You are on page 1of 12

Giáo Viên: Phạm Công Vinh Trường THCS Nguyễn Trãi

A- PHẦN MỞ ĐẦU
I/ Lí do chọn đề tài

1/ Về phía giáo viên

a. Thiên về cung cấp bài giải cho học sinh tiếp thu một cách thụ động: chưa chú trọng
dạy cho học sinh giải toán hình học. Việc trình bày một bài giải có sẵn cũng làm cho
nhận thức của học sinh “bừng sáng” tức là học sinh có hiểu. Nhưng việc hiểu một
cách thụ động như thế không thể thay thế cho hoạt động trí tuệ. Sự bừng sáng như
vậy có tính chất tâm lí hoàn toàn khác với sự bừng sáng nảy sinh khi giáo viên hướng
dẫn học sinh tìm tòi cách giải.

b. Thường bằng lòng và kết thúc công việc giải một bài toán hình học khi đã tìm được
một cách giải nào đó, chưa chú trọng hướng dẫn học sinh suy nghĩ tìm tòi cách giải
khác, cách giải hay hơn hoặc khai thác thêm ở bài toán vừa giải để phát huy thêm tư
duy linh hoạt và sáng tạo của học sinh, thường chú ý số lượng hơn là chất lượng bài
giải.

c. Thường chú trọng mặt đề cao và coi nhẹ mặt bảo đảm cái cơ bản theo yêu cầu của
chương trình: Thường cho học sinh khá, giỏi lên bảng giải những bài tập đã cho về
nhà rồi sửa lại hoặc thích cho học sinh giải những bài toán khó trong khi còn nhiều
học sinh vẫn lúng túng với những bài toán cơ bản.

2/ Về phía học sinh :

a. Rất lúng túng trước đầu bài toán hình học: Không biết làm gì và bắt đầu từ đâu, đi
theo hướng nào, không biết liên hệ những điều nói trong đầu bài với những kiến thức
đã học, không phân biệt điều nào đã cho và điều nào phải tìm, thậm chí không nắm
đựơc kiến thức hình học, nên không biết cách làm bài.

b. Suy luận hình học còn kém, chưa hiểu thế nào là chứng minh, cho nên lí luận còn
thiếu căn cứ, không chính xác, không chặt chẽ, lấy điều phải chứng minh làm giả
thiết, thậm chí có mâu thuẫn, không nắm được phương pháp tư duy, phương pháp cơ
bản giải toán hình học; suy nghĩ rất hời hợt, máy móc, không biết rút kinh nghiệm về
bài vừa giải, nên thường lúng túng trước những bài toán khác đôi chút với những bài
toán quen giải.

c. Trình bày bài giải hình học không tốt: hình vẽ không chính xác, rõ ràng, ngôn ngữ và
kí hiệu tuỳ tiện, câu văn lủng củng, không ngắn gọn sáng sủa, lập luận thiếu khoa học
không lôgíc.

Với những khuyết điểm trên đây của học sinh chủ yếu do chúng ta chưa quan tâm đầy đủ
đến việc uốn nắn, rèn luyện từng cái nhỏ, cái bắt đầu nhưng rất quan trọng trong những
bước đi ban đầu học hình học và giải toán hình học. Cho nên học sinh sinh thường mắc
sai lầm ngay cả khi thực hiện những thao tác rất đơn giản.

Sáng kiến kinh nghiệm -1-


Giáo Viên: Phạm Công Vinh Trường THCS Nguyễn Trãi

II/ Mục đích nghiên cứu:

Tìm hiểu thực trạng chất lượng học tập môn toán của học sinh khối 8 sau gần 4 năm
thực hiện cuộc vận động “2 không với 4 nội dung” và đổi mới phương pháp dạy học tôi đưa
ra phương pháp dạy học hình học “Cách tìm lời giải và khai thác bài toán hình học
lớp 8” nhằm nâng cao chất lượng dạy và học môn hình học.
III/ Thời gian, đối tượng nghiên cứu :

1. Thời gian: Từ đầu năm học 2008-2009 giữa học kì II năm học 2008 -2009.

2. Đối tượng nghiên cứu:

Học sinh khối 8 trường THCS NGUYỄN TRÃI – CAM LÂM – KHÁNH HOÀ.

IV/ Nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu :

1. Nhiệm vụ nghiên cứu:

1.1. Nghiên cứu lý luận liên quan đến phương pháp nâng cao chất lượng học tập hình
học 8.

1.2. Điều tra thực trạng chất lượng giải toán hình học 8.

1.3. Đưa ra phương pháp dạy học hình học, nhằm nâng cao chất lượng học tập hình
học 8.

2. Phạm vi nghiên cứu:

2.1. Đề tài tập trung giải quyết nhiệm vụ 1.2 và 1.3.

2.2. Đề tài chỉ nghiên cứu đối tượng Học sinh học môn hình học 8.

Sáng kiến kinh nghiệm -2-


Giáo Viên: Phạm Công Vinh Trường THCS Nguyễn Trãi

B- NỘI DUNG
I/ Cơ sở lý luận:

- Tổ chức giáo dục nhằm nâng cao chất lượng học tập và gây hứng thú cho học sinh
thích học môn hình học 8 nhờ vào các tiết học và luyện tập hình học tiết học ngoại khoá,
hoạt động NGLL

- Giáo dục học sinh dựa trên cơ sở nội quy nhà trường, những văn bản về luật giáo
dục và những vấn đề thực tế xã hội yêu cầu.

- Đặc điểm tâm lý ở lứa tuổi học sinh là làm việc theo thói quen dưới sự uốn nắn của
thầy cô giáo và ba mẹ. Do đó người lớn không hiểu thấu đáo vấn đề dễ có những cách thức
giáo dục không phù hợp thì các em tỏ vẻ không đồng tình, chống đối và dẫn đến không chịu
tiếp nhận kiến thức khi thầy cô giáo truyền đạt.

- Quá trình giáo dục để nâng cao chất lượng: Tìm hiểu học sinh xem các em bị hổng
kiến thức ở chỗ nào, động viên giúp đỡ các em kịp thời. Tiếp cận kiến thức mới thông qua
kiến thức đã học.

II/ Thực trạng chất lượng học tập môn hình học 8 của học sinh trường THCS
NGUYỄN TRÃI.

Qua điều tra thực tế kết quả học tập vào đầu học kỳ I năm học 2008 – 2009 ở trường
THCS NGUYỄN TRÃI như sau :

Bảng 1:
KHÔNG HỨNG
HỨNG THÚ BÌNH THƯỜNG
STT LỚP SL THÚ
SL TL % SL TL % SL TL %
1
1 8 37 9 24.3 17 45.9 11 29.7
2 82 39 8 20.5 15 38.5 16 41
3 83 40 9 22.5 14 35 17 42.5
4 84 38 10 26.3 14 36.8 14 36.8
Tổng cộng 154 36 23.4 60 39 58 37.6

* Những biểu hiện cơ bản của các em học yếu-kém (Đối tượng nghiên cứu):

+ Lười học, ít tập trung: Do bị hỏng kiến thức khá nhiều. Khi thầy cô giáo truyền thụ
kiến thức mới không có khả năng tiếp thu, không chịu học bài, làm bài tập giáo viên cho về
nhà. Bên cạnh đó không được phụ huynh, cha mẹ động viên, quan tâm kịp thời.

+ Học thụ động, không tham gia phát biểu xây dựng bài, còn chưa chịu trình bày suy
nghĩ, nhận định của mình: Sợ mình trả lời sai, sợ bạn cho mình là người không biết rồi “chê
cười”....

+ Có những “thói quen” không tốt như: xem tivi, chơi internet, đi chơi, không học
bài, không làm bài tập ảnh hưởng đến việc học tập.

Sáng kiến kinh nghiệm -3-


Giáo Viên: Phạm Công Vinh Trường THCS Nguyễn Trãi
+ Muốn bỏ học: Do bản thân không thể tiếp nhận kiến thức được nữa, bên cạnh đó bị
các phần tử xấu lôi kéo.

+ Biểu hiện khác như : Hoàn cảnh gia đình (Quá khó khăn không có khả năng chăm
lo việc học hành của con cái hoặc do bố mẹ lo làm giàu không hề quan tâm đến việc học
hoặc do ba mẹ ly dị hoặc ...)

* Nguyên nhân các hành vi trên.

+ Hình thức tuyên truyền, tạo sân chơi bổ sung kiến thức của nhà trường tạo điều
kiện cho các em tham gia nhưng các em tham gia còn nhiều hạn chế, do đó học sinh chưa có
nhận thức đúng đắn về hành vi học tập của mình. Một vài giáo viên còn chưa báo kịp thời
cho phụ huynh các em, trước những biểu hiện học tập giảm sút của các em hoặc la mắng các
em khi các em không học bài, làm bài tập. Giáo viên chưa có biện pháp xử lý, động viên,
nhắc nhở phù hợp và kịp thời.

+ Nhiều gia đình chưa quan tâm đến việc học tập con em mình, giao phó việc giáo
dục con cái cho nhà trường. Phụ huynh chưa phối hợp chặt chẽ với nhà trường, với các đoàn
thể, với GVCN, với GVBM, ...

+ Những “thói quen” không tốt ảnh hưởng đến kết quả học tập chưa được phụ huynh
quan tâm giáo dục và uốn nắn kịp thời như: Đến giờ học mà lại thích xem tivi (phim), đi
chơi, chơi điện tử, đánh bi da, hoặc rủ bạn bè đi chơi lêu lổng ngoài đường.

+ Bản thân các em rất lười biếng chuẩn bị bài trước khi đến lớp, việc đi học là sự ép
buộc cực khổ của bố mẹ, của thầy cô giáo cho bản thân mình. Sợ học toán do bi quan…

+ Thái độ học tập không nghiêm túc: Không tập trung, làm việc riêng khi thầy cô
giảng bài, ghi chép bài không đầy đủ. Dụng cụ học không đảm bảo.....

III. Thực trạng phương pháp giáo dục học sinh trường THCS Nguyễn trãi

Qua điều tra thực trạng giáo dục học sinh hiện nay như sau :

+ Đối với giáo viên : Vì thời gian lên tiết học còn hạn chế, một số bài học còn dài
nên chưa quan tâm hết đến cả 3 đối tượng học sinh.Việc áp dụng phương pháp mới vào
giảng dạy chưa hiệu quả ( ví dụ như hoạt động nhóm chỉ tập trung vào học sinh khá giỏi).
Phương thức giáo dục chưa thật sự khoa học, không sát với thực tiễn, chưa nhằm vào đối
tượng học sinh yếu-kém, chưa thật sự tạo cho các em cơ hội tốt để khẳng định mình trước
tập thể.

+ Đối với học sinh: Thường bi quan trước học lực của mình, cho là mình học “dốt”
nên không tự cố gắng vươn lên. Sự giúp đỡ, động viên, nhắc nhở bạn trong quá trình học tập
còn hạn chế. Khi bạn có những biểu hiện sa sút về học tập, trốn học, bỏ học, không được
báo cáo kịp thời cho Thầy, Cô, Cha, Mẹ nhưng ngược lại còn bao che.

+ Vẫn còn nhiều Cha, Mẹ học sinh không hoặc ít quan tâm đến việc học tập của con
cái chỉ vì lí do trước đây không được đi học, hoặc mải lo kiếm tiền, … giao phó việc giáo
dục con cái cho nhà trường, cho xã hội,....

Sáng kiến kinh nghiệm -4-


Giáo Viên: Phạm Công Vinh Trường THCS Nguyễn Trãi

IV. Biện pháp thực hiện :

1. Biện Pháp:

+ Trên các tiết dạy và tiết luyện tập, tiết HĐNG, Hoạt động ngoại khoá.

2. Thực hiện:

a) Giải bài tập trong sgk trong những tiết luyện tập (lấy ví dụ cụ thể)

BÀI TẬP 1

Bài tập 20(sgk/68)

Cho hình thang ABCD ( AB//CD). Hai đường chéo AC và BD cắt nhao tại O. Đường thẳng
a qua O và song song với đáy của hình thang cắt các cạnh bên AD, BC theo thứ tự tại E, F
(hình vẽ).
chứng minh rằng OE = OF

 Tìm hiểu đề bài:


Bài toán cho hình thang ABCD ( AB//CD) có 2 đường chéo cắt nhau tại O, đường thẳng a
qua O và a // AB. Chứng minh OE = OF.

 Phân tích bài toán: Bước 4


OE // AB; OE // CD( gt )
1 4 4 44 2 4 4 4 43

OE DE DE OC OC OF Bước 3
= ; = ; =
AB DA DA AC AC AB
1 4 4 4 4 44 2 4 4 4 4 4 43

FO OE
= Bước 2
1AB AB
4 2 43

FO = EO
Bước 1

 Chứng minh:
Xét VDAB có OE // AB A B

OE DE
= ( theo hq định lí Talét) (1) E O F a
AB DA
Xét VADC có OE // DC
DE OC
= ( theo định lí Talét) (2) D
C
DA AC
Xét VABC có OF // AB
OC OF
= ( theo hq định lí Talét) (3)
AC AB
FO OE
Từ (1), (2) và (3) suy ra : = ⇒ FO = EO
AB AB

Sáng kiến kinh nghiệm -5-


Giáo Viên: Phạm Công Vinh Trường THCS Nguyễn Trãi

 Khai thác bài toán:

Cho hình thang ABCD ( AB//CD). Hai đường chéo AC và BD cắt nhao tại O. Gọi M, N lần
lượt là trung điểm của AB và CD.
Chứng minh rằng ba điểm M, O, N thẳng hàng.
A M B
O

D N C

 Hướng dẫn chứng minh: I


Qua O kẻ EF//AB cắt AD, BC tại E, F. AD và BC kéo dài cắt
nhau tại I.
Theo bài tập 1ta có OE = OF A
M
B
⇒ IO là trung tuyến của tam giác IEF
E F
Nối OI kéo dài cắt AB, DC theo thứ tự tại M,N.
O
IM AM 
=
IO EO  AM MB D C
⇒ = ⇒ AM = MB N
IM MB  OE OF
=
IO OF 
Tương tự: ND = NC.
vậy M, O, N thẳng hàng.

BÀI TẬP 2
A

Cho tam giác ABC có các cạnh là a, b, c. Đường thẳng EF song song
x với AC sao cho AE =
BF. Tính EF? E

x
B C
F

 tìm hiểu đề bài:

Đề bài yêu cầu tính độ dài EF theo a, b, c. Biết EF // BC và BF = EA.

 phân tích bài toán:

Đặt BF = EA = x
VABC : EF // AC ( gt ) Bước 3
1 4 4 42 4 4 43

BF BE
= Bước 2
BA ( theo định lí Talét)
BC 2 43
14

BC. AB a.c
BF = ( hay x = ) Bước 1
BC + AB a+c

Sáng kiến kinh nghiệm -6-


Giáo Viên: Phạm Công Vinh Trường THCS Nguyễn Trãi
VABC : EF // AC ( gt )
1 4 4 42 4 4 43

EF BF Bước 3
=
1AC BC ( theo định lí talét)
4 2 43

AC. AB b.c Bước 2
EF = ( hay EF = )
BC + AB a+c

 chứng minh: Bước 1


Đặt BF = EA = x
BF BE
VABC : EF // AC ( gt ) ⇒ = ( theo định lí Talét)
BC BA A

x c−x a.c
Hay = ⇒ cx = ac – ax ⇒ x(a + c) = ac ⇒ x = . x
a c a+c
EF BF E
VABC : EF // AC ( gt ) ⇒ = ( theo định lí Talét)
AC BC
x
EF x x.b bc B C
Hay = ⇒ EF = = . F
b a a a+c

 khai thác bài toán: A'

Cho VABC trên tia đối của tia AB lấy điểm A’ sao
cho AB = AA’; trên tia đối của tia BC lấy điểm B’ A

sao cho BC = BB’; trên tia đối của tia CA lấy điểm E

C’ sao cho AC = CC’. Gọi F là trung điểm của B'


B
G

B’C’, E là trung điểm của AC. C

Chứng minh rằng: F

A) Tứ giác ABFE là hình bình hành C'


B) gọi G là giao điểm của A’F và BE . Chứng minh
G là trọng tâm của VABC và VA ' B ' C '

 Hướng dẫn chứng minh:


1 A'
a) BF = CC’ và BF // CC’( BF là đường tb của VB ' CC ' )
2
1
⇒ BF = AC và BF // AC
2
⇒ tứ giác ABFE là hình bình hành A

b) Theo câu a) tứ giác ABFE là hình bình hành


E
1 G
⇒ EF = AB hay EF = A’B
2 B
C
EF EG FG 1 B'
⇒ = = = ( do EF // A’B)
A'B GB GA ' 2
Vậy G là trọng tâm của VABC và VA ' B ' C ' F

C'

Sáng kiến kinh nghiệm -7-


Giáo Viên: Phạm Công Vinh Trường THCS Nguyễn Trãi

BÀI TẬP 3

Bài tập 21( sgk/68)

Cho VABC đường trung tuyến AM và đường phân giác AD. Tính diện tích VADM biết
AB=m, AC =n ( m < n ) và diện tích của VABC bằng S.
 Tìm hiểu đề bài:
Bài toán cho VABC AM là trung tuyến, AD là phân giác
AB=m, AC =n ( m < n ), diện tích của VABC bằng S.
Tính diện tích VADM theo m, n, S.

 Phân tích bài toán:


Gọi HA là đường cao kẻ từ đỉnh A.
DB m
=
DC2 43n
14 Bước 6

DB DC DB + DC BC
= = =
1m4 4 4n 4 4 2m4+ 4
n 4 4m4+3n Bước 5

BC.m
DB =
1 4 2m4+3n
⇓ Bước 4
1 
1  2 AH .BC.m S .m 
AH .DB =  =  Bước 3
2  m + n m+n
144444  4 2 4 4 4 4 4 43
⇓ Bước 2
1
S ABM − S ABD ( S ABM = S )
1 4 4 44 2 4 4 4 243 Bước 1

S ADM
A

 Chứng minh:
DB m
Xét VABC có = ( AD là trung tuyến) n
DC n m

DB DC DB + DC BC
⇒ = = =
m n m+n m+n
BC.m B C
⇒ DB = H D M
m+n
1
1 AH .BC.m
Ta lại có S ABD = AH .DB hay S = 2 =
S .m
2 ABD
m+n m+n
1 1 BC 1
Mặt khác: s ABM = HA.BM = HA. = S
2 2 2 2

Sáng kiến kinh nghiệm -8-


Giáo Viên: Phạm Công Vinh Trường THCS Nguyễn Trãi
1 S .m 1 m 
Vậy s ADM = S ABM − S ABD = S − =S − 
2 m+n 2 m+n

 Khai thác bài toán:

Cho VABC độ dài các cạnh AB = n, AC = n (m < n) và đường phân giác AD, AM là trung
tuyến, đường cao AH. E, F lần lượt là trung điểm của AB và AC.
s AMB s
a) Tính tỉ số diện tích của = ?; ADB = ?
S ABC S ADC
b) Có nhận xét gì về vị trí của 3 điểm H, D, M.
c) Chứng minh EF là trung trực của AH.
d) Tứ giác EFMH là hình gì?

 Hướng dẫn chứng minh:


1
AH .MB
s AMB 2 MB 1
a) = = =
S ABC 1
AH .BC BC 2
2
1
AH .DB
s ADB 2 DB m A
= = =
S ADC 1
AH .DC DC n n
2 m

I F
E

DB AB DB m
b) Ta có = ⇒ = p 1 ( vì n > m )
DC AC DC n
B C
MB
mặt khác: = 1 ( vì MB = MC ) H D M
MC
⇒ MB f DB 
 Vậy D nằm giữa H và M.
⇒ HD p HC 
c) xét VABH có EF // BC ⇒ FI // AH ⇒ EF ⊥ AH (1)
AE AI 1
⇒ = =
AB AH 2
⇒ I là trung điểm của AH (2)
Từ (1) và (2) ⇒ EF là trung trực của AH.
d) ta có EFMH là hình thang (do FE // BC)
mặt khác:
1
HF = AC ( đường trung tuyến ứng với cạnh huyền VAHC )
2
1
EM= AC ( EM là đường trung bình VABC )
2
⇒ HF = EM
⇒ Tứ giác EFMH là hình thang cân.

 Chú ý:
Nếu VABC cân tại A thì bài toán có gì thay đổi.
Cũng hỏi tương tự trong trường hợp VABC vuông tại A.

Sáng kiến kinh nghiệm -9-


Giáo Viên: Phạm Công Vinh Trường THCS Nguyễn Trãi
b) Trên các tiết HĐNG, Hoạt động ngoại khoá.

* Đối tượng tham gia: (học sinh khối 8 – 9)

* Thể lệ hội thi:

+ Tổ chức hội thi theo khối.

+ Hình thức tổ chức hội thi tương tự như chương trình “RUNG CHUÔNG VÀNG” của
VTV3 Đài truyền hình Việt Nam.

+ Mỗi lớp chuẩn bị 15 thí sinh, 1 thí sinh dự bị. (Số lượng thí sinh tuỳ thuộc vào số
lượng lớp của mỗi trường, miễn sao số thí sinh trên sân thi đấu không vượt quá 60 em)

+ Mỗi thí sinh chuẩn bị một bảng con, kích thước: 30x40cm (Bảng này các lớp đã có
để hoạt động nhóm) và bút lông để ghi. Trên bảng có trang trí như ghi tên lớp, bí danh của
mình và nên có thông điệp cần gửi đến hội thi để gây ấn tượng cho người người xem.

+ Câu hỏi hình thức trắc nghiệm, thí sinh chọn án Đúng ghi vào bảng, hết thời gian
quy định thí sinh đưa bảng để trả lời. Thí sinh nào trả lời sai rời khỏi sân đấu. Chủ yếu ra
kiến thức vừa học, ngoại trừ nếu tổ chức hội thi gần thi HK thì kiến thức của cả HK đó.

+ Thực tốt cuộc vận động “Hai không” nếu thí sinh nào vi phạm thì BTC mời khỏi
sân thi đấu, lớp đó bị trừ điểm thi đua và không được chọn lớp xuất sắc nhất.

* Khen thưởng: Khen thưởng cho 1 hoặc 2 thí sinh xuất nhất trong mỗi lần thi, đặc

biệt là cài vòng hoa chiến thắng cho các em, qua đây cho em phát biểu cảm nghĩ của mình
trong lúc mình đứng trên đỉnh cao nhất của hội thi và khen thưởng cho lớp nào còn nhiều thí
sinh ở lại trên sân đấu nhiều nhất (Được tính khi trên sân đấu còn lại 5 thí sinh).

Trong quá trình tổ chức thường xuyên xen lẫn các tiết mục văn nghệ và phỏng vấn
thí sinh để tạo nên không khí hấp dẫn, gây cấn đồng thời cho các em bình tĩnh, tự tin vào
chính mình.

Trong các kế hoạch tổ chức hoạt động NGLL tham gia trong chơi đố vui để học (ví
dụ như trò chơi “ĐỐI MẶT” như trên VTV3 đài truyền hình Việt Nam. Nhằm nâng cao chất
lượng và gây hứng thú học tập của học sinh. Phối hợp với Công đoàn, hội Phụ huynh học
sinh để có nhiều kiện, có nhiều sự hỗ trợ để đạt kết cao hơn. Đặc biệt trong tổ chức hội thi
“RUNG CHUÔNG VÀNG ” chúng tôi có mời PH các em tham gia để có nhiều sự động viên,
cổ vũ.

V. Kết quả thực hiện được

Thông qua các hoạt động nêu trên đã thu hút đông đảo học sinh yếu-kém tham gia,
đưa các em vào quỹ đạo học tập, từng bước thay đổi được thái độ, nhận thức về nề nếp học
tập của các em. Các em đã có nhiều cố gắng biết vươn lên trong học tập có hiệu quả và
được nhiều phụ huynh đồng tình ủng hộ, khen ngợi.

Sáng kiến kinh nghiệm - 10 -


Giáo Viên: Phạm Công Vinh Trường THCS Nguyễn Trãi

* Kết quả thực hiện được thể hiện qua bảng điều tra sau:

Qua điều tra thực tế kết quả học tập vào học kỳ I và nửa học kì II năm học 2008 –
2009 trường THCS Nguyễn Trãi như sau :(Lấy bảng 2 so sánh với bảng 1)

Bảng 2:
HỨNG THÚ BÌNH THƯỜNG KHÔNG HỨNG THÚ
STT LỚP SL
SL TL % SL TL % SL TL %
1
1 8 37 15 40.5 14 37.8 8 21.6
2 82 36 14 38.9 17 47.2 5 13.9
3 83 40 15 37.5 16 40 9 22.5
4 84 38 14 36.8 16 42.1 8 21.1
Tổng cộng 151 58 38.4 63 42.4 30 19.9

Sáng kiến kinh nghiệm - 11 -


Giáo Viên: Phạm Công Vinh Trường THCS Nguyễn Trãi

C. BAØI HOÏC KINH NGHIEÄM


Đối với người học, ngoài vấn đề học thuộc bài, hiểu bài vẫn chưa đủ mà còn phải vận
dụng những kiến thức đã học vào từng bài cụ thể. Ngay cả đối với học sinh giỏi cũng vậy,
sau khi tìm thấy lời giải và trình bày sáng sủa lí luận của mình, cũng đều có xu hướng gấp
sách lại và làm việc khác. Làm như vậy là bỏ mất một giai đoạn bổ ích và quan trọng cho
việc học hỏi. Nhìn lại cách giải, khảo sát và phân tích kết quả, thêm hoặc bớt dữ kiện xem
bài toán có gì đặc biệt không. Một người thầy giỏi phải hiểu và làm cho học sinh hiểu rằng
không có một bài toán nào là hoàn toàn kết thúc, bao giờ cũng còn một cái để suy nghĩ, có
đủ kiên nhẫn và chụi khó suy nghĩ sâu sắc ta có thể hoàn thiện cách giải và trong mọi trường
hợp bao giờ cũng hiểu được cách giải sâu sắc hơn.

Nếu giáo viên biết khơi dạy trí tò mò, kích thích sự tìm tòi khám phá những bí ẩn
đằng sau những bài toán, bằng cách đặt cho học sinh những câu hỏi gợi ý để phát hiện ra
một vấn đề mới, thì người thầy có thể mang lại cho học sinh cái hứng thú của sự suy nghĩ
độc lập. có như vậy mới kích thích khả năng tư duy , trí sáng tạo của học sinh từ đó học sinh
tự tìm tòi khám phá và có được kết quả như mong muốn.

Ngoài ra trong các tiết học lí thuyết, tiết luyện tập chúng ta cũng cần tổ chức thêm
các tiết hoạt động ngoại khóa dành cho các học sinh yếu – kém để các em có cơ hội tham
gia hoạt động.

Trong bài viết này tôi xin trình bày lại một số phương pháp dạy học cho học sinh
“Cách tìm lời giải và khai thác bài toán hình học lớp 8” thông qua các tiết học trên
lớp và tiết hoạt động ngoại khóa. Tuy nhiên vấn đề của tôi đưa ra chưa phải là mới và cách
trình bày còn hạn chế, nên tôi mong nhận được những ý kiến quý báu từ phía bạn đọc.

Sáng kiến kinh nghiệm - 12 -

You might also like