhượng từng phần sẽ phức tạp hơn.
Nhằm tránh cho công chúng không bị nhầm lẫn trong những tình huống này, đôi khi
luật nhãn hiệu cho phép việc chuyển nhượng chỉ khi mà hàng hóa liên quan không
tương tự với những hàng hóa của chủ sở hữu cũ. Do đó, người tiêu dùng sẽ tránh
được nhầm lẫn vì hai nhãn hiệu có thể được đăng ký bởi các chủ sở hữu khác nhau
ngay từ ban đầu.

Về nguyên tắc, sự thay đổi về quyền sở hữu nhãn hiệu sẽ có hiệu lực mà không cần
phải đăng ký. Điều này là hiển nhiên trong trường hợp chủ sở hữu nước ngoài bị chết
hoặc phá sản hoặc sáp nhập. Thậm chí một sự thay đổi tự nguyện về quyền sở hữu
thông qua chuyển nhượng, về nguyên tắc, sẽ không cần phải đăng ký để có hiệu lực,
ít nhất là từng phần. Tuy nhiên, luật nhãn hiệu thường quy định về việc đăng ký sự
thay đổi về quyền sở hữu vì hai lý do:

– Chủ sở hữu mới không thể thực hiện một cách bình thường các quyền đối
với nhãn hiệu của mình nếu chủ sở hữu đớ không phải là chủ sở hữu được
đăng ký;

– Về nguyên tắc, việc chuyển giao là không bắt buộc đối với bên thứ ba
chừng nào mà nó chưa được đăng ký.

Nguyên tắc này không thể được áp dụng mà không có giới hạn: nếu chủ sở hữu mới
đã hoàn thành tất cả các thủ tục cần thiết, đó là nếu chủ sở hữu đó đã nộp tất cả các tài
liệu cần thiết cho cơ quan nhãn hiệu để đăng ký sự thay đổi về quyền sở hữu, chủ sở
hữu đó phải có khả năng hành động để bảo vệ nhãn hiệu của mình chống lại các hành
vi xâm phạm. Đôi khi, thủ tục đăng ký rất lâu và rườm rà, và một số hệ thống pháp
luật không cho phép ghi nhận các đơn tồn đọng. Trong trường hợp đó, chủ sở hữu
mới thường sẽ bị phong tỏa hoàn toàn vì chủ sở hữu cũ cũng có thể không còn tồn tại,

41
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
hoặc ít nhất, có thể không còn quan tâm đến các vụ kiện chống lại hành vi xâm phạm
quyền đối với nhãn hiệu cũ của chủ sở hữu đó.

Luật nhãn hiệu cũng thường quy định rằng người đăng ký sẽ từ chối đăng ký hợp
đồng chuyển nhượng nếu chủ sở hữu đó thấy rằng việc đó có thể gây nhầm lẫn cho
người tiêu dùng. Sự vô hiệu của việc chuyển nhượng không dẫn đến việc vô hiệu của
quyền đối với nhãn hiệu. Tuy nhiên, các quyền đối với nhãn hiệu sẽ ở lại với bên
chuyển giao-chủ sở hữu cũ. Điều này có nghĩa là việc sử dụng nhãn hiệu bất kỳ của
chủ sở hữu mới đăng ký sẽ không phải thực sự là việc sử dụng thực tế, và, sau khi ân
hạn sử dụng nhãn hiệu đã hết hạn, nhãn hiệu sẽ bị để ngỏ cho việc hủy bỏ. Dĩ nhiên,
bên chuyển giao và chủ sở hữu đăng ký cũ của nhãn hiệu, mà vẫn là chủ sở hữu nhãn
hiệu, có thể sử dụng chúng trong thực tế, nhưng chủ sở hữu đó không thể làm như vậy
bởi vì các bên thường không nhận thức được việc hết hiệu lực của chuyển nhượng.

Vì sự an toàn về pháp lý, việc chuyển nhượng sẽ phải được thực hiện bằng văn bản.
Đơn yêu cầu đăng ký chuyển nhượng cũng phải bằng văn bản, cho dù được làm bởi
bên chuyển giao hay bên nhận chuyển giao. Nếu là bên chuyển giao nộp đơn đăng ký,
thì một tờ khai duy nhất được bên đó hoặc người đại diện theo pháp luật của bên đó
ký là đủ. Mặt khác, nếu đơn nộp bởi bên nhận chuyển giao hoặc bất kỳ chủ sở hữu
mới nào khác có yêu cầu đăng ký sự thay đổi quyền sở hữu thì đơn yêu cầu cần phải
có các tài liệu chứng minh kèm theo (hợp đồng chuyển nhượng được bên chuyển giao
ký hoặc bằng chứng bất kỳ về việc thay đổi chủ sở hữu khác). Tuy nhiên, trong các
trường hợp này, chỉ cần chữ ký đơn thuần của chủ sở hữu nhãn hiệu mới hoặc người
đại diện theo pháp luật của chủ sở hữu đó yêu cầu thay đổi quyền sở hữu mới được
coi là đủ, mà không cần phải chứng thực, hợp pháp hóa hoặc chứng nhận khác.

Câu hỏi tự đánh giá

Câu 10. Bên nhận chuyển giao nhãn hiệu cần thực hiện bước quan trọng nào để
bảo vệ các quyền của mình và cần phải có các tài liệu gì?

Trả lời. Thông báo cho cơ quan nhãn hiệu về sự thay đổi quyền sở hữu và nộp
bản sao hợp đồng chuyển nhượng có chữ ký của bên chuyển nhượng,
hoặc bằng chứng bất kỳ khác về sự thay đổi quyền sở hữu.

E.4. Các điều ước quốc tế

‰ Thỏa ước Nice về Phân loại quốc tế hàng hóa và dịch vụ nhằm mục đích đăng ký
nhãn hiệu

42
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
(a) Giới thiệu

Thỏa ước Nice là một điều ước quốc tế đa phương được ký kết ngày 15/6/1957. Thỏa
ước có hiệu lực từ ngày 8/4/1961, được sửa đổi tại Stockholm ngày 14/7/1967 và tại
Geneva ngày 13/5/1977 (văn kiện được sửa đổi cuối cùng được gọi tắt là "Văn kiện
Geneva ").

Phân loại quốc tế theo Thỏa ước Nice bao gồm:

– Danh mục nhóm, kèm theo các chú giải thích hợp; Danh mục này bao gồm
34 nhóm hàng hóa và 8 nhóm dịch vụ;

– Một danh mục hàng hóa và dịch vụ được xếp thứ tự theo bảng chữ cái (sau
đây gọi tắt là "Danh mục"), phân loại các hàng hóa và dịch vụ trong mỗi
nhóm.

Bảng phân loại Nice được làm bằng hai ngôn ngữ chính thức: tiếng Anh và tiếng
Pháp. Cũng có các phiên bản chính thức hoặc bản dịch chính thức của Bảng phân loại
Nice bằng các ngôn ngữ sau: Trung Quốc, Croatia, Czech, Đan Mạch, Hà Lan, Đức,
I-ta-li-a, Nhật Bản, Lit-va, Mác-xê-đô-ni-a, Na Uy, Ba Lan, Bồ Đào Nha, Nga, Slô-
ven-i-a, Tây Ban Nha và Thụy Điển.

(b) Phạm vi pháp lý và áp dụng Bảng phân loại Nice

Theo Điều 2(3) Thỏa ước Nice, các nước thuộc Liên minh Nice được yêu cầu đưa vào
các văn bản và ấn phẩm chính thức liên quan đến đăng ký nhãn hiệu, số nhóm của
Bảng phân loại mà hàng hóa hoặc dịch vụ mang nhãn hiệu được đăng ký.

Hiệu lực của Bảng phân loại Nice theo hiệu lực mà mỗi quốc gia thành viên Liên
minh Nice quy định. Điều 2(2) của Thỏa ước Nice quy định rằng mỗi thành viên của
Liên minh Nice sẽ bảo lưu quyền sử dụng Bảng phân loại Nice theo hệ thống chính
và cả hệ thống phụ. Điều này có nghĩa là các nước thuộc Liên minh Nice tự do áp
dụng Bảng phân loại Nice về hàng hóa và dịch vụ như Bảng phân loại duy nhất được
sử dụng để đăng ký nhãn hiệu hoặc duy trì hệ thống phân loại quốc gia về hàng hóa
và dịch vụ hiện hành và sử dụng Bảng phân loại Nice như một bảng phân loại bổ
sung, được thể hiện trong các công bố chính thức về nhãn hiệu.

Cuối cùng, Điều 2(4) của Thỏa ước Nice quy định rằng việc một hạng mục nằm trong
Danh mục hàng hóa và dịch vụ của Bảng phân loại Nice sẽ không ảnh hưởng đến
quyền vốn có bất kỳ của hạng mục đó.
43
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
Bảng phân loại Nice thường xuyên được cập nhật. Việc cập nhật này do Ủy ban
chuyên gia gồm đại diện các nước thành viên Thỏa ước Nice tiến hành. Ủy ban
chuyên gia họp định kỳ 5 năm một lần theo lời mời của Tổng Giám đốc WIPO. Ủy
ban chuyên gia quyết định việc sửa đổi Danh mục, cách diễn đạt các tiêu đề của
nhóm, các chú giải tương ứng và các bình luận chung trước danh mục của các nhóm.

Việc sửa đổi Danh mục có thể được thực hiện dưới các hình thức sau:

– Xóa bỏ một hạng mục trong Danh mục. Việc này được thực hiện trong
các trường hợp sản phẩm không còn tồn tại trên thị trường hoặc nếu có
một thuật ngữ tổng quát hơn được sử dụng cho sản phẩm đang được
nói tới đó.

– Bổ sung một sản phẩm vào Danh mục. Các sản phẩm được bổ sung
vào Danh mục là tất cả các sản phẩm mới xuất hiện trên thị trường
trong thời gian giữa các kỳ họp của Ủy ban chuyên gia;

– Sửa đổi cách diễn đạt một hạng mục trong Danh mục. Đôi khi cần
trình bày chi tiết cách diễn đạt hiện tại bằng cách bổ sung thêm chức
năng hoặc mục đích của sản phẩm hoặc phân biệt từ đồng âm mà được
phân loại khác nhau;

– Chuyển sản phẩm từ nhóm này sang nhóm khác. Mặc dù việc chuyển
đổi này rất hiếm gặp, tuy nhiên, đôi khi cũng cần phải thực hiện việc
này.

Câu hỏi tự đánh giá

Câu 12 Thỏa ước Nice bao gồm các thành phần nào?

Trả lời.
– Một Bảng danh mục 34 nhóm hàng hóa và 8 nhóm dịch vụ;
– Một danh mục hàng hóa và dịch vụ được xếp loại thứ tự theo bảng chữ
cái kèm theo các nhóm tương ứng với mỗi hàng hóa hoặc dịch vụ được
phân loại.

‰ Công ước Paris

Công ước Paris đề cập đến vấn đề sử dụng nhãn hiệu tại Điều 5C(1), (2) và (3).
44
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
(a) Sử dụng bắt buộc nhãn hiệu

Điều 5C(1) quy định việc sử dụng bắt buộc nhãn hiệu đã đăng ký. Một số quốc gia
quy định việc đăng ký nhãn hiệu cũng yêu cầu rằng một khi nhãn hiệu đã được đăng
ký phải được sử dụng trong một thời hạn nhất định. Nếu không tuân thủ quy định này,
nhãn hiệu đó có thể bị hủy bỏ khỏi danh bạ. Do đó, việc "sử dụng" nhìn chung được
hiểu là việc bán hàng hóa mang nhãn hiệu, mặc dù pháp luật quốc gia có thế yêu cầu
phạm vi rộng hơn mà việc sử dụng nhãn hiệu phải tuân thủ. Điều này cũng quy định
rằng nếu có yêu cầu sử dụng bắt buộc, thì việc đăng ký nhãn hiệu có thể bị hủy bỏ vì
không sử dụng chỉ sau khi kết thúc một thời hạn hợp lý và chỉ khi chủ sở hữu không
giải thích một cách thỏa đáng cho việc không sử dụng này.

Việc xác định thế nào là “thời hạn hợp lý” được để ngỏ cho luật pháp quốc gia của
các nước thành viên hoặc các cơ quan có thẩm quyền quyết định. Thời hạn hợp lý này
nhằm tạo cho chủ sở hữu có đủ thời gian và cơ hội để sắp xếp việc sử dụng nhãn hiệu
một cách thích hợp, trong nhiều trường hợp có tính đến việc chủ nhãn hiệu phải sử
dụng nhãn hiệu của mình ở nhiều nước.

Việc giải thích của chủ sở hữu về việc không sử dụng sẽ được chấp nhận nếu việc
không sử dụng đó có cơ sở pháp lý hoặc kinh tế vượt khỏi khả năng kiểm soát của
chủ sở hữu, ví dụ nếu việc nhập khẩu hàng hóa mang nhãn hiệu bị cấm hoặc trì hoãn
bởi các quy định của chính phủ.

Điều 5C(2) của Công ước cũng quy định việc sử dụng nhãn hiệu bởi chủ sở hữu, dưới
hình thức khác về thành tố mà không làm thay đổi các đặc tính phân biệt của nhãn
hiệu vốn có khi đăng ký tại một trong số các nước thành viên, sẽ không dẫn đến việc
hủy bỏ đăng ký cũng như không thu hẹp phạm vi bảo hộ đã được cấp cho nhãn hiệu.
Mục đích của quy định này là cho phép sự khác biệt không quan trọng giữa hình thức
của nhãn hiệu đã được đăng ký và hình thức mà nó được sử dụng, ví dụ trong các
trường hợp sửa chữa hoặc dịch một số thành tố cho việc sử dụng đó. Quy tắc này
cũng được áp dụng đối với sự khác nhau về hình thức của nhãn hiệu được sử dụng tại
một nước với nhãn hiệu đã được đăng ký gốc.

Trong một số trường hợp cụ thể, sự khác nhau giữa nhãn hiệu đã được đăng ký và
nhãn hiệu được sử dụng thực tế có làm thay đổi các đặc tính phân biệt hay không do
các cơ quan quốc gia có thẩm quyền quyết định.

(b) Sử dụng đồng thời

45
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
Điều 5C(3) Công ước đề cập đến trường hợp khi hai cơ sở trở lên sử dụng cùng một
nhãn hiệu cho hàng hóa trùng hoặc tương tự thì được coi là đồng sở hữu chủ của nhãn
hiệu đó. Điều này được quy định là việc sử dụng đồng thời như vậy sẽ không ngăn
cản việc đăng ký nhãn hiệu hoặc làm giảm việc bảo hộ ở nước thành viên bất kỳ của
Liên minh, ngoại trừ việc sử dụng đó gây nhầm lẫn cho công chúng và trái với lợi ích
xã hội. Các trường hợp như vậy có thể xảy ra nếu việc sử dụng đồng thời gây ra sự
nhầm lẫn cho công chúng về nguồn gốc của hàng hóa mang cùng một nhãn hiệu được
chào bán hoặc nếu chất lượng của hàng hóa đó khác với quan điểm cho là chúng có
thể trái với lợi ích công cộng nhằm cho phép tiếp tục sử dụng.

Tuy nhiên, điều khoản này không bao trùm trường hợp sử dụng đồng thời nhãn hiệu
bởi các doanh nghiệp không phải là đồng sở hữu chủ nhãn hiệu, ví dụ, việc sử dụng
đồng thời của chủ sở hữu và bên nhận li-xăng hoặc bên được nhượng quyền kinh
doanh (franchisee). Luật quốc gia các nước sẽ điều chỉnh các trường hợp này.

(b) Ân hạn cho việc nộp lệ phí gia hạn

Điều 5bis quy định ân hạn nhằm cho phép thanh toán các khoản lệ phí duy trì hiệu lực
quyền sở hữu công nghiệp. Đối với nhãn hiệu, quy định này liên quan trước hết đến
việc nộp các khoản lệ phí gia hạn, bởi vì thông qua việc gia hạn hiệu lực mà đăng ký
nhãn hiệu (và các quyền phụ thuộc vào đăng ký đó) mới được duy trì hiệu lực. Việc
không gia hạn đăng ký sẽ dẫn đến sự mất hiệu lực của đăng ký và trong một số trường
hợp làm chấm dứt quyền đối với nhãn hiệu. Ân hạn được quy định tại Công ước
nhằm giảm bớt rủi ro của nhãn hiệu bị mất do việc trì hoãn không tự nguyện trong
việc thanh toán các khoản lệ phí gia hạn.

Các nước thành viên Liên minh Paris có nghĩa vụ ghi nhận ân hạn tối thiểu là 6 tháng
cho việc thanh toán các khoản lệ phí gia hạn, nhưng có quyền quy định việc thanh
toán một khoản phụ phí đối cho các khoản lệ phí gia hạn trong thời kỳ ân hạn. Ngoài
ra, các nước thành viên còn có quyền quy định ân hạn dài hơn thời hạn tối thiểu là 6
tháng, như theo quy định của Công ước.

Trong thời gian ân hạn, đăng ký vẫn tạm thời có hiệu lực. Nếu việc thanh toán lệ phí
gia hạn (và phụ phí nếu có) không được thực hiện trong thời gian ân hạn, đăng ký sẽ
bị chấm dứt hiệu lực vào ngày hết thời hạn ban đầu theo cách hồi tố.

Câu hỏi tự đánh giá

Câu 14 Ân hạn tối thiểu để nộp các khoản lệ phí gia hạn theo quy định của
Công ước Paris là bao lâu?
46
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
Trả lời. Các quốc gia thành viên Liên minh Paris có nghĩa vụ phải quy định ân
hạn ít nhất là 6 tháng cho việc thanh toán các khoản phí gia hạn

(d) Tính độc lập của nhãn hiệu

Điều 6 Công ước thiết lập một nguyên tắc quan trọng về tính độc lập của nhãn hiệu
tại các quốc gia khác nhau trong Liên minh, và đặc biệt là tính độc lập của nhãn hiệu
được nộp hoặc đăng ký tại một quốc gia xuất xứ so với nhãn hiệu được nộp hoặc
đăng ký tại các quốc gia thành viên khác trong Liên minh.

Phần đầu của Điều 6 quy định áp dụng nguyên tắc cơ bản về đối xử quốc gia đối với
việc nộp đơn và đăng ký nhãn hiệu tại các quốc gia trong Liên minh. Bất kể nguồn
gốc của nhãn hiệu đăng ký bảo hộ, một quốc gia thành viên của Liên minh chỉ có thể
áp dụng pháp luật quốc gia khi xác định các điều kiện nộp đơn và đăng ký nhãn hiệu.
Việc áp dụng nguyên tắc đối xử quốc gia khẳng định quy tắc độc lập của nhãn hiệu,
bởi vì việc đăng ký và duy trì nhãn hiệu sẽ chỉ phụ thuộc vào pháp luật quốc gia của
mỗi nước.

Điều khoản này cũng quy định rằng đơn đăng ký nhãn hiệu, do một người có quyền
hưởng lợi từ Công ước nộp tại nước bất kỳ thuộc Liên minh, không thể bị từ chối,
cũng như không bị hủy bỏ đăng ký với lý do việc nộp đơn, đăng ký hoặc gia hạn nhãn
hiệu không có hiệu lực tại nước xuất xứ. Quy định này tạo ra một quy tắc là việc có
được và duy trì một đăng ký nhãn hiệu ở bất kỳ nước nào trong Liên minh có thể
không phụ thuộc vào đơn, đăng ký hoặc gia hạn đối với cùng một nhãn hiệu ở nước
xuất xứ của nhãn hiệu đó. Do đó, không hành vi nào liên quan đến nhãn hiệu ở nước
xuất xứ có thể bị yêu cầu như là điều kiện tiên quyết cho việc có được đăng ký nhãn
hiệu này ở nước đó.

Cuối cùng, Điều 6 quy định rằng nhãn hiệu được đăng ký hợp pháp ở một nước trong
Liên minh phải được coi là độc lập với các nhãn hiệu được đăng ký ở nước khác
trong Liên minh, kể cả nước xuất xứ. Điều này có nghĩa là nhãn hiệu một khi đã được
đăng ký sẽ không tự động có hiệu lực bởi quyết định bất kỳ đối với các đăng ký tương
tự cho cùng nhãn hiệu ở nước khác. Do đó, việc một hoặc nhiều đăng ký tương tự bị
đình chỉ, hủy bỏ hoặc từ bỏ sẽ không ảnh hưởng đến việc đăng ký nhãn hiệu đó ở các
nước khác. Hiệu lực của những đăng ký này sẽ chỉ phụ thuộc vào các quy định hiện
hành phù hợp với pháp luật của từng nước có liên quan.

Câu hỏi tự đánh giá

47
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
Câu 15 Nguyên tắc độc lập của nhãn hiệu là gì?

Trả lời: Việc có được và việc duy trì đăng ký nhãn hiệu tại nước bất kỳ của
Liên minh có thể không phụ thuộc vào đơn đăng ký, việc đăng ký hoặc
gia hạn cùng một nhãn hiệu tại nước xuất xứ của nhãn hiệu.

(e) Biểu tượng chính thức

Công ước quy định các dấu hiệu phân biệt của các quốc gia và các tổ chức quốc tế
liên chính phủ tại Điều 6ter. Điều này buộc một thành viên, trong những trường hợp
nhất định, phải từ chối hoặc hủy bỏ đăng ký và cấm sử dụng, kể cả nhãn hiệu hay các
thành phần của nhãn hiệu, các dấu hiệu phân biệt của các quốc gia thành viên và các
tổ chức quốc tế liên chính phủ nhất định quy định tại Điều này.

Các quy định tại Điều 6ter không được áp dụng nếu cơ quan có thẩm quyền của một
quốc gia thành viên cho phép sử dụng các dấu hiệu phân biệt của quốc gia này làm
nhãn hiệu. Tương tự, các cơ quan có thẩm quyền của một tổ chức liên chính phủ có
thể cho phép người khác sử dụng các dấu hiệu phân biệt của mình làm nhãn hiệu.
Ngoài ra, trong trường hợp các dấu hiệu phân biệt của một quốc gia thành viên, thì
công dân của quốc gia thành viên bất kỳ được phép sử dụng các dấu hiệu phân biệt
của nước mình có thể sử dụng các dấu hiệu đó ngay cả khi chúng tuơng tự với các
biểu tượng như vậy của quốc gia thành viên khác.

Dấu hiệu phân biệt của quốc gia được đề cập tại Điều 6ter bao gồm: quốc huy, quốc
kỳ và các biểu tượng khác, các dấu hiệu kiểm tra, xác nhận và đảm bảo chính thức và
sự bắt chước bất kỳ mang đặc điểm của huy hiệu.

Mục đích của các quy định nêu tại Điều 6ter liên quan tới các dấu hiệu phân biệt của
quốc gia, nhằm loại trừ việc đăng ký và sử dụng nhãn hiệu trùng hoặc tương tự với
quốc huy, quốc kỳ hoặc các biểu tượng khác của các quốc gia đó. Việc đăng ký các
dấu hiệu này sẽ xâm phạm quyền của các quốc gia trong việc kiểm soát các dấu hiệu
phân biệt về chủ quyền và, hơn nữa, có thể gây nhầm lẫn cho công chúng về nguồn
gốc của hàng hóa mang nhãn hiệu này.

Để thực thi các quy định của Điều 6ter, một thủ tục được thiết lập theo Điều này, theo
đó các dấu hiệu phân biệt của các quốc gia thành viên và các tổ chức liên chính phủ
có liên quan sẽ được thông báo cho Văn phòng quốc tế của Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế
giới (WIPO), về phần mình Văn phòng sẽ chuyển các thông báo này cho tất cả các
quốc gia thành viên.

48
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
Câu hỏi tự đánh giá

Câu 17 Quốc hội của các nước có thể thông qua luật bảo hộ biểu tượng của
Olympic phù hợp với Điều 6ter hay không?

Tra lời. Chính xác đây là loại pháp luật được quy định theo Điều này.

(f) Hiệu lực ngoài giới hạn lãnh thổ của đăng ký tại nước xuất xứ

Các quy định của Điều 6quinquies có hiệu lực trong trường hợp một đăng ký tại nước
xuất xứ bị hủy bỏ tại nước đăng ký bảo hộ. Trong khi nguyên tắc đối xử quốc gia đối
với đơn đăng ký đòi hỏi phải có quy tắc thông thường về tính độc lập hoàn toàn của
nhãn hiệu (như được quy định tại Điều 6), thì trong trường hợp ngoại lệ được điều
chỉnh tại Điều 6quinquies lại áp dụng quy tắc ngược lại, quy định hiệu lực ngoài giới
hạn lãnh thổ của một đăng ký tại nước xuất xứ.

Để áp dụng Điều 6quinquies, điều cần thiết là nhãn hiệu có liên quan phải được đăng
ký một cách hợp pháp tại nước xuất xứ. Việc đơn thuần nộp đơn hoặc sử dụng nhãn
hiệu tại nước đó là không đủ. Hơn nữa, nước xuất xứ phải là nước thuộc Liên minh
mà ở đó người nộp đơn có sơ sở công nghiệp hoặc thương mại thực thụ và có hiệu
quả hoặc nếu không có cơ sở như vậy thì là nước thành viên mà người nộp đơn có
chỗ ở cố định, hoặc nếu không có chỗ ở cố định thì là nước thành viên mà người nộp
đơn là công dân.

Quy tắc được thiết lập bởi Điều 6quinquies quy định rằng nhãn hiệu thỏa mãn các
điều kiện cần thiết phải được chấp nhận nộp đơn và bảo hộ như nó vốn có – as is (sử
dụng thuật ngữ trong phiên bản tiếng Anh) hoặc telle quelle (sử dụng thuật ngữ trong
phiên bản tiếng Pháp gốc)—tại các nước thành viên khác, phụ thuộc vào một số ngoại
lệ nhất định. Quy tắc này thường được gọi là nguyên tắc "telle quelle".

Cũng cần ghi nhận rằng quy tắc này chỉ liên quan đến hình thức của nhãn hiệu. Theo
đó, quy tắc nêu trong Điều này không tác động đến vấn đề bản chất hoặc chức năng
của nhãn hiệu như được nhận thức tại các nước đăng ký bảo hộ. Do vậy, một quốc
gia thành viên không có nghĩa vụ đăng ký hoặc mở rộng sự bảo hộ cho một đối tượng
không phải là nhãn hiệu như được định nghĩa trong luật về nhãn hiệu của quốc gia đó.
Ví dụ, nếu theo luật của một quốc gia thành viên, vật thể ba chiều hoặc các nốt nhạc
thể hiện giai điệu không được coi là nhãn hiệu ở quốc gia đó, thì quốc gia này không
có nghĩa vụ phải chấp nhận đăng ký và bảo hộ đối tượng đó.

49
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
Điều 6quinquies, Mục B, bao gồm một số ngoại lệ nhất định về nghĩa vụ chấp nhận
nhãn hiệu đã được đăng ký “như nó vốn có” để đăng ký tại các nước khác trong Liên
minh. Danh mục những ngoại lệ đó là đầy đủ để không thể viện dẫn các lý do khác để
nhằm từ chối hoặc hủy bỏ hiệu lực đăng ký nhãn hiệu. Các ngoại lệ đó là:

(i) Nếu nhãn hiệu xâm phạm các quyền của các bên thứ ba có được tại
nước yêu cầu bảo hộ. Các quyền này có thể là các quyền đối với nhãn hiệu
đã được bảo hộ tại nước có liên quan hoặc các quyền khác, như quyền đối
với tên thương mại hoặc quyền tác giả;
(ii) Khi nhãn hiệu thiếu các đặc điểm có khả năng phân biệt, hoặc chỉ
mang tính mô tả, hoặc bao gồm tên gọi chung;
(iii) Nếu nhãn hiệu trái với đạo đức hoặc trật tự công cộng như quan niệm
ở nước yêu cầu bảo hộ. Căn cứ này bao gồm cả các nhãn hiệu mà có bản
chất lừa dối công chúng như một dạng đặc biệt;
(iv) Nếu đăng ký nhãn hiệu tạo thành hành vi cạnh tranh không lành mạnh;
(v) Nếu nhãn hiệu được chủ sở hữu sử dụng theo hình thức khác đáng kể
với hình thức đã được đăng ký tại nước xuất xứ. Sự khác nhau không đáng
kểbản thì không thể được sử dụng làm lý do để từ chối hoặc hủy bỏ.

(g) Nhãn hiệu dịch vụ

Theo tinh thần Điều 6sexies, các quốc gia thành viên cam kết bảo hộ nhãn hiệu dịch
vụ, nhưng không buộc phải quy định về việc đăng ký các nhãn hiệu đó. Quy định này
không buộc quốc gia thành viên phải quy định một cách rõ ràng về đối tượng nhãn
hiệu dịch vụ. Quốc gia thành viên có thể tuân thủ quy định này thông qua việc áp
dụng pháp luật đặc biệt về bảo hộ nhãn hiệu dịch vụ, cũng như thông qua việc chấp
thuận bảo hộ bằng các công cụ khác, ví dụ, trong luật chống cạnh tranh không lành
mạnh của mình.

(h) Mối quan hệ giữa chủ sở hữu nhãn hiệu và đại diện của chủ sở hữu đó

Điều 6septies Công ước quy định các trường hợp đại diện hoặc người đại lý của chủ
sở hữu nhãn hiệu nộp đơn hoặc có được đăng ký nhãn hiệu theo tên của mình hoặc sử
dụng nhãn hiệu mà không có sự cho phép của chủ sở hữu đó. Trong các trường hợp
đó, Điều này cho phép chủ sở hữu nhãn hiệu quyền phản đối đăng ký hoặc yêu cầu
hủy bỏ đăng ký hoặc, nếu pháp luật quốc gia cho phép, yêu cầu chuyển nhượng đăng
ký đó cho mình. Ngoài ra, Điều 6septies cho phép chủ sở hữu nhãn hiệu quyền phản
đối đại lý hoặc đại diện của mình sử dụng trái phép nhãn hiệu, dù cho đơn đăng ký
nhãn hiệu đã được làm hay đăng ký nhãn hiệu đã được cấp chứng nhận hay không.

50
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
(i) Bản chất của hàng hóa được gắn nhãn hiệu

Điều 7 Công ước quy định rằng trong trường hợp bất kỳ, bản chất của hàng hóa được
gắn nhãn hiệu cũng không tạo ra trở ngại cho việc đăng ký nhãn hiệu. Mục đích của
nguyên tắc này cũng như nguyên tắc so sánh trong Điều 4quater liên quan đến bằng
độc quyền sáng chế là nhằm làm cho việc bảo hộ sở hữu công nghiệp độc lập với việc
liệu hàng hóa được bảo hộ có thể hay không thể được bán tại nước có liên quan.

Đôi khi, xảy ra trường hợp nhãn hiệu liên quan đến hàng hóa, ví dụ, không tuân thủ
các yêu cầu về an toàn theo pháp luật của một nước cụ thể. Ví dụ, pháp luật về thực
phẩm và dược phẩm của một nước có thể quy định các tiêu chuẩn liên quan đến thành
phần của thực phẩm hoặc tác dụng của dược phẩm và cho phép bán chúng chỉ sau khi
được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt, trên cơ sở kiểm tra thực phẩm và thử nghiệm
lâm sàng các công dụng của dược phẩm đối với người và động vật. Trong tất cả các
trường hợp này, sẽ là không công bằng khi từ chối đăng ký một nhãn hiệu liên quan
đến những hàng hóa như vậy. Pháp luật về an toàn và chất lượng có thể thay đổi và
sản phẩm có thể được phép bán sau đó. Trong các trường hợp đó, nếu không có dự
kiến thay đổi về pháp luật nhưng sự phê duyệt của cơ quan có thẩm quyền của nước
có liên quan vẫn bị trì hoãn, thì sự phê duyệt đó, nếu bị áp đặt như một điều kiện để
nộp đơn hoặc đăng ký tại nước đó, có thể gây thiệt hại cho người nộp đơn muốn nộp
đơn đúng hạn để bảo hộ tại quốc gia thành viên khác.

(j) Nhãn hiệu trưng bày tại các cuộc triển lãm quốc tế

Điều 11 quy định nguyên tắc: các quốc gia thành viên, theo luật quốc gia của mình,
có nghĩa vụ dành sự bảo hộ tạm thời đối với các nhãn hiệu cho hàng hóa trưng bày tại
các triển lãm quốc tế chính thức hoặc được công nhận là chính thức tổ chức tại một
quốc gia trong số các quốc gia thành viên.

Sự bảo hộ tạm thời có thể được quy định bằng nhiều hình thức khác nhau. Một là cấp
một quyền ưu tiên đặc biệt, tương tự như quyền được quy định trong Điều 4. Một khả
năng bảo hộ khác được ghi nhận trong một số luật quốc gia là việc thừa nhận quyền
sử dụng trước của người trưng bày hàng hóa mang nhãn hiệu tương phản với các
quyền có được của các bên thứ ba.

Để áp dụng luật pháp quốc gia về bảo hộ tạm thời, các cơ quan có thẩm quyền ở nước
đó có thể yêu cầu bằng chứng nhận biết hàng hóa được trưng bày và ngày bắt đầu
trưng bày hàng hóa ở triển lãm dưới dạng tài liệu bất kỳ mà cơ quan có thẩm quyền
cho là cần thiết.
51
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
‰ Thoả ước và Nghị định thư Madrid

(a) Giới thiệu

Hệ thống đăng ký quốc tế nhãn hiệu được điều chỉnh bởi hai điều ước, đó là Thoả ước
Madrid về đăng ký quốc tế nhãn hiệu, có hiệu lực từ năm 1891, và Nghị định thư liên
quan đến Thoả ước Madrid, được thông qua năm 1989, có hiệu lực từ ngày
1/12/1995, và được thực thi từ ngày 1/4/1996. Quy chế chung thi hành Thoả ước và
Nghị định thư cũng có hiệu lực từ ngày 1/4/1996.

Thoả ước Madrid tạo điều kiện thuận lợi cho một người nộp đơn đủ điều kiện - chủ sở
hữu đăng ký nhãn hiệu quốc gia ở nước sở tại của mình (đăng ký cơ sở ở nước xuất
xứ), được mở rộng sự bảo hộ đó tới một số hoặc tất cả các quốc gia khác tham gia
Thoả ước. Điều này được thực hiện bằng việc nộp một đơn duy nhất tới WIPO (Tổ
chức Sở hữu trí tuệ thế giới) ở Geneva, sau đó cơ quan này sẽ cấp một "Đăng ký quốc
tế" (IR) có chỉ ra ("sự chỉ định") các nước tham gia Thoả ước.

Nghị định thư là một sự sửa đổi mang tính kỹ thuật của Thoả ước. Nó cũng tạo điều
kiện thuận lợi cho những người nộp đơn có được một Đăng ký quốc tế, chỉ định các
nước tham gia Nghị định thư. Nghị định thư được lập ra nhằm thu hút các quốc gia,
như Hoa Kỳ, Nhật Bản và bốn nước EU không tham gia Thỏa ước (Anh, Ailen, Đan
Mạch và Hy Lạp). Nghị định thư có hiệu lực từ 1/12/1995 và được thực thi từ
1/4/1996. Các quy tắc và lệ phí được hoàn tất vào tháng 1/1996.

Những điểm khác biệt cơ bản giữa Nghị định thư và Thoả ước là:

(i) Một đơn đăng ký nộp theo Nghị định thư có thể dựa trên đơn quốc gia đang
chờ giải quyết, chứ không cần đợi một đăng ký quốc gia được cấp.

(ii) Trong trường hợp có sự phản đối thành công đối với đăng ký hoặc đơn
quốc gia cơ sở, chủ sở hữu Đăng ký quốc tế theo Nghị định thư có thể,
trong vòng 3 tháng kể từ ngày Đăng ký quốc tế đó bị huỷ, chuyển Đăng ký
quốc tế đó sang các đơn quốc gia với cùng ngày của Đăng ký quốc tế.
(Một Đăng ký quốc tế theo Thoả ước bị ràng buộc bởi đăng ký quốc gia cơ
sở trong vòng 5 năm, và một phản đối bất kỳ đối với đăng ký quốc gia
trong thời gian này dẫn tới việc hạn chế, huỷ bỏ hoặc đình chỉ hiệu lực
đăng ký quốc gia đó sẽ kéo theo việc hạn chế hoặc huỷ bỏ hiệu lực đăng
ký quốc tế ở tất cả các lãnh thổ. Đặc điểm này trong Thoả ước được biết
đến như "Phản đối từ trung tâm").
52
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
(iii) Các đơn đăng ký theo Nghị định thư có thể được làm bằng tiếng Anh hoặc
tiếng Pháp. (Thoả ước chỉ cho phép làm bằng tiếng Pháp).

(iv) Nghị định thư cho phép được thu lệ phí cao hơn, hầu như tương đương với
lệ phí nộp đơn và đăng ký quốc gia ở các nước được chỉ định. Tuy nhiên,
không phải chịu các phí luật sư trừ phi có phản đối đối với việc chỉ định.

(v) Thời hạn mà các cơ quan nhãn hiệu quốc gia phải thông báo cho WIPO các
phản đối đối với việc đăng ký được mở rộng từ tối đa 12 tháng tới 18
tháng.

Các nước đã ký Nghị định thư nhưng chưa ký Thoả ước có thể chỉ sử dụng Nghị định
thư, trừ phi họ cư trú hoặc có cơ sở thương mại thực sự và hiệu quả tại một nước của
Liên minh Công ước Paris.

Câu hỏi tự đánh giá

Câu 18 (a) "Phản đối từ trung tâm" của một đăng ký là gì.

Trả lời Khi một đăng ký quốc tế được cấp theo Thoả ước Madrid bị đình chỉ
hiệu lực ở nước mà đơn gốc được nộp thì toàn bộ đăng ký quốc tế đó sẽ
bị mất hiệu lực. Ngược lại, Nghị định thư cho phép các đăng ký bị phản
đối từ trung tâm đó được tách thành các đơn quốc gia.

Câu 18(b) Một đăng ký quốc tế theo Thoả ước Madrid có thể dựa trên một đơn
đang chờ giải quyết hay không?

Trả lời Không, nó phải dựa trên một đăng ký. Nghị định thư cho phép các đơn
đăng ký quốc tế được dựa trên một đơn quốc gia đang chờ giải quyết.

(b) Hoạt động của Hệ thống đăng ký quốc tế

(i) Nộp đơn Đăng ký quốc tế

Một đơn đăng ký quốc tế ("đơn quốc tế") chỉ có thể được nộp bởi một thể nhân hoặc
một pháp nhân có cơ sở thương mại hoặc công nghiệp thực sự và có hiệu quả, hoặc
cư trú tại, hoặc là công dân của một quốc gia tham gia Thoả ước Madrid hoặc Nghị
định thư Madrid, hoặc thể nhân hay pháp nhân có cơ sở thương mại hoặc công nghiệp
thực sự và hiệu quả tại, hoặc cư trú tại lãnh thổ của một tổ chức liên chính phủ là
53
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
thành viên của Nghị định thư hoặc là công dân của một nước thành viên của tổ chức
đó.

Hệ thống Madrid về đăng ký quốc tế không thể được sử dụng bởi một thể nhân hoặc
pháp nhân không có mối liên hệ cần thiết với một thành viên của Liên minh Madrid
thông qua cơ sở thương mại, nơi cư trú, quốc tịch, cũng không thể được sử dụng để
bảo hộ một nhãn hiệu ngoài Liên minh Madrid.

Một nhãn hiệu có thể là đối tượng của một đăng ký quốc tế chỉ khi nhãn hiệu đó đã
được đăng ký (hoặc đã được nộp đơn đăng ký, nếu đơn quốc tế chỉ chịu sự điều chỉnh
của Nghị định thư) tại Cơ quan xuất xứ. Trong trường hợp đơn quốc tế chỉ chịu sự
điều chỉnh của Thoả ước hoặc chịu sự điều chỉnh của cả Thoả ước và Nghị định thư,
Cơ quan xuất xứ là Cơ quan Nhãn hiệu của Bên tham gia nơi người nộp đơn có cơ sở
thương mại thực sự và có hiệu quả; nếu người nộp đơn không có cơ sở thương mại tại
một Nước, Cơ quan xuất xứ là Cơ quan của Bên tham gia nơi người nộp đơn cư trú;
nếu người nộp đơn không cư trú tại một Nước thì Cơ quan xuất xứ là Cơ quan của
Bên tham gia mà người nộp đơn là công dân. Trong trường hợp đơn quốc tế chỉ chịu
sự điều chỉnh của Nghị định thư, những hạn chế về sự lựa chọn Cơ quan xuất xứ sẽ
không được áp dụng; Cơ quan xuất xứ có thể là Cơ quan của Bên tham gia bất kỳ mà
một pháp nhân hoặc thể nhân đáp ứng một hoặc một số tiêu chuẩn nêu trên.

Câu hỏi tự đánh giá

Câu 19 Những công dân nào có đủ tư cách để nộp đơn đăng ký quốc tế

Trả lời Người có đủ tư cách nộp đơn đăng ký quốc tế là các thể nhân hoặc pháp
nhân có cơ sở thương mại hoặc công nghiệp thực sự và có hiệu quả, hoặc
cư trú tại, hoặc là công dân của một quốc gia tham gia Thoả ước Madrid
hoặc Nghị định thư Madrid, hoặc là thể nhân hoặc pháp nhân có cơ sở
thương mại hoặc cư trú tại lãnh thổ của một tổ chức liên chính chính phủ
tham gia Nghị định thư Madrid, hoặc là công dân của một Nước là thành
viên của tổ chức đó.

Một đơn quốc tế phải chỉ định một hoặc một số Bên tham gia (trừ Bên tham gia mà
Cơ quan của Bên đó là Cơ quan xuất xứ) nơi nhãn hiệu cần được bảo hộ. Các Bên
tham gia khác có thể được chỉ định sau. Một Bên tham gia chỉ có thể được chỉ định
khi Bên tham gia đó và Bên tham gia có Cơ quan là Cơ quan xuất xứ đều tham gia
cùng một điều ước, tức là Thoả ước hoặc Nghị định thư.

54
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
Việc chỉ định một Bên tham gia nhất định được thực hiện theo điều ước ràng buộc
chung cho cả Bên tham gia đó và Bên tham gia có Cơ quan là Cơ quan xuất xứ. Nếu
cả hai Bên tham gia đều là thành viên của cả Thoả ước và Nghị định thư thì Thoả ước
sẽ là điều ước điều chỉnh việc chỉ định đó; điều này được thực hiện theo quy định gọi
là điều khoản "bảo vệ", Điều 9sexies của Nghị định thư. Theo đó, có 3 loại đơn quốc
tế:

– đơn quốc tế chỉ chịu sự điều chỉnh của Thoả ước; có nghĩa là mọi sự chỉ
định đều được thực hiện theo Thoả ước;
– đơn quốc tế chỉ chịu sự điều chỉnh của Nghị định thư; có nghĩa là tất cả
mọi chỉ định đều được thực hiện theo Nghị định thư;
– đơn quốc tế chịu sự điều chỉnh của cả Thoả ước và Nghị định thư; có nghĩa
là một số chỉ định được thực hiện theo Thoả ước và một số chỉ định được
thực hiện theo Nghị định thư.

Đơn quốc tế phải được nộp cho Văn phòng quốc tế thông qua Cơ quan xuất xứ. Đơn
phải có, trong số những nội dung khác, một mẫu nhãn hiệu (phải trùng với nhãn hiệu
trong đăng ký cơ sở hoặc đơn cơ sở) và danh mục những hàng hoá và dịch vụ cần
được bảo hộ, được phân loại theo Bảng phân loại quốc tế về hàng hoá và dịch vụ
(Bảng phân loại Nice). Nếu đơn quốc tế chỉ chịu sự điều chỉnh của Thoả ước thì đơn
phải được làm bằng tiếng Pháp; nếu đơn chỉ chịu sự điều chỉnh của Nghị định thư
hoặc chịu sự điều chỉnh của cả Thoả ước và Nghị định thư thì đơn có thể được làm
bằng tiếng Anh hoặc tiếng Pháp, dù cho Cơ quan xuất xứ có thể hạn chế sự lựa chọn
của người nộp đơn đối với một trong số hai ngôn ngữ này.

Đơn quốc tế có thể yêu cầu hưởng quyền ưu tiên theo Điều 4 của Công ước Paris, trên
cơ sở đơn nộp cho Cơ quan xuất xứ hoặc cũng có thể trên cơ sở đơn nộp trước đó cho
một Cơ quan khác, không nhất thiết phải là Cơ quan của một bên tham gia Thoả ước
hoặc Nghị định thư.

Câu hỏi tự đánh giá

Câu 20 Đơn phải được nộp bằng (những) ngôn ngữ nào?

Trả lời Nếu đơn quốc tế chỉ chịu sự điều chỉnh của Thoả ước Madrid thì đơn đó
phải làm bằng tiếng Pháp; nếu đơn quốc tế chỉ chịu sự điều chỉnh của
Nghị định thư hoặc của cả Thoả ước và Nghị định thư thì đơn đó có thể
làm bằng tiếng Anh hoặc tiếng Pháp, dù cho Cơ quan xuất xứ có thể hạn
chế sự lựa chọn của người nộp đơn đối với một trong số hai ngôn ngữ
này.
55
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
Đơn quốc tế phải chịu những khoản lệ phí sau:

– lệ phí cơ bản

– lệ phí bổ sung đối với mỗi Bên tham gia được chỉ định trong trường hợp
không phải nộp lệ phí riêng;

– lệ phí riêng đối với mỗi Bên tham gia nào được chỉ định theo Nghị định
thư và đã tuyên bố rằng mình muốn nhận được một khoản lệ phí riêng
(mức lệ phí riêng được xác định bởi các Bên tham gia tương ứng và được
công bố trong Công báo);

– phụ phí đối với mỗi nhóm hàng hoá và dịch vụ vượt quá 3 nhóm; tuy nhiên
sẽ không phải nộp phụ phí nếu tất cả các chỉ định thuộc loại phải nộp lệ
phí riêng.

Các khoản lệ phí này có thể được nộp trực tiếp cho Văn phòng quốc tế hoặc, nếu Cơ
quan xuất xứ chấp nhận thu và chuyển các khoản lệ phí đó thì nộp thông qua Cơ quan
đó. Các khoản lệ phí dành riêng cho những bên tham gia nào sẽ được Văn phòng
quốc tế chuyển cho các Bên tham gia đó, còn các khoản phụ phí và lệ phí bổ sung
được phân chia cho các Bên tham gia không nhận các khoản lệ phí riêng theo tỷ lệ số
lần chỉ định đối với Bên tham gia đó.

Cơ quan xuất xứ phải xác nhận rằng: nhãn hiệu đăng ký quốc tế chính là nhãn hiệu
trong đăng ký cơ sở hoặc đơn cơ sở, rằng thông tin bất kỳ, ví dụ, phần mô tả nhãn
hiệu hoặc yêu cầu bảo hộ màu sắc như đặc điểm phân biệt của nhãn hiệu đều trùng
với những thông tin đó trong đăng ký cơ sở hoặc đơn cơ sở, và rằng hàng hoá và dịch
vụ nêu trong đơn quốc tế đều thuộc danh mục hàng hoá và dịch vụ trong đăng ký cơ
sở hoặc đơn cơ sở. Cơ quan xuất xứ cũng phải xác nhận ngày nhận được yêu cầu nộp
đơn quốc tế; với điều kiện Văn phòng quốc tế nhận được đơn trong vòng 2 tháng kể
từ ngày đó (và với điều kiện có đầy đủ các thông tin và tài liệu thiết yếu), ngày đó sẽ
là ngày đăng ký quốc tế.

Văn phòng quốc tế kiểm tra xem đơn có đáp ứng hay không đáp ứng các yêu cầu của
Thoả ước hay Nghị định thư và Quy chế chung, bao gồm cả các yêu cầu về việc chỉ ra
hàng hoá và dịch vụ và phân loại hàng hoá và dịch vụ, và kiểm tra xem lệ phí theo
quy định đã được nộp hay chưa. Cơ quan xuất xứ và người nộp đơn được thông báo
về sai sót bất kỳ và những sai sót đó phải được sửa chữa trong vòng 3 tháng, nếu
không đơn sẽ bị coi là được rút bỏ. Nếu đơn quốc tế đáp ứng các yêu cầu quy định,
56
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
nhãn hiệu sẽ được ghi nhận vào Đăng bạ quốc tế và công bố trên Công báo. Sau đó,
Văn phòng quốc tế sẽ thông báo cho từng Bên tham gia được yêu cầu bảo hộ.

Đăng ký quốc tế có hiệu lực trong 10 năm. Đăng ký quốc tế có thể được gia hạn nhiều
lần, mỗi lần 10 năm với điều kiện phải nộp lệ phí theo quy định.

Câu hỏi tự đánh giá

Câu 21 Cơ quan xuất xứ có những chức năng gì?

Trả lời Cơ quan xuất xứ xác nhận ngày mà cơ quan đó nhận được yêu cầu nộp
đơn quốc tế và xác nhận rằng nhãn hiệu đăng ký quốc tế chính là nhãn
hiệu trong đăng ký cơ sở hoặc đơn cơ sở, rằng bất cứ thông tin nào
chẳng hạn phần mô tả nhãn hiệu hoặc yêu cầu bảo hộ màu sắc như đặc
điểm phân biệt của nhãn hiệu đều trùng với những thông tin trong đăng
ký cơ sở hoặc đơn cơ sở, và rằng hàng hoá và dịch vụ nêu trong đơn
quốc tế đều thuộc danh mục hàng hoá và dịch vụ trong đăng ký cơ sở
hoặc đơn cơ sở.

(ii) Hiệu lực của đăng ký quốc tế

Kể từ ngày đăng ký quốc tế, việc bảo hộ nhãn hiệu tại từng nước của các Bên tham
gia được chỉ định sẽ tương tự như thể nhãn hiệu đó là đối tượng của một đơn đăng ký
nộp trực tiếp cho Cơ quan của Bên tham gia đó. Nếu không có thông báo từ chối gửi
cho Văn phòng quốc tế trong thời hạn quy định thì việc bảo hộ nhãn hiệu tại mỗi Bên
tham gia được chỉ định sẽ tương tự như thể nhãn hiệu đó được đăng ký bởi Cơ quan
của Bên tham gia đó.

Hiệu lực của đăng ký quốc tế có thể được mở rộng tới một Bên tham gia không được
chỉ định trong đơn quốc tế bằng cách nộp đơn chỉ định sau. Việc chỉ định sau có thể
được thực hiện đối với Bên tham gia mới tham gia Thoả ước hoặc Nghị định thư sau
thời điểm nộp đơn quốc tế.

(iii) Từ chối bảo hộ

Mỗi Bên tham gia được chỉ định có quyền từ chối bảo hộ. Sự từ chối bất kỳ cũng đều
phải được Cơ quan của Bên tham gia có liên quan thông báo cho Văn phòng quốc tế
trong thời hạn quy định tại Thoả ước hoặc Nghị định thư. Việc từ chối được ghi nhận
vào Đăng bạ quốc tế và được công bố trên Công báo và một bản sao được gửi cho
chủ sở hữu đăng ký quốc tế. Thủ tục bất kỳ sau đó, như xem xét lại hoặc khiếu nại,
57
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
được tiến hành một cách trực tiếp giữa chủ sở hữu và Cơ quan của Bên tham gia có
liên quan, còn Văn phòng quốc tế sẽ không liên quan đến các thủ tục đó. Tuy nhiên,
Bên tham gia có liên quan phải thông báo cho Văn phòng quốc tế quyết định cuối
cùng về việc xem xét lại hoặc khiếu nại đó. Quyết định này cũng được ghi nhận vào
Đăng bạ quốc tế và được công bố trên Công báo.

Thời hạn dành cho mỗi Bên tham gia để thông báo từ chối thường là 12 tháng. Tuy
nhiên, theo Nghị định thư, mỗi bên có thể tuyên bố rằng thời hạn này là 18 tháng hoặc
dài hơn trong trường hợp từ chối dựa trên cơ sở phản đối.

Câu hỏi tự đánh giá

Câu 22 Hiệu lực của đăng ký ở từng nước được chỉ định như thế nào?

A. Việc bảo hộ nhãn hiệu ở các nước đó tương tự như thể nhãn hiệu là đối
tượng của đơn đăng ký được nộp trực tiếp cho cơ quan nhãn hiệu của
nước đó.

(iv) Sự phụ thuộc vào Nhãn hiệu cơ sở

Trong thời hạn năm năm kể từ ngày đăng ký, đăng ký quốc tế phụ thuộc vào nhãn
hiệu được đăng ký hoặc được nộp đơn tại Cơ quan xuất xứ. Nếu đăng ký cơ sở bị mất
hiệu lực, bất kể do bị huỷ bỏ theo quyết định của Cơ quan xuất xứ hay toà án hay do
sự từ bỏ tự nguyện hoặc không gia hạn, trong thời hạn năm năm đó, đăng ký quốc tế
sẽ bị đình chỉ. Tương tự, đối với đăng ký quốc tế dựa trên cơ sở đơn nộp tại Cơ quan
xuất xứ, đăng ký đó sẽ bị đình chỉ trong trường hợp đơn đó bị từ chối hoặc rút bỏ
trong thời hạn năm năm, hoặc trong trường hợp và trong phạm vi đăng ký cấp theo
đơn đó bị mất hiệu lực trong thời hạn đó. Cơ quan xuất xứ phải thông báo cho Văn
phòng quốc tế về các sự kiện và quyết định liên quan đến việc đình chỉ hoặc huỷ bỏ
hiệu lực hoặc từ chối đơn và, nếu phù hợp, phải yêu cầu đình chỉ (trong phạm vi thích
hợp) đăng ký quốc tế đó. Việc huỷ bỏ này được công bố trên Công báo và được thông
báo cho Các bên tham gia được chỉ định.

Sau khi khi kết thúc thời hạn năm năm, đăng ký quốc tế sẽ trở thành độc lập với đăng
ký cơ sở hoặc đơn cơ sở.

Câu hỏi tự đánh giá

Câu 23. Thời hạn dễ bị từ chối bảo hộ của một đăng ký là bao lâu?

58
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
Trả lời Năm năm kể từ ngày đăng ký ở nước xuất xứ.

(v) Thay đổi và Huỷ bỏ đăng ký quốc tế

Sự thay đổi về tên hoặc địa chỉ của chủ sở hữu có thể được ghi nhận vào Đăng bạ
quốc tế theo yêu cầu. Tương tự, sự thay đổi về quyền sở hữu đối với một đăng ký
quốc tế có thể được ghi nhận đối với tất cả hoặc một số hàng hoá và dịch vụ và đối
với tất cả hoặc một số Bên tham gia được chỉ định. Tuy nhiên, một người có thể được
ghi nhận là chủ sở hữu của một đăng ký quốc tế đối với một Bên tham gia nhất định
chỉ khi người đó được phép (do có cơ sở thương mại, nơi cư trú hoặc quốc tịch) chỉ
định Bên tham gia đó trong đơn quốc tế.

Những thông tin dưới đây cũng có thể được ghi nhận vào Đăng bạ quốc tế:

– giới hạn danh mục hàng hoá và dịch vụ đối với tất cả hoặc một số Bên
tham gia được chỉ định;

– từ bỏ đăng ký đối với một số Bên tham gia được chỉ định đối với tất cả
hoặc một số hàng hoá và dịch vụ;

– huỷ bỏ đăng ký quốc tế đối với tất cả các Bên tham gia được chỉ định đối
với tất cả hàng hoá và dịch vụ.

Những thay đổi và huỷ bỏ này được công bố trên Công báo và thông báo cho các Bên
tham gia được chỉ định khác.

Không thể thay đổi nhãn hiệu là đối tượng của đăng ký quốc tế khi gia hạn cũng như
ở thời điểm bất kỳ khác. Danh mục hàng hoá và dịch vụ cũng không được thay đổi
nếu việc thay đổi dẫn đến việc mở rộng phạm vi bảo hộ.

(c) Tham gia Thoả ước hoặc Nghị định thư

Nước bất kỳ là thành viên của Công ước Paris về bảo hộ sở hữu công nghiệp đều có
thể tham gia Thoả ước hoặc Nghị định thư hoặc cả hai điều ước đó. Ngoài ra, một tổ
chức liên chính phủ cũng có thể tham gia Nghị định thư (nhưng không thể tham gia
Thoả ước) nếu đáp ứng được những điều kiện sau: ít nhất một trong số những Nước
thành viên của tổ chức đó là thành viên của Công ước Paris và tổ chức đó có một cơ
quan khu vực có chức năng đăng ký nhãn hiệu với hiệu lực trong lãnh thổ của tổ chức
đó.

59
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
Nước tham gia Thoả ước và/hoặc Nghị định thư và các tổ chức tham gia Nghị định
thư được gọi chung là các Bên tham gia. Mỗi thành viên của Liên minh Madrid là
một thành viên của Hội đồng Liên minh đó.

(d) Những ưu điểm của Hệ thống

Sau khi đăng ký nhãn hiệu, hoặc nộp đơn đăng ký vào Cơ quan xuất xứ, chủ nhãn
hiệu chỉ phải nộp một đơn, bằng một ngôn ngữ, cho một Cơ quan và chỉ phải nộp các
khoản lệ phí cho một cơ quan; thủ tục này thay thế cho việc phải nộp đơn riêng biệt
cho từng Cơ quan nhãn hiệu của các Bên tham gia khác nhau bằng những ngôn ngữ
khác nhau, và phải trả các khoản lệ phí riêng biệt cho từng Cơ quan. Khi gia hạn hoặc
sửa đổi đăng ký cũng được hưởng những lợi ích tương tự.

Đăng ký quốc tế cũng có lợi cho các Cơ quan nhãn hiệu. Ví dụ, các Cơ quan nhãn
hiệu sẽ không cần xem xét việc tuân thủ các yêu cầu về mặt hình thức của đơn hoặc
không cần phân loại hàng hoá và dịch vụ hoặc công bố nhãn hiệu. Như trên đã trình
bày, các khoản lệ phí riêng biệt và các khoản lệ phí chỉ định khác được thu bởi Văn
phòng quốc tế được chuyển cho các Bên tham gia được yêu cầu bảo hộ. Hơn nữa, nếu
Dịch vụ đăng ký quốc tế đóng tài khoản sau 2 năm mà có lợi nhuận thì lợi nhuận sẽ
được chia cho các bên tham gia.

‰ Hiệp ước Luật Nhãn hiệu (TLT)

(a) Giới thiệu

Hiệp ước Luật Nhãn hiệu được thông qua ngày 27/10/1994 tại một Hội nghị ngoại
giao ở Geneva. Mục đích của Hiệp ước là đơn giản hoá và hài hoà hoá các thủ tục
hành chính liên quan đến đăng ký và bảo hộ nhãn hiệu quốc gia. Mỗi quốc gia riêng
biệt cũng như các tổ chức liên chính phủ có Cơ quan đăng ký nhãn hiệu với hiệu lực
trong lãnh thổ các nước thành viên, như Cộng đồng châu Âu (EU) và Tổ chức SHTT
châu Phi (OAPI) đều có thể trở thành thành viên của Hiệp ước. Các điều khoản của
Hiệp ước được bổ sung bằng các Quy chế và các Mẫu đơn Quốc tế. Hiệp ước bắt đầu
có hiệu lực từ 01/8/1996.

(b) Các loại nhãn hiệu mà Hiệp ước này được áp dụng

Theo Điều 2, Hiệp ước này được áp dụng cho các nhãn hiệu hàng hoá và dịch vụ.
Không phải tất cả các nước hiện nay đều đăng ký nhãn hiệu dịch vụ và vì vậy khi
tham gia Hiệp ước, Nước thành viên phải có nghĩa vụ đăng ký nhãn hiệu dịch vụ.

60
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
Thêm vào đó, theo Điều 16, Nước thành viên đó cũng có nghĩa vụ tuân thủ các quy
định của Công ước Paris liên quan đến nhãn hiệu dịch vụ.

Nhãn hiệu tập thể, nhãn hiệu chứng nhận và nhãn hiệu bảo đảm không thuộc phạm vi
điều chỉnh của Hiệp ước này bởi vì việc đăng ký các loại nhãn hiệu này thường đòi
hỏi phải đáp ứng các điều kiện đặc biệt, đa dạng ở các nước khác nhau khiến cho việc
hài hoà hoá rất khó khăn. Nhãn hiệu ba chiều và nhãn hiệu vô hình, như nhãn hiệu âm
thanh và nhãn hiệu mùi không thuộc phạm vi điều chỉnh của Hiệp ước này bởi vì
chúng không dễ dàng tạo mẫu các nhãn hiệu đó bằng phương pháp đồ hoạ và rất ít
quốc gia quy định trong luật quốc gia của mình về việc bảo hộ các loại nhãn hiệu này.

Nhãn hiệu có khả năng được đăng ký phải bao gồm các dấu hiệu có thể nhìn thấy
được và liên quan tới nhãn hiệu ba chiều thì chỉ những nước chấp nhận đăng ký nhãn
hiệu ba chiều mới có nghĩa vụ phải tuân theo Hiệp ước đối với các nhãn hiệu loại này.

(c) Đơn

Điều 3 Hiệp ước gồm toàn bộ danh mục các thông tin mà Cơ quan được phép yêu cầu
đối với đơn đăng ký nhãn hiệu. Ví dụ, những thông tin này là tên và địa chỉ của người
nộp đơn và của đại diện, tuyên bố yêu cầu hưởng quyền ưu tiên đối với đơn được nộp
sớm hơn (nếu có), một hoặc vài mẫu nhãn hiệu tuỳ thuộc nhãn hiệu đó có phải là
nhãn hiệu màu hoặc hình khối hay không, tên của hàng hoá hoặc dịch vụ xếp theo
nhóm của Bảng phân loại Nice, hoặc khai báo về việc dự định sử dụng nhãn hiệu
hàng hoá hoặc về việc sử dụng thực tế. Ngoài những thông tin được quy định trong
Hiệp ước, không được yêu cầu những thông tin khác, như Đăng ký kinh doanh, chứng
cứ về việc người nộp đơn đang tiến hành hoạt động kinh doanh hoặc lĩnh vực kinh
doanh liên quan đến hàng hoá hoặc dịch vụ được liệt kê trong đơn.

Cùng một đơn có thể đăng ký cho nhiều hàng hóa và dịch vụ. Theo Điều 6 của Hiệp
ước, Cơ quan phải chấp nhận đơn đăng ký cho dù các hàng hóa hoặc dịch vụ thuộc
nhiều nhóm khác nhau trong Bảng phân loại Nice. Trong trường hợp này, đơn phải
tương ứng với một đăng ký duy nhất.

Cơ quan không được từ chối đơn bằng bản giấy nếu đơn đó được làm theo mẫu tương
ứng với mẫu đơn nêu trong Quy chế hoặc, nếu việc gửi tài liệu tới Cơ quan bằng fax
là được phép thì bản sao bằng giấy từ bản chuyển đó phải đúng với mẫu đơn.

Câu hỏi tự đánh giá

61
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
Câu 24 Cơ quan nhãn hiệu có thể yêu cầu các thông tin gì theo quy định của
TLT?

A. Tên và địa chỉ của người nộp đơn và của đại diện, tuyên bố yêu cầu
hưởng quyền ưu tiên đối với đơn được nộp sớm hơn (nếu có), một
hoặc vài mẫu nhãn hiệu tuỳ thuộc nhãn hiệu đó có phải là nhãn hiệu
màu hoặc hình khối hay không, tên của hàng hoá hoặc dịch vụ xếp
theo nhóm của Bảng phân loại Nice, hoặc khai báo về việc dự định sử
dụng nhãn hiệu hàng hoá hoặc về việc sử dụng thực tế.

(d) Đại diện

Điều 4 Hiệp ước cho phép Bên tham gia yêu cầu đại diện của người nộp đơn hoặc chủ
sở hữu phải là người được phép hoạt động đại diện trước Cơ quan của Bên tham gia
đó, và người không có cơ sở công nghiệp hoặc thương mại thực sự và có hiệu quả,
hoặc thường trú trên lãnh thổ nước đó phải có đại diện. Theo quy định này, giấy ủy
quyền có thể liên quan đến nhiều đơn hoặc đăng ký hiện có hoặc trong tương lai.

(e) Ngày nộp đơn

Việc ghi nhận ngày nộp đơn có ý nghĩa quan trọng bởi vì các quyền phát sinh trên cơ
sở ngày đó, và vì có thể đòi hỏi quyền ưu tiên từ ngày đó đối với đơn được nộp sau ở
những nước khác. Điều 5 của Hiệp ước quy định những thông tin tối đa mà Cơ quan
có thể yêu cầu đối với việc ghi nhận ngày nộp đơn. Những thông tin này bao gồm các
thông tin về người nộp đơn, thông tin đủ để liên lạc với người nộp đơn hoặc người đại
diện của người nộp đơn, mẫu nhãn hiệu, danh mục hàng hóa và dịch vụ yêu cầu đăng
ký nhãn hiệu, v.v.. Ngoài ra, để ghi nhận ngày nộp đơn, Cơ quan có thể yêu cầu nộp
lệ phí nếu luật nhãn hiệu của quốc gia áp dụng điều kiện này trước khi tham gia Hiệp
ước.

(f) Tách Đơn và Đăng ký

Nếu việc đăng ký một nhãn hiệu bị từ chối đối với một số hàng hóa hoặc dịch vụ nhất
định, Điều 7 Hiệp ước quy định người nộp đơn có thể tách đơn để tránh bị chậm trễ
trong việc thực hiện đăng ký nhãn hiệu cho những hàng hóa hoặc dịch vụ không bị từ
chối và vẫn giữ được ngày nộp đơn đầu tiên hoặc ngày ưu tiên nếu có. Đồng thời,
người nộp đơn có thể tiến hành khiếu nại đối với đơn có hàng hóa hoặc dịch vụ bị từ
chối.

62
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
Cũng có sự lựa chọn tương tự đối với việc tách đăng ký khi mà hiệu lực của đăng ký
bị một bên thứ ba phản đối, hoặc trong trường hợp có khiếu kiện nào đó chống lại
quyết định của Cơ quan Sở hữu công nghiệp liên quan đến thủ tục này.

(g) Chữ ký

Điều 8 Hiệp ước có các quy định về chữ ký và các dấu hiệu khác cho phép xác định
nguồn của một thông tin như việc nộp một đơn vào Cơ quan, cụ thể là khi việc
chuyển tài liệu được thực hiện bằng fax hoặc các phương tiện điện tử. Thay vì chữ ký
viết tay, Cơ quan có thể chấp nhận chữ ký dưới hình thức in, dán tem hoặc đóng dấu.
Điều quan trọng là không được phép yêu cầu chứng thực, công chứng, xác nhận, hợp
pháp hóa hay hình thức xác nhận chữ ký bất kỳ khác, trừ trường hợp chữ ký liên quan
đến việc hủy bỏ một đăng ký nếu pháp luật quốc gia quy định như vậy.

Câu hỏi tự đánh giá

Câu 25 TLT có cho phép nộp đơn điện tử không?

Trả lời Có. Điều này được phép theo quy định tại Điều 8.

(h) Những thay đổi và sửa chữa liên quan đến Đơn và Đăng ký

Điều 10 và 11 Hiệp ước quy định về những yêu cầu đối với việc ghi nhận sự thay đổi
về tên, địa chỉ và quyền sở hữu. Điều 12 có những yêu cầu tối đa mà Cơ quan có thể
yêu cầu nhằm sửa chữa những thiếu sót của người nộp đơn hoặc chủ sở hữu trong tài
liệu gửi cho cơ quan – những nội dung sẽ được in trong đăng bạ. Các quy định từ
Điều 10 đến Điều 12 được áp dụng cho cả việc thay đổi hoặc sửa chữa đơn và đăng
ký. Các điều khoản này quy định một đơn duy nhất có thể yêu cầu ghi nhận việc thay
đổi hoặc sửa chữa liên quan đến nhiều đơn hoặc đăng ký hoặc cả hai. Đơn yêu cầu
phải chỉ ra một cách rõ ràng những thông tin có liên quan được thực hiện bởi Cơ quan
đăng ký và những thay đổi hoặc sửa chữa được yêu cầu.

Cơ quan không thể yêu cầu các thông tin thêm ngoài những thông tin đã được đề cập
trong Hiệp ước, trừ khi Cơ quan có cơ sở nghi ngờ tính xác thực của thông tin, ví dụ,
khi cơ quan đó nghi ngờ về việc thay đổi tên và địa chỉ thực tế lại là sự thay đổi
quyền sở hữu. Đặc biệt, Cơ quan không được phép yêu cầu cung cấp tài liệu xác nhận
việc thay đổi tên hoặc địa chỉ, chứng cứ về việc chủ sở hữu mới tiến hành hoạt động
kinh doanh liên quan đến hàng hoá hoặc dịch vụ được thay đổi quyền sở hữu, hoặc
chủ sở hữu quyền chuyển giao cơ sở thương mại của mình cho chủ sở hữu mới.

63
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
Theo Điều 11, đối với yêu cầu ghi nhận việc thay đổi quyền sở hữu, Cơ quan có thể
yêu cầu nộp bản sao hoặc bản trích sao hợp đồng có xác nhận, văn bản xác nhận việc
chuyển giao và tài liệu chuyển giao. Nếu sự thay đổi quyền sở hữu là kết quả của việc
sát nhập hoặc thực thi luật hoặc quyết định của toà án, ví dụ, trong trường hợp thừa kế
hoặc phá sản, Cơ quan có thể đòi hỏi nộp yêu cầu kèm với bản sao có xác nhận tài
liệu chứng minh việc thay đổi quyền sở hữu.

Thiếu sót của Cơ quan đăng ký phải được Cơ quan sửa chữa một cách chủ động hoặc
theo yêu cầu.

(i) Thời hạn và Gia hạn Đăng ký

Điều 13 Hiệp ước quy định đăng ký nhãn hiệu có thời hạn 10 năm đối với kỳ hạn hiệu
lực đầu tiên và có thể gia hạn nhiều lần, mỗi kỳ hạn là 10 năm. Đối với việc gia hạn,
điều này liệt kê những yêu cầu tối đa mà Cơ quan có thể đặt ra. Những yêu cầu này
tương ứng với các yêu cầu về nộp đơn. Đặc biệt, Cơ quan không được vì các mục
đích ảnh hưởng tới việc gia hạn mà tiến hành thẩm định nội dung đăng ký hoặc yêu
cầu nộp mẫu nhãn hoặc cung cấp những chứng cứ liên quan đến việc sử dụng nhãn
hiệu đó.

Câu hỏi tự đánh giá

Câu 26 Thời hạn của đăng ký nhãn hiệu theo Hiệp ước Luật Nhãn hiệu là bao
lâu?

Trả lời Thời hạn đầu tiên là 10 năm, và có thể gia hạn nhiều lần tiếp theo với
mỗi kỳ hạn là 10 năm

(j) Các quy định khác trong Hiệp ước

Theo Điều 14, trong trường hợp dự định từ chối đơn yêu cầu ghi nhận việc thay đổi
tên, địa chỉ và quyền sở hữu hoặc đơn yêu cầu sửa chữa thiếu sót hoặc đơn yêu cầu
gia hạn, Cơ quan phải dành cho người yêu cầu một thời hạn thích hợp để có cơ hội
đưa ra ý kiến về dự định từ chối đó.

Nói chung, mặc dù Hiệp ước đặt ra các yêu cầu tối đa mà Cơ quan có thể yêu cầu đối
với đơn, đại diện, gia hạn, v.v. nhưng Cơ quan cũng có quyền yêu cầu cung cấp thêm
các thông tin nếu có cơ sở nghi ngờ về tính xác thực của thông tin nhận được.

64
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
Hiệp ước cũng cho phép Cơ quan yêu cầu việc nộp đơn hoặc các thông tin trao đổi
được đăng ký phải được làm bằng một ngôn ngữ nhất định, hoặc một trong số các
ngôn ngữ mà Cơ quan đó cho phép.

(k) Tuân thủ các Công ước khác

Hiệp ước Luật Nhãn hiệu không yêu cầu các Nước thành viên phải có nghĩa vụ tham
gia các điều ước quốc tế khác. Tuy nhiên, Điều 15 quy định các Nước thành viên phải
tuân thủ các quy định của Công ước Paris liên quan đến nhãn hiệu và Điều 3 liên
quan đến việc nộp đơn, theo đó các Nước thành viên phải đảm bảo rằng Bảng phân
loại Nice được áp dụng cho việc phân nhóm hàng hoá và dịch vụ nêu trong đơn.

(l) Quy chế và các Mẫu đơn quốc tế

Các quy định của Hiệp ước được bổ sung bằng Quy chế, Quy chế này quy định các
quy tắc liên quan đến hướng dẫn chi tiết việc thi hành các điều khoản về các thủ tục
và yêu cầu hành chính theo Hiệp ước. Quy chế này được áp dụng đối với các yêu cầu
về đơn, đại diện, ngày nộp đơn, chữ ký, thời hạn, gia hạn, cách ghi tên và địa chỉ,
cách nhận biết đơn mà không có số đơn. Ví dụ, Quy chế quy định về số lượng mẫu
nhãn hiệu cần nộp kèm theo đơn, thời hạn nộp lệ phí và nộp các tài liệu khác cho Cơ
quan như giấy uỷ quyền, yêu cầu sửa đổi trong trường hợp không đúng quy định, v.v.

Quy chế còn bao gồm 8 mẫu Đơn quốc tế về việc nộp đơn đăng ký, yêu cầu gia hạn,
ghi nhận việc thay đổi tên, địa chỉ và quyền sở hữu, sửa chữa các thiếu sót, chỉ định
đại diện, giấy xác nhận việc chuyển giao và các văn bản chuyển giao. Trong trường
hợp yêu cầu cung cấp thông tin không được quy định theo luật quốc gia nhưng lại
được thừa nhận theo yêu cầu của Hiệp ước, ví dụ, về đơn, Cơ quan phải chuẩn bị một
"Mẫu đơn quốc tế riêng". Mẫu này không được quy định thêm các yêu cầu mang tính
bắt buộc bổ sung hoặc trái với Hiệp ước hoặc Quy chế. Bằng việc sử dụng Mẫu đơn
quốc tế hoặc Mẫu đơn quốc tế riêng, người nộp đơn và các bên khác được đảm bảo
rằng Cơ quan của Bên tham gia sẽ không thể từ chối đơn đăng ký hoặc đơn yêu cầu
được làm theo các mẫu đó.

(m) Các điều khoản chuyển tiếp

Các điều khoản chuyển tiếp của Hiệp ước cho phép các Nước thành viên được hoãn
thi hành một số quy định của Hiệp ước đến ngày 28/10/2004, ví dụ, đối với hệ thống
đơn có nhiều nhóm hàng hoá, dịch vụ, quy định cấm việc yêu cầu xác nhận chữ ký
trong đơn và giấy uỷ quyền, nộp tuyên bố và/hoặc chứng cứ về việc sử dụng liên tục

65
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
nhãn hiệu khi yêu cầu gia hạn đăng ký nhãn hiệu và tiến hành thẩm định nội dung khi
gia hạn.

(g) Tên miền có xung đột

Điều 6 quy định rằng một tên miền sẽ bị coi là xung đột với một nhãn hiệu nổi tiếng ít
nhất nếu tên miền đó, hoặc một phần chủ yếu của nó, tạo thành sự mô phỏng, bắt
chước, biên dịch, hoặc chuyển ngữ của nhãn hiệu nổi tiếng, và tên miền đó được đăng
ký hoặc sử dụng với mục đích không trung thực.

Chủ sở hữu nhãn hiệu nổi tiếng sẽ có quyền yêu cầu, bằng quyết định của cơ quan có
thẩm quyền, người đăng ký tên miền xung đột đó phải hủy bỏ đăng ký, hoặc chuyển
giao đăng ký đó cho chủ sở hữu nhãn hiệu nổi tiếng.

Chỉ dẫn địa lý

1. Giới thiệu

Chỉ dẫn địa lý là những dấu hiệu chỉ xuất xứ được nhà sản xuất sử dụng để có được sự
thừa nhận của thị trường. Các nhãn hiệu chỉ nguồn gốc địa lý của hàng hoá có lẽ là các
loại nhãn hiệu sớm nhất. Ví dụ, dòng chữ Hy Lạp khắc trên bia được tìm thấy trên các
bình Etruscan có niên đại từ 800 đến 400 năm trước công nguyên.

Luật đầu tiên của Pháp về chỉ dẫn xuất xứ của nho trồng có từ ngày 1 tháng 8 năm
1905; Một luật năm 1935 đã thiết lập hệ thống kiểm soát tên gọi xuất xứ quốc gia
(appellations d’origine contrôlée (AOC)) dưới sự kiểm soát của một cơ quan công:
Viện quốc gia về tên gọi xuất xứ (Institut Nationale des Appellations d’Origine
(INAO)); các loại pho mát được bảo hộ bởi nhiều luật, như Roquefort (1925), Comté
(1952) và Cantal (1956).

Một hệ thống bảo hộ các chỉ dẫn địa lý tạo ra một quyền độc quyền thông qua (i) việc
đăng ký một từ hoặc biểu tượng mang ý nghĩa địa lý, (ii) việc xác định mối liên hệ
giữa một sản phẩm và một lãnh thổ về mặt địa lý. Trong ví dụ thứ hai, các chỉ dẫn địa
lý là một hình thức can thiệp của nhà nước vào việc điều chỉnh sản phẩm. Các chế độ
đa phương đã phát triển việc thiết lập các tiêu chuẩn bảo hộ chỉ dẫn địa lý theo một,
hoặc cả hai chức năng này. Nhưng chế độ quan trọng nhất là Công ước Paris về Bảo
hộ sở hữu công nghiệp (1883); Thoả ước Madrid về Ngăn chặn chỉ dẫn sai hoặc lừa
dối về nguồn gốc (1891); Thoả ước Lisbon về Bảo hộ và đăng ký tên gọi xuất xứ
(1958); và Hiệp định của WTO về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền
sở hữu trí tuệ (Hiệp định TRIPS 1994).
66
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
2. Các định nghĩa

(a) Các chỉ dẫn địa lý

Vì có rất nhiều cách khác nhau mà việc bảo hộ các chỉ dẫn địa lý được tạo ra theo các
luật quốc gia nên không có một thuật ngữ được chấp nhận chung. Các thuật ngữ dưới
đây là các định nghĩa thông thường mà có thể được tìm thấy trong tài liệu về các chỉ
dẫn địa lý:

‘Chỉ dẫn nguồn gốc’ chỉ một dấu hiệu thể hiện việc một sản phẩm có nguồn gốc từ
một vùng địa lý đặc biệt.

‘Tên gọi xuất xứ' chỉ một dấu hiệu thể hiện việc một sản phẩm có xuất xứ từ một khu
vực địa lý đặc biệt chỉ khi các chất lượng đặc thù của sản phẩm có do môi trường địa
lý, bao gồm cả các yếu tố tự nhiên và con người.

‘Chỉ dẫn địa lý’ bao gồm cả hai khái niệm trên.

Với mục đích bàn luận các đề xuất cải cách vào tháng tư năm 2001 của Hội đồng
TRIPS, Ban thư ký WTO đã thông qua thuật ngữ "chỉ dẫn nguồn gốc địa lý" để chỉ các
sự thể hiện khác nhau được các thành viên của WTO sử dụng để bảo hộ nguồn gốc địa
lý của sản phẩm.

(b) Các nhãn hiệu

Trong các điều kiện chung, các nhãn hiệu là các dấu hiệu được sử dụng để phân biệt
hàng hoá hoặc dịch vụ của một doanh nghiệp này với hàng hoá hoặc dịch vụ của
doanh nghiệp khác. Điều 15.1 Hiệp định TRIPS quy định rằng: "Dấu hiệu bất kỳ, hoặc
sự kết hợp của các dấu hiệu có khả năng phân biệt hàng hoá hoặc dịch vụ của một
doanh nghiệp này với hàng hoá hoặc dịch vụ của các doanh nghiệp khác đều có thể
được coi là một nhãn hiệu". Theo định nghĩa này thì chức năng chính của nhãn hiệu là
phân biệt hàng hoá và/hoặc dịch vụ trong đó nhãn hiệu được sử dụng. Chỉ những nhãn
hiệu có tính phân biệt mới có thể thực hiện được chức năng này.

Hiệp định TRIPS không đưa ra chỉ dẫn nào về việc trong trường hợp nào thì một dấu
hiệu phải được coi là có tính phân biệt đối với hàng hoá hoặc dịch vụ nhất định. Tuy
nhiên, thường chấp nhận rằng để được coi là có tính phân biệt, các dấu hiệu được sử
dụng như nhãn hiệu phải không mang tính mô tả hoặc lừa dối.

67
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
Như một đề xuất chung, các chỉ dẫn địa lý không chắc được nghĩ đến hơn là mang tính
mô tả. Thực vậy, nhiều luật nhãn hiệu loại trừ một cách rõ ràng các dấu hiệu chỉ địa lý
khỏi bảo hộ như những dấu hiệu vốn mang tính phân biệt và đồng thời quy định như
một sự bảo vệ đối với sự xâm phạm nhãn hiệu, thực tế rằng một dấu hiệu khu vực địa
lý được hiểu ngầm để tuyên bố một sự liên hệ đối với xuất xứ của hàng hoá có liên
quan. Tuy nhiên, nó có thể sử dụng một tên địa lý như một nhãn hiệu trong các trường
hợp khi nhãn hiệu đó, cho dù mang tính mô tả về nguồn gốc, có được đặc tính phân
biệt (hoặc ý nghĩa thứ hai) thông qua việc sử dụng.

(c) Những sự khác nhau giữa Chỉ dẫn địa lý và Nhãn hiệu

Như đã được chỉ ra trong phần bàn luận trên đây, một chỉ dẫn địa lý là một sự mô tả
chung có khả năng áp dụng bởi mọi thương nhân ở một khu vực địa lý cụ thể đối với
hàng hóa mà có nguồn gốc từ khu vực đó. Nhãn hiệu là một dấu hiệu phân biệt các sản
phẩm của một thương nhân cụ thể với những hàng hóa của các đối thủ cạnh tranh của
mình. Vì vậy, nó không thể mang tính mô tả và không thể là tên chung.

Mọi thương nhân từ khu vực địa lý cụ thể được hưởng quyền bảo hộ chỉ dẫn địa lý đối
với sự chiếm đoạt trái phép, trong khi đó một nhãn hiệu được bảo hộ khỏi việc chiếm
đoạt trái phép theo đơn yêu cầu của chủ sở hữu đã đăng ký của nhãn hiệu đó. Nói
chung, các chỉ dẫn địa lý được giám sát và bảo hộ bởi các hiệp hội của các nhà sản
xuất ở khu vực có liên quan.

Không giống các nhãn hiệu, các chỉ dẫn địa lý không thể tự do chuyển giao từ một chủ
sở hữu này sang chủ sở hữu khác, bởi vì một người sử dụng phải có sự liên tưởng phù
hợp với khu vực địa lý và phải tương thích với thực tiễn sản xuất của khu vực đó.

3. Bảo hộ quốc tế Chỉ dẫn địa lý

(a) Công ước Paris về Bảo hộ sở hữu công nghiệp, năm 1883

Công ước đa phương đầu tiên đưa "các chỉ dẫn nguồn gốc hoặc các tên gọi xuất xứ"
vào như các đối tượng bảo hộ của pháp luật sở hữu công nghiệp, là Công ước Paris.
Theo Điều 10(1) của Công ước Paris, quy định được xây dựng để nhằm bắt giữ việc
nhập khẩu hàng hoá mang các chỉ dẫn sai lệch về nguồn gốc của hàng hoá hoặc chỉ
dẫn sai của nhà sản xuất.

Theo Điều 10(2),

68
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
... nhà sản xuất, nhà chế tạo, hoặc thương gia bất kỳ dù là cá nhân hay pháp
nhân, tham dự hay không vào việc sản xuất, hoặc chế tạo hoặc buôn bán các
hàng hoá như vậy và được thành lập ở khu vực bị chỉ dẫn sai lệch như nguồn
gốc hoặc tại vùng có khu vực như vậy, hoặc ở nước bị chỉ dẫn sai lệch, hoặc ở
nước nơi chỉ dẫn sai lệch về nguồn gốc được sử dụng, trong trường hợp bất kỳ
cũng được coi là bên có liên quan.

Điều 10bis cũng đưa ra sự bảo hộ chống lại các chỉ dẫn sai lệch hoặc lừa dối về nguồn
gốc như một cách thức ngăn chặn sự cạnh tranh không lành mạnh.

Theo định nghĩa, sự cạnh tranh không lành mạnh là những hành động bất kỳ tạo ra sự
nhầm lẫn hoặc những sự viện dẫn bất kỳ mà việc sử dụng chúng trong tiến trình
thương mại có khả năng khiến cho công chúng nhầm lẫn về bản chất đối với quy trình
sản xuất, các đặc tính, tính phù hợp với mục đích của chúng, hoặc chất lượng của hàng
hoá.

(b) Thỏa ước Madrid về ngăn chặn các chỉ dẫn sai hoặc lừa dối về nguồn
gốc của hàng hoá, năm 1891

Hình thức nguyên thủy của Công ước Paris cấm việc sử dụng các chỉ dẫn địa lý sai
lệch. Một số nước đã ký kết Công ước đề xuất một hình thức toàn diện hơn đối với
việc điều chỉnh được coi là lạm dụng đáng kể quyền SHTT. Năm 1891 Thỏa ước
Madrid đối với việc bảo hộ các chỉ dẫn địa lý là câu trả lời của các nước này. Điều 1
quy định tất cả hàng hóa "mang chỉ dẫn sai lệch hoặc lừa dối" tới một nước ký kết
Thỏa ước, hoặc tới một nơi ở nước đó “sẽ bị bắt giữ đối với việc nhập khẩu”. Tuy
nhiên, thoả thuận này không thu hút được sự tham gia của các nước có nền thương mại
chủ yếu như Mỹ, Đức và Ý. Vấn đề ban đầu đối với Thoả ước này và với các sửa đổi
tiếp theo là khả năng các nước không miễn trừ những chỉ dẫn địa lý đã trở thành tên
gọi chung trong phạm vi biên giới của họ.

(c) Thoả ước Lisbon về Bảo hộ và đăng ký tên gọi xuất xứ, năm 1958

Thoả ước Lisbon thiết lập một hệ thống quốc tế về đăng ký và bảo hộ tên gọi xuất xứ.
Thoả ước đã thông qua định nghĩa bằng tiếng Pháp đối với tên gọi xuất xứ bằng việc
hạn chế các chỉ dẫn được bảo hộ cho những trường hợp mà trong đó chất lượng và các
đặc tính của sản phẩm “hoàn toàn hoặc hầu như do môi trường địa lý, gồm các yếu tố
tự nhiên và con người tạo ra".

Thoả ước quy định về việc đăng ký tại Văn phòng quốc tế của WIPO các tên gọi xuất
xứ "được công nhận và bảo hộ như tại nước xuất xứ của chúng". Do đó, các nước được
69
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
tự do trong việc thông qua hệ thống của mình về việc xác định tên gọi hoặc bằng quyết
định hành chính hoặc quyết định tư pháp, hoặc cả hai. Một khi đã được đăng ký, một
chỉ dẫn địa lý sẽ được bảo hộ ở các nước thành viên khác. Các nước phải đảm bảo
rằng luật quốc gia của mình cấm hình thức chiếm đoạt hoặc bắt chước bất kỳ. Cuối
cùng, Thoả ước quy định rằng không chỉ dẫn chung nào có thể bị coi là tên gọi chung
ở nước bất kỳ khác chừng nào nó còn được bảo hộ ở nước xuất xứ.

Thoả ước Lisbon không thu hút được sự ủng hộ từ nhiều nước mà chỉ là một số. Một
vấn đề là việc gia nhập chỉ dành cho những nước bảo hộ các tên gọi xuất xứ "theo
nghĩa như vậy". Do đó, các nước bảo hộ hình thức này của quyền sở hữu trí tuệ theo
luật cạnh tranh không lành mạnh hoặc luật bảo hộ người tiêu dùng đã không được
tham gia. Ngoài ra, Thoả ước không quy định ngoại lệ đối với các chỉ dẫn địa lý đã
hầu như trở thành tên gọi chung ở các nước thành viên.

(e) Hiệp định của WTO về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở
hữu trí tuệ (TRIPS)

(i) Định nghĩa và phạm vi

Điều 22 định nghĩa chỉ dẫn địa lý như sau:

...các chỉ dẫn để nhận biết một hàng hoá có nguồn gốc từ lãnh thổ của một
Thành viên, hoặc từ một vùng hoặc khu vực thuộc lãnh thổ đó, có chất lượng,
danh tiếng hoặc đặc tính khác của hàng hoá chủ yếu do xuất xứ địa lý quyết
định.

Định nghĩa này mở rộng khái niệm về tên gọi xuất xứ của Thoả ước Lisbon nhằm bảo
hộ những hàng hoá chỉ có danh tiếng bắt nguồn từ nơi xuất xứ mà không có chất lượng
hoặc các đặc tính khác có do nơi đó mang lại. Ngoài ra, theo Hiệp định TRIPS, một
chỉ dẫn địa lý được bảo hộ phải là một chỉ dẫn, nhưng không nhất thiết phải là tên của
một địa danh trên thế giới. Vì vậy, ví dụ, “Basmati” được sử dụng như một chỉ dẫn cho
gạo đến từ tiểu lục địa Ấn Độ mặc dù không có tên địa danh như vậy. Chỉ dẫn phải xác
định hàng hoá có nguồn gốc từ lãnh thổ của Thành viên, một vùng hoặc một địa điểm
của lãnh thổ đó. Định nghĩa này cũng chỉ ra rằng hàng hoá được bảo hộ phải bắt nguồn
từ lãnh thổ, vùng hoặc khu vực có liên quan. Điều này ngụ ý rằng các hợp đồng
chuyển giao quyền sử dụng các chỉ dẫn địa lý không thể được bảo hộ theo Hiệp định
TRIPS.

70
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
Định nghĩa của TRIPS cho phép các Thành viên bảo hộ các chỉ dẫn địa lý của hàng
hoá nếu chất lượng, danh tiếng hoặc đặc tính khác của hàng hoá có được là do nguồn
gốc địa lý của chúng mang lại.

(ii) Các tiêu chuẩn tối thiểu và bảo hộ chung được quy định cho các chỉ dẫn địa lý
đối với tất cả các sản phẩm

Điều 22.2 Hiệp định TRIPS yêu cầu các Thành viên "phải quy định các biện pháp
pháp lý để các bên liên quan ngăn ngừa "việc sử dụng phương tiện bất kỳ để chỉ dẫn
hoặc giới thiệu hàng hoá để biểu thị rằng hàng hóa đó có nguồn gốc từ một khu vực
địa lý khác với xuất xứ thực, khiến cho công chúng nhầm lẫn về xuất xứ địa lý của
hàng hoá". Ví dụ, việc sử dụng các biểu tượng như Tháp Eiffel hoặc Tượng Nữ thần tự
do để tạo ra mối liên tưởng tới nước Pháp hoặc nước Mỹ, hoặc việc sử dụng một ngôn
ngữ hoặc chữ viết để gợi ra hàm ý sai lệch về nguồn gốc cũng nằm trong phạm vi cấm
này.
Hiệp định TRIPS không xác định các biện pháp pháp lý để bảo hộ các chỉ dẫn địa lý.
Việc này dành cho các Thành viên quyết định.

Điều 22.2 cũng cấm việc sử dụng bất kỳ "cấu thành một hành vi cạnh tranh không lành
mạnh theo Điều 10bis của Công ước Paris. Phạm vi của Điều 10bis được mở rộng tới
cả chỉ dẫn địa lý mà mặc dù đúng theo nghĩa đen với một lãnh thổ, vùng hoặc khu vực
mà hàng hóa có nguồn gốc từ đó, nhưng lại chỉ dẫn sai cho công chúng rằng hàng hóa
có nguồn gốc từ một lãnh thổ khác.

(iii) Bảo hộ Chỉ dẫn địa lý và Nhãn hiệu

Mối tương quan giữa bảo hộ nhãn hiệu và tên gọi xuất xứ được điều chỉnh bởi Điều
22.3 Hiệp định TRIPS cho phép Thành viên, theo thẩm quyền nếu pháp pháp luật quốc
gia cho phép hoặc theo yêu cầu của một bên có liên quan, "từ chối hoặc huỷ bỏ hiệu
lực đăng ký nhãn hiệu có chứa hoặc được cấu thành bằng một chỉ dẫn địa lý đối với
hàng hoá không có nguồn gốc từ lãnh thổ được chỉ dẫn, nếu việc sử dụng chỉ dẫn đó
trên nhãn hiệu cho những hàng hoá như vậy tại nước Thành viên đó về bản chất khiến
công chúng hiểu sai lệch về nơi xuất xứ thực".

Biết rõ sự kiện rằng đối với hầu hết các nước, việc bảo hộ chỉ dẫn địa lý sẽ là một sự
đổi mới, Điều 24.4 loại bỏ khỏi hình thức bảo hộ những nhãn hiệu "được sử dụng hoặc
đăng ký với thiện ý" hoặc các nếu các quyền đối với nhãn hiệu có được thông qua việc
sử dụng có thiện ý" hoặc trước khi thực thi các quy định của Hiệp định TRIPS hoặc
trước khi chỉ dẫn địa lý được bảo hộ ở nước xuất xứ của nó.

71
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
Điều 24.7 quy định rằng một Thành viên có thể quy định rằng đề nghị bất kỳ được làm
theo mục liên quan đến việc sử dụng hoặc đăng ký một nhãn hiệu phải được đưa ra
trong vòng 5 năm kể từ khi việc sử dụng đối nghịch chỉ dẫn được bảo hộ trở nên được
biết đến chung ở nước Thành viên đó hoặc sau ngày đăng ký của nhãn hiệu đó với
điều kiện đăng ký đó đã được công bố và chỉ dẫn địa lý này không được sử dụng hoặc
đăng ký với dụng ý xấu.

Giống với quy định tương tự trong hầu hết các luật về nhãn hiệu, Điều 24.8 bảo vệ
"quyền của một người sử dụng tên của mình hoặc tên của người tiền nhiệm trong kinh
doanh theo tiến trình hoạt động, trừ khi tên đó được sử dụng theo cách thức khiến cho
công chúng nhầm lẫn".

Cuối cùng, Điều 24.9 quy định rằng không có nghĩa vụ nào theo Hiệp định TRIPS để
bảo hộ những chỉ dẫn địa lý mà "không hoặc đã bị đình chỉ bảo hộ ở nước xuất xứ
hoặc không còn được sử dụng ở nước đó nữa".

(iv) Bảo hộ bổ sung các chỉ dẫn địa lý cho rượu vang và rượu mạnh

Bổ sung cho việc bảo hộ chung đối với các chỉ dẫn địa lý cho rượu vang và rượu mạnh
trong ngữ cảnh chung của việc bảo hộ các chỉ dẫn địa lý nêu trong Điều 22, việc bảo
hộ bổ sung được quy định đối với chỉ dẫn địa lý cho rượu vang và rượu mạnh bằng
Điều 23. Việc bảo hộ bổ sung này gồm hai phần. Thứ nhất, bảo hộ cho từng chỉ dẫn
địa lý trong trường hợp các chỉ dẫn đồng âm. Thứ hai, thiết lập một hệ thống đa
phương để thông báo và đăng ký các chỉ dẫn địa lý cho rượu vang có khả năng được
bảo hộ ở các nước Thành viên tham gia vào hệ thống.

Các quy định này đã đem lại cho các chỉ dẫn địa lý cho rượu vang và rượu mạnh
những sự bảo hộ mạnh hơn so với những quy định nêu trong Điều 22 đối với tất cả sản
phẩm. Đối với một số nước, việc bảo hộ bổ sung này được xem như một sự phân biệt
đối xử không chấp nhận được chống lại tất cả các sản phẩm khác và họ đã tuyên
truyền đối với việc mở rộng bảo hộ đó dành cho tất cả các dạng chỉ dẫn địa lý.

Các yêu cầu về đăng ký

Hiệp định TRIPS không đặt ra các yêu cầu về đăng ký cho một chỉ dẫn địa lý. Nó đưa
ra vấn đề theo cách phủ định bằng cách cho phép, nêu trong Điều 23.2, các Thành viên
tự xây dựng luật để quy định “một người có quan tâm” yêu cầu từ chối hoặc huỷ bỏ
hiệu lực đăng ký của một nhãn hiệu có chứa chỉ dẫn địa lý nhận biết rượu vang hoặc
rượu mạnh bao gồm hoặc chứa một chỉ dẫn địa lý mà không có xuất xứ như đã được
chỉ dẫn. Những người có quan tâm sẽ thường gồm các nhà sản xuất có liên quan từ
72
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
khu vực địa lý đó, do hiệp hội đại diện từ các khu vực đó, hoặc thậm chí là các hiệp
hội của người tiêu dùng. Thông thường, đơn đăng ký chỉ dẫn địa lý sẽ ghi rõ người
nộp đơn, tên gọi xuất xứ, khu vực địa lý có liên quan, các sản phẩm mang tên gọi xuất
xứ được sử dụng và “các chất lượng đặc trưng chủ yếu của sản phẩm mang tên gọi
xuất xứ đó”. Như đối với các nhãn hiệu, các tên gọi xuất xứ "trái với đạo đức hoặc trật
tự công cộng hoặc lừa dối về bản chất, nguồn gốc, quy trình sản xuất, chất lượng đặc
trưng hoặc tính tương thích đối với mục đích sử dụng của hàng hoá có liên quan" có
thể bị từ chối bảo hộ.

Việc sử dụng bị cấm

Điều 23.1 cho phép từng Thành viên "quy định các biện pháp pháp lý để các bên có
quan tâm ngăn chặn việc sử dụng chỉ dẫn địa lý để chỉ dẫn cho rượu vang hoặc rượu
mạnh mà không có nguồn gốc từ nơi được chỉ dẫn bởi chỉ dẫn địa lý đó. Quy định cấm
này mượn từ Điều 3 Thoả ước Lisbon, bao gồm những chỉ dẫn về xuất xứ thật của
hàng hoá như vậy hoặc khi chỉ dẫn địa lý được sử dụng dưới dạng dịch nghĩa, hoặc khi
chỉ dẫn địa lý "được kèm theo các cụm từ như "loại", "kiểu", "dạng", "phỏng theo"
hoặc loại tương tự. Cũng đã chỉ ra rằng, cũng có thể điều chỉnh các chỉ dẫn địa lý bởi
các biện pháp hành chính.

Các chỉ dẫn địa lý đồng âm cho rượu vang

Trong trường hợp các chỉ dẫn địa lý đồng âm cho rượu vang, Điều 23.3 cho phép từng
Thành viên "xác định các điều kiện thực tế để các chỉ dẫn đồng âm được phân biệt với
nhau, khi tính đến nhu cầu đảm bảo việc đối xử công bằng với các nhà sản xuất có liên
quan và người tiêu dùng không bị nhầm lẫn". Các chỉ dẫn đồng âm là những từ mà
được đánh vần và phát âm giống nhau nhưng khác nhau về nghĩa và được sử dụng để
chỉ dẫn nguồn gốc địa lý của những sản phẩm bắt nguồn từ các nước khác nhau. Ví dụ
“Rioja” là tên của một khu vực ở Tây Ban Nha và Achentina và tên này được dùng
cho những rượu vang được sản xuất ở cả hai nước.

Các xung đột thường gia tăng khi các sản phẩm mang các chỉ dẫn địa lý đồng âm được
sử dụng và bán ở cùng thị trường. Vấn đề được nhấn mạnh là nếu các chỉ dẫn địa lý
đồng âm đó được sử dụng cho những sản phẩm đồng nhất. Việc sử dụng trung thực
những chỉ dẫn địa lý như vậy là có thể vì các chỉ dẫn đó chỉ nguồn gốc địa lý thật của
các sản phẩm mà các chỉ dẫn địa lý được sử dụng. Tuy nhiên, việc sử dụng đồng thời
các chỉ dẫn địa lý đồng âm trên cùng một lãnh thổ có thể là vấn đề nếu các sản phẩm
mang chỉ dẫn địa lý đó có những đặc tính và chất lượng đặc thù mà không có trong
những sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý đồng âm. Trong trường hợp này, việc sử dụng chỉ
73
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
dẫn địa lý đồng âm sẽ là sự lừa dối bởi những kỳ vọng liên quan đến chất lượng của
các sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý đồng âm không được đáp ứng.

(v) Những ngoại lệ đối với bảo hộ các chỉ dẫn địa lý

Trong nỗ lực hòa giải việc đăng ký và sử dụng của các nước có các chỉ dẫn địa lý liên
quan đến rượu vang và rượu mạnh, Điều 24.4 giải phóng các Thành viên ra khỏi điều:
phải "ngăn chặn việc sử dụng tiếp tục và tương tự một chỉ dẫn địa lý cụ thể về rượu
vang và rượu mạnh của một Thành viên khác cho các hàng hoá hoặc các dịch vụ" nếu
chỉ dẫn địa lý đó được sử dụng "một cách liên tục đối với các hàng hoá hoặc các dịch
vụ cùng loại hoặc có liên quan trên lãnh thổ của Thành viên đó trong hoặc ít nhất 10
năm trước ngày 15/4/1994 (ngày Hiệp định TRIPS có hiệu lực) hoặc khi việc sử dụng
liên tục dựa trên thiện ý.

Như đã chỉ ra các dạng của các vấn đề rơi vào các ngoại lệ nêu trong Điều 24. Việc
tham khảo có thể thực hiện đối với việc bảo hộ chỉ dẫn địa lý cho rượu vang và rượu
mạnh do Văn phòng của Mỹ về Rượu, Thuốc lá và Súng (BATF). Các quy định của
Văn phòng này cho phép sử dụng "các tên bán chung" như ‘Champagne’, ‘Burgundy’
và ‘Chablis’ nếu "khu vực xuất xứ chính xác cùng liên kết với tên này một cách trực
tiếp". Thực tiễn này có thể rơi vào ngoại lệ nêu trong Điều 24.4 hoặc ngoại lệ nêu
trong Điều 24.6 mà miễn trừ những chỉ dẫn địa lý của Thành viên "đối với các sản
phẩm của cây nho, theo đó chỉ dẫn có liên quan trùng với tên gọi thông thường của
một giống nho quả đã có ở lãnh thổ của Thành viên đó vào thời điểm Hiệp định WTO
có hiệu lực".

Điều 24.5 tuyên bố rằng khi một nhãn hiệu có được hoặc được đăng ký với thiện ý
trước ngày áp dụng Hiệp định tại nước Thành viên đó hoặc trước khi chỉ dẫn địa lý
được bảo hộ ở nước xuất xứ của nó, các biện pháp được thông qua để thực thi Mục 3
sẽ không ảnh hưởng đến khả năng có thể được bảo hộ hoặc hiệu lực đăng ký của một
nhãn hiệu hoặc quyền sử dụng một nhãn hiệu trên cơ sở nhãn hiệu như vậy trùng hoặc
tương tự với chỉ dẫn địa lý.

(vi) Đàm phán và Xem xét lại

Điều 24.1 buộc các Thành viên phải "tham gia vào các cuộc đàm phán nhằm tăng
cường sự bảo hộ các chỉ dẫn địa lý cá nhân theo Điều 23". Mặc dù Điều 24 chứa đựng
một số mục loại trừ một số đối tượng ra khỏi sự bảo hộ chỉ dẫn địa lý, Điều 24.1
không cho phép Các thành viên sử dụng những ngoại lệ này như một lý do để từ chối
việc thực hiện đàm phán. Cũng trong thực hiện nghĩa vụ đàm phán, Điều 24.3 yêu cầu
rằng Thành viên không được "giảm sự bảo hộ các chỉ dẫn địa lý" đã tồn tại ở Thành
74
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
viên đó trước ngày Hiệp định WTO có hiệu lực. Mặc dù vậy, một nhóm nước cho rằng
giải thích trên đây dẫn tới một cách tiếp cận rất hợp pháp. Họ tin rằng quy định này
cho phép đàm phán để mở rộng sự bảo hộ bổ sung cho các chỉ dẫn địa lý đối với rượu
vang và rượu mạnh cho tất cả các loại sản phẩm.

Để thúc đẩy việc bảo hộ các chỉ dẫn địa lý cho rượu vang, Điều 23.4 quy định rằng
"Các cuộc đàm phán về việc thành lập một hệ thống đa phương để thông báo và đăng
ký các chỉ dẫn địa lý dùng cho rượu vang mà có thể được bảo hộ tại các Thành viên
tham gia hệ thống đó phải được tiến hành tại Hội đồng TRIPS". Hiệu quả của quy định
này sẽ là sự tiếp thu mô hình đăng ký được thiết lập theo Thoả ước Lisbon và xoá bỏ
những lý lẽ trong các cuộc đàm phán trong khuôn khổ WIPO về một điều ước mới đối
với việc bảo hộ các chỉ dẫn địa lý đã được chuẩn bị từ năm 1974.

Theo Điều 24.2 Hội đồng TRIPS có nghĩa vụ giám sát việc áp dụng các quy định trên
đây và thực hiện việc xem xét lại trong vòng 2 năm đầu kể từ khi Hiệp định WTO có
hiệu lực. Các vấn đề liên quan đến tính phù hợp với các nghĩa vụ của các Thành viên
theo các quy định này đều có thể được Hội đồng xem xét, "theo yêu cầu của một
Thành viên, sẽ tham vấn với một hay các Thành viên bất kỳ về vấn đề như vậy mà
chưa thể tìm ra giải pháp thoả đáng thông qua những cuộc thương lượng song phương
hoặc đa phương giữa các Thành viên có liên quan". Hội đồng được trao thẩm quyền
chung "để tiến hành hoạt động như vậy giống như có thể đã được thống nhất để thúc
đẩy việc thực hiện và các mục tiêu tiếp theo về bảo hộ các chỉ dẫn địa lý đã được đặt
ra trong Hiệp định TRIPS.

Hội đồng TRIPS đã hạn chế những nỗ lực ban đầu của mình trong việc xem xét lại các
chỉ dẫn địa lý đối với một đề xuất về đăng ký đa phương các chỉ dẫn địa lý của rượu
vang. Trước Hội nghị bộ trưởng tại Seattle, một đệ trình của Thổ Nhĩ Kỳ vào 9/7/1999
đề xuất mở rộng các chỉ dẫn địa lý trong TRIPS ra ngoài rượu vang và rượu mạnh. Đề
xuất này được nhóm các nước châu Phi tán thành khi đề nghị việc bảo hộ các chỉ dẫn
địa lý được mở rộng "tới cả các sản phẩm khác có thể được công nhận bởi nguồn gốc
địa lý của chúng (các sản phẩm nông - lương, thủ công nghiệp)". Đề xuất này cũng
được tiếp tục bởi Cu Ba, Cộng hoà Czech, Cộng hoà Dominican, Honduras, Ấn Độ,
Indonesa, Nicaragua, Pakistan và Sri Lanka, Uganda và Venezuela.

Tại các cuộc họp của Hội đồng TRIPS năm 2000, Chủ tịch đã tìm cách để tách thảo
luận Điều 23.2 ra khỏi Điều 24.2 nhằm tránh sự nhầm lẫn. Đáp lại đề nghị này là một
đề xuất từ Bungari, Cộng hoà Czech, Ai Cập, Ailen, Kenya, Liechtenstein, Pakistan,
Slovenia, Sri Lanka, Thuỵ Sỹ và Thổ Nhĩ Kỳ rằng việc mở rộng các chỉ dẫn địa lý tới
các sản phẩm khác ngoài rượu vang và rượu mạnh được tính đến như việc mở rộng
75
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
chương trình nghị sự gắn liền. Vấn đề này cũng được tiếp tục bởi Uỷ ban thường trực
của WIPO về Nhãn hiệu và Chỉ dẫn địa lý.

Khoản 18 của Tuyên bố Doha mở ra một cách rõ ràng khả năng mở rộng việc bảo hộ
bổ sung, thông qua hệ thống đăng ký đa phương, cho các sản phẩm khác ngoài rượu
vang và rượu mạnh và các nước hiện đang thăm dò các ảnh hưởng về mặt chi phí và
các vấn đề thực tiễn khác của việc mở rộng này.

76
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp

You might also like