You are on page 1of 19

Giải Nobel về Vật lí 1901-2004

Agneta Wallin Levinovitz và Nils Ringertz


Người dịch: Dạ Trạch

1. Vật lí là gì?

Vật lí được coi là một môn khoa học cơ bản nhất của khoa học tự nhiên. Vật lí giả quyết những thành
phần cơ bản nhất của vật chất và các tương tác giữa chúng cũng như nghiên cứu về các nguyên tử
và việc tạo thành phân tử và chất rắn. Vật lí cố gắng đưa ra những mô tả thống nhất về tính chất của
vật chất và bức xạ, bao quát rất nhiều loại hiện tượng. Trong mộ số ứng dụng, vật lí rất gần với hóa
học cổ điển và trong một số ứng dụng khác nó lại liên quan đến các đối tượng nghiên cứu của các
nhà thiên văn học. Một số lĩnh vực của vật lí hiện nay còn hướng gần đến vi sinh học.

Mặc dù hóa học và thiên văn học là các ngành khoa học hoàn toàn độc lập, nhưng cả hai đều dùng
vật lí như là một cơ sở trong nghiên cứu các lĩnh vực, khái niệm và công cụ của các vấn đề khoa học.
Phân biệt cái nào là vật lí và hóa học trong một số lĩnh vực thường là rất khó. Điều này cũng được
minh chứng vài lần trong lịch sử của các giải Nobel. Dưới đây sẽ nhắc đến một số giải Nobel về hóa
học đặc biệt là những giải có liên hệ rất chặt chẽ đến các công trình mà những người đoạt giải Nobel
vật lí thực hiện. Đối với thiên văn học, tình huống lại khác vì không có giải Nobel cho thiên văn học
nên ngay từ đầu, những phát kiến của thiên văn học được trao giải Nobel về vật lí.

2. Từ vật lí cổ điển đến vật lí lượng tử

Năm 1901, khi giải Nobel đầu tiên được trao thì các lĩnh vực của vật lí cổ điển đã dựa trên một nền
tảng vững chắc do các nhà vật lí và hóa học vĩ đại của thế kỉ thứ 19 tạo nên. Hamilton đã đưa ra
những công thức mô tả động học của vật rắn từ những năm 1830. Carnot, Joule, Kelvin và Gibbs đã
phát triển nhiệt động học tới mức cực kì hoàn thiện trong nửa cuối của thế kỉ đó.

Các phương trình nổi tiếng của Maxwell đã được chấp nhận như là một mô tả tổng quát về các hiện
tượng điện từ và có thể ứng dụng trong bức xạ quang học và sóng radio lúc bấy giờ mới được Hetz
phát hiện.

Tất cả mọi thứ, bao gồm cả các hiện tượng sóng, có vẻ như là rất phù hợp với bức tranh vật lí được
dựng trên chuyển động cơ học của các thành phần của vật chất tự thể hiện trong các hiện tượng vĩ
mô khác nhau. Một số nhữung nhà quan sát cuối thể kỉ 19 cho rằng, những việc cho các nhà vật lí làm
tiếp theo là giải quyết những vấn đền nhỏ trong một vấn đề lớn đã được xây dựng gần hết.

Tuy vậy, sự thỏa mãn về bức tranh vật lí đó kéo dài không được bao lâu. Thời điểm bước sang thế kỉ
mới là thời điểm quan sát các hiện tượng mà vật lí lúc bấy giờ không lí giải được và những ý tưởng
cực mới về cơ sở của vật lí lí thuyết được đưa ra. Chúng ta cần nhìn lại một sự trùng hợp lịch sử mà
có thể ngay cả chính Alfred Nobel cũng không thấy trước được, đó là việc trao giải thưởng Nobel đã
bắt đầu đúng lúc để có thể ghi công những đóng góp nổi bật mở ra thời đại mới của vật lí vào giai
đoạn đó.

Một trong những hiện tượng không giả thích được của vài năm cuối cùng của thế kỉ 19 đó là
việc Wilhelm Conrad Röntgen, người được trao giải Nobel vật lí đầu tiên (1901) phát hiện ra tia X vào
năm 1895. Lại nữa, năm 1896Antoine Henri Becquerel phát hiện ra hiện tượng phóng xạ và hai vợ
chồng nhà bác học Marie và Pierre Curie tiếp tục nghiên cứu bản chất của hiện tượng này. Lúc bấy
giờ, người ta chưa hiểu nguồn gốc của tia X, nhưng người ta nhận ra rằng sự tồn tại của hiện tượng
đó che dấu một thế giới các hiện tượng mới (mặc dù lúc đầu người ta chưa thấy những ứng dụng
thực tiễn trong việc chẩn đoán bệnh của tia X). Nhờ công trình về hiện tượng phóng xạ đã, Becquerel
vợ chồng Curie được trao giải Nobel năm 1903 (một nửa giải cho Becquerel và một nửa cho vợ chồng
Curie). Cùng với công trình của Ernest Rutherford (người đạt giải Nobel về hóa học năm 1908) người
ta hiểu rằng thực ra nguyên tử bao gồm một hạt nhân rất nhỏ chứ không phải như người ta từng nghĩ
như trước đây là một phần tử không có cấu trúc. Người ta còn thấy một số hạt nhân nguyên tử lại
không bền, chúng có thể phát ra các bức xạ anpha, betha và gamma. Đó là cuộc cách mạng lúc bấy
giờ, cùng với nhiều công trình vật lí khác, người ta đã vẽ ra những bức tranh đầu tiên của cấu trúc
nguyên tử.

Năm 1897, Joseph J. Thomson phát hiện các tia phát ra từ ca tốt trong một ống chân không là những
hạt có mang điện tích. Ông đã chứng minh rằng, các tia này gồm những hạt rời rạc mà sau này chúng
ta gọi là các hạt điện tử. Ông đã đo tỉ số giữa khối lượng của hạt và điện tích (âm) của hạt đó và thấy
rằng giá trị đó chỉ bằng một phần rất nhỏ so với giá trị dự đoán của các nguyên tử mang điện. Và ngay
sau đó người ta thấy rằng các hạt có khối lượng nhỏ bé mang điện tích âm đó phải là những viên
gạch cùng với hạt nhân mang điện tích dương đã tạo nên tất cả các loại nguyên tử. Thomson nhận
giải Nobel vào năm 1906. Trước đó một năm (1905), Phillip E.A. von Lenard đã làm sáng tỏ rất nhiều
tính chất thú vị của những tia phat ra từ ca tốt như là khả năng đi sâu vào những tấm kim loại và tạo
ra huỳnh quang. Sau đó, vào năm 1912, Robert A. Millikan lần đầu tiên đo chính xác điện tích của
điện tử bằng phương pháp giọt dầu (oil-drop), và điều này dẫn ông đến giả Nobel năm 1923. Millikan
cũng được trao giải cho những công trình về hiệu ứng quang điện.

Vào đầu thế kỉ 20, các phương trình của Maxwell đã có mặt được vài chục thập kỉ, nhưng rất nhiều
câu hỏi vẫn chưa được giải đáp: môi trường nào là môi trường trung gian dẫn chuyền sóng điện từ
(trong đó có cả ánh sáng) và các hạt tải điện có phải là nguyên nhân của sự phát xạ ánh sáng hay
không? Albert A. Michelson đã phát triển một phương pháp giao thoa, theo phương pháp này thì
khoảng cách giữa hai vật thể có thể được đo bằng số các bước sóng ánh sáng (hoặc là những phần
nhỏ của chúng). Điều này làm cho việc xác định chiều dài chính xác hơn trước đó rất nhiều. Rất nhiều
năm sau, Văn phòng đo lường quốc tế (Bureau International de Poids et Mesures) ở Paris đã định
nghĩa đơn vị mét trên cơ sở số các bước sóng của một bức xạ đặc biệt thay cho định nghĩa trước đây
là chiều dài của một tấm platin. Dùng chiếc giao thoa kế đó, Michelson và W. Morley đã tiến hành thí
một nghiệm nổi tiếng, thí nghiệm đó kết luận rằng vận tốc của ánh sáng không phụ thuộc vào chuyển
động tương đối của nguồn sáng và người quan sát. Thí nghiệm này bác bỏ giả thuyết trước đó coi ê-
te là môi trường truyền ánh sáng. Michelson nhận giải thưởng Nobel năm 1907.

Các cơ chế phát xạ ánh sáng bởi các hạt tải điện đã được Hendrik A. Lorentz nghiên cứu. Ông cũng
là người đầu tiên áp dụng các phương trình của Maxwell vào việc dẫn điện trong vật chất. Lí thuyết
của ông có thể được áp dụng và bức xạ gây ra bởi dao động giữa các nguyên tử, và vào bối cảnh đó,
lí tuyết có thể giải thích một thí nghiệm cực kì quan trọng. Vào năm 1896, Pieter Zeeman khi nghiên
cứu về các hiệu ứng điện từ của ánh sáng đã tìm ra một hiện tượng quan trọng, đó là các vạch phổ
của Natri khi bị đốt cháy trong một từ trường mạnh bị tách thành một vài thành phần. Hiện tượng này
có thể được giải thích rất chi tiết bằng lí thuyết của Lorentz khi lí thuyết này được áp dụng cho các
dao động của các điện tử. Lorentz và Zeeman chia nhau giải Nobel năm 1902, thậm chí trước cả
Thomson (phát hiện ra điện tử). Sau đó, Johannes Stark chứng minh ảnh hưởng trực tiếp của điện
trường lên phát xạ ánh sáng nhờ việc phát ra một chùm các nguyên tử (chùm tia a-nốt gồm các
nguyên tử hoặc phân tử) trong một điện trường mạnh. Ông đã quan sát được sự tách phức tạp của
các vạch phổ cũng như dịch chuyển Doppler phụ thuộc và vận tốc của nguồn phát. Stark nhận giải
Nobel năm 1919.

Với bối cảnh đó, việc xây dựng một mô hình chi tiết của nguyên tử, một vấn đề đã tồn tại như một
khái niệm từ thời cổ đại nhưng được coi là một thành phần không có cấu trúc trong vật lí cổ điển có
thể thực hiện được. Bắt đầu từ giữa thế kỉ 19, người ta đã có một tài liệu thực nghiệm đó là những
vạch phổ đặc trưng phát ra trong những vùng có thể nhìn thấy được từ những loại nguyên tử khác
nhau. Bức xạ tia X đặc trưng do Charles G. Barkla (Nobel 1917) phát hiện bổ sung thêm cho tài liệu
đó. Barkla phát hiện điều đó sau khi Max von Laue (Nobel 1914) xác định bản chất sóng của bức xạ
và nhiễu xạ tia X. Phát hiện của Laue trở thành một nguồn thông tin quan trọng về cấu trúc bên trong
của nguyên tử.

Tia X đặc trưng của Barkla là những chùm tia thứ cấp, đặc trưng cho mỗi nguyên tố, phát bức xạ từ
những ống phát tia X (nhưng không phụ thuộc vào công thức hóa học của mẫu). Karl Manne G.
Siegbahn nhận thấy rằng đo phổ tia X đặc trưng của tất cả các nguyên tố sẽ cho biết một cách có hệ
thống các lớp điện tử kế tiếp được thêm vào như thế nào khi đi từ các nguyên tố nhẹ tới các nguyên
tố nặng. Ông đã thiết kế các máy đo quang phổ cực kì chính xác cho mục đích này. Và nhờ đó sự
khác nhau về năng lượng của các lớp điện tử khác nhau cũng như các qui tắc cho việc dịch chuyển
bức xạ giữa các lớp đó được xác định. Ông nhận giải Nobel vật lí năm 1924 (nhận giải năm 1925).
Tuy vậy, hóa ra là để hiểu sâu hơn cấu trúc của nguyên tử, người ta cần nhiều hơn rất nhiều những
khái niệm thông thường của vật lí cổ điển mà khó ai có thể tưởng tượng nổi.

Vật lí cổ điển coi chuyển động là liên tục cũng như việc trao đổi năng lượng cũng là liên tục. Vậy thì tại
sao các nguyên tử lại phát ra những bức xạ có một đỉnh cực đại? Ở đây, một vấn đề có nguồn gốc từ
cuối thế kỉ thứ 19 đã cho những đầu mối quan trọng để giải thích thắc mắc trên. Wilhelm Wien nghiên
cứu về bức xạ của “vật đen” từ những vật rắn nóng (tương phản với bức xạ của các nguyên tử khí có
phân bố tần số liên tục). Sử dụng điện động học cổ điển, ông đi tới một biểu thức cho phân bố tần số
của bức xạ này và cho sự dịch chuyển của bước sóng có cường độ cực đại khi nhiệt độ của một vật
đen bị thay đổi (định luật dịch chuyển Wien, rất hiệu quả trong việc xác định nhiệt độ của mặt trời
chẳng hạn). Ông được trao giải Nobel năm 1911.

Tuy vậy, Wien không thể rút ra một công thức phân bố phù hợp với thực nghiệm cho cả hai vùng
bước sóng dài và bước sóng ngắn. Vấn đề đó không được giả quyết cho đến khi Max K. E. L. Planck
đưa ra một ý tưởng hoàn toàn mới là năng lượng phát xạ chỉ phát ra từng lượng gián đoạn có một giá
trị nhất định gọi là lượng tử. Một lượng tử năng lượng có giá trị lớn khi bước sóng nhỏ và có giá trị
nhỏ khi bước sóng lớn (lượng tử năng lượng bằng hằng số Plank nhân với tần số của lượng tử đó).
Đây được coi là sự ra đời của vật lí lượng tử. Wien nhận giả Nobel năm 1911 và Plank nhận ít năm
sau đó, vào năm 1918 (trao giải vào năm 1919). Các bằng chứng quan trọng chứng minh ánh sáng
phát ra theo từng lượng tử năng lượng cũng được củng cố bằng lời giải thích của Albert Eistein về
hiệu ứng quang điện (được Hetz quan sát lần đầu tiên vào năm 1887). Hiệu ứng quang điện bao gồm
phần mở rộng của lí thuyết Plank. Einstein nhận giải Nobel vật lí năm 1921 (trao giải năm 1922) về
hiệu ứng quang điện và về “những đóng góp cho vật lí lí thuyết” (điều đó ám chỉ một bối cảnh khác).

Trong các thí nghiệm sau này, James Franck và Gustav L. Hertz đã chứng minh hiệu ứng quang điện
ngược (tức là khi một điện tử va chạm với một nguyên tử thì cần một năng lượng tối thiểu để sinh ra
các lượng tử ánh sáng với năng lượng đặc trưng phát ra từ va chạm đó) và chứng minh tính đúng đắn
của lí thuyết Plank và hằng số Plank. Franck and Hertz cùng nhận giải Nobel năm 1926, lễ trao giải
này tiến hành năm 1927. Cũng vào khoảng thời gian đó, Arthur H. Compton (người nhận nửa giải
Nobel vật lí năm 1927) nguyên cứu sự mất mát năng lượng của photon (lượng tử sóng điện từ) tia X
khi tán xạ lên các hạt vật chất và cho thấy rằng các lượng tử của chùm tia X có năng lượng lớn hơn
năng lượng của ánh sáng nhìn thấy 10.000 lần và chúng cũng tuân theo các qui tắc lượng tử. Charles
T. R. Wilson (xem dưới đây) nhận một nửa giải Nobel năm 1927 vì tạo ra dụng cụ quan sát tán xạ
năng lượng cao có thể được dùng để chứng minh tiên đoán của Compton.

Với khái niệm cơ sở về lượng tử hóa năng lượng, tình hình vật lí đã hướng cho những cuộc phiêu lưu
tiếp theo vào thế giới bí ẩn của vật lí vi mô. Cũng giống như một số nhà vật lí nổi tiếng trước đó, Niels
H. D. Bohr làm việc với mô hình hành tinh nguyên tử trong đó các điện tử quay xung quanh hạt nhân.
Ông thấy rằng các vạch phổ sắc nét phát ra từ các nguyên tử có thể được giải thích nếu cho rằng,
điện tử quay xung quanh hạt nhân trên các quĩ đạo tĩnh đặc trưng bởi một mô-men góc bị lượng tử
hóa (bằng một số nguyên lần hằng số Plank chia cho 2*pi). Ông cũng cho thấy năng lượng phát xạ
chính bằng sự khác nhau giữa các trạng thái năng lượng bị lượng tử hóa đó. Giả thiết ông đưa ra có
xuất phát điểm từ vật lí cổ điển hơn là từ lí thuyết của Plank. Mặc dầu giả thiết trên chỉ giải thích được
một số đặc điểm đơn giản của quang phổ và nguồn gốc của nó nhưng người ta cũng sớm chấp nhận
nó vì phương pháp của Bohr là một điểm khởi đầu đúng đắn, ông nhận giải Nobel năm 1922.

Hóa ra là muốn hiểu sâu hơn tính chất của bức xạ và vật chất (cho đến lúc bấy giờ người ta vẫn coi
đó là hai thực thể hoàn toàn riêng biệt) người ta cần thêm những tiến bộ về mô tả lí thuyết của thế giới
vi mô. Năm 1923, Louis-Victor P. R. de Broglie (thuộc dòng dõi quí tộc nước Pháp) đã phát biểu rằng
các hạt vật chất cũng có những tính chất sóng và rằng sóng điện từ cũng thể hiện những tính chất của
các hạt dưới dạng các photon. Ông đã phát triển các công thức toán học cho tính lưỡng tính này,
trong đó có một công thức mà sau này gọi là “bước sóng de Broglie” cho các hạt chuyển động. Các thí
nghiệm ban đầu của Clinton J. Davisson đã chỉ ra rằng thực ra các điện tử thể hiện tính chất phản xạ
giống như các sóng khi đập vào một tinh thể và các thí nghiệm này được lặp lại nhiều lần chứng minh
giả thiết lưỡng tính của de Broglie. Một thời gian sau George P. Thomson (con trai của J. J. Thomson)
đã đưa ra nhiều thí nghiệm đã được cải tiến rất nhiều cho biết hiện tượng tán xạ khi các điện tử năng
lượng cao đi sâu vào trong các tấm kim loại. De Broglie nhận giải Nobel năm 1929 và sau đó
Davisson và Thomson chia nhau giải Nobel năm 1937.

Điều cần làm là phải đưa ra các phương trình toán học mô tả một lí thuyết mới thay thế cho cơ học cổ
điển mà lí thuyết đó giải thích đúng đắn các hiện tượng qui mô nguyên tử và bức xạ của chúng. Từ
năm 1924 đến 1926 là khoảng thời gian phát triển cao độ trong lĩnh vực này. Erwin Schrödinger phát
triển thêm ý tưởng của de Broglie và viết một bài báo cơ bản về “Lượng tử hóa như là một bài toán trị
riêng” vào đầu năm 1926. Ông đã tạo ra một cái gọi là “cơ học sóng”. Nhưng một năm trước đó
Werner K. Heisenberg đã bắt đầu một phương pháp toán học hoàn toán khác gọi là “cơ học ma trận”
và bằng cách đó ông cũng thu được các kết quả tương tự như các kết quả mà Schrödinger đưa ra
sau đó. Cơ học lượng tử mới của Schrödinger và Heisenberg là một sự khởi đầu căn bản từ bức
tranh cảm tính của các quĩ đạo cổ điển trong nguyên tử. Nó cũng ngụ ý rằng có những giới hạn tự
nhiên trong việc xác định chính xác đồng thời các đại lượng vật lí (Hệ thức bất định Heisenberg).

Heisenberg được trao giải Nobel năm 1932 cho sự phát triển của cơ học lượng tử, trong khi đó
Schrödinger và Paul A. M. Dirac cùng nhận giải vào năm sau đó. Cơ học lượng tử của Schrödinger và
Heisenberg đúng đối với các vận tốc và năng lượng tương đối thấp của chuyển động “quĩ đạo” của
các điện tử hóa trị trong nguyên tử. Nhưng các phương trình đó không thỏa mãn các yêu cầu được
xác định bởi các nguyên lí của Eistein cho các hạt chuyển động nhanh. Dirac đã sửa đổi các công
thức khi tính đến lí thuyết tương đối hẹp của Eistein và cho thấy rằng một lí thuyết như vậy không chỉ
bao gồm những thông số tương ứng cho sự tự quay của điện tử xung quanh mình nó-gọi là spin (do
đó giả thích mô-men từ nội tại của điện tử và cấu trúc tinh tế quan sát được trong phổ nguyên tử) mà
còn tiên đoán sự tồn tại của một loại hạt hoàn toàn mới gọi là các phản hạt có khối lượng bằng khối
lượng của điện tử nhưng mang điện tích dương. Phản hạt đầu tiên của điện tử do Carl D. Anderson
(được trao một nửa giải Nobel năm 1936) phát hiện năm 1932 được gọi là positron.

Giải Nobel những năm sau đó được trao cho những người có đóng góp quan trọng khác cho sự phát
triển của cơ học lượng tử. Max Born, thầy của Heisenberg vào những năm đầu của thập niên 20 có
những đóng góp quan trọng về mô tả toán học và giải thích vật lí. Ông nhận một nửa giả nobel vào
năm 1954 cho công trình của ông về ý nghĩa thống kê của hàm sóng. Wolfgang Pauli đã đưa ra
nguyên lí loại trừ (mỗi trạng thái lượng tử chỉ có thể có một điện tử mà thôi) dựa trên cơ sở lí thuyết
bán cổ điển của Bohr. Sau này, người ta cũng thấy nguyên lí Pauli liên quan đến tính đối xứng của
hàm sóng của các hạt có spin bán nguyên nói chung gọi là các fermion để phân biệt với các hạt boson
có spin là một số nguyên lần của hằng số Plank chia cho 2*pi. Nguyên lí loại trừ có nhiều hệ quả quan
trọng trong nhiều lĩnh vực của vật lí và Pauli nhận giải Nobel năm 1945.

Việc nghiên cứu spin của điện tử tiếp tục mở ra những chân trời mới trong vật lí. Các phương pháp
chính xác để xác định mô-men từ của các hạt tự quay đã được phát triển vào những năm 30 và 40
cho nguyên tử và hạt nhân (do Stern, Rabi, Bloch và Purcell thực hiện, xem phần dưới). Năm 1947 họ
đã đạt đến một độ chính xác mà Polykarp Kusch có thể phát biểu rằng mô-men từ của một điện tử
không có giá trị đúng như Dirac tiên đoán mà khác với một đại lượng rất nhỏ. Vào cùng thời gian đó
Willis E. Lamb cũng nghiên cứu một vấn đề tượng tự về spin của điện tử tương tác với các trường
điện từ bằng việc nghiên cứu cấu trúc siêu tinh tế của quang phổ phát ra từ nguyên tử Hidro với các
phương pháp cộng hưởng tần số radio có độ phân giải rất cao. Ông quan sát thấy rằng sự tách cấu
trúc siêu tinh tế luôn luôn sai khác với giá trị của Dirac một lượng đáng kể. Các kết quả này làm cho
người ta phải xem lại các khái niệm cơ bản đằng sau những ứng dụng lí thuyết lượng tử vào các hiện
tượng điện từ, một lĩnh vực đã được Dirac, Heisenberg và Pauli khởi đầu nhưng vẫn còn một vài
khiếm khuyết. Kusch và Lamb cùng nhận giải Nobel năm 1955.

Trong điện động học lượng tử (gọi tắt là DDHLT), lí thuyết nhiễu loạn lượng tử mô tả các hạt tích điện
tương tác thông qua trao đổi các photon. Mô hình cũ của DDHLT chỉ bao gồm trao đổi photon riêng lẻ,
nhưng Sin-Itiro Tomonaga, Julian Schwinger và Richard P. Feynman nhận ra rằng tình huống lại phức
tạp hơn rất nhiều vì tán xạ điện tử-điện tử có thể bao gồm trao đổi một vài photon. Một điện tích điểm
“trần trụi” không tồn tại trong bức tranh của họ. Điện tích luôn tạo ra một đám các cặp hạt-phản hạt ảo
ở xung quanh nó, do đó, mô-men từ hiệu dụng của nó thay đổi và thế năng Coulomb cũng bị biến đổi
tại các khoảng cách ngắn. Các tính toán từ mô hình này đã tái tạo lại các dữ liệu thực nghiệm của
Kusch và Lamb với một độ chính xác ngạc nhiên và mô hình DDHLT mới được coi là một lí thuyết
chính xác nhất đã từng có. Tomonaga, Schwinger và Feynman cùng nhận giải Nobel vật lí năm 1965.

Phát triển này của DDHLT lại có một tầm quan trọng vĩ đại nhất cho cả việc mô tả các hiện tượng vật
lí năng lượng cao. Khái niệm sinh cặp từ trạng thái chân không của một trường lượng tử là một khái
niệm cơ sở trong lí thuyết trường hiện đại của các tương tác mạnh và của sắc động học lượng tử
(quantum chromodynamics-có ai biết từ này dịch như thế đúng hay không?).
Khía cạnh cơ bản khác của cơ học lượng tử và lí thuyết trường lượng tử là tính đối xứng của các hàm
sóng và các trường. Các tính chất đối xứng tương ứng với trao đổi hạt đồng nhất thì dựa trên nguyên
lí loại trừ Pauli nói ở trên, nhưng các đối xứng tương ứng với các biến đổi không gian cũng trở nên
quan trọng không kém. Năm 1956, Lí Chính Đạo (Tsung-Dao Lee) và Dương Chấn Ninh (Chen Ning
Yang) đã chỉ ra rằng các tương tác vật lí có thể không tuân theo đối xứng gương (tức là, chúng có thể
khác nhau khi hệ tọa độ quay trái hoặc quay phải). Điều này có nghĩa là tính chất “chẵn lẻ” của hàm
sóng, kí hiệu là “P” không được bảo toàn khi hệ bị đặt dưới một tương tác như vậy và tính chất đối
xứng gương có thể bị thay đổi. Công trình của hai ông là điểm khởi đầu cho một nghiên cứu chuyên
sâu về các hiệu ứng như vậy và ngay sau đó người ta thấy rằng phân rã của hạt betta và pi thành hạt
muy do tương tác yếu gây ra không bảo toàn tính chẵn lẻ (xem thêm phần dưới). Lí và Dương cùng
nhận giải Nobel năm 1957. (*Bổ sung: các định luật bảo toàn đều được rút ra từ các tính chất đối
xứng. Tính đối xứng và đồng nhất của không gian và thời gian làm cho năng lượng, xung lượng, mô-
men xung lượng được bảo toàn. Do đó, tính đối xứng và bảo toàn là tương đương – DT*)

Các tính chất đối xứng khác của cơ học lượng tử được liên hệ với sự thay thế của các hạt bằng các
phản hạt (gọi là giao hoán điện tích, kí hiệu là “C”). Các trường hợp chuyển đổi phóng xạ mà Lí và
Dương nghiên cứu, người ta thấy rằng mặc dù tính chẵn lẻ không được bảo toàn, nhưng vẫn tồn tại
một đối xứng trong đó các hạt và phản hạt phá vỡ tính chẵn lẻ theo các cách trái ngược nhau hoàn
toàn và do đó toán tử tổ hợp C*P bảo toàn tính đối xứng. Nhưng nguyên lí bảo toàn C*P đó kéo dài
không được bao lâu cho đến khi James W. Cronin và Val L. Fitch phát hiện sự phân rã của hạt
“meson K” vi phạm nguyên lí trên, mặc dù sự vi phạm đó trong một qui mô rất nhỏ. Cronin và Fitch
đưa ra phát hiện này vào năm 1964 và học cùng nhau nhận giải Nobel năm 1980. Hệ quả của phát
hiện trên (bao gồm các câu hỏi về tính đối xứng của các quá trình tự nhiên khi đào ngược thời gian –
đối xứng T) vẫn được thảo luận cho đến ngày nay và đã chạm đến những nền tảng sâu nhất của vật lí
lí thuyết bởi vì đối xứng P*C*T luôn được coi là bảo toàn.

Người ta biết rằng trường điện từ có tính chất gọi là “đối xứng chuẩn” (gauge symmetry), tức là các
phương trình trường giữ nguyên dạng ngay cả khi các thế năng điện từ được nhân lên với các hằng
số pha cơ học lượng tử nhất định. Người ta không biết tương tác yếu có tính chất như thế cho đến
những năm 1960, khi Sheldon L. Glashow, Abdus Salam, và Steven Weinberg đưa ra lí thuyết thống
nhất tương tác yếu và tương tác điện từ. Họ cùng nhau chia giải Nobel năm 1979 về lí thuyết thống
nhất này và đặc biệt là tiên đoán của họ về một loại tương tác yếu đặc biệt được điều hòa bởi “dòng
nơ-trôn” đã được thực nghiệm kiểm chứng mới gần đây. Giải Nobel vật lí cuối cùng của thế kỉ 20
được trao cho Gerhardus 't Hooft và Martinus J. G. Veltman. Họ đã tìm ra cách để tái chuẩn hóa lí
thuyết “điện-yếu”, và loại bỏ các điểm kì dị trong các tính toán lượng tử (giống như DDHLT đã giải
quyết bài toán với tương tác Coulomb). Công trình của họ cho phép tính toán chi tiết đóng góp của
tương tác yếu vào tương tác của các hạt nói chung, chứng minh tính hiệu quả của các lí thuyết dựa
trên bất biến chuẩn cho tất cả các tương tác vật lí cơ bản.

Cơ học lượng tử và phần mở rộng của nó là lí thuyết trường lượng tử là một trong những thành tựu vĩ
đại của thế kỉ 20. Bản phác thảo con đường từ vật lí cổ điển đến vật lí hiện đại đã dẫn chúng ta đi
được một chặng đường dài đến một bức tranh cơ bản và thống nhất về các hạt và các lực trong tự
nhiên. Nhưng vẫn còn rất nhiều việc phải làm và cái đích vẫn còn ở xa phía trước. Ví dụ còn phải
thống nhất lực điện-yếu với lực hạt nhân “mạnh” và với lực hấp dẫn. Nhưng ở đây, người ta nhận thấy
rằng mô tả lượng tử của thế giới vi mô có một ứng dụng cơ bản khác: đó là tính toán các tính chất
hóa học của các hệ phân tử (đôi lúc được mở rộng thành sinh học phân tử) và của cấu trúc chất rắn,
những ngành mà đã thu được một số giả Nobel về vật lí và hóa học.

3. Từ thế giới vi mô đến thế giới vĩ mô

Phần trước “Từ vật lí cổ điến đến vật lí lượng tử” đã đưa chúng ta đi từ các hiện tượng của thế giới vĩ
mô mà chúng ta gặp hàng ngày tới thế giới lượng tử của các nguyên tử, điện tử và hạt nhân. Bắt đầu
từ nguyên tử, các công trình của những người đạt giải Nobel đã cho chúng ta hiểu biết sâu sắc hơn
thế giới hạ nguyên tử và các thành phần nhỏ bé của nó.

Chúng ta cũng nhận thấy rằng, chỉ trong nửa đầu thế kỉ 20, những khám phá tính chất của thế giới vi
mô của các hạt và tương tác mới là cần thiết để hiểu lịch sử cấu thành và tiến hóa của những cấu trúc
lớn hơn của vũ trụ - thế giới vĩ mô. Tại thời điểm hiện tại, vật lí, vật lí thiên văn và vũ trụ học liên hệ
với nhau rất chặt chẽ, dưới đây sẽ trình bày một vài ví dụ.

Một mối liên hệ khác liên kết các thực thể nhỏ nhất và lớn nhất trong vũ trụ của chúng ta là lí thuyết
tương đối của Albert Einstein. Einstein đưa ra lí thuyết tương đối hẹp của mình lần đầu tiên vào năm
1905 với phương trình cho biết mối liên hệ giữa khối lượng và năng lượng E=mc2. Và vào thập kỉ tiếp
theo, ông tiếp tục đưa ra lí thuyết tương đối rộng liên hệ lực hấp dẫn với cấu trúc của không gian và
thời gian. Tất cả các tính toán khối lượng hiệu dụng của các hạt năng lượng cao, của các biến đổi
năng lượng trong phân rã phóng xạ cũng như các tiên đoán của Dirac về sự tồn tại của phản hạt, đều
dựa trên lí thuyết tương đối của ông. Lí thuyết tương đối rộng là cơ sở cho các tính toán chuyển động
trên thang vĩ mô của vũ trụ, kể cả giả thiết về tính chất của hố đen. Eistein nhận giải Nobel vào năm
1922 lại do công trình về hiệu ứng quang điện thể hiện bản chất hạt của ánh sáng. (*Có lẽ ủy ban trao
giải thưởng đã quá thận trọng khi không trao giải Nobel cho ông về lí thuyết tương đối. Họ sợ rằng,
một lí thuyết quan trọng như vậy, nếu sai có thể để lại một hậu quả rất lớn, chính vì thế Eistein được
trao giải vì hiệu ứng quang điện, một vấn đề kém quan trọng hơn nhiều so với thuyết tương đối. Và do
đó, ủy ban giải thưởng trao giải cho Eistein về thuyết tương đối nhưng lại nói là trao vì hiệu ứng quang
điện, một hiệu ứng chắc chắn đúng – DT*).

Các nghiên cứu của Becquerel, vợ chồng Curie và Rutherford làn nảy sinh các câu hỏi: đâu là nguồn
năng lượng của hạt nhân phóng xạ để có thể duy trì việc phát xạ anpha, betha và gamma trong
khoảng thời gian rất dài mà một vài người trong số họ đã quan sát được? hạt anpha là gì và hạt nhân
có tạo thành từ hạt này hay không? Câu hỏi đầu tiên (có vẻ như là vi phạm định luật bảo toàn năng
lượng, một trong những định luật quan trọng nhất của vật lí) đã có câu trả lời từ lí thuyết biến tố của
Rutherford và Frederick Soddy (Nobel hóa học 1921). Họ đã theo dõi rất chi tiết một chuỗi các phân rã
phóng xạ khác nhau và so sánh năng lượng phát ra với sự thay đổi về khối lượng của hạt nhân mẹ và
hạt nhân con. Họ tìm thấy rằng hạt nhân thuộc một nguyên tố hóa học có thể có các khối lượng khác
nhau gọi là các “đồng vị”. Một giải Nobel cũng được trao vào năm 1922 cho Francis W. Aston về việc
tách quang phổ - khối lượng của một số lớn các đồng vị của các nguyên tố không phóng xạ. Cùng lúc
đó Marie Curie cũng nhận giải Nobel lần thứ hai (lần này về hóa học) về phát hiện ra các nguyên tố
hóa học radium và polonium.

Khối lượng của các đồng vị đều là một số nguyên lần khối lượng của proton, hạt proton do Rutherford
phát hiện lần đầu tiên khi ông chiếu tia anpha và hạt nhận nguyên tử Ni-tơ. Nhưng các đồng vị không
thể chỉ được tạo thành từ các proton được vì mỗi nguyên tố hóa học chỉ có một giá trị tổng điện tích
hạt nhân. Thông thường các proton chỉ chiếm không đến một nửa khối lượng hạt nhân, điều đó có
nghĩa là một số thành phần không mang điện cũng có mặt trong hạt nhân. James Chadwick lần đầu
tiên tìm thấy chứng cứ cho hạt đó, gọi là hạt neutron khi ông nghiên cứu các phản ứng hạt nhân năm
1932. Ông nhận giải Noebel vật lí năm 1935.

Ngay sau phát hiện của Chadwick, Enrico Fermi và một số người khác cũng bắt tay vào nghien cứu
neutron như là một phương pháp để tạo ra các phản ứng hạt nhân mà có thể gây ra phóng xạ “nhân
tạo”. Fermi thấy rằng xác suất của các phản ứng hạt nhân cảm ứng (không bao gồm biến đổi nguyên
tố) tăng lên khi neutron bị làm chậm đi và điều này cũng đúng cho các nguyên tố nặng giống như với
các nguyên tố nhẹ, trái ngược với phản ứng của các hạt mang điện (*ví dụ như proton*) cảm ứng.
Ông nhận giải Nobel vật lí năm 1938.

Một nhánh của vật lí gọi là “vật lí hạt nhân” đã được hình thành dựa trên giả thiết hạt nhân được tạo
thành từ các proton và neutron và một vài thành tựu quan trọng đã được ghi nhận bằng các giải
Nobel. Ernest O. Lawrence, người nhận giải Nobel vật lí năm 1939 đã xây máy gia tốc đầu tiên trong
đó các hạt được gia tốc dần dần bằng việc gia tăng năng lượng cho hạt sau mỗi vòng quay trong từ
trường. Bằng các máy gia tốc này ông có thể gia tốc các hạt nhân tới các năng lượng cao mà ở đó
các phản ứng hạt nhân có thể xảy ra và ông đã thu được kết quả mới rất quan trọng. Ngài John D.
Cockcroft và Ernest T. S. Walton đã gia tốc các hạt bằng việc tác động trực tiếp một điện thế rất cao
và các ông cũng được trao giải vào năm 1951 cho công trình nghiên cứu về biến tố (*nguyên tố mẹ
biến đổi thành nguyên tố con thông qua phóng xạ*).
+++
Otto Stern nhận giả Nobel vật lí năm 1943 cho các phương pháp thực nghiệm của ông để nghiên cứu
tính chất từ của hạt nhân, đặc biệt là xác định mô-men từ của proton. Isidor I. Rabi làm tăng độ chính
xác lên hai bậc trong việc xác định mô-men từ vủa hạt nhân bằng kĩ thuật cộng hưởng tần số radio, và
do đó, ông nhận giải Nobel vật lí năm 1944. Các tính chất từ của hạt nhân cung cấp các thông tin
quan trọng để hiểu chi tiết proton và neutron tạo nên hạt nhân như thế nào. Sau đó, vào nửa cuối của
thế kỉ một vài nhà vật lí lí thuyết được trao giải cho những công trình về mô hình hóa lí thuyết các hệ
nhiều hạt như vậy: Eugene P. Wigner (nửa giải), Maria Goeppert-Mayer (một phần tư) and J. Hans D.
Jensen (một phần tư) vào năm 1963 và Aage N. Bohr, Ben R. Mottelson và L. James Rainwater vào
năm 1975. Chúng ta sẽ trở lại những công trình này trong phần “Từ đơn giản đến phức tạp”.

Ngay từ năm 1912 Victor F. Hess (giải Nobel năm 1936 cùng với Carl D. Anderson) thấy rằng các bức
xạ có khả năng đi sâu vào vật chất có thể đến với chúng ta từ khoảng không ngoài vũ trụ. “Bức xạ vũ
trụ” này được ghi nhận bằng các buồng ion hóa và sau này là buồng mây Wilson (người được nhắc
đến ở phần trước). Các tính chất của các hạt có thể phỏng đoán từ các vạch cong của các hạt để lại
trong buồng ion hóa dưới tác dụng của từ trường ngoài rất lớn. Theo cách đó, C. D. Anderson đã phát
hiện ra positron (* phản hạt của điện tử*). Anderson và Patrick M. S. Blackett cho thấy rằng, tia
gamma (cần một năng lượng photon ít nhất bằng hai lần me*c2, me là khối lượng điện tử) có thể sinh
ra các cặp điện tử-phản điện tử và ngược lại, điện tử và phản điện tử có thể hủy nhau tạo ra chính tia
gamma bị mất đi. Blackett nhận giải Nobel vật lí năm 1948 cho việc phát triển buồng mây sau này và
các phát minh mà công đã thực hiện đển làm việc đó.

Mặc dù sau này, các máy gia tốc được phát triển nhiều, bức xạ vũ trụ vẫn là nguồn chủ yếu của các
hạt năng lượng cao trong vài thập kỉ (và hạt từ bức xạ vũ trụ có năng lượng lớn hơn năng lượng của
các hạt tạo ra từ các máy gia tốc lớn nhất trên trái đất, mặc dù cường độ của bức xạ vũ trụ rất nhỏ) và
nó đã cung cấp những hình ảnh ban đầu của một thế giới hạ hạt nhân mà lúc bấy giờ con người hoàn
toàn chưa biết. Một loại hạt mới gọi là meson được phát hiện năm 1937 có khối lượng xấp xỉ 200 lần
khối lượng điện tử (nhưng nhẹ hơn proton 10 lần). Năm 1946, Cecil F. Powell đã làm sáng tỏ hiện
tượng trên và cho rằng thực ra là có có hơn một loại hạt như vậy tồn tại. Một trong số đó có tên là
“meson pi” phân rã thành một hạt khác gọi là “meson muy”. Powell nhận giải Nobel vật lí năm 1950.

Lúc bấy giờ các nhà lí thuyết đang nghiên cứu về lực mà giữ proton và neutron lại trong hạt nhân.
Năm 1935, Hideki Yukawa giả thiết rằng lực tương tác “mạnh” có thể được truyền bằng các hạt trao
đổi (* có hai loại hạt: hạt thực có spin bán nguyên và hạt truyền tương tác hay còn gọi là hạt trao đổi,
có spin nguyên, ví dụ hạt gravion là hạt truyền tương tác hấp dẫn – DT*), giống như lực điện từ được
giả thiết được truyền thông qua trao đổi các photon ảo trong lí thuyết trường lượng tử. Yukawa cho
rằng một hạt như vậy phải có khối lượng khoảng 200 lần khối lượng của điện tử để giải thích tầm tác
dụng ngắn của lực tương tác mạnh mà thực nghiệm tìm ra. Hạt meson pi mà Powell tìm ra có các tính
chất phù hợp để có thể là “hạt Yukawa”. Ngược lại, hạt meson muy lại có các tính chất hoàn toàn
khác (và tên của nó sau này được đổi thành “muon”). Yukawa nhận giải thưởng Nobel vật lí năm
1949. Mặc dù các nghiên cứu sau này chỉ ra rằng cơ chế của lực tương tác mạnh phức tạp hơn bức
tranh của Yukawa rất nhiều nhưng ông vẫn được coi là tiên chỉ trong nhiên cứu các hạt truyền tương
tác mạnh.

Có thêm các hạt mới được phát hiện vào những năm 1950, từ bức xạ vũ trụ cũng như từ các va chạm
của các hạt được gia tốc. Vào cuối những năm 50, các máy gia tốc có thể đạt năng lượng vài tỉ eV
(electron-volt), tức là các cặp hạt với khối lượng bằng khối lượng của proton có thể được tạo ra từ
chuyển đổi năng lượng-khối lượng. Phương pháp này được nhóm nghiên cứu của Owen Chamberlain
và Emilio Segrè sử dụng khi lần đầu tiên họ đã xác định và nghiên cứu phản proton vào năm 1955
(học chia nhau giải Nobel năm 1959). Các máy gia tốc năng lượng cao cũng cho phép cũng cho phép
nghiên cứu cấu trúc của proton và neutron chi tiết hơn trước đó rất nhiều và Robert Hofstadter có thể
phân biệt chi tiết cấu trúc điện từ của các nucleon nhờ quan sát tán xạ của chúng lên các điện tử năng
lượng cao. Ông nhận nửa giải Nobel vật lí năm 1961.

Hạt này kế tiếp hạt kia, các hạt meson mới và các phản hạt tương ứng của chúng đã xuất hiện nhờ
các vết trên các phim chụp hoặc các máy thu hạt tích điện. Sự tồn tại của hạt neutrino tiên đoán từ lí
thuyết của Paulivào những năm 30 cũng đã được ghi nhận. Các bằng chứng trực tiếp thực nghiệm
đầu tiên về hạt neutrino được C. L. Cowan và Frederick Reines cung cấp vào năm 1957 nhưng mãi
đến năm 1995, công trình đó mới được trao một nửa giải Nobel (lúc đó Cowan đã chết, ông chết năm
1984). Neutrino cũng có mặt trong các quá trình liên quan đến tương tác “yếu” (như là phân rã của hạt
betha và hạt meson pi thành hạt muon) và khi cường độc chùm hạt tăng lên, các máy gia tốc có thể
tạo ra các chùm neutrino thứ cấp. Leon M. Lederman, Melvin Schwartz và Jack Steinberger đã phát
triển phương pháp này vào những năm 60 và chứng minh rằng hạt neutrino đi kèm trong phân rã
meson pi thành muon không đồng nhất với các neutrino liên quan đến các điện tử trong phân rã hạt
betha, chúng là hai hạt riêng biệt gọi là hạt “neutrino điện tử” và “neutrino muon”.

Bây giờ, các nhà vật lí có thể bắt đầu phân biệt một số thứ tự trong các hạt: hạt điện tử (e), hạt muon
(muy), neutrino điện tử (nuy e), neutrino muon (nuy muy) và các phản hạt của chúng đã được tìm thấy
và chúng thuộc cùng một lớp gọi là “lepton”. Các hạt trên không tương tác bởi lực tương tác mạnh,
ngược lại, các hạt proton, neutron, meson và hyperon (tập hợp các hạt có khối lượng lớn hơn khối
lượng của proton) lại được xác định bởi lực tương tác mạnh. Các hạt lepton được mở rộng khi Martin
L. Perl và nhóm nghiên cứu của ông đã phát hiện ra hạt lepton “tau” có khối lượng lớn hơn điện tử và
muon. Perl chia giải Nobel với Reines vào năm 1995.

Tất cả các lepton vẫn được coi là các hạt cơ bản, tức là chúng giống như các điểm và không có cấu
trúc nội, nhưng đối với proton,… thì lại không phải vậy. Murray Gell-Mann và những người khác cố
gắng phân loại các hạt tương tác rất mạnh (gọi là các “hardron”) thành các nhóm có các liên hệ và
kiểu tương tác giống nhau. Gell-Mann nhận giải Nobel năm 1969. Hệ thống của ông dựa trên giả thiết
rằng tất cả các hạt đều được tạo thành từ các hạt nguyên tố gọi là các hạt “quark”. Bằng chứng thực
về việc các nucleon được tạo thành từ các hạt giống như quark đến từ công trình của Jerome I.
Friedman, Henry W. Kendall và Richard E. Taylor. Họ “nhìn thấy” các hạt cứng bên trong các lepton
khi nghiên cứu tán xạ không đàn hồi của các điện tử (các điện tử có năng lượng lớn hơn năng lượng
mà Hofstadter có thể dùng trước đó) lên các lepton. Do đó, họ cùng nhau chia giải Nobel năm 1990.

Người ta hiểu rằng tất cả các hạt tương tác mạnh đều được tạo thành từ các quark. Vào giữa những
năm 70, một hạt có thời gian sống rất ngắn được phát hiện một cách độc lập bởi nhóm của Burton
Richter và Samuel C. C. Ting. Đó là một loại hạt quark chưa được biết vào lúc đó và được đặt tên là
“đẹp” (charm). Hạt quark này không có mối liên hệ nào đến hệ thống các hạt cơ bản và Burton và Ting
chia nhau giải Nobel năm 1976. Mô hình chuẩn trong vật lí hạt phân chia các hạt thành 3 họ, họ thứ
nhất gồm: 2 quark (và các phản quark) và hai lepton, trong mỗi lepton đều có các quark “thuận” và
“ngược”, điện tử và neutrino điện tử; họ thứ hai gồm: quark “lạ” và quark “đẹp”, muon và neutrino
muon; họ thứ ba gồm: quark thuận, quark ngược, tau và tau neutrino. Các hạt truyền tương tác trong
tương tác điện yếu là các photon, hạt Z và hạt boson W và trong tương tác mạnh là các hạt gluon.

Năm 1983, Carlo Rubbia và nhóm nghiên cứu của ông đã chứng minh sự tồn tại của các hạt W và Z
bằng buồng va chạm proton-phản proton với năng lượng đủ cao để tạo ra các hạt rất nặng đó. Rubbia
chia giải năm 1984 với Simon van der Meer, người có những phát minh quan trọng trong việc xây
dựng buồng va chạm đó. Họ cũng syu đoán rằng có các hạt khác có thể được tạo ra tại các năng
lượng cao hơn năng lượng của các máy gia tốc hiện thời, nhưng đến giờ không có bằng chứng thực
nghiệm nào về điều đó.

Vũ trụ học là một ngành khoa học nghiên cứu về cấu trúc và tiến hóa của vũ trụ chúng ta và các đối
tượng trên nấc thang vĩ mô trong đó. Các mô hình được xây dụng trên các tính chất của các hạt cơ
bản đã biết và các tương tác của chúng cũng như tính chất của không-thời gian và hấp dẫn. Mô hình
vụ nổ lớn mô tả một kịch bản có thể cho sự tiến hóa của vũ trụ tại những thời điểm đầu tiên. Một trong
những tiên đoán của mô hình đó là sự tồn tại của nền bức xạ vũ trụ mà đã được Arno A. Penzias và
Robert W. Wilson tìm ra vào năm 1960. Họ cùng nhận giải Nobel vật lí năm 1978. Bức xạ này là tàn
dư của các quá trình va chạm được giả thiết xuất hiện vào các giai đoạn rất sớm sau vụ nổ lớn. Nhiệt
độ cân bằng tại thời kì hiện tại của vũ trụ là 3 độ Kenvin. Nhiệt đó đó gần như đồng nhất theo tất cả
các hướng quan sát khác nhau; các sai khác nhỏ khỏi giá trị đồng nhất đang được nghiên cứu và sẽ
nói cho chúng ta biết nhiều hơn về lịch sử sớm nhất của vũ trụ của chúng ta.

Khoảng không vũ trụ được ví như một đấu trường lớn cho các hạt tương tác với nhau vì ở đó các
điều kiện đặc biệt mà không thể tạo ra trong một phòng thí nghiệm trên trái đất có thể được tạo ra một
cách tự phát. Các hạt có thể được gia tốc tới các năng lượng cao hơn bất lì máy gia tốc nào trên trái
đất, các phản ứng hạt nhân xảy ra bên trong các ngôi sao, và lực hấp dẫn có thể nén các hạt đến mật
độ cực cao. Hans A. Bethe lần đầu tiên mô tả chu kì Hidro và các-bon trong đó năng lượng được giải
phóng trong các ngôi sao bởi sự kết hợp của proton thành hạt nhân Hê-li. Vì đóng góp này, ông nhận
giải Nobel vật lí vào năm 1967.

Subramanyan Chandrasekhar đã tính toán lí thuyết quá trình tiến hóa của các ngôi sao, đặc biệt là
các ngôi sao sẽ kết thúc cuộc đời của mình ở một trạng thái gọi là “sao lùn trắng”. Dưới một số điều
kiện đặc biệt, sản phẩm cuối cùng có thể là “sao neutron”, một vật thể cực đặc trong đó tất cả các
proton biến thành neutron. Trong các vụ nổ siêu sao, các nguyên tố nặng được tạo ra trong quá trình
tiến hóa của các sao sẽ bay vào trong khoảng không vũ trụ. William A. Fowler đã làm sáng tỏ rất chi
tiết cả về mặt lí thuyết và thực nghiệm (sử dụng các máy gia tốc) các phản ứng hạt nhân quan trọng
nhất trong các ngôi sao và sự hình thành các nguyên tố nặng. Fowler và Chandrasekhar cùng nhận
giải Nobel vật lí năm 1983.

Ánh sáng nhìn thấy và bức xạ vũ trụ không phải là các sóng điện từ duy nhất mà có thể đến với chúng
ta từ khoảng không vũ trụ. Tại các bước sóng dài hơn, thiên văn vô tuyến cung cấp các thông tin về
các vật thể vũ trụ mà chúng ta không thể quan sát được bằng phổ quang học. Ngài Martin Ryle đã
phát triển một phương pháp trong đó các tín hiệu từ vài kính thiên văn đặt cách xa nhau có thể kết
hợp với nhau để làm tăng độ phân giải của bản đồ nguồn sóng radio từ bầu trời. Antony Hewish và
nhóm nghiên cứu của ông đã thực hiện một phát minh rất ngẫu nhiên vào năm 1964 khi sử dụng kính
thiên văn của Ryle: các vật thể không xác định gọi là pulsar phát ra các xung tần số sóng radio với tốc
độ lặp lại rất xác định. Những vật thể này ngay sau đó được xác định là các sao neutron, hoạt động
như các ngọn hải đăng quay rất nhanh phát ra sóng radio bởi vì chúng là những cục nam châm rất
mạnh. Ryle và Hewish chia giải Nobel vật lí năm 1974.

Năm 1974 cuộc tìm kiếm pulsar là đối tượng chính của các nhà thiên văn vô tuyến, nhưng một bất
ngờ khác đã đến vào mùa hè năm đó khi Russell A. Hulse và Joseph H. Taylor, Jr. đã chú ý đến sự
điều biến chu kì của tần số các xung của một pulsar mới được phát hiện gọi là PSR 1913+16. Đó
chính là pulsar đôi đầu tiên được ghi nhận, nó được đặt tên như vậy bởi vì sao neutron phát ra sóng
radio là một thành phần trong một hệ sao đôi có kích thước gần bằng nhau. Các quan sát trên 20 năm
về hệ sao này cho thấy bằn chứng của sóng hấp dẫn. Sự suy giảm của tần số quay rất phù hợp với
các tính toán dựa trên lí thuyết của Einstein về mất mát năng lượng gây ra do phát ra sóng hấp dẫn.
Hulse và Taylor chia nhau giải Nobel vật lí vào năm 1993. Tuy vậy việc thu trực tiếp sóng hấp dẫn trên
trái đất vẫn chưa được thực hiện.

4. Từ đơn giản đến phức tạp

Nếu tất cả các tính chất của các hạt cơ bản cũng như các lực tương tác giữa chúng đã được biết rất
chi tiết thì liệu có thể đoán được tính chất của các hệ gồm các hạt như vậy không? Việc tìm kiếm các
thành tố cơ bản của tự nhiên và tìm kiếm các mô tả lí thuyết tương tác giữa chúng (ở tầm vĩ mô cũng
như vi mô) đã được khuyến khích một phần bởi một học thuyết giản hóa luận. Tất cả các nhà khoa
học không cho rằng có một phương pháp tổng hợp ngay cả về mặt nguyên lí. Nhưng thậm chí nếu nó
đúng thì các tính toán tính chất của hệ phức cũng nhanh chóng trở thành bất khả thi khi số hạt và
tương tác trong hệ tăng lên. Do đó người ta mô tả hệ nhiều hạt phức bằng các mô hình đơn giản hóa,
trong đó, chỉ các đặc điểm quan trọng nhất của các thành phần các hạt và tương tác được dùng như
là các điểm khởi đầu. Người ta thường xuyên thấy rằng các hệ phức thể hiện các đặc điểm được gọi
là các “tính chất chung” mà không thể đoán được từ các tương tác cơ bản giữa các thành phần của
chúng.

4.1. Hạt nhân nguyên tử

Các hệ phức đầu tiên từ quan điểm của các nhà giản hóa luận là thành phần cấu thành hạt nhân, tức
là các neutron và proton được tạo thành từ các quark và gluon. Hệ thứ hai là các hạt nhân nguyên tử,
theo một phép gần đúng bậc một, được tạo thành từ các hạt nucleon. Mô hình đầu tiên về cấu trúc hạt
nhân là mô hình các lớp hạt nhân, do Maria Goeppert-Mayer và Johannes D. Jensen đưa ra vào cuối
những năm 40, họ nhận thấy rằng ít nhất đối với các hạt nhân với hình gần như hình cầu thì các
nucleon bên ngoài cùng cũng lấp đầy các mức năng lượng giống như các điện tử trong nguyên tử.
Tuy vậy, trật tự của các nucleon lại khác với các điện tử và được xác định bởi một thế năng chung và
bởi sự kết cặp spin-quĩ đạo rất mạnh của các lực hạt nhân. Mô hình của họ giải thích tại sao hạt nhân
lại đặc biệt ổn định với một số xác định (con số kì diệu) các proton. Họ chia nhau giải Nobel vật lí năm
1963 cùng với Eugene Wigner, người đã công thức hóa các nguyên lí đối xứng cơ bản rất quan trọng
trong vật lí hạt nhân và vật lí hạt.

Hạt nhân có số nucleon khác với con số kì diệu thì lại không phải là hình cầu. Niels Bohr đã từng
nghiên cứu mô hình giọt chất lỏng áp dụng cho các hạt nhân bị biến dạng như vậy (có thể có dạng
hình e-líp), và vào năm 1939 người ta thấy rằng nếu kích thích các hạt nhân bị biến dạng mạnh có thể
dẫn đến sự phân chia hạt nhân, tức là hạt nhân bị phá vỡ thành hai mảnh lớn. Otto Hahn nhận giải
Nobel hóa học năm 1944 cho phát hiện quá trình mới này. Hình phi cầu của hạt nhân biến dạng sinh
thêm các bậc tự do cũng giống như sự dao động tập thể của các hạt nhân. James Rainwater, Aage
Bohr (con trai của Niels Bohr) và Ben Mottelson đã phát triển các mô hình mô tả các kích thích hạt
nhân và họ cùng nhận giải Nobel vật lí năm 1975.

Các mô hình về hạt nhân được nhắc đến trên đây không chỉ dựa trên các nguyên lí chung, có tính
định hướng mà còn dựa trên các thông tin ngày càng tăng về phổ hạt nhân. Harold C. Urey đã phát
hiện ra deuterium, một đồng vị nặng của Hidro, và vì thế, ông được trao giải Nobel về hóa học vào
năm 1934. Fermi, Lawrence, Cockcroft, và Walton đã được nhắc đến ở phần trước đã phát triển các
phương pháp để tạo ra các đồng vị hạt nhân không bền.Edwin M. McMillan và Glenn T. Seaborg nhận
giải Nobel hóa học năm 1951 vì đã mở rộng bảng đồng vị hạt nhân tới các nguyên tố nặng nhất. Năm
1954, Walther Bothe và Max Born (người được nhắc đến ở trên) nhận giải Nobel vật lí vì phát triển
phương pháp trùng hợp cho phép những người nghiên cứu quang phổ có thể lựa chọn các chuỗi bức
xạ hạt nhân có liên quan từ phân rã hạt nhân. Phương pháp này lại hóa ra rất quan trọng, đặc biệt là
trong nghiên cứu các trạnng thái kích thích của hạt nhân và tính chất điện từ của chúng.

4.2. Nguyên tử

Khi xem xét các hệ nhiều hạt, các lớp điện tử của các nguyên tử dễ nghiên cứu hơn của hạt nhân (hạt
nhân thực ra bao gồm không chỉ các proton và neutron mà còn nhiều thành phần hơn nguyên tử, như
là các hạt “ảo” có thời gian sống ngắn). Đó là do lực điện từ yếu và đơn giản hơn lực hạt nhân “mạnh”
giữ các thành phần của hạt nhân lại với nhau. Cơ học lượng tử của Schrödinger, Heisenberg, và Pauli
và phần mở rộng tương đối tính của Dirac đã có thể mô tả khá tốt các tính chất cơ bản của các điện
tử trong nguyên tử. Tuy vậy, một bài toán có từ lâu vẫn chưa được giải quyết, tức là các vấn đề toán
học liên quan đến các tương tác lẫn nhau giữa các điện tử sau khi tính đến lực hút của các hạt nhân
mang điện tích dương. Một khía cạnh của vấn đề này đã được đế cập bởi một trong những người đạt
giải Nobel hóa học mới đây (1998), đó là Walter Kohn. Ông đã phát triển phương pháp “hàm mật độ”
có thể áp dụng vào các nguyên tử tự do cũng như áp dụng cho các điện tử trong các phân tử và trong
chất rắn.

Vào đầu thế kỉ 20, bảng tuần hoàn các nguyên tố hóa học vẫn chưa hoàn thiện. Lịch sử ban đầu của
giải Nobel bao gồm các phát hiện một số các nguyên tố còn thiếu. Lord Raleigh (John William Strutt)
đã chú ý đến những dị thường về khối lượng nguyên tử tương đối khi các mẫu ô-xi và ni-tơ được tách
trực tiếp từ không khí quanh ta chứ không phải tách chúng từ các thành phần hóa học. Ông kết luận
rằng khí quyển phải có chứa thành phần chưa biết, đó là nguyên tố argon có khối lượng nguyên tử là
20. Ông nhận giải Nobel vật lí năm 1904, cùng năm với ngài William Ramsay nhận giải Nobel hóa học
vì đã tách được nguyên tố Hê-li.

Trong nửa cuối của thế kỉ 20, đã có một sự phát triển vượt bậc về phổ và độ chính xác nguyên tử, mà
nhờ đó người ta có thể đo được các dịch chuyển giữa các trạng thái nguyên tử hoặc phân tử mà rơi
vào vùng vi sóng hoặc cùng ánh sáng khả kiến. Vào những năm 50, Alfred Kastler (người nhận giải
Nobel năm 1966) và các đồng nghiệp cho thấy các điện tử trong các nguyên tử có thể được đặt vào
các trạng thái kích thích lọc lựa bằng các sử dụng ánh sáng phân cực. Sau phân rã phóng xạ, ánh
sáng phân cực cũng có thể làm cho spin của các nguyên tử ở trạng thái cơ bản định hướng.

Cảm ứng dịch chuyển tần số radio đã mở ra các khả năng đo một cách chính xác hơn trước rất nhiều
các tính chất của các trạng thái bị lượng tử hóa của các điện tử trong nguyên tử. Một hướng phát triển
song song đã dẫn đến việc phát hiện ra maser và laser dựa trên “khuyếch đại phát xạ kích thích sóng
radio” trong các trường sóng điện từ ở vùng vi sóng và khả kiến (ánh sáng) – các hiệu ứng mà về mặt
nguyên lí đã được tiên đoán từ các phương trình của Einstein vào năm 1917 nhưng đã không được
quan tâm đặc biệt cho đến tận đầu những năm 50.

Charles H. Townes đã phát triển maser đầu tiên vào năm 1958. Nikolay G. Basov và Aleksandr M.
Prokhorov đã thực hiện công trình lí thuyết về nguyên lí maser. Maser đầu tiên sử dụng một dịch
chuyển kích thích trong phân tử a-mô-ni-ắc. Nó đã phát ra bức xạ vi sóng mạnh không giống như các
bức xạ tự nhiên (với các photon có các pha khác nhau). Độ sắc nét của tần số của maser ngay lập tức
trở thành một công cụ quang trọng trong kĩ thuật, xác định thời gian và các mục đích khác. Townes
nhận nửa giải Nobel vật lí năm 1964, Basov và Prokhorov chia nhau một nửa giải còn lại.
Đối với bức xạ khả kiến, sau này laser được phát triển trong một số phòng thí nghiệm. Nicolaas
Bloembergen vàArthur L. Schawlow được nhận nửa giải Nobel năm 1981 cho công trình nghiên cứu
về phổ laser chính xác của các nguyên tử và phân tử. Một nửa giải của năm đó được trao cho Kai M.
Siegbahn (con trai của Manne Siegbahn), người đã phát triển một phương pháp có độ chính xác cao
trong việc xác định phổ nguyên tử và phân tử dựa vào các điện tử phát ra từ các lớp điện tử bên trong
khi bị tác động của chùm tia X có năng lượng đã được xác định. Phổ điện tử của ông được sử dụng
làm công cụ phân tích trong rất nhiều ngành của vật lí và hóa học.

Sự tác động có điều khiển giữa các điện tử của nguyên tử và các trường điện từ tiếp tục cung cấp
những thông tin chi tiết hơn về cấu trúc của các trang thái của điện tử trong nguyên tử.

Norman F. Ramsey đã phát triển các phương pháp chính xác dựa trên sự hưởng ứng của các điện tử
tự do trong chùm nguyên tử với trường điện từ tần số radio, Wolfgang Paul đã phát minh ra các “bẫy”
nguyên tử tạo thành từ các điện trường và từ trường tác động lên toàn bộ thể tích mẫu. Nhóm nghiên
cứu của Hans G. Dehmelt là những người đầu tiên cách li được các hạt riêng lẻ (trong trường hợp
này là các phản điện tử) cũng như là các nguyên tử riêng lẻ trong các bẫy như vậy. Lần đầu tiên, các
nhà thực nghiệm có “thể giao tiếp” được với các nguyên tử riêng biệt bằng các tín hiệu vi sóng và
laser. Điều này cho phép nghiên cứu các khía cạnh mới của tính chất cơ học lượng tử và làm tăng độ
chính xác hơn nữa trong việc xác định tính chất nguyên tử và chuẩn hóa thời gian. Paul và Dehmelt
nhận một nửa giải Nobel năm 1989 và một nửa giải còn lại được trao cho Ramsey.

Bước cuối cùng trong tiến bộ này là làm cho các nguyên tử trong các bẫy như vậy chuyển động chậm
đến mức, ở trạng thái cân bằng nhiệt trong môi trường khí, chúng có thể tương ứng với nhiệt độ chỉ
vài micro Kenvin. Điều đó được thực hiện bằng cách cho chúng vào để làm nguội bằng laser thông
qua một tập hợp các hệ thống được thiết kế rất thông minh do Steven Chu, Claude Cohen-
Tannoudji và William D. Phillips thực hiện khi nhóm này nghiên cứu thao tác lên các nguyên tử thông
qua quá trình va chạm với các photon laser. Công trình của họ được nhìn nhận bằng giải Nobel năm
1997, hứa hẹn những ứng dụng quan trọng trong kĩ thuật đo lường bổ sung thêm tính chính xác trong
việc xác định định lượng nguyên tử.

4.3 Phân tử và plasma

Các phân tử tạo thành từ các nguyên tử. Chúng tạo ra mức phức tạp tiếp theo khi nghiên cứu các hệ
nhiều hạt. Nhưng các nghiên cứu phân tử thường được coi như một nhánh của học (ví dụ như giải
Nobel hóa học năm 1936 được trao cho Petrus J. W. Debye), và hiếm khi được trao giải Nobel về vật
lí. Chỉ có một ngoại lệ đó là công trình của Johannes Diderik van der Waals, ông đã đưa ra các
phương trình trạng thái của các phân tử tcho chất khí khi tính đến tương tác lẫn nhau giữa các phân
tử và sự giảm thể tích tự do do gây ra bởi kích thước hữu hạn của chúng. Các phương trình van der
Waals là những điểm rất quan trọng trong việc mô tả quá trình ngưng tụ của các chất khí thành chất
lỏng. Ông nhận giải Nobel vật lí năm 1910. Jean B. Perrin nghiên cứu chuyển động của các hạt nhỏ lơ
lửng trong nước và nhận giải Nobel năm 1926. Nghiên cứu của ông cho phép khẳng định lí thuyết
thống kê của Einstein về chuyển động Brown cũng như các định luật điều khiển quá trình cân bằng
của các hạt lơ lửng trong chất lỏng khi chịu tác dụng của trọng lực.

Năm 1930, ngài Sir C. Venkata Raman nhận giải Nobel vật lí cho các quan sát của ông chứng tỏ rằng
ánh sáng tán xạ từ các phân tử bao gồm các thành phần có tần số bị dịch chuyển tương ứng với ánh
sáng đơn sắc. Sự dịch chuyển này gây bởi sự tăng hoặc giảm năng lượng đặc trưng của phân tử khi
chúng thay đổi chuyển động quay hoặc dao động. Phổ Raman nhanh chóng trơ thành nguồn thông tin
quan trọng cung về cấu trúc và động học phân tử.

Plasma là trạng thái khí của vật chất trong đó các nguyên tử hoặc phân tử bị ion hóa rất mạnh. Lực
điện từ giữa các ion dương và giữa các ion và điện tử đóng một vai trò nổi trội điều này làm tăng tính
phức tạp khi nghiên cứu plasma so với nguyên tử hoặc phân tử trung tính. Năm 1940, Hannes
Alfvén đã chứng minh rằng một loại chuyển động tập thể mới, gọi là “sóng từ-thủy động lực học” có
thể được sinh ra trong các hệ plasma. Các sóng này đóng một vai tròn quan trọng xác định tính chất
của plasma, trong phòng thí nghiệm cũng như trong khí quyển trái đất và trong vũ trụ. Alfvén nhận
nửa giải Nobel năm 1970.

4.4. Vật lí chất rắn


Các tinh thể được đặc trưng bởi sự xắp xếp đều đặn của các nguyên tử. Sau khi phát hiện ra tia X
không lâu, Max von Laue nhận thấy rằng, các tia X bị tán xạ khi đi qua các tinh thể chất rắn giống như
ánh sáng đi qua một cách tử quang học. Có hiện tượng này là do bước sóng của tia X thông thường
trùng với khoảng cách giữa các nguyên tử trong chất rắn. Ngài William Henry Bragg (cha) and William
Lawrence Bragg (con) lần đầu tiên dùng tia X để đo khoảng cách giữa các nguyên tử và phân tích sự
sắp xếp hình học của các nguyên tử trong các tinh thể đơn giản. Vì các công trình tiên phong trong
việc nghiên cứu tinh thể học bằng tia X (mà sau này được phát triển đến trình độ rất cao), họ được
trao giải Nobel vật lí, Laue năm 1914 và cha con Bragg năm 1915.

Cấu trúc của tinh thể là trạng thái ổn định nhất trong nhiều trạng thái rắn mà nguyên tử có thể được
xắp xếp tại nhiệt độ và áp suất thông thường. Vào những năm 30, Percy W. Bridgman đã phát minh ra
các dụng cụ mà nhờ đó có thể nghiên cứu sự thay đổi cấu trúc tinh thể, tính chất điện, từ, nhiệt của
chất rắn dưới áp suất cao. Rất nhiều tinh thể thể hiện các chuyển pha dưới các điều kiện đặc biệt như
vậy. Sự sắp xếp hình học của các nguyên tử bị thay đổi đột ngột tại áp suất nhất định. Bridgman nhận
giải Nobel vật lí năm 1946 cho các phát minh trong lĩnh vực vật lí áp suất cao.

Vào những năm 40, nhờ sự phát triển của các máy phản ứng phân rã hạt nhân, các nhà thực nghiệm
có thể thu được các neutron năng lượng thấp. Người ta cũng thấy rằng, giống như tia X, các neutron
cũng rất hiệu quả trong việc xác định cấu trúc tinh thể bởi vì bước sóng de Broglie của hạt nhân cũng
cỡ khoảng cách giữa các nguyên tử trong chất rắn. Clifford G. Shull đã có nhiều đóng góp cho sự
phát triển kĩ thuật nhiễu xạ neutron trong việc xác định cấu trúc tinh thể, và cũng cho cho biết rằng, sự
sắp xếp của các mô-men từ nguyên tử trong các vật liệu có trật tự từ có thể làm tăng nhiễu xạ
neutron, cung cấp một công cụ rất mạnh để xác định cấu trúc từ.

Shull nhận giải Nobel vật lí năm 1994 cùng với Bertram N. Brockhouse, chuyên gia về một khía cạnh
khác của tán xạ neutron trên chất rắn: khi các neutron kích thích kiểu dao động phonon trong tinh thể
gây ra suy giảm năng lượng. Do đó, Brockhouse đã phát triển máy phổ neutron 3 chiều, nhờ đó có thể
thu được toàn vẹn các đường cong tán sắc (năng lượng của phonon là một hàm của véc-tơ sóng).
Các đường cong tương tự có thể thu được đổi với dao động của mạng từ (kiểu magnon).

John H. Van Vleck có đóng góp đặc biệt cho lí thuyết từ học trong chất rắn vào những năm sau khi ra
đời cơ học lượng tử. Ông đã tính toán các ảnh hưởng của liên kết hóa học lên các nguyên tử thuận từ
và giải thích sự phụ thuộc vào nhiệt độ và từ trường ngoài của tính chất từ. Đặc biệt ông đã phát triển
lí thuyết trường tinh thể của các hợp chất của các kim loại chuyển tiếp, đó là điều vô cùng quan
trọngtrong việc tìm hiểu các tâm hoạt động trong các hợp chất dùng cho vật lí laser cũng như sinh học
phân tử. Ông cùng nhận giải Nobel vật lí với Philip W. Anderson và ngài Nevill F. Mott (xem dưới đây).

Các nguyên tử từ có thể có các mô-men từ sắp xếp theo cùng một phương trong một thể tích nhất
định (vật liệu như vậy được gọi là vật liệu sắt từ), hoặc các mô-men có cùng độ lớn nhưng lại sắp xếp
đan xen “thuận” rồi đến “nghịch” (vật liệu phản sắt từ), hoặc sắp xếp đan xen nhưng độ lớn lại khác
nhau (vật liệu ferri từ,…). Louis E. F. Néel đã đưa ra các mô hình cơ bản mô tả các vật liệu phản sắt
từ và ferri từ, đó là các thành phần quan trọng trong nhiều dụng cụ chất rắn. Các vật liệu đó được
nghiên cứu rất nhiều bằng kĩ thuật nhiễu xạ neutron đã nói trên đây. Néel nhận một nửa giải Nobel vật
lí năm 1970. (*Hiện nay ở CNRS Grenoble có một phòng thí nghiệm về từ học rất nổi tiếng mang tên
ông, ông cũng được coi là cha đẻ của ngành khoa học tự nhiên Grenoble, ông từng là giáo sư của
trường Joseph Fourier – Grenoble 1 mà rất nhiều AEVG đang theo học*).

Trật tự của các nguyên tử trong tinh thể chất rắn cũng như rất nhiều loại trật tự từ khác nhau là những
ví dụ của các hiện tượng trật tự nói chung trong tự nhiên khi các hệ tìm thấy sự sắp xếp sao cho có lợi
về mặt năng lượng bằng cách chọn những trạng thái đối xứng nhất định. Các hiện tượng tới hạn, là
các hiện tượng mà tính đối xứng sắp bị thay đổi (ví dụ khi nhiệt độ thay đổi chẳng hạn), có tính phổ
quát cao cho các loại chuyển pha khác nhau, mà trong đó bao gồm cả chuyển pha từ. Kenneth G.
Wilson, người nhận giải Nobel vật lí năm 1982, đã phát triển một lí thuyết gọi là lí thuyết tái chuẩn hóa
cho các hiện tượng tới hạn liên hệ với các chuyển pha, một lí thuyết còn được ứng dụng trong lí
thuyết trường của vật lí hạt cơn bản.

Các tinh thể lỏng tạo ra một lớp vật liệu đặc biệt có rất nhiều đặc tính lí thú, trên cả quan điểm tương
tác cơ bản trong chất rắn cũng như các ứng dụng kĩ thuật. Pierre-Gilles de Gennes đã phát triển lí
thuyết cho tinh thể lỏng và sự chuyển giữa các pha có độ trật tự khác nhau. Ông cũng sử dụng cơ học
thống kê để mô tử sự sắp xếp và động lực học của các chuỗi polymer, và bằng cách đó cho thấy
rằng, các phương pháp được phát triển cho các hiện tượng trật tự trong các hệ đơn giản có thể được
khái quát hóa cho các hệ phức tạp có mặt trong “chất rắn mềm”. Vì đóng góp đó, ông nhận giải Nobel
vật lí năm 1991.

Một dạng chất lỏng đặc biệt đã được quan tâm nghiên cứu đó là chất lỏng hê-li. Tại áp suất thông
thường, hê-li là chất hóa lỏng ở nhiệt độ thấp nhất. Hê-li cũng có hiệu ứng đồng vị mạnh nhất, từ hê-li
(4) hóa rắn ở nhiệt độ 4.2 độ Kenvin, cho đến hê-li (3) hóa rắn ở nhiệt độ 3.2 độ Kenvin. Heike
Kamerlingh-Onnes là người đầu tiên hóa lỏng hê-li vào năm 1909. Ông nhận giải Nobel vật lí năm
1913 cho các kết quả của hê-li lỏng và cho các nghiên cứu của ông về tính chất của vật chất tại nhiệt
độ thấp. Lev D. Landau đã đưa ra các khái niệm cơ bản (ví dụ như chất lỏng Landau) liên quan đến
các hệ nhiều hạt trong chất rắn và áp dụng các khái niệm đó vào lí thuyết hê-li lỏng để giải thích các
hiện tượng đặc biệt của hê-li (4) như là hiện tượng siêu chảy (xem dưới đây), kích thích “roton”, và
các hiện tượng âm học. Ông được trao giải Nobel năm 1962.

Vào những năm 20 và 30, Pyotr L. Kapitsa đã phát triển một số kĩ thuật thực nghiệm để thực hiện và
nghiên cứu các hiện tượng ở nhiệt độ thấp. Ông nghiên cứu nhiều khía cạnh của hê-li (4) lỏng và cho
thấy rằng hê-li lỏng có tính siêu chảy (tức là chảy không có ma sát) khi nhiệt độ thấp hơn 2.2 độ
Kenvin. Sau này hiện tượng siêu chảy được hiểu là sự thể hiện của mối liên hệ lượng tử giữa hiện
tượng ngưng tụ Bose-Einstein (được tiên đoán bằng lí thuyết vào năm 1920) và nhiều tính chất giống
như trạng thái siêu dẫn của điện tử trong một số chất dẫn điện đặc biệt. Kapitsa được trao một nửa
giải Nobel vật lí năm 1978.

Hê-li (3) thì lại thể hiện các hiện tượng đặc biệt, vì mỗi hạt nhân hê-li có spin khác không chứ không
giống như hê-li (4). Do đó, nó giống như là các hạt fermion và không bị ngưng tụ Bose-Einstein như
các hạt boson. Tuy vậy, giống như các vật liệu siêu dẫn (xem dưới đây), các cặp hạt có spin bán
nguyên có thể tạo thành các hạt “giả boson” và có thể bị ngưng tụ gây nên trạng thái siêu chảy. Hiện
tượng siêu chảy của hê-li (3) xảy ra tại nhiệt độ thấp hơn của hê-li (4) hàng ngàn lần và đã
được David M. Lee, Douglas D. Osheroff và Robert C. Richardson phát hiện ra, họ nhận giải Nobel
vật lí năm 1996. Họ đã quan sát thấy các pha siêu chảy khác nhau cho thấy cấu trúc xoáy phức tạp và
các hiện tượng lượng tử rất thú vị.

Các điện tử trong chất rắn có thể bị định xứ ở xung quanh các nguyên tử của chúng trong các chất
cách điện, hoặc chúng có thể chuyển động qua lại giữa các vị trí của các nguyên tử trong các chất
dẫn điện hoặc chất bán dẫn. Vào đầu thế kỉ 20, người ta biết rằng các kim loại có thể phát ra các điện
tử khi bị nung nóng, nhưng người ta không biết điện tử phát ra là do bị kích thích nhiệt hay là do các
tương tác hóa học với môi trường khí xung quanh. Bằng các thực nghiệm tiến hành trong môi trường
có chân không cao, cuối cùng, Owen W. Richardson đã xác định rằng sự phát xạ của điện tử là do
hiệu ứng nhiệt và ông cũng thiết lập định luật phân bố của của các điện tử theo vận tốc. Và do đó,
Richardson nhận giải Nobel năm 1928.

Cấu trúc điện tử xác định các tính chất điện, từ và quang của chất rắn và nó còn có vai trò quan trọng
đến tính chất cơ và nhiệt nữa. Một trong những nhiệm vụ quan trọng của các nhà vật lí thế kỉ 20 là đo
trạng thái và động học của các điện tử và mô hình hóa các tính chất của chúng để hiểu các tổ chức
của các điện tử trong các loại chất rắn khác nhau. Điều rất tự nhiên là các hiện tượng khác thường đã
thu hút mạnh mẽ các nhà vật lí chất rắn. Điều đó được phản ánh trong giải Nobel vật lí: vài giải đã
được trao các các phát hiện liên quan đến siêu dẫn và các hiện tượng đặc biệt thể hiện trong một số
chất bán dẫn.

Siêu dẫn lần đầu tiên được phát hiện từ rất sớm, từ năm 1911. Kamerlingh-Onnes đã thấy rằng điện
trở của thủy ngân giảm xuống nhỏ hơn một phần tỉ giá trị bình thường khi bị làm lạnh thấp hơn một
nhiệt độ chuyển pha Tc khoảng 4 độ Kenvin. Như được nhắc ở phần trên, ông đã nhận giải Nobel
năm 1913. Tuy vậy, một thời gian dài người ta không hiểu tại sao các điện tử có thể chuyển động mà
không bị cản trở trong các chất siêu dẫn tại nhiệt độ thấp. Nhưng vào đầu những năm 60, Leon N.
Cooper, John Bardeen và J. Robert Schrieffer đã đưa ra lí thuyết dựa trên ý tưởng là các cặp điện tử
(có spin và hướng chuyển động ngược nhau) có thể giảm một lượng năng lượng Eg bằng cách chia
xẻ một cách chính xác cùng một độ biến dạng của mạng tinh thể khi chúng chuyển động. Các cặp
Cooper này hành động giống như các hạt boson. Sự tạo cặp này cho phép chúng chuyển động như
một chất lỏng liên kết, không bị ảnh hưởng khi các kích thích nhiệt (có năng lượng là kT) nhỏ hơn
năng lượng tạo thành khi kết cặp (Eg). Lí thuyết BCS này được trao giải Nobel vật lí năm 1972.

Đột phá trong việc hiểu cơ sở cơ học năng lượng này dẫn đến các tiến bộ trong các mạch siêu
dẫn: Brian D. Josephson đã phân tích sự dịch chuyển của các hạt tải điện giữa hai kim loại siêu dẫn
được ngăn cách bởi một lớp vật liệu dẫn điện thường rất mỏng. Ông tìm thấy rằng pha lượng tử xác
định tính chất dịch chuyển là một hàm dao động của điện thế bên ngoài đặt lên chuyển tiếp này. Hiệu
ứng Josephson có các ứng dụng quan trọng trong các phép đo chính xác vì nó thiết lập mối liên hệ
giữa điện thế và tần số. Josephson nhận một nửa giải Nobel vật lí năm 1973. Ivar Giaever, người đã
phát minh và nghiên cứu các tính chất chi tiết của “chuyển tiếp đường ngầm” này (một hệ thống điện
tử dựa trên chất siêu dẫn) chia nhau một nửa giải còn lại với Leo Esaki cho công trình nghiên cứu về
hiệu ứng đường ngầm trong chất bán dẫn (xem dưới đây).

Mặc dầu có khá nhiều các hợp kim và hợp chất siêu dẫn được phát hiện trong khoảng 75 năm sau
phát hiện của Kamerlingh-Onnes, hiện tượng siêu dẫn mãi được xem như là hiện tượng chỉ xảy ra tại
nhiệt độ thấp, với nhiệt độ chuyển pha siêu dẫn thấp hơn 20 độ Kenvin. Cho nên khi J. Georg
Bednorz và K. Alexander Müller cho thấy rằng Ô-xít Lanthan-đồng có pha thêm Ba-rri có nhiệt độ
chuyển pha là 35 độ Kenvin thì mọi người rất ngạc nhiên. Và ngay sau đó, các phòng thí nghiệm khác
công bố các hợp chất có cấu trúc tương tự như thế có tính siêu dẫn ở nhiệt độ khoảng 100 độ Kenvin.
Phát hiện về “siêu dẫn nhiệt độ cao” này khởi động một làn sóng trong vật lí hiện đại: tìm hiểu có chế
có bản cho tính siêu dẫn của các vật liệu đặc biệt này. Bednorz and Müller nhận giải Nobel năm 1987.

Chuyển động của các điện tử trong kim loại ở trạng thái dẫn điện bình thường đã được mô hình hóa
về lí thuyết đến một độ phức tạp chưa từng có từ khi có mặt của cơ học lượng tử. Một trong những
bước tiến lớn ban đầu là việc đưa vào khái niệm sóng Bloch, hàm sóng được lấy tên của nhà vật
lí Felix Bloch (người nhận nửa giải Nobel vật lí năm 1952 cho công trình nghiên cứu về cộng hưởng
từ). Một khái niệm quan trọng nữa là “chất lỏng điện tử” trong các chất dẫn điện do Lev Landau (xem
phần hê-li lỏng). Philip W. Anderson đã có những đóng góp quan trọng vào lí thuyết cấu trúc điện tử
của các kim loại, đặc biệt là các bất đồng nhất trong các hợp kim và các nguyên tử từ tạp chất trong
các kim loại. Nevill F. Mott đã nghiên cứu các điều kiện chung cho tính dẫn điện của điện tử trong chất
rắn và đưa ra các công thức xác định các điểm mà một chất bán dẫn biến thành một chất dẫn điện
(chuyển pha Mott) khi thành phần hoặc các thông số bên ngoài bị thay đổi. Anderson và Mott chia
nhau một nửa giải Nobel năm 1977 và một nửa giải được trao cho John H. Van Vleck cho các nghiên
cứu lí thuyết về cấu trúc điệ
n tử của các hệ từ và mất trật tự.

Một giải Nobel vật lí trước đây (1920) đã được trao cho Charles E. Guillaume cho phát hiện cho thấy
rằng giãn nở nhiệt của một số thép ni-ken (hợp kim được gọi là invar) bằng không. Giải Nobel này
được trao chủ yếu bởi tầm quan trọng của các hợp kim invar trong các phép đo chính xác được dùng
trong vật lí, ngành đo đạc và đặc biệt là thước mét chuẩn được đặt ở Paris. Các hợp kim này được
dùng rất rộng rãi trong các dụng cụ có độ chính xác cao như là đồng hồ, … Các cơ sở lí thuyết về sự
phụ thuộc vào nhiệt độ của độ giãn nở chỉ mới được giải thích gần đây. Và mới đây (1998), Walter
Kohn nhận giải Nobel hóa học cho các phương pháp của ông khi xử lí các tương quan trao đổi lượng
tử , mà nhờ đó người ta có thể vượt qua các giới hạn trong tính toán cấu trúc điện tử trong chất rắn và
các phân tử.

Trong các chất bán dẫn, độ linh động của các điện tử bị giảm đi rất mạnh do có sự tồn tại của vùng
cấm năng lượng đối với các điện tử gọi là các khe năng lượng. Sau khi người ta hiểu được vai trò cơ
bản của các tạp chất cho điện tử và nhận điện tử trong si-líc siêu sạch (và sau này còn có các vật liệu
khác), các chất bán dẫn được sử dụng làm các bộ phận trong điện kĩ thuật. William B. Shockley, John
Bardeen (xem thêm lí thuyết BCS) và Walter H. Brattain đã tiến hành các nghiên cứu cơ bản về siêu
dẫn và đã phát triển transistor loại một. Đó là bình minh của kỉ nguyên “linh kiện điện tử”. Họ cùng
nhận giải Nobel năm 1956.

Sau này Leo Esaki đã phát triển đi-ốt đường ngầm, một linh kiện điện tử có điện trở vi phân âm, đó là
một tính chất kĩ thuật rất thú vị. Nó tạo thành từ hai chất bán dẫn pha tạp loại “n” và loại “p”, có một
đầu chuyển dư điện tử và một đầu khác thiếu điện tử. Hiệu ứng đường ngầm xuất hiện khi điện thế
dịch lớn hơn khe năng lượng trong các chất bán dẫn. Ông chia giải Nobel vật lí năm 1973 với Brian D.
Josephson.
Với kĩ thuật hiện đại, người ta có thể tạo các màng mỏng cấu trúc xác định từ các vật liệu bán dẫn và
chúng thể tiếp xúc trực tiếp với nhau. Với cấu trúc không đồng nhất như vậy, con người không bị giới
hạn vào các khe năng lượng trong các chất bán dẫn như si-lic hoặc germani nữa. Herbert Kroemer đã
phân tích lí thuyết về độ linh động của các điện tử và lỗ trống trong các chuyển tiếp không đồng nhất.
Lí thuyết của ông dẫn đến việc tạo ra các transistor với các đặc trưng được cải tiến rất nhiều mà sau
này gọi là HEMT (transistor có độ linh động điện tử cao), các HEMT rất quan trọng đối với các linh
kiện điện tử tốc độ cao ngày nay. Kroemer cũng giả thiết rằng các cấu trúc không đồng nhất kép có
thể tạo điều kiện cho hoạt động của laser, cùng khoảng thời gian với Zhores I. Alferov đưa ra ý tưởng
như thế. Sau này Alferov đã tạo ra laser bán dẫn xung đầu tiên vào năm 1970. Sự kiện này là điểm
khởi đầu của kỉ nguyên các dụng cụ quang điện hiện này đang dùng trong các đi-ốt laser, đầu đọc đĩa
CD, đầu đọc mã vạch và cáp quang viễn thông. Và gần đây, Alferov và Kroemer chia nhau một nửa
giải Nobel vật lí năm 2000, một nửa giải còn lại về tay Jack S. Kilby, đồng phát minh mạch điện tử tích
hợp (xem phần sau Vật lí và Kĩ thuật).

Khi áp một thế điện cực lên các hệ cấu trúc không đồng nhất, người ta có thể tạo ra “các màng
ngược”, trong đó các hạt tải điện chỉ chuyển động trong không gian hai chiều. Các màng như vậy lại
hóa ra có các tính chất rất thú vị và kì lạ. Năm 1982, Klaus von Klitzing phát hiện ra hiệu ứng Hall
lượng tử. Khi một từ trường mạnh đặt vuông góc với mặt phẳng của màng giả hai chiều, thì các điều
kiện lượng tử lại không tăng một cách tuyến tính với sự tăng của từ trường mà lại tăng một cách nhảy
bậc ở biên của mẫu. Điện trở Hall giữa các bậc này có giái trị h/ie2 trong đó i là các số nguyên tương
ứng với các quĩ đạo điện tử bị lượng tử hóa. Hiệ ứng này cho phép có thể đo tỉ số giữa các hằng số
cơ bản rất chính xác, nó có hệ quả quan trọng trong kĩ thuật đo lường, von Klitzing nhận giải Nobel vật
lí năm 1985.

Một ngạc nhiên nữa đến ngay sau khi Daniel C. Tsui và Horst L. Störmer thực hiện các nghiên cứu kĩ
hơn về hiệu ứng Hall lượng tử sử dụng các màng ngược trong các vật liệu siêu sạch. Trạng thái ổn
định xuất hiện trong hiệu ứng Hall không chỉ đối với từ trường tương ứng với sự lấp đầy của các quĩ
đạo bởi một, hai, ba v.v. giá trị điện tích của điện tử mà còn đối với các điện tích không nguyên!. Điều
này chỉ có thể được hiểu dựa vào một khái niệm về chất lỏng lượng tử mới mà ở đó chuyển động của
các điện tử độc lập có điện tích e được thay thế bởi các kích thích trong một hệ nhiều hạt mà hệ này
cư xử (trong một từ trường mạnh) như thể các điện tích có giá trị e/3, e/5,… tham gia vào. Robert B.
Laughlin phát triển lí thuyết mô tả trạng thái mới của vật chất này và chia giải Nobel vật lí năm 1998
với Tsui and Störmer.

Đôi khi các phát hiện trong một lĩnh vực của vật lí lại hóa ra có các ứng dụng quan trọng trong các lĩnh
vực vật lí khác. Một ví dụ liên quan đến vật lí chất rắn đó là quan sát của Rudolf L. Mössbauer vào
cuối những năm 50. Hạt nhân của nguyên từ hấp thụ có thể bị kích thích cộng hưởng bởi các tia
gamma phát ra từ các nguyên tử phát xạ được chọn một cách hợp lí khi các nguyên tử trong cả hai
trường hợp được bắn ra sao cho sự giật lùi của chúng loại trừ nhau. Năng lượng bị lượng tử hóa của
hạt nhân trong điện từ trượng nội của chất rắn đó có thể được xác định vì năng lượng đó tương ứng
với các vị trí khác nhau của sự cộng hưởng mà sự cộng hưởng này rất sắc nét. Phát hiện này trở nên
quan trọng trong việc xác định cấu trúc điện từ của nhiều vật liệu và Mössbauer nhận một nửa giải
Nobel vật lí năm 1961 cùng với R. Hofstadter.

5. Vật lí và kĩ thuật

Rất nhiều các phát minh thực nghiệm và lí thuyết được nhắc cho đến nay có một ảnh hưởng lớn đến
sự phát triển của các dụng cụ kĩ thuật bằng việc mở ra những lĩnh vực vật lí hoàn toàn mới hoặc đưa
ra các ý tưởng để có thể tạo ra các dụng cụ kĩ thuật. Các ví dụ rất dễ thấy là công trình của Shockley,
Bardeen, và Brattain mà dẫn đến transitor và khởi đầu cuộc cách mạng điện tử; các nghiên cứu cở
bản của Townes, Basov, và Prokhorov dẫn đến việc phát triển maser và laser. Cũng nên nhắc lại rằng
các máy gia tốc hạt hiện nay là các công cụ rất quan trọng trong một vài lĩnh vực khoa học vật liệu và
y học. Các công trình khác được vinh danh bằng giải Nobel ngày càng có thiên hướng về mặt kĩ thuật
hoặc chúng có tầm quan trọng đặc biệt trong việc xây dựng các linh kiện để phát triển ngành liên lạc
và thông tin.

Một giải Nobel cách đây khá lâu (1912) đã được trao cho Nils Gustaf Dalén cho phát minh về “van mặt
trời” (sun-valve) tự động được dùng rộng rãi trong các cột mốc và phao trong ngành hàng hải. Phát
minh đó dựa trên sự khác nhau về bức xạ nhiệt từ các vật có độ phản xạ ánh sáng khác nhau: một
trong số ba thanh song song trong dụng cụ của ông có màu đen, điều này làm tăng sự sai khác trong
việc hấp thụ nhiệt và dãn nở nhiệt của các thanh trong thời gian mặt trời chiếu vào. Hiệu ứng này
được dùng để ngắt nguồn cấp khí tự động vào ban ngày và làm giảm nhiều nhu cầu bảo dưỡng trên
biển.

Các dụng cụ và kĩ thuật quang là những chủ đề cho vài giải Nobel. Khoảng đầu thế kỉ 20, Gabriel
Lippmann đã phát triển một phương pháp chụp ảnh màu sử dụng hiệu ứng giao thoa ánh sáng. Một
chiếc gương được đặt tiếp xúc với một thể nhũ tương nhạy quang phủ trên một tấm kim loại sao cho
khi chúng bị chiếu sáng, ánh sáng phản xạ trong chiếc gương sẽ làm tăng sóng đứng trong thể nhũ
tương đó. Việc tráng ảnh làm cho các hạt bạc bị (trong thể nhũ tương đó) phân tầng khi gương chiếu
sáng lên tấm kim loại và ảnh tạo thành có màu sắc tự nhiên như thật. Giải Nobel năm 1908 được trao
cho Lippmann. Không may, phương pháp của Lippmann mất nhiều thời gian phơi sáng. Sau này
phương pháp đó bị thay thế bởi các kĩ thuật nhiếp ảnh khác nhưng nó lại có nhiều ứng dụng trong kĩ
thuật tạo ảnh ba chiều chất lượng cao.

Trong hiển vi quang học, Frits Zernike cho thấy rằng thậm chí các vật hấp thụ bức xạ rất yếu (trong
suốt khi nhìn bằng mắt thường) có thể nhìn thấy được nếu chúng tạo thành từ những vùng có hệ số
khúc xạ ánh sáng khác nhau. Trong kính “hiển vi nhạy pha” của Zernike, người ta có thể phân biệt các
vệt sáng có pha bị thay đổi khi đi qua các vùng không đồng nhất. Kính hiển vi loại này có tầm quan
trọng đặc biệt trong việc quan sát các mẫu sinh học. Zernike nhận giải Nobel vật lí năm 1953. Vàn
những năm 40, Dennis Gabor đề ra nguyên lí ảnh ba chiều. Ông tiên đoán rằng nếu tia sáng tới có thể
giao thoa với tia phản xạ từ một mảng hai chiều thì có thể tạo được một ảnh ba chiều của vật thể. Tuy
vậy, việc thực hiện ý tưởng này phải đợi đến khi laser được phát hiện. laser có thể cung cấp ánh sáng
cố kết cần thiết cho quan sát hiện tượng giao thoa nói ở trên. Gabor nhận giải Nobel năm 1971.

Hiển vi điện tử có ảnh hưởng sâu rộng trên nhiều lĩnh vực khoa học tự nhiên. Ngay sau khi C. J.
Davisson and G. P. Thomson phát hiện ta bản chất sóng của điện tử, người ta nhận thấy rằng bước
sóng ngắn của điện tử năng lượng cao có thể làm tăng độ phân giải so với hiển vi quang học. Ernst
Ruska tiến hành các nghiên cứu cơ bản về quang điện tử và thiết kế kính hiển vi điện tử đầu tiên họat
động vào những năm đầu của thập niên 30. Nhưng cũng phải mất hơn 50 sau ông mới nhận giải
Nobel vật lí.

Ruska nhận một nửa giải Nobel vật lí vào năm 1986, nửa giải còn lại được chia đều cho Gerd
Binnig và Heinrich Rohrer, hai người đã phát triển một phương pháp khác hẳn để thu được các bức
ảnh với độ phân giải cực cao. Phương pháp của họ được ứng dụng trong nghiên cứu về mặt chất rắn
và dựa trên hiệu ứng đường ngầm của các điện tử. Các điện tử của các nguyên tử ở một đầu kim loại
rất nhọn có thể chui sang các nguyên tử tử trên bề mặt chất rắn khi đầu nhọn kim loại đó được di
chuyển đến rất gần bề mặt (khoảng 1 nm). Bằng cách giữ cho dòng điện tử chui ngầm đó cố định và
di chuyển đầu nhọn theo bề mặt chất rắn, người ta có thể có được bức ảnh ba chiều của bề mặt chất
rắn cần nghiên cứu. Bằng phương pháp này, ta có thể nhìn thấy từng nguyên tử trên bề mặt.
+++
Viễn thông là một trong những thành tựu kĩ thuật vĩ đại của thế kỉ 20. Vào những năm 90 thế kỉ
19, Guglielmo Marconi đã làm thí nghiệm với sóng điện từ của Hetz mới được phát hiện vào lúc đó.
Ông là người đầu tiên liên lạc một trong những trạm phát sóng trên mặt đất với một “ăng-ten” đặt trên
cao có vai trò tương tự như một trạm thu sóng. Trong khi các thí nghiệm đầu tiên của Hetz được tiến
hành trong phạm vi phòng thí nghiệm thì Marconi đã mở rộng khoảng cách truyền tín hiệu đến vài
km. Carl Ferdinand Braun (cha đẻ của ống Braunian, dao động kế chùm ca-tốt đầu tiên) đã thực hiện
một cải tiến, ông đưa mạch cộng hưởng vào các máy phát dao động của Hetz. Độ hòa âm và khả
năng tạo các dao động mạnh không bị chặn làm tăng dải truyền sóng, và vào năm 1901, Marconi đã
thành công trong việc thu phát sóng vô tuyết vượt Đại Tây Dương. Marconi và Braun cùng nhận giải
Nobel vật lí năm 1909. Vào thời điểm này, người ta vẫn không hiểu làm thế nào mà sóng vô tuyến có
thể truyền với những khoảng cách xa (thực tế, chúng có thể truyền đến bên kia trái đất), nhớ rằng mọi
người đều biết sóng vô tuyến có bản chất giống ánh sáng, chúng truyền theo đường thẳng trong
không gian. Cuối cùng thì ngài Edward V. Appleton đã chứng minh bằng thực nghiệm rằng một giả
thiết trước đó của Heaviside và Kennelly cho rằng sóng vô tuyến bị phản xạ giữa các lớp không khí có
độ dẫn khác nhau trong khí quyển là đúng. Appleton đã đo giao thoa của sóng trực tiếp và sóng phản
xạ với các bước sóng khác nhau và có thể xác định độ cao của các lớp Heaviside, hơn nữa ông còn
tìm ra một lớp nữa cao hơn lớp Heaviside gọi là các lớp Appleton. Appleton nhận giải Nobel vật lí năm
1947.

Các tiến bộ trong vật lí hạt nhân và vật lí hạt phụ thuộc rất nhiều vào kĩ thuật cao (và đôi khi lại thúc
đẩy kĩ thuật phát triển). Điều này được minh họa bằng các công trình của Cockcroft và Walton cho
việc phát triển máy gia tốc tĩnh điện tuyến tính và các công trình của Lawrence cho phát triển xyclotron
tĩnh điện tuyến tính. Việc ghi nhận các hạt năng lượng cao cũng là một thử thách kĩ thuật, thành công
trong vấn đề đó đã được ghi nhận bằng vài giải Nobel.

Giải Nobel vật lí năm 1958 được chia cho Pavel A. Cherenkov, Il'ja M. Frank và Igor Y. Tamm cho các
phát hiện và giải thích của họ về hiệu ứng Cherenkov. Đó là sự phát xạ ánh sáng trong một nón có
góc mở đặc biệt xung quanh hướng của hạt mang điện, khi vận tốc của nó vượt vận tốc ánh sáng
trong môi trường mà nó chuyển động. Vì góc nón này có thể được sử dụng để xác định vận tốc của
hạt, công trình của các nhà vật lí này nhanh chóng trở thành cơ sở cho sự phát triển các đầu thu rất
hiệu quả.

Việc nhìn thấy đường đi của các hạt trong các phản ứng là cần thiết để giải thích các sự kiện xảy ra
khi năng lượng cao. Các thí nghiệm ban đầu với năng lượng tương đối thấp sử dụng các vết để lại
trên giấy ảnh. Charles T. R. Wilson đã phát triển một buồng, trong đó các hạt có thể nhìn thấy vì
chúng để lại các vết do ion hóa khí. Trong buồng Wilson, khí có thể dãn nở rất nhanh, điều này làm
giảm nhiệt độ và dẫn đến hóa đặc hơi xung quanh các điểm bị ion hóa, các hạt này có thể nhìn thấy
khi chiếu sáng mạnh. Wilson nhận nửa giải Nobel vật lí năm 1927 với Arthur H. Compton.

Các bước tiến tiếp theo trên cùng hướng nghiên cứu nói trên đã được thực hiện khi Donald A.
Glaser phát minh ra “buồng bọt”. Vào những năm 50, các máy gia tốc đã đạt năng lượng từ 20 – 30 tỉ
eV và các phương pháp thu hạt trước đó không còn phù hợp nữa; độ dài của các vết khí đã quá dài
đối với buồng Wilson. Các hạt nhân nguyên tử trong buồng bọt (thường chứa hidro lỏng) được dùng
như các cái bia, và vết do hạt tạo thành có thể được theo dõi. Tại nhiệt độ họat động, chất lỏnh bị quá
nóng và bất kì một hiện tượng gián đoạn nào, như vùng ion hóa, ngay lập tức hình thành các bọt
nhỏ. Luis W. Alvarez đã tiến hành các cải tiến quan trọng đặc biệt là các cải tiến liên quan đến kĩ thuật
ghi và phân tích dữ liệu. Công trình của ông đã đóng góp vào việc mở rộng số các hạt cơ bản, đặc
biệt là các “cộng hưởng”, cái sau này được hiểu là các trạng thái kích thích của các hệ gồm các quark
và gluon. Glaser nhận giải Nobel vật lí năm 1960 và Alvarez năm 1968.

Cho đến tận cuối những năm 80, các buồng bọt vẫn là các con ngựa sắt cho các phòng thí nghiệm vật
lí năng lượng cao nhưng sau đó chúng bị thay thế bởi các hệ đầu thu điện tử. Bước phát triển mới
nhất về đầu thu các hạt này được nhìn nhận bằng một giải Nobel (1992) là công trình của Georges
Charpak. Ông đã nghiên cứu chi tiết quá trình ion hóa trong chất khí và đã sáng tạo ra “buồng dây”,
một đầu thu chứa khí trong đó các dây được bố trí dày đặc để thu các tín hiệu điện gần các điểm ion
hóa, nhờ đó có thể quan sát được đường đi của hạt. Buồng dây và các biến thể của nó, buồng chiếu
thời gian và một số tổ hợp tạo thành từ buồng dây/phát xung ánh sáng/Cherenkov tạo thành các hệ
thống phức tạp cho phép tiến hành các nghiên cứu chọn lọc cho các hiện tượng cực hiếm (như việc
hình thành các quark nặng), tín hiệu của các hiện tượng này thường bị lẫn trong các nền nhiễu mạnh
của các tín hiệu khác.

Giải Nobel đầu tiên của thiên niên kỉ mới (2000) được trao cho Jack S. Kilby vì các thành tựu đặt nền
tảng cho công nghệ thông tin hiện nay. Vào năm 1958, ông đã chế tạo mạch tích hợp đầu tiên mà
trong đó các chi tiết điện tử được xây dựng trong một thực thể duy nhất tạo thành từ vật liệu bán dẫn,
sau này gọi là các “chip”. Điều này mở ra con đường thu nhỏ kích thước và sản xuất hàng loạt các
mạch điện tử. Kết hợp với việc phát triển các linh kiện dựa trên các cấu trúc không đồng nhất mô tả
trước đây (nhờ đó mà Alferov và Kroemer được nhận một nửa giải Nobel), mạch tích hợp dẫn đến
cuộc “cách mạng công nghệ thông tin” đã thay đổi rất nhiều xã hội của chúng ta ngày nay.

6. Các ghi nhận

Khi đọc bài tóm tắt này, bạn đọc nên nhớ rằng số giải Nobel bị giới hạn (theo qui định hiện nay, nhiều
nhất là 3 người có thể cùng nhận giải hàng năm). Cho đến nay (năm 2000), 163 người đã nhận giải
thưởng cho các thành tựu trong vật lí. Thông thường, trong quá trình chọn lọc, ủy ban trao giải phải
loại bớt một số các đóng góp quan trọng “gần Nobel” khác. Vì các lí do dễ nhận thấy, bản tóm tắt này
không thể nhắc đến các đóng góp này. Tuy vậy, một điều rất thật là một bản kê khai tương đối chặt
chẽ về sự phát triển của vật lí có thể được nêu lên và có thể được coi như là một sự chứng nhận rằng
giải các Nobel vật lí đã đề cập đến phần lớn các đặc trưng quan trọng trong chuyến thám hiểm hấp
dẫn tới một sự hiểu biết về thế giới chúng ta đang sống dựa trên các ý tưởng và thực nghiệm thực
hiện bởi những người được giải Nobel

Đây là một chương trong cuốn sách “Các giải Nobel: 100 năm đầu tiên”, do Agneta Wallin Levinovitz
và Nils Ringertz biên tập, nhà xuất bản ĐH Imperial và World Scienctific ấn hành năm 2001.

Giải Nobel vật lí năm 2001 được trao cho Eric A. Cornell, Wolfgang Ketterle, và Carl E. Wieman vì
những thành tựu trong việc nghiên cứu hiện tượng ngưng tụ Bose-Eistein mà đã được mô tả ở phần
trên. Nhờ công trình này mà các tiên đoán lí thuyết của Bose và Eistein về một trạng thái mới của vật
chất được chứng minh bằng thực nghiệm. Năm 1924, nhà vật lí Bose đã thực hiện một tính toán quan
trọng về các hạt ánh sáng. Ông gửi các kết quả này cho Eistein và Einstein đã mở rộng lí thuyết này
cho một số loại nguyên tử nhất định. Eistein tiên đoán rằng, nếu khí tạo thành từ các nguyên tử như
vậy bị làm lạnh đến một nhiệt độ rất thấp thì các nguyên tử đột ngột tập hợp lại trong trạng thái có
năng lượng cự tiểu giống như các chất khí bình thường ngưng tụ thành các chất lỏng. Do đó, hiện
tượng này gọi là hiện tượng ngưng tụ Bose-Einstein. Và 70 năm sau, Cornell và Wieman đã quan sát
hiện tượng này khi làm lạnh 2000 nguyên tử ru-bi đến nhiệt độ chỉ bằng 2 phần tỉ độ trên nhiệt độ
không tuyệt đối. Độc lập với hai nhà vật lí trên, Ketterle đã thực hiện các thí nghiệm với nguyên tử Na
và ông đã tiến hành với một số nguyên tử lớn hơn và thu được nhiều kết quả hơn. Ông chứng minh
rằng hai trạng thái ngưng tụ có thể lan truyền vào nhau và do đó giao thoa với nhau giống như giao
thoa của sóng nước khi chúng ta ném hai hòn đá giống nhau xuống nước cùng một lúc. Ketterle tạo ra
một luồng các hạt ngưng tụ có tính chất giống laser nhưng khác ở chỗ laser lọai này được tạo thành
từ hạt vật chất chứ không phải tại thành từ hạt ánh sáng.

Giải Nobel vật lí năm 2002 được trao cho Riccardo Giacconi (một nửa giải), Masatoshi Koshiba (1/4)
và Raymond Davis Jr. (1/4). Trái đất của chúng ta nằm trong một dòng vật chất khổng lồ chảy suốt
không dừng tạo thành từ các hạt cực kì nhỏ bé – hạt neutrino. Và giải Nobel năm 2002 được trao cho
những người có công tóm được các hạt đó cho chúng ta hiểu rõ hơn những vật thể cực lớn như các
vì sao, các thiên hà,… Giacconi được nhận giải Nobel, vì ông đã có những cống hiến lớn cho ngành
vật lý thiên văn. Từ những năm 1960, Giacconi đã thiết kế chiếc kính thiên văn chụp tia X đầu tiên.
Sau này, kính thiên văn vệ tinh Chandra đã kế thừa nền tảng nghiên cứu của ông. Koshiba đã phát
minh ra chiếc máy dò neutrino khổng lồ đặt dưới lòng đất. Hệ thống đó đã cung cấp những kiến thức
mới về hạt neutrino, hạt nó có thể đi qua cơ thể chúng ta mà không để lại dấu vết gì. Tiến sĩ Raymond
Davis - người được xem là bậc tiền bối số một của vật lý hạt. Davis đã chứng minh được sự tồn tại
của các hạt neutrino từ những năm 1960, nhờ việc tạo ra các thiết bị dò hạt nằm sâu 1,5 kilomét dưới
lòng đất.

Giải Nobel vật lí năm 2003 được trao cho Abrikosov, Ginzburg, và Leggett, vì có những cống hiến to
lớn để cải thiện hiểu biết của con người về hiện tượng siêu dẫn và siêu lỏng. Tính chất siêu dẫn cho
phép vật liệu dẫn điện ở nhiệt độ cực thấp mà không bị cản trở. Lý thuyết về loại vật liệu này đã đặt
nền tảng cho sự ra đời của kỹ thuật chụp ảnh cộng hưởng từ (MRI), một phương pháp chẩn đoán
không đau giúp các bác sĩ nhìn sâu vào cơ thể người bệnh, được sử dụng cho hàng triệu bệnh nhân
mỗi năm. Vật liệu siêu lỏng cũng tồn tại ở nhiệt độ cực thấp, ngay trên độ không tuyệt đối. Khi đó, nó
mất tất cả đặc tính nhớt. Những hiểu biết về loại vật liệu này có thể giúp chúng ta nhìn sâu vào phản
ứng của vật chất ở trạng thái ổn định nhất.

David J. Gross, H. David Politzer và Frank Wilczeck là chủ nhân của giải Nobel Vật lý năm 2004 với
những khám phá về lực hạt nhân mạnh - loại lực giúp liên kết các hạt nằm trong nhân nguyên tử. Họ
đã có những phát hiện quan trọng về mặt lý thuyết "liên quan tới lực hạt nhân mạnh", loại lực chủ yếu
ở cấp độ nhân nguyên tử.

Các proton và nơtron không phải là thành phần nhỏ nhất cấu tạo nên nguyên tử. Thay vì thế, chính
chúng lại được cấu thành từ ba hạt nhỏ hơn, đó là các hạt quark. Lực hạt nhân mạnh chính là lực giúp
các quark “dính” với nhau ở bên trong các proton và nơtron, cũng như giữ chặt chính các hạt này với
nhau bên trong hạt nhân nguyên tử.

Nghiên cứu của ba nhà khoa học chỉ ra rằng không giống như các lực khác, chẳng hạn lực điện từ
hay lực hấp dẫn (mạnh lên khi hai hạt tiến lại gần nhau), lực hạt nhân mạnh lại suy yếu đi khi hai
quark tiến về một chỗ. Hiện tượng đó giống như thể các hạt được nối với nhau bằng một dải cao su,
mà lực kéo giữa chúng càng mạnh khi chúng càng ở xa nhau.
Phát hiện của ba nhà nghiên cứu, công bố năm 1973, "đã dẫn đến lý thuyết về quantum
chromodynamics (hay QCD) - lý thuyết góp phần quan trọng cho sự ra đời của Mô hình Chuẩn".

Mô hình chuẩn là lý thuyết về các hạt cơ bản và cách thức chúng tương tác với nhau. Nó mô tả tất cả
các hiện tượng vật lý có liên quan đến lực điện từ (tương tác giữa các hạt tích điện), lực hạt nhân yếu
(chi phối quá trình phân rã phóng xạ) và lực hạt nhân mạnh (tương tác giữa các quark).

You might also like