You are on page 1of 3

BASEL II - các yêu cầu quản lý rủi ro

ThS. Vũ Thị Ngọc Liên

Sau hàng loạt vụ sụp đổ của các ngân hàng vào thập kỷ 80, một nhóm các Ngân hàng
Trung ương và cơ quan giám sát của 10 nước phát triển (G10) đã tập hợp tại thành
phố Basel, Thụy Sĩ vào năm 1987 tìm cách ngăn chặn xu hướng này. Sau khi nhóm
họp, các cơ quan này đã quyết định hình thành Uỷ ban Basel về giám sát ngân hàng
(Basel Committee on Banking supervision), đưa ra các nguyên tắc chung để quản lý
hoạt động của các ngân hàng quốc tế.
Năm 1988, Uỷ ban này đã phê duyệt một văn bản đầu tiên lấy tên là Hiệp ước về vốn
của Basel (Basel I), yêu cầu các ngân hàng hoạt động quốc tế phải nắm giữ một mức
vốn tối thiểu để có thể đối phó với những rủi ro có thể xảy ra. Mức vốn tối thiểu này
là một tỷ lệ phần trăm nhất định trong tổng vốn của ngân hàng, do đó mức vốn này
cũng được hiểu là mức vốn tối thiểu tính theo trọng số rủi ro của ngân hàng đó. Mục
đích của Basel I nhằm:

- Củng cố sự ổn định của toàn bộ hệ thống ngân hàng quốc tế.


- Thiết lập một hệ thống ngân hàng quốc tế thống nhất, bình đẳng nhằm giảm cạnh
tranh không lành mạnh giữa các ngân hàng quốc tế.

Thành tựu cơ bản của Basel I là đã đưa ra được định nghĩa mang tính quốc tế chung
nhất về vốn của ngân hàng và một cái gọi là tỷ lệ vốn an toàn của ngân hàng. Theo đó,
vốn của ngân hàng được chia làm 2 loại:

Vốn loại 1 (vốn cơ bản): Vốn loại 1 bao gồm lượng vốn dự trữ sẵn có và các nguồn
dự phòng được công bố, như là khoản dự phòng cho các khoản vay.
Vốn cấp 2 (vốn bổ sung): Vốn cấp 2 bao gồm tất cả các vốn khác như các khoản lợi
nhuận trên tài sản đầu tư, nợ dài hạn với kỳ hạn lớn hơn 5 năm và các khoản dự
phòng ẩn (như trợ cấp cho các khoản vay và trợ cấp cho các khoản cho thuê). Tuy
nhiên, các khoản nợ ngắn hạn không có bảo đảm không bao gồm trong định nghĩa về
vốn này. Tổng vốn sẽ bằng tổng của vốn cấp 1 và vốn cấp 2.

Theo quy định của Basel I, các ngân hàng cần xác định được tỷ lệ vốn tối thiểu cần
có để bù đắp cho rủi ro. Thời đó, các nhà hoạch định chính sách của ngân hàng trung
ương và cơ quan giám sát của 10 nước mới chỉ nhìn nhận ra các nguy cơ từ rủi ro tín
dụng, và vì vậy, mức rủi ro tín dụng mà ngân hàng đối mặt được xác định là tài sản
điều chỉnh theo rủi ro của ngân hàng. Theo Basel I, tổng vốn của một ngân hàng cần ít
nhất bằng 8% rủi ro tín dụng của ngân hàng đó.

Tỷ lệ vốn tối thiểu = (Tổng vốn/tài sản điều chỉnh theo trọng số rủi ro) > 8%

Chúng ta hãy xem xét các bước tính dưới đây để hiểu hơn về tài sản điều chỉnh theo
rủi ro và yêu cầu về vốn theo Basel I. Bảng 1 chỉ ra các hạng mục đã được định trước
về mức độ nhạy cảm với rủi ro trên bảng cân đối kế toán, như là độ nhạy cảm với các
sự kiện ngoài dự kiến gây ra tổn thất, được tính theo 4 loại trọng số rủi ro (0%, 20%,
50% và 100%).

Theo bảng 1, nếu một khoản vay không được bảo đảm trị giá 1.000 USD của một tổ
chức không phải ngân hàng sẽ có trọng số rủi ro là 100%. Tài sản được điều chỉnh
theo trọng số rủi ro lúc đó sẽ được tính bằng 1.000USDx100% = 1.000USD.

Do vậy, mức vốn yêu cầu tối thiểu phải đạt 8% tài sản được tính theo trọng số rủi ro
sẽ là 80USD (8% x 1.000USD = 80USD). Nói cách khác, tổng vốn một ngân hàng
phải nắm giữ cho khoản vay không được bảo đảm này sẽ là 80USD.

Theo đó, các trọng số rủi ro khác nhau với các loại tài sản khác nhau sẽ cho ra những
yêu cầu về vốn khác nhau như bảng 2.
Theo biến đổi của thị trường, năm 1996, Hiệp ước Basel I được sửa đổi có tính đến
rủi ro thị trường. Theo đó, rủi ro thị trường bao gồm cả rủi ro thị trường chung và rủi
ro thị trường cụ thể. Rủi ro thị trường chung đề cập đến những thay đổi về giá trị thị
trường do có sự biến động lớn trên thị trường. Rủi ro thị trường cụ thể là những thay
đổi về giá trị của một loại tài sản nhất định. Có 4 loại biến số kinh tế làm phát sinh rủi
ro thị trường, đó là tỷ giá lãi suất, ngoại hối, chứng khoán và hàng hóa. Rủi ro thị
trường có thể được tính theo 2 phương thức hoặc là bằng mô hình Basel tiêu chuẩn
hoặc là bằng các mô hình giá trị chịu rủi ro nội bộ của các ngân hàng. Những mô hình
nội bộ này chỉ có thể được sử dụng nếu ngân hàng thoả mãn các tiêu chuẩn định tính
và định lượng được quy định trong Basel.

Mặc dù có rất nhiều điểm mới nhưng Hiệp ước Basel I với bản sửa đổi năm 1996 vẫn
có khá nhiều điểm hạn chế. Một trong những điểm hạn chế đó là Basel I đã không
đề cập đến một loại rủi ro đang ngày càng trở nên phức tạp và với mức độ ngày
càng tăng lên, đó là rủi ro tác nghiệp.

Chính vì vậy, từ năm 1999, Uỷ ban Basel đã nỗ lực đưa ra một Hiệp ước mới thay thế
cho Basel I, và cho đến năm 2004, bản Hiệp ước quốc tế về vốn của Basel (Basel II)
đã chính thức được ban hành. Với cách tiếp cận mới dựa trên 3 cột trụ chính, Basel II
đã buộc các ngân hàng quốc tế phải tuân thủ theo 3 nguyên tắc cơ bản:

Nguyên tắc thứ nhất: Các ngân hàng cần phải duy trì một lượng vốn đủ lớn để trang
trải cho các hoạt động chịu rủi ro của mình, bao gồm rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường
và rủi ro tác nghiệp (Cột trụ 1). Theo đó, cách tính chi phí vốn đối với rủi ro tín dụng
có sự sửa đổi lớn, thay đổi nhỏ với rủi ro thị trường nhưng hoàn toàn là phiên bản mới
đối với rủi ro tác nghiệp.

Nguyên tắc thứ hai: Các ngân hàng cần phải đánh giá một cách đúng đắn về những
loại rủi ro mà họ đang phải đối mặt và đảm bảo rằng những giám sát viên sẽ có thể
đánh giá được tính đầy đủ của những biện pháp đánh giá này (Cột trụ 2). Với cột trụ
này, Basel II nhấn mạnh 4 nguyên tắc của công tác rà soát giám sát:
+ Các ngân hàng cần phải có một quy trình đánh giá được mức độ đầy đủ vốn của họ
theo danh mục rủi ro và phải có được một chiến lược đúng đắn nhằm duy trì mức vốn
đó.
+ Các giám sát viên nên rà soát và đánh giá lại quy trình đánh giá về mức vốn nội bộ
cũng như về các chiến lược của ngân hàng. Họ cũng phải có khả năng giám sát và
đảm bảo tuân thủ tỷ lệ vốn tối thiểu. Theo đó, giám sát viên nên thực hiện một số
hành động giám sát phù hợp nếu họ không hài lòng với kết quả của quy trình này.
+ Giám sát viên khuyến nghị các ngân hàng duy trì mức vốn cao hơn mức tối thiểu
theo quy định.
+ Giám sát viên nên can thiệp ở giai đoạn đầu để đảm bảo mức vốn của ngân hàng
không giảm dưới mức tối thiểu theo quy định và có thể yêu cầu sửa đổi ngay lập tức
nếu mức vốn không được duy trì trên mức tối thiểu.

Nguyên tắc thứ ba: Các ngân hàng cần phải công khai thông tin một cách thích đáng
theo nguyên tắc thị trường (Cột trụ 3). Với cột trụ này, Basel II đưa ra một danh sách
các yêu cầu buộc các ngân hàng phải công khai thông tin, từ những thông tin về cơ
cấu vốn, mức độ đầy đủ vốn đến những thông tin liên quan đến mức độ nhạy cảm của
ngân hàng với rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường, rủi ro tác nghiệp và quy trình đánh giá
của ngân hàng đối với từng loại rủi ro này.
Như vậy, với quá trình phát triển của Basel và những Hiệp ước mà tổ chức này đưa ra,
các ngân hàng thương mại càng ngày càng được yêu cầu hoạt động một cách minh
bạch hơn, đảm bảo vốn phòng ngừa cho nhiều loại rủi ro hơn và do vậy, hy vọng sẽ
giảm thiểu được rủi ro./.

Bảng 1. Trọng số rủi ro theo loại tài sản

Trọng số rủi ro Phân loại tài sản


Tiền mặt và vàng nằm trong ngân hàng.
0%
Các nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ và Bộ Tài chính.
Các khoản trả nợ của ngân hàng có quy mô lớn
20%
Chứng khoán phát hành bởi các cơ quan Nhà nước
50% Các khoản vay thế chấp nhà ở,…
Tất cả các khoản vay khác như trái phiếu của doanh nghiệp,
100% các khoản nợ từ các nước kém phát triển, các khoản vay thế
cấp cổ phiếu, bất động sản,…

Bảng 2.

Tài sản
Yêu cầu về
Trọng số điều chỉnh
Loại tài sản Tỷ lệ vốn Số tiền vốn tối
rủi ro theo trọng
thiểu
số rủi ro
Trái phiếu Chính
0% 8% 1.000 USD 0 USD 0 USD
phủ
Trái phiếu đô thị 20% 8% 1.000 USD 200 USD 16 USD
Thế chấp nhà ở 50% 8% 1.000 USD 500 USD 40 USD
Vay không bảo đảm 100% 8% 1.000 USD 1.000 USD 80 USD

You might also like