You are on page 1of 16

Khủng hoảng kinh tế (Marx)

Khủng hoảng kinh tế, là sự suy giảm các hoạt động kinh tế kéo dài và trầm trọng hơn cả suy
thoái trong chu kỳ kinh tế.
Một định nghĩa khác với cách hiểu ngày nay là trong học thuyết Kinh tế chính trị của Mác-Lênin.
Từ ngữ chỉ này khoảng thời gian biến chuyển rất nhanh sang giai đoạn suy thoái kinh tế. Bài viết
này chủ yếu về khái niệm Khủng hoảng kinh tế của Karl Marx vốn vẫn được dùng thịnh hành
trong Kinh tế chính trị Marx. Khủng hoảng kinh tế đề cập đến quá trình tái sản xuất đang bị suy
sụp tạm thời. Thời gian khủng hoảng làm những xung đột giữa các giai tầng trong xã hội thêm
căng thẳng, đồng thời nó tái khởi động một quá trình tích tụ tư bản mới.
Nhiều nhà quan sát sự áp dụng của học thuyết Marx cho rằng tự bản thân Karl Marx không đưa
ra kết luận cuối cùng về bản chất của khủng hoảng kinh tế trong chủ nghĩa tư bản. Thực vậy,
những nghiên cứu của ông gợi ý nhiều lý luận khác nhau mà tất cả chúng đều gây tranh cãi. Một
đặc điểm chủ yếu của những lý luận này là khủng hoảng không phải ngẫu nhiên và không tự
nhiên mà nó bắt nguồn từ bản chất của chủ nghĩa tư bản với vai trò là một hình thái xã hội. Marx
viết, “cản trở của nền sản xuất tư bản chính là tư bản”.
Những lý luận này bao gồm:
• Xu hướng suy giảm tỷ suất lợi nhuận. Tích tụ tư bản gắn liền xu hướng chung của mức
độ tập trung tư bản. Điều này tự nó làm giảm tỷ suất lợi nhuận rồi kìm hãm chủ nghĩa tư
bản và có thể đưa đến khủng hoảng.
• Tiêu thụ dưới mức. Nếu giai cấp tư sản thắng thế trong cuộc đấu tranh giai cấp với mục
đích cắt giảm tiền lương và bóc lột thêm lao động, nhờ đó tăng tỷ suất giá trị thặng dư,
khi đó nền kinh tế tư bản đối mặt với vấn đề thường xuyên là nhu cầu tiêu dùng không
tương xứng với quy mô sản xuất và tổng cầu không tương xứng với tổng cung.
• Sức ép lợi nhuận từ lao động. Tích tụ tư bản có thể đẩy nhu cầu thuê mướn tăng lên và
làm tăng tiền lương. Nếu tiền lương tăng cao sẽ ảnh hưởng đến tỷ suất lợi nhuận và khi
đạt đến một mức độ nhất định sẽ gây ra suy thoái kinh tế.
Về mặt lý luận, ít nhất những quan điểm trên không mâu thuẫn với nhau và có thể đóng vai trò là
những nội dung trong một học thuyết tổng hợp về khủng hoảng kinh tế.

2.nguyên nhân khủng hoảng ở TBCN

giai đoạn của chu kì tư bản chủ nghĩa, được biểu hiện bằng hàng hoá sản xuất thừa
so với nhu cầu có khả năng thanh toán, sản xuất giảm sút, vốn đầu tư cơ bản bị rút
bớt, thất nghiệp và lạm phát tăng lên, những tỉ lệ chủ yếu của tái sản xuất bị rối
loạn. Nguyên nhân chủ yếu là mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản; từ đó nảy
sinh một loạt mâu thuẫn phái sinh: mâu thuẫn giữa tư bản và lao động, mâu thuẫn
giữa sản xuất và tiêu dùng, mâu thuẫn giữa tính có tổ chức trong các xí nghiệp
riêng biệt và tình trạng sản xuất vô chính phủ trong toàn xã hội.

Những mâu thuẫn đó đưa nền kinh tế tư bản chủ nghĩa đến khủng hoảng kinh tế.
Khủng hoảng là giai đoạn cơ bản của chu kì kinh tế tư bản chủ nghĩa. Cơ sở vật chất
của sự phát triển có tính chu kì của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa và sự phát sinh
một cách định kì các cuộc KHKTSXT là sự thay thế tư bản cố định (khoảng 8 - 10
năm). Khối lượng hàng hoá sản xuất vượt quá khối lượng nhu cầu có khả năng thanh
toán.

Do đó, nảy sinh những sự mất cân đối lớn trong nền kinh tế quốc dân, và do đó "chủ
nghĩa tư bản cần trải qua một cuộc khủng hoảng mới tạo nên được một sự cân đối
thường xuyên bị phá hoại" (V. I. Lênin). Hệ thống kinh tế thế giới tư bản chủ nghĩa
đã kinh qua những cuộc KHKTSXT những năm 1825, 1836, 1847, 1857, 1866, 1873,
1882, 1890. Bước vào thế kỉ 20, thời kì đế quốc chủ nghĩa, các cuộc khủng hoảng
xảy ra vào những năm 1900, 1907, 1914 - 21, 1929 - 33, 1937 - 38, 1948 - 49,1953
- 54, 1957 - 58, 1960 - 61, 1969 - 71, 1974 - 75, 1980 - 82. Khủng hoảng kinh tế gây
ra tác động tiêu cực: phá hoại lực lượng sản xuất, làm phá sản một loạt xí nghiệp,
một bộ phận người lao động bị thất nghiệp, và khôi phục tạm thời những mất cân
đối của tái sản xuất.

Các nhà nước tư bản chủ nghĩa đã tìm cách khắc phục khủng hoảng bằng các
phương pháp điều tiết của nhà nước đối với nền kinh tế quốc dân. Nhưng khủng
hoảng kinh tế được coi là căn bệnh kinh niên của chủ nghĩa tư bản và diễn ra có tính
chất chu kì, trải qua những giai đoạn có liên quan kế tiếp nhau: khủng hoảng - tiêu
điều - phục hồi - hưng thịnh. Nền kinh tế xã hội chủ nghĩa cũng có thể lâm vào
khủng hoảng khi không giữ được các tỉ lệ chủ yếu của tái sản xuất, mất cân đối giữa
nông nghiệp, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và công nghiệp nặng, giữa cung
và cầu, vv.

Nhưng nó không phải là khủng hoảng sản xuất thừa, không thuộc bản chất của nền
sản xuất xã hội chủ nghĩa và có thể được khắc phục bằng sự điều chỉnh có ý thức,
có kế hoạch các quan hệ cân đối chủ yếu của nền kinh tế quốc dân.

Từ lý thuyết kinh tế của John Maynard Keynes đến thực tế đối sách của Trung Quốc Sơ lược
những lý thuyết kinh tế của John Maynard Keynes. Khủng hoảng kinh tế, là sự suy giảm
các hoạt động kinh tế kéo dài và trầm trọng hơn cả suy thoái trong chu kỳ kinh tế. Biểu
hiện của nó là sự suy giảm tổng cầu, tỷ suất lợi nhuận, kim ngạch xuất khẩu và sự gia tăng
thất nghiệp trong nền kinh tế, dẫn đến tốc độ tăng trưởng giảm sút nghiêm trọng ảnh
hưởng đến toàn bộ các chỉ tiêu kinh tế xã hội của mỗi quốc gia.
Trước J.M. Keynes, lý luận kinh tế truyền thống (trường phái cổ điển) cho rằng cung sẽ tự động tạo
ra cầu, cơ chế thị trường sẽ làm cho tất cả mọi mặt của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa trở nên cân
đối, chế độ kinh tế tư bản chủ nghĩa hoàn toàn tốt đẹp, không có gì thiếu sót, không cần phải có sự
điều tiết của Nhà nước vào kinh tế, chủ trương tự do thả nổi, tự do cạnh tranh, tự do sản xuất, tự do
mua bán. Tuy nhiên, Lý thuyết kinh tế tự điều chỉnh bị thất bại trước thực tế phũ phàng của nền kinh
tế tư bản chủ nghĩa, đặc biệt một cuộc đại khủng hoảng kinh tế năm 1929 – 1933 đã làm tan rã tư
tưởng tự do kinh tế. Cuộc khủng hoảng 1929 – 1933 đã bao trùm toàn thế giới, tình trạng thất
nghiệp trở nên nghiêm trọng, tỷ lệ thất nghiệp của nước Anh trong thời ký chiến tranh chưa bao giờ
thấp hơn 5%, có lúc lúc đặt đến mức nghiêm trọng là gần 20%.
Mặt khác, vào đầu thế kỷ XX, lực lượng sản xuất và sự xã hội hóa sản xuất phát triển, độc quyền ra
đời và bắt đầu bành trướng thế lực. Trước tình hình đó đòi hỏi phải có sự điều tiết của Nhà nước
đối với sự phát triển kinh tế ở các nước tư bản chủ nghĩa, đồng thời phải có lý thuyết đáp ứng nhu
cầu thực tiễn mới đang thay đổi này. Vì thế, lý thuyết kinh tế “Bàn tay hữu hình” ra đời và người
sáng lập nó là John Maynard Kenyes. Lý thuyết này khẳng định sự cần thiết phải sự can thiếp của
Nhà nước vào nền kinh tế, với sự điều tiết của mình Nhà nước có thể ngăn chặn hoặc hạn chế tối
đa nguy cơ khủng khoảng kinh tế và thậm chí khi nền kinh tế đã rơi vào khủng hoảng, Nhà nước
vẫn có khả năng đưa ra các chính sách giúp nền kinh tế tăng trưởng trở lại. Kenyes đã đưa ra mô
hình tổng cầu (AD): Y = C + I + G + NX; Trong đó: Y là tổng lượng cầu về sản phẩm của một nền
kinh tế; C là chỉ tiêu tiêu dùng; G chi tiêu Chính phủ; NX là xuất khẩu ròng.
Để giải quyết vấn đề khủng hoảng kinh tế, J.M. Keneys cho rằng phải tìm cách để nâng cao Y,
muốn vậy phải tăng các biến số trong hàm AD. Trong thời kỳ khủng hoảng, nếu để nền kinh tế thả
nổi tự do thì các biến số C, I và NX sẽ không tự động tăng lên, khi đó nhất thiết cần sự can thiệp
của Chính phủ, Chính phủ không những tự kích cầu bằng cách tăng chi tiêu của mình (G) mà bằng
các chính sách vĩ mô khác làm tăng các nhân tố C, I, NX. Ông bác bỏ những lập luận ủng hộ việc
cắt giảm lương để giải quyết vấn đề khủng hoảng kinh tế, vì việc đó sẽ đẩy lên làn sóng chống đối
mạnh mẽ từ người lao động. Keneys chủ trương:
- Đối với giới chủ cần phải tăng tiền lương (chứ không phải cắt giảm tiền lương) để tăng tổng cầu,
việc tăng lương vẫn có thể kéo theo sự gia tăng lợi nhuận cho giới chủ nếu có sự can thiệp tích cực
của chính quyền nhằm kích tăng trưởng năng suất lẫn sản lượng. Kenyes cho rằng có thể tăng
lương và tăng lợi nhuận (thặng dư) khi và chỉ khi ta nối kết được mức tăng trưởng tiền lương với
mức tăng trưởng về năng suất, (Năng suất ở đây chính là năng suất lao động hay sản lượng sản
phẩm trong một giờ làm việc của công nhân). Nếu số lượng sản phẩm trong một giờ gia tăng, và
nếu số sản phẩm tiêu thụ đối với số sản phẩm thặng dư là một hằng số, thì sản lượng tuyệt đối
cho tiêu thụ (lương)và cho thặng dư (lợi nhuận) có thể đồng loạt gia tăng.
- Vai trò quản lý của Nhà nước trong nền kinh tế.
+ Thực hiện chính sách trả lương cao nhằm cơ cấu lại ngành theo các phân xưởng đặt năng suất
cao nhất (cấm hoạt động đối với những phân xưởng tốn chi phí cao mà năng suất thấp)
+ Tăng chi tiêu của Chính phủ (đi đôi với công tác điều tiết chính sách tiền tệ: giảm lãi suất), qua đó
tạo điều kiện cho các công ty tăng cường đầu tư, thuê mướn thêm công nhân, tăng sẳn lượng, với
phương hướng mở rộng thị trường. Chính phủ tăng cường tài trợ cho các dự án mở rộng sản xuất
các mặt hàng thiết yếu và mang tính trọng điểm.
+ Trong thời kỳ suy thoái, các doanh nghiệp không muốn đầu tư mà giữ lại tiền mặt hoặc mua
chứng khoán ngắn hạn để kiếm lời. Do vây, một mặt Chính phủ bắt đầu đánh thuế vào thu nhập
chưa được đem đi đầu tư của các công ty và Nhà nước dùng số tiền đó để mở rộng thị trường và
buộc doanh nghiệp phải có hướng giải quyết.
+ Bảo hộ mậu dịch: thời kỳ này, mỗi quốc gia đều đang cố gắng đẩy mạnh xuất khẩu hoàng hóa
của mình để kích thích tăng trưởng, vì vậy việc bảo hộ mậu dịch ở mức nào đó sẽ giúp các công ty
trong nước yên tâm sản xuất và không cắt giảm nhân công.
Như vậy, lý thuyết kinh tế của J.M. Keneys đã phủ nhận chính sách kinh tế tự do chủ nghĩa của tư
bản chủ nghĩa: tự do thả nổi, không cần can thiệp của Nhà nước vào hoạt động kinh tế, xã hội tư
bản chủ nghĩa tất sẽ không đủ cầu có hiệu quả , từ đó không thể có đầy đủ công ăn việc làm, chủ
trương mở rộng chức năng của Nhà nước, can thiệp một cách toàn diện vào kinh tế, cho rằng đây
là con đường duy nhất để chế độ kinh tế hiện hành tránh được khủng hoảng toàn diện. Về mặt vận
dụng chính sách cụ thể chủ trương áp dụng chính sách tài chính mở rộng, dùng chính sách lạm
phát tiền tệ để thay thế chính sách tiền tệ truyền thống.
Khái quát tình hình kinh tế thế giới thời gian qua
Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) cho rằng các nền kinh tế chính trên thế giới đang trên
bờ suy thoái và ít có cơ hội hồi phục vào năm 2009. Tình trạng hỗn loạn mà nền kinh tế thế giới
đang phải gánh chịu do khủng hoảng tài chính đã tác động mạnh mẽ đến các nước nghèo, sau sự
sụp đổ của ngân hàng đầu tu Lehman Brathers hồi tháng 9/2008 và hàng loạt các tập đoàn lớn như:
Merrill Lynch, Barford & Bingley, Fortiss và tập đoàn bảo hiểm của Nhật là Yamato Life Insuranace
Co. Trong đó, những tác động xấu lớn nhất là tính trạng thất nghiệp, trao đổi thương mại quốc tế,
giá cả bất động sản và kinh doanh ô tô đều giảm mạnh. OECD dự đoán, năm 2009, tăng trưởng
kinh tế Mỹ năm 2009 là 0,9%, trong khi đó Nhật bản dưới 0,1% và các nước thuộc khu vực đồng
tiền chung châu ÂU (Eurozone) dưới 0,5%, với tốc độ tăng trưởng cũng chậm lại ở các thị trường
đang nổi như Braxin, Trung Quốc, Ấn Độ.
Thủ tướng Ôn Gia Bảo vừa cảnh báo cuộc khủng hoảng tài chính thế giới tác động đến nền kinh tế
Trung Quốc thực sự nghiêm trọng. Cảnh báo này đưa ra say khi Ủy ban thống kê quốc gia Trung
Quốc cho biết, tốc độ tăng trưởng công nghiệp của nước này giảm sút liên tục từ 16% hồi tháng 6
xuống còn 11,4% trong tháng 9 và xuống tiếp 8,2% trong tháng 10, thấp nhất trong 7 năm qua. Xuất
khẩu của TQ trong tháng 10 vừa qua chỉ tăng 19,2% so với cùng kỳ năm ngoài, mức thấp nhất trong
còng 4 tháng qua. Trung Quốc vốn là nước theo đuổi chính sách hướng mạnh về xuất khẩu, nhưng
do cuộc khủng hoảng tài chính thế giới làm cho nhu cầu nhập khẩu của Mỹ, châu Âu – các thị
trường xuất khẩu chính của Trung Quốc giảm mạnh. Ngoài ra, trong suốt một thời gian dài hứng
chịu lạm phát và những khó khăn kinh tế, người tiêu dùng đang thắt chặt chi tiêu khiến nền kinh tế
càng trở nên ảm đạm.
Thực tiễn đối sách của Trung Quốc trước cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới.
Theo Tân Hoa Xã, Chính phủ Trung Quốc đã thông qua gói kích thích kinh tế giá trị khoảng 586 tỷ
USD (4000 tỷ nhân dân tệ) vào ngày 9/11, đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong tiến trình
phát triển kinh tế của quốc gia này. Đối với một quốc gia có tổng sản phẩm quốc nội khoảng 3500
tỷ USD như Trung Quốc, thì đây là kế hoạch khổng lồ nếu so sánh với các cường quốc công nghiệp
phát triển như Mỹ, với tổng sản phẩm nội địa trên 14000 tỷ USD, chỉ chi khoảng 100 tỷ USD qua
việc hoàn trả thuế trong mùa hè vừa qua. Số tiền khổng lồ này sẽ được chi đến năm 2010 vào 10
lĩnh vực quan trọng như: xây nhà cho người thu nhập thấp, nâng cấp hệ thống cơ sở hạ tầng nông
thôn, mạng lưới giao thông vận tải, đổi mới kỹ thuật công nghệ, tái thiết sau thiên tai, tăng chi phí
phúc lợi và bảo vệ môi trường. Cùng với gói trợ giúp này Chính phủ Trung Quốc cũng đưa ra một
loạt chính sách kích thích kinh tế:
Áp dụng chính sách tài chính tích cực: Ngân hàng Trung Quốc đã liên tục hạ lãi suất cơ bản và nới
lỏng các quy tắc cho vay của các ngân hàng thương mại nhủ dỡ bỏ mức trần tín dụng áp dụng đối
với các NHTM để hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ;
Chính phủ cố gắng cải thiện đời sống dân cư ở nông thông bằng cách đầu tư khá nhiều dự án lớn
vào lĩnh vực cơ sở hạ tầng, đặc biệt là giao thông. Khuyến khích người dân, đặc biệt là các hộ gia
đình ở khu vực nông thôn chi tiêu bằng cách giảm thuế; tăng phúc lợi xã hội, bảo vệ môi trường và
đổi mới công nghệ. Tại Hội nghị Trung ương 3, khóa 17 của Đảng cộng sản Trung Quốc tháng 10
vừa qua, Chính phủ đã đưa ra một kế hoạch lớn nhằm đưa thu nhập của khoảng 800 triệu dân nông
thôn tăng gấp đôi từ nay đến năm 2020.
Đối với chính sách đối ngoại: Chính phủ áp dụng chính sách mở cửa dần dần có trật tự nhằm bảo
hộ cho các ngành sản xuất trong nước có điều kiện tự sản xuất; tích cực, chủ động thu hút vốn đầu
tư để mở rộng sản xuất nội địa. Trung Quốc vốn có một nền kinh tế hướng ngoại, phát triển mạnh
xuất khẩu. Khủng hoảng tài chính và đình đốn kinh tế đã làm giảm nhu cầu nhập khẩu của Mỹ, châu
Âu – vốn là thị trường xuất khẩu chính của Trung Quốc. Do đó, Trung Quốc đã quyết định lựa chọn
một chính sách thuế khóa chủ động với nới lỏng có chừng mực các chính sách tiền tệ, nhằm
khuyến khích; hỗ trợ tăng trưởng kinh tế nhanh bằng cách nâng cao nhu càu trong nước.
Bên cạnh các động thái của Chính phủ, bản thân các địa phương của Trung Quốc cũng có những
đối sách nhằm nắm bắt cơ hội từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Điển hình là chính quyền
thành phố Thượng Hải, họ nhận định đây là cơ hội để Thượng Hải đẩy nhanh qua trình xây dựng cơ
sở hạ tầng cho một trung tâm tài chính thế giới. Ông Han Zheng, thị trưởng thành phố Thượng Hải
cho biết, đến năm 2010, Thượng Hải sẽ có cơ sở hạ tầng xứng đáng là một trung tâm tài chính của
thế giới và tiến tới năm 2020 trở thành một trong những thủ đô tài chính của thế giới. Từ đầu năm
2008 đến nay, đã có hơn 600 công ty thế giới hoạt động trong các lĩnh vực ngân hàng, bảo hiểm,
môi giới, quản lý tài sản đặt văn phòng đại diện tại đây nhưng đang vấp phải khó khăn về nhân lực.
Đầu năm 2008, khi có những biểu hiện đầu tiên về khủng hoảng tài chính tín dụng ở Mỹ và sau đó
là Anh, chính quyền Thượng Hải đã phát đi một thông điệp sẵn sàng tuyển dụng các tài năng tài
chính về làm việc cho thủ phủ kinh tế và tài chính lớn này của Trung Quốc. Chính quyền thành phố
đã thành lập những đoàn chuyên gia dự kiến đến Lodon và Niu York trước mắt sẽ tuyển dụng 102
nhân công trong lĩnh vực tài chính. Đồng thời một nhóm chuyên gia sẽ làm việc thường xuyên tại
Mỹ để có thể thu nạp tuyển dụng những cán bộ cao cáp chuẩn bị cho sự phát triển nhân lực tài
chính năm 2010-2020.
Bà Linda Stewert Giám đốc Epoch, văn phòng chuyên gia săn đầu người có trụ sở tại Boston (Mỹ)
cho rằng, với khối lượng dự trữ 1900 tỷ USD. Trung Quốc đang ở trong hoàn cảnh hết sức thuận lợi
và họ sẽ tận dụng mọi cơ hội để nhân viên, cán bộ cao cấp trong ngành tài chính ở Mỹ và Anh mất
việc do cuộc khủng hoảng tài chính hiện nay.
Mặc dù những chính sách trên của Trung Quốc còn cần phải có thời gian để kiểm nghiệm kết quả.
Nhưng rõ ràng những động thái này của Trung Quốc đã thể hiện sự nhạy bén của Chính phủ trước
những diễn biến phức tạp của cuộc khủng hoảng kinh tế và đặc biệt là những đối sách này đã minh
chứng cho lý thuyết kinh tế của J.M. Keneys vẫn nguyên giá trị trong thực tiễn kinh tế thế giới hiện
nay.

John Maynard Keynes thực tiễn đi trước lý


luận
Keynes được coi là một trong những nhà kinh tế học có ảnh hưởng nhất trên thế giới.
Trường phái chính sách kinh tế mới do ông gây dựng nên từ những năm 30 của thế kỷ
trước vẫn được coi là một trong những cuộc cách mạng quan trọng nhất trong khoa học
kinh tế. Thế nhưng, có lẽ rất ít người biết rằng ông đã từng là một nhà đầu cơ thành đạt.
Để có được một nhà kinh tế học lỗi lạc Keynes, rất nhiều bài học kinh nghiệm thu được qua hoạt
động đầu cơ được ông phát triển lên thành luận điểm trong học thuyết của mình. Sẽ không ngoa
chút nào nếu nói rằng, không có nhà đầu cơ John Maynard Keynes thì không thể có nhà kinh tế
học John Maynard Keynes, không có học thuyết kinh tế trọng cầu gắn liền với tên tuổi này.
Keynes sinh năm 1883 trong một gia đình có truyền thống học cao đỗ đạt ở Cambridge. Truyền
thống hiếu học ấy của gia đình được ông phát huy, nhưng truyền thống xã hội và đạo đức của
tầng lớp trí thức thời ấy ở nước Anh thì lại bị ông sao nhãng.
Ngay khi bước vào đại học, ông đã tham gia ngay Nhóm Bloomsbury - tập hợp các trí thức xung
quanh nữ văn sỹ Virginia Woolf theo quan điểm bác bỏ tất cả những truyền thống và chuẩn mực
giá trị của xã hội Anh. Những thành viên của nhóm này quan tâm đến nghệ thuật, thẩm mỹ học
và triết học nhiều hơn là đến tiền tài và danh vọng, phẩm cách đạo đức trong lao động và tình
dục vốn được cả nhà thờ Thiên chúa giáo lẫn Tin lành đề cao. Keynes công khai chuyện mình
đồng tính luyến ái, cho dù đến năm 1924 lại kết hôn với nữ vũ công ba-lê Lydia Lopokova mà
phù rể cho ông không phải ai khác ngoài chính anh chàng học sỹ Duncan Grant đã từng quan hệ
yêu đương đồng tính với ông suốt bao năm trời. Tuy nhiên, khác với đa số thành viên trong
nhóm, Keynes vẫn giữ mối liên hệ trực tiếp với cuộc sống bình thường chứ không hoàn toàn trên
mây trên gió. Có lẽ chính vì thế mà ông vẫn thành đạt với tư cách là nhà kinh tế, quan chức chính
phủ và cả nhà đầu cơ.
Tất cả mọi phi vụ đầu cơ chứng khoán của mình đều được ông ghi chép lại tỷ mỉ cho nên hậu thế
biết rằng phi vụ đầu cơ đầu tiên của ông được thực hiện ngày 6-7-1905. Vào ngày đó ông mua 4
cổ phiếu của công ty bảo hiểm hàng hải Marine Insurance Company với giá 160,06 Bảng Anh -
tương đương với 9.000 EURO bây giờ. Số tiền này được Keynes tiết kiệm từ những khoản tiền
thưởng trong học tập và tiền bố mừng sinh nhật trong những năm học đại học. Ngay từ lần đầu
tiên này, ông đã nhận thức được rằng đầu cơ luôn rủi ro nhưng có thể làm giàu nhanh chóng.
Suốt sự nghiệp đầu cơ chứng khoán, ông luôn bị giằng xé giữa cảm giác không cưỡng lại được
sự cuốn hút của đầu cơ và lo ngại về rủi ro. Có lẽ chính vì thế là ông luôn rất thận trọng khi sử
dụng tiền của người khác hoặc đi vay để đầu cơ. Chậm và ít nhưng chắc chắn thắng là phương
châm tối thượng của Keynes trong đầu cơ. Đầu cơ là cái mà ông vừa thích vừa sợ, vừa đam mê
lại vừa nghi ngại, một lần vướng vào rồi rất khó dứt ra được.
Khi chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc, ông đã có số tiền 16.431 Bảng Anh, gấp 100 lần số
tiền bỏ ra để mua 4 cổ phiếu đầu tiên. Những phi vụ đầu cơ của John không quy mô và tầm cỡ,
nhưng cứ đều đều và hiệu quả, đủ để ông kiếm được tiền triệu và không bị sa cơ lỡ vận, trắng tay
phơi áo mỗi lần bị thua. Nhìn vào số liệu thống kê thì có thể thấy ông thường thắng đậm ở đầu
cơ cổ phiếu trong khi thường thua đậm ở đầu cơ tiền tệ. Mà thua lại là chuyện chẳng có gì lạ
trong thế giới đầu cơ.
Sử sách còn ghi lại hai vụ đầu cơ thất bại lớn nhất của ông. Lần thứ nhất vào năm 1924, ông cho
rằng Đảng Tự do Anh sẽ thắng cử và Đảng Bảo thủ sẽ thua. Khi đó, vấn đề đặt ra cho nước Anh
là có trở lại chế độ bản vị vàng hay không. Nếu Đảng Tự do thắng cử sẽ không thi hành chính
sách trở lại chế độ bản vị vàng như ông khuyến nghị, khi đó tỷ giá đồng Bảng Anh sẽ giảm.
Nhưng Đảng Bảo thủ lại thắng cử, thực hiện ngay việc trở lại chế độ bản vị vàng và tỷ giá đồng
Bảng Anh tăng cao. Về phương diện chính sách kinh tế, quan điểm của Keynes rất đúng, nhưng
ông lại không thạo việc đoán biết quyết định của cử tri.
Lần thứ hai vào năm 1937-1938, John Maynard Keynes đã đánh giá sai mức độ và thời gian suy
thoái kinh tế ở Mỹ nên đã thua lỗ ở Phố Wall. Không phải lương bổng của quan chức chính phủ
Anh mà đầu cơ đã giúp John Maynard Keynes từ có vài đồng trong túi trở thành triệu phú. Khi
mất năm 1946, Keynes để lại gia sản cá nhân gần 500.000 Bảng Anh (tương đương hơn 10 triệu
EURO bây giờ), một điền trang rộng ở gần London và cả một Nhà hát nhỏ ở Cambridge tặng vợ.
Thận trọng và theo mách bảo của bản năng được Keynes coi là bí quyết thành công của mình
trong các phi vụ đầu cơ. Ẩn chứa đằng sau đó là một trạng thái tâm lý rất đặc biệt của nhà đầu cơ
và đầu tư mà Keynes gọi là “tình yêu tiền bạc”. Theo Keynes, muốn thành công thì nhà đầu cơ
phải nhìn nhận mối quan hệ giữa mình với cổ phiếu của mình như mối quan hệ giữa vợ và
chồng, có nghĩa là phải có tầm nhìn dài hạn, không vội vàng hấp tấp, tình cảm và lý trí phải hài
hòa.
Khác với Adam Smith tin vào khả năng điều tiết của “bàn tay vô hình” của thị trường, Keynes
nghi ngờ khả năng tự điều chỉnh và tự lành mạnh trở lại của thị trường. Keynes cho rằng, con
người thích giữ tiền hơn là đầu tư vì lo ngại rủi ro, nhưng giữ tiền cũng là một dạng đầu cơ vào
lãi suất, đầu tư giảm thì thất nghiệp sẽ tăng, thị trường tự nó không giải quyết được vấn đề này,
vì thế phải cần đến vai trò của nhà nước. Nhà nước phải kích cầu, chấp nhận vay nợ và thâm hụt
ngân sách để kích cầu. Thâm hụt ngân sách (deficit spending) là biệt hiệu học thuyết của Keynes
và ngôn từ cửa miệng suốt một thời mà ngày nay lại được thực hiện ở không ít quốc gia. Keynes
cho rằng, cá nhân có thể đầu cơ thì tại sao nhà nước lại không. Cá nhân đầu cơ để kiếm tiền, kết
quả hoạt động đầu cơ của nhà nước hiện diện dưới những hình thức khác. Keynes cho rằng đầu
cơ “vô hại như bong bóng trong dòng chảy kinh doanh liên tục” nhưng sẽ rất tai hại khi “kinh
doanh trở thành bong bóng trong vòng xoáy của đầu cơ”.
Tại Hội nghị ở Bretton Woods, Keynes là trưởng đoàn đàm phán của Anh và đã đưa ra một kế
hoạch tổng thể về trật tự tài chính và tiền tệ thế giới, kiến nghị sử dụng đồng tiền chủ đạo trên
thế giới bao gồm một “rổ nhiều đồng tiền khác nhau” với tên gọi là Bancor, nhưng bị Mỹ lấn
lướt và giành giật vai trò ấy cho đồng USD. 65 năm sau, nhân tác động của khủng hoảng tài
chính toàn cầu, Trung Quốc và Nga dẫn đầu một số nước lên tiếng đòi có đồng tiền chủ đạo mới
trên thế giới thay thế đồng USD. John Maynard Keynes lại được nhắc tới, lại được trích dẫn và
sử dụng như một chiếc “túi khôn” trong thời khốn khó.
Cả khi ấy, việc John Maynard Keynes đã từng là nhà đầu cơ thành đạt cũng không được nhắc tới.
Đúng là Keynes nổi tiếng hơn nhờ học thuyết kinh tế của mình, nhưng học thuyết ấy thật ra là
kết quả của quá trình đi từ thực tiễn đến lý luận qua các hoạt động đầu cơ của chính ông.

LÝ THUYẾT “CẦU HIỆU QUẢ” CỦA JOHN MAYNARD KEYNES VỚI


CUỘC KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH VÀ SUY THOÁI KINH TẾ TOÀN
CẦU HIỆN NAY
Posted on 08/10/2009 by Civillawinfor

PGS.TS. NGUYỄN XUÂN THẮNG – Phó Chủ tịch Viện Khoa học xã hội Việt Nam
Cuộc khủng hoảng tài chính ở Mỹ bắt đầu xảy ra từ tháng 8-2007 sau đó đã lan khắp các
thị trường tài chính lớn trên thế giới. Chỉ trong vòng 12 tháng của 2008 đã làm bốc hơi trên
30 ngàn tỉ USD trong tổng số 62 ngàn tỉ USD vốn hóa toàn cầu. Sau cuộc khủng hoảng tài
chính, thế giới bước vào một cuộc suy thoái kinh tế được ví là nghiêm trọng nhất trong
vòng gần 100 năm qua. Chính phủ các nước không thể khoanh tay đứng nhìn. Hàng loạt
các gói giải cứu lên đến cả ngàn tỉ USD ở hầu khắp các nước trên thế giới đổ ra khiến cho
người ta nhớ đến một nhà kinh tế vĩ đại của những năm 30 của thế kỷ trước: Giôn May-na
Kên (John Maynard Keynes).
Mặc dù thời đại ngày nay rất khác với thời đại của ông, nền kinh tế thế giới đã toàn cầu hóa và
hội nhập sâu sắc, tuy nhiên, các nguyên tắc tạo “cầu hiệu quả” – “cầu có khả năng thanh toán”
bằng các gói cứu trợ, kích thích kinh tế bằng tăng chi ngân sách, mở rộng thị trường nhà nước và
thực hành tín dụng rẻ để kích thích đầu tư và tiêu dùng… mà Kên đề xuất hồi ấy thì vẫn còn
nguyên giá trị. Nhiều nhà kinh tế và hoạch định chính sách trên thế giới, trong khi chưa tìm ra
các lý thuyết mới làm căn cứ để đưa nền kinh tế của mình ra khỏi suy thoái, đã rất kỳ vọng vào
việc vận dụng và phát triển các nguyên tắc của Kên trong điều kiện hiện nay. Vậy lý thuyết của
Kên có những nội dung chủ yếu gì? Nguyên lý nào vẫn còn giá trị và những cảnh báo thực tế khi
vận dụng Kên sẽ gợi mở cho chúng ta bài học gì khi vận dụng trong bối cảnh mới?
1 – Các quan điểm điều chỉnh kinh tế chủ yếu của Kên
Quan điểm bao trùm nhất của lý thuyết Kên là quan điểm cho rằng những mất cân đối kinh tế vĩ
mô có nguồn gốc chính ở sự giảm sút “cầu có hiệu quả”(1) tức là cầu có khả năng thanh toán.
“Cầu có hiệu quả”, theo Kên, bao gồm cả cầu về tiêu dùng cá nhân và cầu đầu tư. Như vậy “cầu
có hiệu quả” là khái niệm có mối tương quan với thu nhập quốc dân. Nếu khuynh hướng tiêu thụ
và đầu tư với tư cách là 2 bộ phận trong thu nhập quốc dân không có sự kết hợp để tạo ra một
lượng cầu có hiệu quả đầy đủ, nạn thất nghiệp sẽ xuất hiện. Bởi vì “cầu có hiệu quả” kết hợp với
tình trạng việc làm đầy đủ chỉ trong một trường hợp đặc biệt khi khuynh hướng tiêu thụ và kích
thích đầu tư có mối liên hệ đặc biệt với nhau. Những liên hệ này chỉ có thể có được nếu do tình
cờ hay cố ý, mức đầu tư hiện ra một số cầu vừa bằng số thặng dư của số cung tổng hợp của sản
xuất trong tình trạng việc làm đầy đủ so với mức tiêu dùng theo ý nguyện của quần chúng ở tình
trạng việc làm đầy đủ đó(2)… Giải thích cụ thể hơn cơ chế của sự kết hợp này, Kên viết tiếp:
“Khuynh hướng tiêu thụ và mức đầu tư mới kết hợp với nhau để quy định việc làm và khối
lượng việc làm liên hệ mật thiết với mức tiền công thực tế, chứ không phải ngược lại. Nếu
khối lượng tiêu thụ về mức đầu tư mới đưa đến một số cầu thực tế không đầy đủ, thì mức việc
làm thực tế sẽ thấp hơn số cung lao động sẵn có, tức gây thất nghiệp”(3).
Tuy nhiên, trong thời kỳ của Kên đã có thay đổi lớn trong tính chất và vai trò của cầu, giá cả
không còn là cơ chế lý tưởng xác lập cân bằng giữa cung và cầu. Cầu luôn luôn tụt lại so với
cung do người ta có xu hướng “muốn tiêu dùng một phần thu nhập ít hơn dần khi thu nhập thực
tế tăng”(4). Do đó phát sinh “cầu bị gác lại”, cung trở nên thừa và điều này tạo điều kiện giảm đầu
tư vào sản xuất, tức là thất nghiệp và khủng hoảng xuất hiện. Nhận định này dẫn Kên tới chỗ
khẳng định sự can thiệp tất yếu của nhà nước vào nền kinh tế. Theo ông, nhà nước là lực lượng
duy nhất có khả năng tác động vào số “cầu bị gác lại”, tức là tạo ra “cầu có hiệu quả”. Nói cách
khác, cơ chế kinh tế độc quyền tư nhân đã trở nên ít hiệu quả trước việc chống lại xu hướng “cầu
có hiệu quả” bị gác lại. Ngược lại, thông qua các chính sách duy trì, khuyến khích đầu tư tư nhân
và mở rộng tiêu dùng xã hội, nhà nước có thể bảo đảm cầu vững chắc, không để nổ ra khủng
hoảng và có khả năng loại trừ khủng hoảng. Kên viết: “Việc mở rộng các chức năng của nhà
nước vừa là phương tiện duy nhất để tránh việc phá hủy hoàn toàn những thiết chế kinh tế
hiện có, vừa là điều kiện cho sự vận dụng có kết quả các sáng kiến cá nhân”(5). Lập trường
này đặt nền móng cho toàn bộ lý thuyết điều chỉnh của Kên.
Hãy xem xét thêm các giải pháp của Kên. Để xóa bỏ tình trạng thiếu “số cầu hiệu quả”, Kên cho
rằng “nhà nước sẽ phải tiến hành một tác động hướng dẫn đối với khuynh hướng tiêu dùng một
phần qua chính sách thuế khóa, một phần bằng việc ấn định lãi suất, và có thể một phần bằng các
phương tiện khác”(6). Trên thực tế, Kên chủ yếu đề cập tới hai cách khắc phục cơ bản:
Thứ nhất, nhà nước tạo ra “cầu có hiệu quả” bằng cách tăng chi nhà nước, tức là mở rộng cầu
nhà nước đề bù vào khuynh hướng thiếu cầu tiêu dùng cá nhân và cầu đầu tư. Theo Kên, nhà
nước cần chủ động tung tiền vào các hoạt động đầu tư công cộng, bất kể tính chất của các khoản
chi đó như thế nào, ngay cả khi đẻ ra “thiếu hụt ngân sách”. Bởi vì khi “cầu có hiệu quả” bị sút
kém, sẽ không có lý do đặc biệt nào để thúc đẩy các nhà kinh doanh mạo hiểm tăng đầu tư của
họ. Mặt khác “hệ số việc làm đầy đủ” chỉ có thể được tạo ra bằng cách nhà nước giành những số
tiền lớn đầu tư vào các công trình công cộng thuộc lĩnh vực hạ tầng cơ sở như: đường xá, hầm
mỏ, hải cảng… nghĩa là, nhà nước phải chủ động đầu tư vào những lĩnh vực ít sinh lợi nhất
(thường không hấp dẫn tư bản tư nhân) nhưng lại là các điều kiện cần thiết cho toàn bộ quá trình
tái sản xuất của tư bản xã hội. Và đây là điều kiện thuận lợi cho tư bản tư nhân đầu tư vào những
ngành khác có lợi hơn. Tình hình đầu tư được cải thiện. Nhu cầu hàng tiêu dùng và hàng đầu tư
của nhà nước tăng theo. Đầu tư tư nhân sẽ được đẩy lên một bước. “Thị trường nhà nước” hình
thành như một nhân tố bổ sung quan trọng cho thị trường tư bản tư nhân nhằm chống lại khuynh
hướng khủng hoảng “thừa tư bản” và “thừa hàng hóa”. Xét trên toàn cục, “cầu có hiệu quả” của
toàn xã hội tăng cũng có nghĩa là hệ số “việc làm đầy đủ” tăng. Do vậy, không hề lo ngại về
“thiếu hụt ngân sách” như những nhà kinh tế học đương thời lo lắng. Kên đã hoàn chỉnh tư tưởng
này thành lý thuyết “cấp phát tài chính thiếu hụt”. Theo quan điểm của ông, sự mở rộng các chức
năng của nhà nước như đã xét đến ở trên có thể dẫn đến thiếu hụt ngân sách và sự bội chi nhà
nước sẽ được bù đắp bằng vay nợ dưới các dạng khác nhau. Ngay lúc bấy giờ, quan điểm này
của Kên đã trở thành cơ sở biện minh cho “tính hợp lý” của “quân sự hóa với tư cách là một hình
thức chi tiêu ngân sách nhà nước”, thậm chí để biện hộ cho lập luận của mình về tăng chi nhà
nước, kể cả những khoản tiêu phí vô ích. Đây là luận điểm khó có thể được chấp thuận trong lý
thuyết của Kên. Ông viết “...những kinh phí dựa trên các khoản vay, dù khi chúng là vô dụng,
suy cho đến cùng vẫn có thể làm giàu thêm cho cộng đồng. Công trình xây cất kim tự tháp,
những trận động đất và ngay cả chiến tranh cũng có thể góp phần tăng thêm sự giàu có…”(7).
Như vậy, theo Kên, tăng chi nhà nước là một chính sách thuận lợi cho tăng “cầu có hiệu quả” và
vì vậy, thật là sai lầm nghiêm trọng khi thực hành cân bằng ngân sách bằng giảm chi nhà nước
và tăng mức thuế cao đánh vào thu nhập. Điều này sẽ ảnh hưởng rất xấu đến lượng cầu, nhất là
cầu tiêu dùng. Nói cách khác, chính sách của nhà nước duy trì mức thuế cao để trả một phần nợ
nhà nước có tác động kìm hãm đối với mức tiêu thụ cũng tức là kìm hãm mức tăng sản xuất. Vì
vậy, đi liền với chính sách tăng chi nhà nước, Kên nhấn mạnh đến chính sách thuế thấp với tính
cách một nguồn thu của ngân sách được tài trợ theo những mục tiêu hữu ích cho những nhà đầu
tư sản xuất. Tóm lại, điều chỉnh kinh tế bằng chính sách ngân sách và thuế kiểu Kên chính là
phương thức nhằm tăng mức tiêu thụ và khuyến khích đầu tư đối với các nhà sản xuất.
Thứ hai, xuất phát từ sự kiến giải mức cầu đầu tư do hiệu suất dự đoán của đầu tư (tức là khối
lượng, cường độ sử dụng vốn, triển vọng sản xuất) và lãi suất quy định. Kên hy vọng nhiều vào
chính sách kích thích đầu tư tư nhân bằng sự điều chỉnh cần thiết mức lãi suất. Bởi lẽ theo ông ta,
trước khi quyết định đầu tư, bất kỳ nhà kinh doanh nào cũng phải tính đến một lãi suất nào đó.
Kên cho rằng lãi suất được ấn định bởi một bên là khối lượng cung tiền tệ do ngân hàng trung
ương tạo ra và một bên là số cầu tiền tệ hay là “sự ưa thích tiền mặt”. Số cầu tiền tệ càng cao khi
lãi suất thấp và càng thấp khi lãi suất cao. Mặt khác, khi khối lượng tiền tệ tăng hoặc giảm mà số
cầu tiền tệ không thay đổi, lãi suất có thể giảm hoặc tăng một cách tương ứng. Do vậy, để
khuyến khích đầu tư, nhà nước vừa phải duy trì tỷ suất lợi tức thấp, vừa có thể tăng khối lượng
tiền tệ. Cố nhiên, sự gia tăng số lượng tiền tệ chỉ có khả năng giảm lãi suất trong những trường
hợp bình thường, nó sẽ không có tác dụng nếu lãi suất đang ở một mức thấp khác thường khiến
cho không một nhà tư bản nào muốn cho vay. Kên viết “Một lãi suất thấp hơn sẽ kích thích
việc mở rộng phạm vi đầu tư đến những ngành không thể sinh lợi do lãi suất cao hơn”(8).
Dựa trên quan điểm điều chỉnh lãi suất thấp, Kên nêu ra lý thuyết “thực hành lạm phát kích thích
đầu tư”. Theo quan điểm này, lạm phát càng mạnh khi lãi suất càng thấp và do đó, đầu tư càng
sôi động. Ngược lại, đầu tư mạnh, nhu cầu về đầu tư lớn thì lạm phát càng có điều kiện phát sinh.
Như vậy, thay cho quan điểm sản xuất quyết định thay đổi phân phối và tiêu dùng. Kên coi tiền
tệ và tín dụng là công cụ điều chỉnh vạn năng nền kinh tế. Đây có thể là điểm sai lầm không đáng
có của Kên. Về thực chất, giảm lợi tức là để nâng cao lợi nhuận cho tư bản độc quyền, thực hành
lạm phát là làm tăng giá cả nhằm hạ thấp tiền lương thực tế của các tầng lớp lao động khác nhau.
Những quan điểm trên đây đã được Kên phát triển trên bình diện thế giới. Theo cách phân tích
của ông, cuộc khủng hoảng trên phạm vi toàn thế giới là hậu quả của “cầu hiệu quả” quá yếu trên
quy mô thế giới. Điều này được người ta viện dẫn nhiều khi giải thích tình hình suy thoái kinh tế
toàn cầu hiện nay. Các biện pháp khắc phục chủ yếu vẫn là tăng chi nhà nước, tăng tiêu thụ và hạ
thấp lợi tức ở mức có thể như Kên chủ trương.
2 – Cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu với các gói giải cứu và kích
thích kinh tế theo Giôn May-na Kên
Nhìn lại các gói kích cầu lên tới cả ngàn tỉ USD của Mỹ, gần 600 tỉ USD của Trung Quốc, hàng
trăm tỉ USD của Nhật Bản và Châu Âu, người ta thấy các biện pháp để xử lý tình huống chặn đà
suy giảm tăng trưởng của chính phủ các nước này, về cơ bản, vẫn là chính sách tài khóa và chính
sách tín dụng theo các nguyên tắc của Kên. Về chính sách tài khóa, các chính phủ chủ trương
giảm thuế để hỗ trợ tái đầu tư cho các nhà sản xuất, thực hành tăng đầu tư vào cơ sở hạ tầng, mở
rộng các dịch vụ công và trợ cấp cho các khu vực thu nhập thấp, dễ tổn thương nhằm tạo cầu nội
địa, đảm bảo an sinh xã hội và giảm thiểu các xung đột xã hội, thậm chí có thể chấp nhận cả
thâm hụt ngân sách để mở rộng thị trường nội địa – một sự bù đắp khoảng sụt giảm đột ngột của
thị trường xuất khẩu. Do đó, sau các gói giải cứu mang tính chất tình thế, các chính phủ tiếp tục
gia tăng các gói kích cầu nhằm tạo đà cho tăng trưởng khi đã chạm tới điểm uốn tại đáy của cuộc
khủng hoảng. Cũng tương tự như vậy, chính sách tín dụng rẻ với mức lãi suất thấp nhất so với
nhiều chục năm qua, hiện đã trở thành đặc trưng phổ biến trong chính sách tiền tệ của các quốc
gia. Chính phủ các nước tạo mọi điều kiện để mọi chủ thể tiếp cận dễ dàng các nguồn tín dụng,
chủ trương hỗ trợ lãi suất theo hướng tăng tổng dư nợ tín dụng nhằm khởi động lại cầu tiêu dùng
và cầu đầu tư nội địa. Nói cách khác, với việc tiền được bơm ra như cái phao cứu sinh cho các
nền kinh tế, ngay cả trong tình trạng không dễ kiểm soát, có vẻ người ta đã coi tiền tệ và tín dụng
là công cụ vạn năng điều tiết nền kinh tế giống như Kên đã quan niệm.
Sự thực là các gói kích cầu đó mang lại hiệu quả rõ rệt cho các nền kinh tế. Các nền kinh tế chủ
chốt bước đầu ngăn chặn được đà suy giảm tăng trưởng. Đầu tư của nhà nước và nhu cầu nội địa
tăng đã giúp kinh tế Trung Quốc ra khỏi giai đoạn giảm tăng trưởng kéo dài 8 quý liên tiếp từ
nửa đầu năm 2007, bất chấp động lực xuất khẩu bị thiệt hại nặng nề do sức cầu từ các thị trường
bên ngoài sụt giảm mạnh. Trong khi đó, các chỉ số kinh tế chính của các nền kinh tế Mỹ, EU và
Nhật Bản đồng loạt chuyển hướng đi lên từ tháng 3 – 4, báo hiệu chu kỳ suy giảm ở các nền kinh
tế này có khả năng sẽ kết thúc trong khoảng tháng 9 đến tháng 10-2009.
Những thành quả trên đây cho thấy, các nguyên lý của Kên vẫn có vai trò tác dụng chặn đà suy
giảm kinh tế, nhất là trong các tình huống “sốc”, ngắn hạn. Hiện tại, dấu hiệu phục hồi của nền
kinh tế thế giới vẫn còn yếu ớt và chưa vững chắc. Điều này còn bị quy định bởi tính chất của
cuộc khủng hoảng lần này, đó là sự bùng nổ đồng thời của khủng hoảng chu kỳ, khủng hoảng cơ
cấu và khủng hoảng về thể chế kinh tế. Theo đó, các giải pháp của Kên sẽ là không đủ và nó sẽ
không có tác động tích cực nếu chính phủ các nước không nhân cơ hội này tái cấu trúc lại nền
kinh tế của mình và nỗ lực phối hợp toàn cầu để đưa nền kinh tế thế giới ra khỏi suy thoái. Đó là
chưa kể sau các giải pháp này, các nền kinh tế sẽ phải đối mặt với nguy cơ rơi vào “bẫy thanh
khoản” trì trệ kéo dài khi chính sách tiền tệ “hết dư địa” – lãi suất cơ bản đã ở sát mức 0%. Việc
các chính phủ phụ thuộc quá mức vào công cụ tài khóa để duy trì tăng trưởng sẽ khiến thâm hụt
ngân sách tăng cao, có thể kéo theo những hệ lụy nghiêm trọng như thuế tăng, lãi suất dài hạn
lên cao, gia tăng lạm phát tiền tệ, làm đình trệ hoạt động kinh doanh, thậm chí có thể gây vỡ nợ
quốc gia. Nguy cơ đình trệ – lạm phát của kinh tế thế giới do lượng tiền cung ra quá lớn trên toàn
cầu hoàn toàn có thể xảy ra như đã từng xảy ra trong thập kỷ 70 của thế kỷ trước. Cũng tương tự
như vậy, khả năng giá năng lượng và nguyên liệu tăng cao trở lại cũng là một nguy cơ cản trở
quá trình phục hồi kinh tế toàn cầu. Tại sao vậy? Chúng ta có thể giải thích các hệ lụy này trên
một số lý do sau đây:
Thứ nhất, như lịch sử đã chứng minh, việc vận dụng những nguyên tắc của Kên là nguyên nhân
của tình trạng trì trệ và lạm phát diễn ra đồng thời suốt thập kỷ 70. Hay nói cách khác, tình trạng
đình trệ – lạm phát tiến thoái lưỡng nan trong nền kinh tế các nước công nghiệp giai đoạn 1974 –
1983 là do sự vận hành lâu dài và quá mức theo các quan điểm điều chỉnh kinh tế của chủ nghĩa
Kên. Các nội dung trong hệ thống điều tiết của Kên như: cho vay tín dụng, cấp phát tài chính
theo nguyên tắc thiếu hụt của chính phủ và ngân hàng trung ương đã mở hết tốc độ, khiến cho
cùng lúc giá cả tăng vọt trong khi đó, sức lao động và năng lực sản xuất lại không được huy động
và vận hành một cách hiệu quả. Các biện pháp của chính phủ, về thực chất, chỉ mới dừng lại ở
các biện pháp đối phó tình hình. Cụ thể là để khắc phục suy thoái, các biện pháp vẫn chỉ là tăng
chi ngân sách, tín dụng rẻ, mở rộng thị trường công và để khắc phục lạm phát như là điều đe dọa
mới, các biện pháp lại là thắt chặt tín dụng, giảm chi ngân sách và tăng thu nhà nước. Trong bối
cảnh ấy, ngay cả khi đã có chú ý đến việc kết hợp với các chính sách thu nhập, chính sách chống
chu kỳ và chính sách phát triển dài hạn, tình trạng đình – lạm của nền kinh tế thế giới vẫn tiếp
tục kéo dài hơn một thập kỷ. Như vậy, cũng có thể nói do lạm phát và suy thoái diễn ra đồng
thời, các biện pháp điều tiết theo Kên đã biểu hiện ra như con lắc thường xuyên giao động từ lạm
phát sang giảm phát và ngược lại. Điều này chứng tỏ lý thuyết Kên có những hạn chế không thể
vượt qua từ chính trong bản chất và đặc trưng của nó. Thực tiễn này là một cảnh báo cho những
ai ưa thích và đơn giản hóa khi vận dụng Kên.
Thứ hai, những giải pháp của chủ nghĩa Kên không phải đã phù hợp hoàn toàn với việc ứng phó
cuộc khủng hoảng tài chính – kinh tế toàn cầu 2008 bởi các lẽ: 1) thiếu hụt cầu hiện nay không
mang tính cục bộ, khu biệt trong các nền kinh tế công nghiệp phát triển như cuộc khủng hoảng
1929 – 1933 mà là trên toàn bộ chỉnh thể của nền kinh tế thế giới; 2) tín dụng rẻ, dưới chuẩn và
dễ tiếp cận trong gần một thập kỷ qua cũng như sự ủng hộ tài chính vô hạn từ chính phủ đối với
các tập đoàn tư nhân là nguyên nhân tích tụ các khoản nợ xấu, gây mất khả năng thanh toán của
các ngân hàng và các tập đoàn đầu tư tài chính, trước hết là ở Mỹ và sau đó lây lan ra toàn thế
giới và trong bối cảnh ấy, mọi giải pháp chống suy thoái theo các chính sách tín dụng trước đây
sẽ rất ít hiệu quả, có thể làm trầm trọng và rối loạn thêm thị trường tài chính – tiền tệ; và 3) các
giải pháp kích cầu bằng chính sách tài khóa sẽ có tác động, nhất là chính sách giảm thuế, mở
rộng cầu tiêu dùng và đầu tư, chú trọng duy trì sản xuất, việc làm đầy đủ nhưng trong điều kiện
đẩy mạnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, sự phụ thuộc lẫn nhau sâu sắc giữa các nền
kinh tế sẽ đưa đến 2 tình huống: a) gói kích cầu sẽ không tác dụng nếu không đạt tới sự đồng bộ
quốc tế và khu vực, rất có thể sự hỗ trợ này sẽ mang lại hiệu quả tích cực cho các nước bên
ngoài; và b) gói kích cầu có khuynh hướng kích cầu nội địa và để đưa nền kinh tế của mình ra
khỏi suy thoái, các nước sẽ bất chấp tiến trình tự do hóa, bất chấp các cam kết với WTO, sẽ chủ
trương bảo hộ mạnh mẽ thị trường trong nước. Rốt cuộc, các giải pháp tình thế, ngắn hạn đã vô
hình chung trở thành vật cản ngáng trở tiến trình tự do hóa và toàn cầu hóa với tính cách là xu
thế phổ biến của sự phát triển toàn cầu hiện nay. Do đó, có thể nói các giải pháp theo Kên có thể
tạo nguy cơ đi ngược tiến trình tự do hóa.
Thứ ba, như trên đã chỉ ra, về mặt ngắn hạn, để chặn đà suy giảm, người ta không còn cách nào
khác là phải mở rộng cầu hiệu quả (cả cầu đầu tư và cầu tiêu dùng) cho nền kinh tế nhưng là cầu
hiệu quả trên quy mô toàn cầu và vấn đề đặt ra chính là gia tăng trách nhiệm và chia sẻ trách
nhiệm toàn cầu của các nền kinh tế lớn và chủ yếu (cơ chế G-2: Mỹ và Trung Quốc; nhóm G-7
và G-20) và sự nỗ lực của mọi quốc gia, thúc đẩy sự phối hợp và hợp tác toàn cầu để chống lại
sự co rút quá mạnh của các động lực tăng trưởng. Về mặt dài hạn, xét theo thực chất của cuộc
khủng hoảng, đây không thuần túy là khủng hoảng chu kỳ mà còn là cuộc khủng hoảng về mặt
cơ cấu (một bộ phận của nền kinh tế toàn cầu bùng nổ quá mức các ngành dịch vụ dựa trên sự
phát triển rất mạnh của công nghệ mới và tri thức trong khi đại bộ phận khác vẫn phát triển các
ngành công nghiệp tiêu dùng nhiều vốn, lao động và tài nguyên và chính vì sự bất đối xứng về
cầu trên quy mô toàn thế giới đã đưa các quốc gia trở lại tự tạo cầu cho một năng lực sản xuất dư
thừa nhưng lại thiếu đầu ra do chính sự lựa chọn cách thức phát triển của mình cung ứng). Các
nền kinh tế hướng về xuất khẩu, nếu không cơ cấu lại theo hướng giảm sự lệ thuộc từ bên ngoài,
phát huy lợi thế so sánh để có giá trị gia tăng cao, rất có thể bị suy sụp trước các rủi ro khó lường
của nền kinh tế thế giới. Đồng thời, đây còn là cuộc khủng hoảng về thể chế khi sự buông lỏng
vai trò định hướng, sự xem nhẹ chức năng giám sát của nhà nước đã và đang khiến cho thị
trường và hệ thống tài chính của các nước chao đảo. Chưa bao giờ trong khoảng 40 năm nay
người ta lại bàn nhiều đến vấn đề định vị lại mối quan hệ giữa vai trò nhà nước và nền kinh tế thị
trường trong bối cảnh mới. Sự thật là chưa biết điều gì sẽ xẩy ra nếu không có sự cứu trợ của các
nhà nước đối với cuộc khủng hoảng tài chính kinh tế hiện nay. Nhưng sẽ là rất nguy hiểm nếu
sau sự kiện này, sự can dự của nhà nước sẽ được tăng cường mạnh và khuynh hướng bảo hộ của
các quốc gia sẽ trở thành chủ đạo và theo đó, kinh tế thị trường theo hướng tự do hóa sẽ bị cản
trở. Nói cách khác, chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch sẽ lại hiện hữu – một lực cản to lớn nhất đối với
lô-gic phát triển của nền kinh tế thế giới hiện đại. Cũng bởi vậy, vấn đề tái cấu trúc nền kinh tế
cũng như thể chế kinh tế toàn cầu rất cần một lý thuyết mới và khác với lý thuyết Kên, cho dù
Kên ngày nay đã mang hình hài của một Kên mới – “Kên toàn cầu”.
3 – Nhìn lại các gói kích cầu của Việt Nam trên các nguyên tắc điều tiết của Kên
Kinh tế Việt Nam trong quý II đã tăng 4,5% so với cùng kỳ năm trước, vượt mức tăng 3,1% của
quý I. Tăng trưởng kinh tế 6 tháng đầu năm đạt 3,9% so với cùng kỳ 2008. Tốc độ tăng giá trị
sản xuất công nghiệp cũng đi lên liên tục trong các tháng quý II (tháng 4 là 5,4%, tháng 5 là
6,8%, tháng 6 là 8,2%) so với mức 0,4% của quý I. Lĩnh vực xây dựng bùng nổ trở lại, tăng
trưởng 6,9% trong quý I và có thể đạt mức tăng trưởng trên 10% cả năm, đóng vai trò một trong
những lĩnh vực dẫn dắt tăng trưởng kinh tế do có sức lan tỏa cao. Điểm sáng là khu vực dịch vụ
đạt tốc độ tăng 5,5%. Đặc biệt, tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ ước đạt 547,5 ngàn tỉ đồng,
tăng 20% so với cùng kỳ năm ngoái, chứng tỏ chính sách kích cầu đã phát huy tác dụng tích cực,
đẩy sức cầu trong nước phục hồi mạnh. Hơn 40 ngàn doanh nghiệp đăng ký thành lập trong 6
tháng vừa qua cho thấy, môi trường kinh doanh đã hồi phục trở lại.
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) quý II tăng 1,35% so với quý I là quý có mức tăng 1,33%. Như vậy,
lạm phát nửa đầu 2009 chỉ ở mức 2,68% cho phép kỳ vọng sẽ được kiểm soát ở mức dưới 2 con
số trong cả năm 2009.
Nhìn chung, Việt Nam trở thành một trong những nước có thành tích chặn đà suy giảm ấn tượng,
thuộc số ít các nền kinh tế trên thế giới đạt được tốc độ tăng trưởng dương tương đối cao ngay
trong bối cảnh nhiều nền kinh tế khác vẫn ngụp sâu trong suy thoái. Sở dĩ chúng ta đạt được như
vậy vì chúng ta có 2 gói kích cầu kịp thời, bắt đúng mạch, đúng đối tượng và có được sự chỉ đạo
điều hành quyết liệt của chính phủ.
Việc thực hiện các giải pháp mở rộng tiền tệ và tài khóa khẩn cấp ở gói kích cầu số 1 với 17.000
tỉ VND, đã góp phần tích cực chặn được đà suy giảm tăng trưởng, bước đầu phục hồi hoạt động
kinh tế. Về thực chất, chúng ta đã chú trọng tạo cầu nội địa để bù đắp sự giảm mạnh của thị
trường xuất khẩu, thực hiện hỗ trợ lãi suất và giảm thuế để giải phóng hàng tồn kho, kích thích
đầu tư vào các khu vực còn nhiều dư địa cho tăng trưởng như xây dựng cơ sở hạ tầng và hỗ trợ
sự phát triển của khu vực nông nghiệp và nông thôn, hỗ trợ tiêu dùng cho các đối tượng thu nhập
thấp ở vùng sâu, vùng xa, thực hiện chính sách an sinh xã hội và bảo đảm các ổn định cho sự
phát triển. Rõ ràng, chúng ta đã vận dụng các nguyên tắc của Kên thông qua việc mở rộng chính
sách tài khóa và nới lỏng tín dụng. Chúng ta đã làm đúng và có hiệu quả khi ứng phó với các tình
huống mang tính giải cứu cấp bách. Tất nhiên, hạn chế của các giải pháp này chính là việc gây ra
các hệ lụy tiêu cực khác nhau đến thể trạng của nền kinh tế trong cả trung hạn và dài hạn. Đó là:
1 – Thâm hụt ngân sách có nguy cơ tăng mạnh. Do yêu cầu thực hiện các gói kích thích tài
khóa được dự kiến sẽ đẩy thâm hụt ngân sách lên mức 7% – 8% trong năm 2009, tức là cao hơn
nhiều so với các nước trong khu vực. Chi phí vốn vay để tài trợ cho thâm hụt này đang tăng lên
với việc hàng loạt phiên đấu giá trái phiếu Chính phủ bằng VNĐ từ đầu năm đến thất bại do
không đáp ứng được kỳ vọng lãi suất của thị trường ngày một tăng. Cộng với khả năng “nhập
khẩu” lạm phát trên toàn cầu, lạm phát trong nước có nguy cơ quay trở lại trong 1 – 2 năm tới;
2 – Mất cân đối trên thị trường ngoại tệ. Do gói hỗ trợ lãi suất 4% trị giá 17 ngàn tỉ đồng
(tương đương 1 tỉ USD) với tổng lượng tín dụng 430 ngàn tỉ đồng của hệ thống ngân hàng trong
năm 2009 sẽ tạo ra chênh lệch đáng kể về lãi suất đối với tín dụng trên thị trường ngoại tệ, gây
ách tắc tín dụng ngoại tệ: thừa đô-la vay, nhưng thiếu đô-la bán;
3 – Nhập siêu tăng trở lại và có thể trầm trọng hơn trong những năm tới. Vì lẽ, nếu các
doanh nghiệp trong nước không kịp thời tranh thủ giai đoạn vừa qua để chiếm lĩnh thị phần trong
nước, thì khi nền kinh tế Việt Nam bứt khỏi tình trạng suy giảm, tỷ lệ nhập khẩu biên sẽ nhanh
chóng quay lại trạng thái bình thường khiến nhập khẩu tăng nhanh hơn xuất khẩu. Thâm hụt cán
cân thương mại có thể chỉ khoảng 7 tỉ USD trong năm nay, nhưng có thể tăng nhanh trong 1 – 2
năm tới, gây tác động tiêu cực đến cung cầu ngoại tệ và ổn định tiền tệ trong nước;
4 – Thị trường chứng khoán và bất động sản lại có biểu hiện tăng trưởng bong bóng. Vì sau
tác động của gói kích cầu, chỉ số VN-Index tăng tốc vượt các thị trường chứng khoán trong khu
vực. Thị trường bất động sản đô thị tăng trưởng nóng tại một số ít phân khúc như đất nền, trong
khi phân khúc căn hộ và văn phòng cho thuê lại kém sôi động. Không loại trừ khả năng một
phần vốn kích cầu đổ sang đầu cơ ngắn hạn tại các thị trường chứng khoán và bất động sản, mặc
dù Ngân hàng Nhà nước (NHNN) thông báo vẫn kiểm soát chặt chẽ các dòng vốn này.
Như vậy, rõ ràng khi vận dụng các nguyên tắc của Kên trong việc thiết kế các gói kích cầu,
chúng ta cần phải thận trọng hơn. Tổng hợp, phân tích, đánh giá việc thực hiện toàn bộ 5 nhóm
giải pháp ngăn chặn suy giảm và duy trì tăng trưởng kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội của Chính
phủ, cần kịp thời đúc rút các kinh nghiệm và đề xuất các giải pháp sát với các biến chuyển mới
trong nước và trên thế giới, nhất là khi thiết kế gói kích cầu thứ 2 với tư cách là hệ giải pháp để
phục hồi tăng trưởng và phát triển bền vững cả trong trung và dài hạn. Cụ thể là:
- Gói kích cầu số 2 cần phải được thiết kế rõ ràng. Tránh lặp lại tình trạng một số giải pháp chưa
bám sát điều kiện thực tế, ách tắc ở khâu thủ tục nên chậm tiến độ và hiệu quả chưa cao.
- Kịp thời điều chỉnh linh hoạt liều lượng, cơ cấu và tiến độ các gói giải pháp phù hợp với tình
hình thực tế của nền kinh tế trong nước và thế giới. Cần chuẩn bị “kế hoạch rút lui” (exit
strategy) – giảm bớt đầu tư công vào thời điểm thích hợp để khuyến khích các nguồn đầu tư từ
xã hội.
- Trong điều kiện các thị trường suy yếu, các doanh nghiệp gặp khó khăn và đầu tư từ các nguồn
ngân sách nhà nước tăng mạnh, cần chủ động ngăn chặn sự trở lại của cơ chế xin – cho và khả
năng bùng nổ các loại giấy phép con. Đẩy mạnh cải cách hành chính, đơn giản hóa các thủ tục,
nâng cao chất lượng hoạt động của khu vực công.
- Trong điều kiện thực hiện các gói kích thích tài khóa mạnh để ngăn chặn suy giảm kinh tế, hiệu
quả sử dụng vốn ngân sách dùng cho kích cầu là yếu tố cực kỳ quan trọng, giúp làm giảm những
gánh nặng nợ và méo mó vĩ mô sau đó. Vì vậy, song song với nỗ lực kích cầu, càng cần tăng
cường các biện pháp giám sát, thanh tra, kiểm tra đối với tình hình thực hiện các giải pháp kích
thích kinh tế, kịp thời ngăn chặn, chấn chỉnh việc sử dụng phí phạm, sai mục đích. Cần xem xét
đẩy sớm việc “hậu kiểm” thực hiện các khoản kích cầu ngay trong năm nay.
- Kinh nghiệm chống khủng hoảng của các nước cho thấy, các đợt sát hạch kiểu “thử tải” (stress
test) đối với các chủ thể có thể gây rủi ro hệ thống là đặc biệt cần thiết để đánh giá, phát hiện và
xử lý sớm các rủi ro tiềm ẩn.
- Tăng cường vai trò giám sát rủi ro tài chính của NHNH đối với toàn bộ lĩnh vực tài chính –
ngân hàng. Xây dựng các chuẩn mực đánh giá, xếp hạng rủi ro tài chính đối với các sản phẩm tài
chính, các chủ thể thị trường, cũng như toàn bộ hệ thống ngân hàng, các thị trường chứng khoán,
bất động sản, các luồng tiền lớn luân chuyển giữa các thị trường. Thúc đẩy các đổi mới tài chính,
từng bước phát triển các công cụ phòng chống rủi ro.
- Thiết lập cơ chế đánh giá rủi ro hệ thống đối với các doanh nghiệp có vị thế độc quyền và tầm
ảnh hưởng lớn đến toàn bộ nền kinh tế, lồng ghép cơ chế này vào mô hình thí điểm các tập đoàn
kinh tế sắp được ban hành.
- Trong điều kiện kinh tế các nước lớn và thế giới sẽ có những điều chỉnh lớn trong giai đoạn
“hậu khủng hoảng”, cần kịp thời nắm bắt tình hình, chủ động tạo bước đột phá về cơ chế, chính
sách đẩy mạnh tái cơ cấu lại các doanh nghiệp, các lĩnh vực sản xuất và các thị trường, nâng cao
năng lực cạnh tranh trong nước và quốc tế.
Tóm lại, những lưu ý trên đây là rất đáng quan tâm vì xuất phát từ các hệ lụy tất yếu của việc
vận dụng Kên quá mức và thực tiễn mới đang khiến cho các nguyên tắc của Kên là không phù
hợp hoàn toàn, chúng ta cần chú trọng giải quyết hài hòa giữa chặn đà suy giảm với vấn đề phát
triển dài hạn; giữa vấn đề tài chính – tiền tệ với vấn đề phát triển tổng thể nền kinh tế; giữa vấn
đề khắc phục chu kỳ với vấn đề thay đổi cơ cấu; giữa các nội hàm phát triển với việc hoàn thiện
thể chế…, nghĩa là chúng ta không thể chỉ đánh cược vào tính “vạn năng” của một lý thuyết kinh
tế nào đó, kể cả Kên. Trong khi chưa có các lý thuyết mới, cũng giống như trường phái “tổng
hợp hậu Kên”, “ kinh tế hỗn hợp” của P. Sa-mu-en-sơn và sau đó là “tân cổ điển của Rê-gân-nô-
míc” trước kia…, hầu hết các chuyên gia và giới hoạch định chính sách trên thế giới đều thể hiện
rõ tính thực dụng trong việc tìm kiếm các lý thuyết phục vụ cho các giải pháp chính sách của
mình. Đây là kinh nghiệm rất đáng để chúng ta tham khảo.
Người gửi: ThuThuy -- 08/01/2007 01:01 PM
John Maynard Keynes (1883 - 1946)
ĐĂNG NHẬP
( Bình chọn: 1 -- Thảo luận: 0 -- Số lần đọc:
6141) Tên truy
cập:
Keynes có lẽ là nhà kinh tế học nổi tiếng nhất loài người.
Điều này chẳng đáng ngạc nhiên, vì 2 lý do. Trước tiên, Mật khẩu:
nghiên cứu của ông là công trình quan trọng nhất trong
vòng vài thập kỷ phát triển của kinh tế học, và làm thay đổi
toàn bộ chính sách kinh tế thế giới sau Thế chiến II. Tiếp Lưu thông tin
theo, lý do nổi tiếng nữa là có lẽ ông là nhà kinh tế học
đứng tên đại diện cho nguyên cả một nhánh lớn của kinh tế
mang tên ông (chủ nghĩa Keynesian).
Đóng góp lớn nhất của ông vào cuộc tranh
cãi kinh tế học lúc đó là đưa ra bản phê bình
cả lý thuyết kinh tế cổ điển khi đó đang Quên mật khẩu
thống trị các khối ra quyết định trong nền
kinh tế. Cha Keynes là nhà kinh tế và mẹ Tại sao Saga?
ông đã từng là thị trưởng Cambridge.
Keynes tới Eton (với tư cách học giả) và rồi
King's College Cambridge để nghiên cứu
Kinh điển và Toán học. Năm 1911 ông là Biên tập viên của 1 Bài viết vàng / 17 Bài viết
the Economic Journal - Tạp chí kinh tế học danh tiếng Nhất bạc
nước Anh. Không giống như nhiều người nghĩ, ông có nội
tâm phong phú, không phải là nhà kinh tế học định kiến.
Ông là thành viên của Bloomsbury Group - một tổ chức của
trí thức mà thành viên bao gồm cả những tên tuổi rất nổi
tiếng như Virginia Woolf, E.M.Forster và Bertrand Russell.
Ông là người đầu cơ mạnh tay, và khi phụ trách tài chính
của King's College ông đã làm giàu rất nhiều cho trường Liên hệ nóng:
này! Ông là cố vấn của một số tập đoàn tài phiệt lớn. Ông YM
đóng vai trò quan trọng trong quá trình phục hồi kinh tế thế :
giới sau thế chiến II.
Nghiên cứu của ông Keynes trải rộng và ông viết về bất kỳ
Email: info@saga.vn
vấn đề kinh tế nào ông cho là quan trọng, thường xuyên chỉ
trích nặng nề các chính sách thời đó. Ông đặc biệt chỉ trích
khoản tiền bắt nước Đức bồi thường sau Thế chiến I, ông
viết:
- The economic consequences of the peace (1919)
Sau đó ông chỉ trích quyết định của Churchill quay về chế
độ bản vị vàng với cùng tỉ lệ chuyển đổi với lúc trước chiến
tranh, do đó ông viết:
- The economic consequences of Mr Churchill
Tuy nhiên, công trình nổi tiếng nhất công bố 1936. Cuốn sách này được xem như đánh dấu sự
ra đời của kinh tế học vĩ mô hiện đại. Mặc dù đọc nó không mấy dễ dàng, cuốn sách bán rất
chạy. Nó làm thay đổi không chỉ bộ mặt của giới khoa học kinh tế, mà cả thực tế các quá trình
ra quyết định kinh tế khắp thế giới. Nhiều chính phủ sau Thế chiến II (gồm cả Anh và Hoa Kỳ)
tự coi họ theo chủ nghĩa Keynesian. Tên công trình làm đảo lộn cả thế giới là:
"The General Theory of Employment, Interest and Money" (1936).
Khi học đại học, Keynes nhà toán học và kinh tế học của chúng ta nhận điểm thấp nhất ở chính
2 môn này, toán học và kinh tế học!

You might also like