You are on page 1of 57

1.

Các vấn đề cơ bản về sở giao dịch

2. Các vấn đề cơ bản về TT OTC

3. Bình luận về giao dịch trên sở giao dịch HCM và Hà nội

4. Bình luận về giao dịch cp trên TT OTC và TT cổ phiếu DN vừa và nhỏ

5. Bình luận cp OTC và TT cp tăng trưởng

6. Các vấn đề cơ bản về nhà tạo lập thị trường trên thị trường OTC

7. Mqh giữa TT thứ cấp và sơ cấp. Bình luận về mqh hệ này ở VN.

8. Bình luận về TT thứ cấp ở VN.

9. Bình luận về giao dịch trái phiếu.

10. Các vấn đề cơ bản về định giá ck

11. Các quan hệ trong định gia TP

12. Các phương thức đầu tư cơ bản trong đầu tư chứng khoán.

13. Các loại rủi ro cơ bản trong đầu tư chứng khoán

14. Các lênh cơ bản trong GDCK.

15. Các chủ thể tham gia thị trường chứng khoán

16. Phân tích đặc điểm của chứng khoán

17. Nhận xét về tính thanh khoản trên TTCKVN

18. Nhận xét về hàng hóa trên TTCKVN

19. Phân tích ưu nhược điểm của TP chuyển đổi.

20. Phân tích các mph của đặc điểm ck.

21. Phân tích vai trò của TTCK. Liên hệ VN.

22. Cơ hội và thách thức của TTCKVN thời gian tới.

23. Tác động của TTCK Mỹ đến TTCKVN thời gian qua.

24. Quy trình phân tích cơ bản trong TTCK.

25. Các nhân tố ảnh hưởng đến giá trị và thị giá ck
26. Khả năng thanh toán và khả năng trả nợ ảnh hưởng đến giá trị ck ntn?
Câu 1: Sở giao dịch chứng khoán.

SGDCK là thị trường giao dịch chứng khoán được thực hiện tại một địa điểm tập trung gọi là sàn
giao dịch (trading floor) hoặc thông qua hệ thống máy tính.

Hình thức sở hữu của SGDCK

Sở giao dịch chứng khoán là một tổ chức có tư cách pháp nhân được thành lập theo quy định của
pháp luật. Lịch sử hình thành và phát triển SGDCK các nước đã và đang trải qua các hình thức
sở hữu sau:

- Hình thức sở hữu thành viên: SGDCK do các thành viên là các công ty chứng khoán sở
hữu, được tổ chức dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn, có HĐQT do các công ty
chứng khoán thành viên bầu ra theo từng nhiệm kỳ. Mô hình này có ưu điểm: Thành viên
vừa là người tham gia giao dịch, vừa là người quản lý sở nên chi phí thấp và dễ ứng phó
với tình hình thay đổi trên thị trường.
- Hình thức công ty cổ phần: SGDCK được tổ chức dưới hình thức một công ty cổ phần
đặc biệt do các công ty chứng khoán thành viên, ngân hàng, công ty tài chính, bảo hiểm
tham gia sở hữu với tư cách là cổ đông. Tổ chức, hoạt động của SGDCK theo Luật công
ty và hoạt động hướng tới mục tiêu lợi nhuận.
- Hình thức sở hữu Nhà nước: Thực chất trong mô hình này, Chính phủ hoặc một cơ
quan của Chính phủ đứng ra thành lập, quản lý và sở hữu một phần hay toàn bộ vốn của
SGDCK. Ưu điểm: không chạy theo mục tiêu lợi nhuận, nên bảo vệ được quyền lợi của
nhà đầu tư. Ngoài ra, trong những trường hợp cần thiết, nhà nước có thể can thiệp kịp
thời để giữ cho thị trường hoạt động ổn định, lành mạnh. Nhược điểm: thiếu tính độc lập,
cứng nhắc, chi phí lớn và kém hiệu quả.

Hình thức tổ chức của SGDCK

Mặc dù thị trường chứng khoán của các quốc gia trên thế giới có thời điểm ra đời khác nhau,
theo mô hình cổ điển hay mô hình mới nổi và hình thức sở hữu khác nhau nhưng các sở giao
dịch chứng khoán đều có cơ cấu tổ chức như sau:
Đại hội đồng cổ đông

Hội đồng quản trị

Ban giám đốc

Các phòng chức năng

Phòng Phòng Phòng Phòng Phòng Phòng Phòng Văn


thành niêm giao giám nghiên kế công phòng
viên yết dịch sát cứu và toán nghệ
phát kiểm tin học
triển toán

Hội đồng quản trị

Là cấp cao nhất ra các quyết định về hoạt động của SGDCK, có các thành viên đại diện là những
người có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến thị trường chứng khoán. Thành viên hội đồng
quản trị gồm đại diện của công ty chứng khoán thành viên và một số đại diện không phải là
thành viên như tổ chức niêm yết, giới chuyên môn, nhà kinh doanh, chuyên gia luật và các thành
viên đại diện cho chính phủ.

Ban giám đốc điều hành:

Ban giám đốc điều hành chịu trách nhiệm về hoạt động của SGDCK, giám sát các hành vi giao
dịch của các thành viên, dự thảo các quy định và quy chế của sở giao dịch chứng khoán. Ban
giám đốc hoạt động một cách độc lập nhưng chịu sự chỉ đạo trực tiếp của hội đồng quản trị.
Ban giám đốc điều hành, bao gồm người đứng đầu là tổng giám đốc và các phó tổng giám đốc
ddiefu hành phụ trách các lĩnh vực khác nhau.

Các tiểu ban hỗ trợ.

Các chức năng của sở giao dịch chứng khoán càng nhiều cơ quan quản trị càng cần phải chia
thành nhiều ban, các ban này có chức năng tư vấn, hỗ trợ cho hội đồng quản trị và ban giám đốc
điều hành trên cơ sở đưa ra các ý kiến đề xuất thuộc lĩnh vực ban của mình nghiên cứu.

Ngoài ra, một số sở giao dịch chứng khoán còn thành lập một số ban đặc biệt để giải quyết các
vấn đề đặc biệt về quản lý, tư vấn hoặc sử phạt. Tất các hoặc một số thành viên của ban là thành
viên của hội đồng quản trị và nằm trong số các thành viên bênh trong hoặc thành viên bên ngoài
sở giao dịch.

Các phòng, ban của SGDCK.

Tùy theo công việc hoạt động của SGDCK mà chia thành nhóm hay các bộ phận khác nhau. Tuy
nhiên, không có một phương pháp phân chia nào cả, mà phần lớn các SGDCK dựa trên cơ sở đặc
thù của mình để phân chia thành các nhóm sao cho đạt được hiệu quả tối ưu trong hoạt động của
mình. Khi mới thành lập SGDCK có một số phòng ban nhất định liên quan đến các hoạt động
thành viên, niêm yết, giao dịch, giám sát và công bố thông tin. Về sau thị trường phát triển và có
thêm các phòng ban khác nhằm giúp điều hành các công việc, như phòng các công cụ phái sinh,
phòng quốc tế hóa thị trường.

Tuy nhiên, các phòng ban được xây dựng tên cơ sở 3 khối công việc sau:

 Các phòng chuyên môn:

- Phòng giao dịch.


- Phòng niêm yết.
- Phòng thành viên.

 Các phòng phụ trợ:

- Phòng kế hoạch và nghiên cứu.


- Phòng hệ thống điện toán.
- Phòng tổng hợp, đối ngoại.

 Các phòng về kiểm soát và thư ký:

Việt Nam:

SGDCK TPHCM:
- Sở Giao dịch Chứng khoán TP. Hồ Chí Minh (SGDCK TP.HCM), tiền thân là Trung tâm
Giao dịch Chứng khoán TP.Hồ Chí Minh, được chuyển đổi theo Quyết định 599/QĐ-TTg
ngày 11/05/2007 của Thủ tướng Chính phủ.
- Sở Giao dịch Chứng khoán TP.Hồ Chí Minh là pháp nhân thuộc sở hữu Nhà nước, được
tổ chức theo mô hình công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, hoạt động theo Luật
Chứng khoán, Luật Doanh nghiệp, Điều lệ của Sở Giao dịch chứng khoán và các quy
định khác của pháp luật có liên quan. - Tên gọi đầy đủ: Sở Giao Dịch Chứng khoán
thành phố Hồ Chí Minh. - Tên giao dịch quốc tế: Hochiminh Stock Exchange. - Tên viết
tắt: HOSE. Sở Giao dịch Chứng khoán TP.Hồ Chí Minh có quyền hạn và nghĩa vụ như
sau:
a. Quyền hạn
- Ban hành các quy chế về niêm yết chứng khoán, giao dịch chứng khoán, công bố thông
tin và thành viên giao dịch sau khi được Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước chấp thuận;
- Tổ chức và điều hành hoạt động giao dịch chứng khoán tại Sở giao dịch chứng khoán;
- Tạm ngừng, đình chỉ hoặc huỷ bỏ giao dịch chứng khoán theo Quy chế giao dịch chứng
khoán của Sở giao dịch chứng khoán trong trường hợp cần thiết để bảo vệ nhà đầu tư;
- Chấp thuận, huỷ bỏ niêm yết chứng khoán và giám sát việc duy trì điều kiện niêm yết
chứng khoán của các tổ chức niêm yết tại Sở giao dịch chứng khoán;
- Chấp thuận, huỷ bỏ tư cách thành viên giao dịch; giám sát hoạt động giao dịch chứng
khoán của các thành viên giao dịch tại Sở giao dịch chứng khoán;
- Giám sát hoạt động công bố thông tin của các tổ chức niêm yết, thành viên giao dịch tại
Sở giao dịch chứng khoán;
- Cung cấp thông tin thị trường và các thông tin liên quan đến chứng khoán niêm yết;
- Thu phí theo quy định của Bộ Tài chính.
- Làm trung gian hoà giải theo yêu cầu của thành viên giao dịch khi phát sinh tranh chấp
liên quan đến hoạt động giao dịch chứng khoán;.

b. Nghĩa vụ

- Bảo đảm hoạt động giao dịch chứng khoán trên thị trường được tiến hành công khai,
công bằng, trật tự và hiệu quả;
- Thực hiện chế độ kế toán, kiểm toán, thống kê, nghĩa vụ tài chính theo quy định của
pháp luật;
- Thực hiện công bố thông tin về giao dịch chứng khoán, thông tin về tổ chức niêm yết tại
Sở giao dịch chứng khoán, thông tin về công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ, quỹ
đầu tư chứng khoán, công ty đầu tư chứng khoán và thông tin giám sát hoạt động của thị
trường chứng khoán;
- Cung cấp thông tin và phối hợp với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong công tác
điều tra và phòng, chống các hành vi vi phạm pháp luật về chứng khoán và thị trường
chứng khoán;
- Phối hợp thực hiện công tác tuyên truyền, phổ biến kiến thức về chứng khoán và thị
trường chứng khoán cho nhà đầu tư;
- Bồi thường thiệt hại cho thành viên giao dịch trong trường hợp Sở giao dịch chứng
khoán gây thiệt hại cho thành viên giao dịch, trừ trường hợp bất khả kháng.
Cơ cấu tổ chức:

SGDCK Hà Nội:

Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội (SGDCK Hà Nội) được thành lập theo Quyết định số
01/2009/QĐ-Ttg ngày 2/1/2009 của Thủ tướng Chính phủ trên cơ sở chuyển đổi, tổ chức lại
Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Hà Nội.

TTGDCK Hà Nội, được thành lập theo Quyết định số 127/1998/QĐ-TTg ngày 11/7/1998, chính
thức đi vào hoạt động từ năm 2005 với các hoạt động chính là tổ chức thị trường giao dịch chứng
khoán niêm yết, đấu giá cổ phần và đấu thầu trái phiếu. Sau 4 năm hoạt động, TTGDCK Hà Nội
đã có những bước trưởng thành nhanh và mạnh, thu hút được sự quan tâm của doanh nghiệp và
công chúng đầu tư. TTGDCK Hà Nội đã được Chủ tịch Nước CHXHCN Việt Nam trao tặng
Huân chương Lao động Hạng ba vì đã có thành tích suất xắc trong việc thúc đẩy sự phát triển có
hiệu quả của thị trường chứng khoán, góp phần vào sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa xã hội và bảo
vệ Tổ quốc.

SGDCK Hà Nội kế thừa mọi quyền và nghĩa vụ của TTGDCK Hà Nội và thực hiện các quyền,
nghĩa vụ quy định tại Luật Chứng khoán, Luật Doanh nghiệp, Điều lệ tổ chức và hoạt động của
SGDCK Hà Nội và các quy định pháp luật khác có liên quan.

Cơ cấu tổ chức:
Phương thức giao dịch

TTGDCK hoặc SGDCK tổ chức giao dịch chứng khoán thông qua hệ thống giao dịch theo 2
phương thức:

Phương thức khớp lệnh: là phương thức giao dịch được hệ thống giao dịch thực hiện trên cơ sở
khớp các lệnh mua và lệnh bán chứng khoán của khách hàng theo nguyên tắc xác định giá thực
hiện như sau:

- Là mức giá thực hiện đạt được khối lượng giao dịch lớn nhất.

- Nếu có nhiều mức giá thoả mãn điều kiện về khối lượng nêu trên thì mức giá trùng hoặc gần
với giá thực hiện của lần khớp lệnh gần nhất sẽ được chọn.

- Nếu vẫn có nhiều mức giá thỏa mãn hai điều kiện nêu trên thì mức giá cao hơn sẽ được chọn.

Phương thức thoả thuận: là phương thức giao dịch trong đó các thành viên tự thoả thuận với
nhau về các điều kiện giao dịch.

UBCKNN qui định cụ thể việc áp dụng các phương thức giao dịch đối với mỗi loại chứng khoán
trong từng thời kỳ.

Câu 2: Thị trường OTC.

Thị trường chứng khoán phi tập trung (OTC) là thị trường không có trung tâm giao dịch tập
trung, đó là một mạng lưới các nhà môi giới và tự doanh chứng khoán mua và bán với nhau và
với các nhà đầu tư, các hoạt động giao dịch của thị trường OTC được diễn ra tại các quầy (sàn
giao dịch) của các ngân hàng và công ty chứng khoán.

Thị trường OTC là loại thị trường chứng khoán xuất hiện sớm nhất trong lịch sử hình thành và
phát triển của thị trường chứng khoán.

Cơ chế xác lập giá là bằng hình thức thương lượng và thỏa thuận song phương giữa người mua
và người bán là chủ yếu, còn hình thức xác lập giá bằng đấu lệnh chỉ được áp dụng hạn chế và
phần lớn là các lệnh nhỏ.

Tổ chức:

Thị trường OTC được tổ chức theo hình thức phi tập trung, không có địa điểm giao dịch mang
tính tập trung giữa bên mua và bên bán

Thị trường sẽ diễn ra tại các địa điểm giao dịch của các ngân hàng, công ty chứng khoán và các
địa điểm thuận tiện cho người mua và bán.

Hàng hóa:

Chứng khoán trên thị trường OTC bao gồm 2 loại:

Thứ nhất: chiếm phần lớn là các chứng khoán chưa đủ điều kiện niêm yết trên SGD song đám
ứng các điều kiện về tính thanh khoản và yêu cầu tài chính tối thiểu của thị trường OTC, trong
đó chủ yếu là các chứng khoán của các công ty vừa và nhỏ, công ty công nghệ cao và có tiềm
năng phát triển.

Thứ hai: là các loại chứng khoán đã niêm yết trên SGDCK.

 Chứng khoán niêm yết và giao dịch trên thị trường OTC rất đã dạng và có độ rủi
ro cao hơn so với các chứng khoán niêm yết trên SGDCK.

Cơ chế giao dịch:

Cơ chế xác lập giá trên thị trường OTC chủ yếu được thực hiện thông qua phương thức thương
lượng và thỏa thuận song phương giữa bên mua và bên bán, khác với cơ chế đấu giá tập trung
trên SGDCK.

Hình thức khớp lệnh trên thị trường OTC rất ít phổ biến và chỉ được áp dụng đối với các lệnh
nhỏ.

Giá CK được hình thành qua thương lượng và thỏa thuận nên sẽ có nhiều mức giá khác nhau đối
với một chứng khoán tại một thời điểm.

Quản lý thị trường:


Cấp quản lý thị trường OTC được chia thành 2:

- Quản lý Nhà nước: do cơ quan quản lý thị trường chứng khoán trực tiếp quản lý theo
pháp luật về chứng khoán và các luật có liên quan, cơ quan này thường là Ủy bản chứng
khoán.
- Cấp tự quản lý: Có thể là do Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán quản lý (Mỹ, Hàn
Quốc, Thái Lan …), hoặc do trực tiếp Sở giao dịch đồng thời quản lý (Anh, Pháp,
Canada…)

 Mục tiêu là đảm bảo sự ổn định và phát triển liên tục của thị trường.

Cơ chế thanh toán:

Cơ chế thanh toán trên thị trường OTC rất linh hoạt và đa dạng.

Do phần lớn các giao dịch mua bán trên thị trường OTC được thực hiện trên cơ sở thương lượng
và thỏa thuận nên phương thức thanh toán trên thị trường OTC linh hoạt giữa người mua và bán,
khác với phương thức thanh toán bù trừ đa phương thống nhất trên thị trường tập trung.

Thời hạn thanh toán không cố định như trên thị trường tập trung mà rất đa dạng: T + x, tùy theo
từng thương vụ và sự phát triển của thị trường.

Thị trường OTC Việt Nam

Có thể đánh giá thị trường chứng khoán như một tảng băng mà ba phần nổi là thị trường niêm
yết tập trung trên sàn giao dịch và bảy phần chìm là thị trường phi tập trung (hay còn gọi là
OTC). Thử làm một so sánh để xem có gì khác nhau của hai thị trường này:

- Nếu thị trường niêm yết có khoảng 200 doanh nghiệp thì thị trường OTC có hơn 800
doanh nghiệp (con số thống kê của Hội thảo “Tác động của kinh tế thế giới đến kinh tế-
tài chính Việt Nam”). Một thống kê khác cho thấy, Việt Nam đã cổ phần hoá được 3.000
doanh nghiệp sau hơn 10 năm.
- Thị trường chính thức có tổng giá trị niêm yết của các doanh nghiệp là 3,2 tỷ USD, thì thị
trường OTC ước tính là 6 tỷ USD (số liệu nghiên cứu của Tập đoàn HSBC Holdings Plc).
Một ước tính khác đánh giá thị trường OTC gấp từ 3 đến 6 lần thị trường chính thức!?
- Thị trường niêm yết có khoảng 70 công ty chứng khoán hoạt động thì thị trường OTC có
hàng trăm, hàng ngàn nhà môi giới hoạt động tự do, không cần có chứng chỉ của Uỷ ban
chứng khoán Nhà nước. Thị trường chính thức có khoảng 160.000 nhà đầu tư (tính đến
tháng 3/2007), nhưng không thể tính được con số này ở thị trường OTC nơi mà ngoài cán
bộ, nhân viên của doanh nghiệp cổ phần thì bất kỳ ai đều có thể trở thành nhà đầu tư.
- Thị trường niêm yết chỉ có cổ phiếu, chứng chỉ qũy và trái phiếu thì thị trường OTC có
thêm cổ phiếu biên lai, cổ phiếu chưa ra sổ, năm thâm niên và cổ phiếu…giả.
- Thị trường niêm yết quy định chặt chẽ về việc công bố thông tin thì thị trường OTC chỉ
có "công bố"….tin đồn.
- Thị trường niêm yết có hàng trăm văn bản của các cơ quan quản lý Nhà nước thì thị
trường OTC có …01 văn bản yêu cầu các doanh nghiệp đăng ký công ty đại chúng.
- Các hành vi vi phạm pháp luật cũng chủ yếu diễn ra ở thị trường OTC như rửa tiền, lừa
đảo, tung tin đồn…

Nếu nói thị trường niêm yết lớn (mức vốn hóa là 24 tỷ USD) thì thị trường OTC là vô cùng lớn!
Nếu nhận định thị trường niêm yết còn thiếu tính minh bạch thì thị trường OTC đang không
minh bạch. Khủng hoảng đối với TTCK nếu xảy ra sẽ bắt nguồn từ thị trường OTC

Thị trường OTC Việt Nam đang tồn tại là một thực thể khách quan. Hoạt động của thị trường
còn manh mún,rời rạc, tổ chức của thị trường này chưa được chặt chẽ, chưa có người tạo lập và
dẫn dắt thị trường – chưa có một thị trường OTC theo đúng nghĩa.

Nhà đầu tư và tổ chức của các nhà đầu tư:

Việc tham gia thị trường OTC rất đơn giản, tất cả mọi người đều có thể tham gia mua bán chứng
khoán. Tuy nhiên, hoạt động của các nhà đầu tư trên thị trường không phải là độc lập mà họ
thường thành lập các nhóm, hội, diễn đàn để trao đổi thông tin với nhau. HIện nay, phương thức
trao đổi được các nhà đầu tư tự do ưa thích là trao đổi qua diễn đàn trên mạng Internet hoặc trao
đổi tại các điểm “café chứng khoán”.

Việc một nhà đầu tư tham gia đầu tư vào tất cả các lĩnh vực, các nơi là rất hiếm. Các nhà đầu tư,
nhóm các nhà đầu tư tập trung vào một số ngành, lĩnh vực trong một khu vực địa lý (TPHCM,
Hà Nội …) là chủ yếu.

Ngoài ra, với lợi thế của mình, các công ty chứng khoán còn tham gia trên thị trường này với tư
cách là các nhà môi giới.

Những khó khăn và rủi ro của các nhà đầu tư trên thị trường OTC.

Với cơ chế giao dịch tự thỏa thuận giữa hai bên mua và bán là chính, đồng thời là việc thu thập
thông tin khá khó khăn, độ tin cậy và căn cứ khi đưa ra các quyết định đầu tư là rất thấp. Do đó,
rủi ro đối với các nhà đầu tư trên thị trường OTC là rất lớn. Việc mua phải các loại cổ phiếu dỏm
của những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ vì một lí do nào đó được đánh bóng lên là điều hoàn toàn
có thể xảy ra. Trường hợp mua phải như vậy, các nhà đầu tư chỉ có một cách duy nhất là chịu
mất tiền mà chẳng có một cơ chế nào bảo vệ họ.

Chính những vấn đề nêu trên đã hạn chế sự tham gia của các nhà đầu tư tự do, hạn chế hoạt động
của thị trường OTC. Các nhà đầu tư tự do thường chỉ tham gia đầu tư vào các công ty hoạt động
trong lĩnh vực mà họ có sở trường.

Mặt khác, trên thị trường OTC Việt Nam, các giao dịch diễn ra rời rạc, không có sự liên kết.
Không có bất cứ ai giám sát hay chịu trách nhiệm. Hay nói một cách khác là hiện tại chưa có
những nhà tổ chức thị trường.

Nói chung việc mua bán, giao dịch chứng khoán trên thị trường phi chính thức thường diễn ra
xung quanh những người biết rõ về doanh nghieepjd dó. Trường hợp những nhà đầu tư mới tham
gia vào là rất hạn chế. Đây cũng là một trong những nguyên nhân chính làm cho thị trường OTC
ở Việt Nam kém sôi động. Tỷ lệ đầu tư vào cổ phiếu chiếm một phần rất nhỏ so với tỷ lệ tiền gửi
tại các tổ chức tài chính.

Cơ chế mua bán.

Việc mua bán các loại cổ phiếu trên thị trường OTC Việt Nam được thực hiện theo phương thức
“thuận mua, vừa bán” mà không bị bất cứ một lực bên ngoài nào (giới hạn giá, lượng cổ
phiếu…) nào tác động. Tuy nhiên, nhiều khi cũng xảy ra vấn đề bất cân xứng về thông tin trong
quá trình mua bán, giao dịch các loại chứng khoán trên thị trường này. Nói chung, cơ chế mua
bán các loại chứng khoán trên thị trường OTC theo đúng cơ chế thị trường.

Mặc dù thực hiện theo cơ chế thuận mua vừa bán, nhưng thực tế, việc giao dịch mua bán, nhất là
mua bán các loại cổ phiếu của các công ty cổ phần hóa lần đầu không phải lúc nào cũng tuân
theo cơ chế này.

Câu 3: Bình luận về giao dịch trên sở giao dịch HCM và Hà nội

TTCK VN từ đầu năm 2009-> nay chia làm 4 giai đoạn rõ rệt:
Giai đoạn một từ 01/01/2009 tới 24/02/2009,
Giai đoạn hai từ 24/02/2009 tới 30/06/2009,
giai đoạn ba từ 30/06/2009 tới 22/10/2009,
giai đoạn bốn từ 22/10/2009 tới nay.
Giai đoạn một: 01/01/2009 tới 24/02/2009 : sụt giảm mạnh do ảnh hưởng của suy giảm kinh tế
Suy thoái kinh tế thế giới chưa có dấu hiệu chấm dứt, những hoài nghi về khả năng vực dậy nền
kinh tế của chính phủ các nước chưa được giải tỏa, thị trường chứng khoán thế giới liên tục sụt
giảm mạnh khiến thị trường chứng khoán Việt Nam tiếp tục đổ dốc trong suốt hai tháng đầu năm
2009. Mọi diễn biến của các chỉ số chứng khoán Việt Nam luôn đi cùng chiều với những biến
động của chỉ số chứng khoán thế giới, chỉ số chứng khoán thế giới tăng hay giảm, VnIndex và
HnxIndex cũng tăng và giảm theo. Trong xu hướng đó, các chỉ số chứng khoán chính trên thế
giới liên tục phá vỡ các mốc điểm quan trọng (DowJones chạm mốc đáy 6.547,05 điểm, Nikkei
225 chạm mốc đáy 7.054,98),VnIndex và HnxIndex cũng rơi dần về mức đáy. Cổ phiếu liên tục
mất giá, tính thanh khoản trên thị trường sụt giảm do luợng cầu yếu trong khi lượng cung tăng ồ
ạt, tâm lý nhà đầu tư ngày càng trở lên hoang mang, đó là nguyên nhân dẫn đến tình trạng thị
trường chứng khoán "lao dốc" không có điểm dừng.Mức đáy của VnIndex được thiết lập trong
giai đoạn này khi chạm mốc 235,5 điểm. So với mức điểm cuối năm 2008, VnIndex đã giảm
80,12 điểm, tương đương 25,38%. Tính thanh khoản giảm sút nghiêm trọng, khối lượng giao
dịch và giá trị giao dịch đều ở mức thấp. Trung bình, mỗi phiên chỉ có 7.860.421 CP&CCQ được
chuyển nhượng, tương đương 170,02 tỷ đồng.Tương tự diễn biến giao dịch sàn HSX, sàn HNX
cũng trải qua một giai đoạn đầy khó khăn khi Hnx-Index lùi về dưới ngưỡng 100 điểm và giao
dịch dưới mốc điểm này trong một thời gian dài. Mức đáy của Hnx-Index là 78,06 điểm.
Giai đoạn hai: Từ 25/02/2009 tới 30/06/2009 : hồi phục
Hưởng ứng sự hồi phục trở lại của thị trường chứng khoán thế giới,thị trường chứng khoán Việt
Nam cũng khởi động một chu kỳ tăng trưởng mạnh mẽ. Trong giai đoạn này, nền kinh tế trong
nước phát đi những tín hiệu phục hồi, dần thoát khỏi khủng hoảng, chính sách vĩ mô trong nước
có tác dụng hỗ trợ tích cực, hoạt động kinh doanh của một số doanh nghiệp niêm yết lớn đạt kết
quả khả quan khiến VnIndex và HnxIndex có được những phiên tăng điểm liên tiếp. Trong suốt
gần bốn tháng cuối kỳ, VnIndex và HnxIndex đã có được sự hồi phục nhanh chóng và có phần
vượt bậc so với sự hồi phục của các chỉ số chứng khoán thế giới. Điều này tạo ra một tâm lý
phấn chấn đối với các nhà đầu tư, một lượng tiền lớn đổ vào thị trường trong một thời gian dài,
cầu lớn khiến giá cổ phiếu tăng trưởng nhanh chóng, VnIndex đóng cửa phiên giao dịch ngày
30/06/2009 tại mức điểm 448,29điểm, tức tăng 42,3% so với mức điểm cuối năm 2008 và tăng
được 90,36% so với mức đáy 235,5 điểm. Tính thanh khoản trên thị trường được cải thiện từng
ngày, bình quân mỗi phiên giao dịch có tới 38.983.548 CP được chuyển nhượng, tương đương
1.142 tỷ đồng. Sau nhiều nỗ lực, HnxIndex cũng vượt qua ngưỡng điểm tâm lý 100 và bật trở lại
ngưỡng điểm 149,09 điểm vào ngày 30/06/2009.
Giai đoạn: từ 30/06/2009 tới 22/10/2009 :Giai đoạn tăng mạnh và ổn định
Kết quả kinh doanh quý 2 của hầu hết các doanh nghiệp niêm yết là khả quan và có sự cải thiện
so với quý 1 năm nay. Tình hình kinh tế vĩ mô nhìn chung cũng đã có những dấu hiệu phục hồi
trong khi lạm phát được duy trì ở mức thấp... Tất cả những tín hiệu tích cực nêu trên đều ủng hộ
sự phục hồi của TTCK. Dòng tiền tiếp tục
chảy mạnh vào thị trường chứng khoán khiến giá trị giao dịch liên tiếp lập các
kỷ lục mới. Kết quả: VnIndex nằm trong 10 chỉ số chứng khoán có mức
tăng trưởng nhanh nhất trên thế giới, chỉ đứng sau một số thị trường như: Peru,
Nga...Chỉ số Vn-index đã đạt mức kỉ lục mới trong năm là 624,10 điểm vào ngày 22/10/2009 ,
với khối lượng 91.618.620 đơn vị, tương ứng với giá trị giao dịch lên tới 4571.183 tỷ. HNX-
index cũng tương tự đạt mức kỉ lục 218, 38 vào ngày 22/10/2009 với khối lượng giao dịch
65.524.000 đơn vị , tương ứng giá trị giao dịch là 3047.903 tỷ.
Giai đoạn 4: từ 20/10 đến nay: Giai đoạn điều chỉnh giảm của thị trường.
Tháng 11 khép lại với VN-Index 504,12 điểm và HNX 161,85 điểm. Phiên cuối cùng của tháng
11 so với phiên cuối cùng của tháng 10, VN-Index giảm 83 điểm (-14,14%); HNX giảm 37,53
điểm (-18,82%).
Đây là tháng đầu tiên kể từ tháng 3 và là tháng thứ ba kể từ đầu năm đến nay, VN-Index bị giảm
điểm (tháng 1 giảm 3,9%, tháng 2 giảm 19%, tháng 3 tăng 14,2%, tháng 4 tăng 14,6%, tháng 5
tăng 29%, tháng 6 tăng 8,9%, tháng 7 tăng 4,1%, tháng 8 tăng 17,1%, tháng 9 tăng 6,2%, tháng
10 tăng 1,1%). Trong tháng 11, VN-Index mấy lần rơi xuống hết đáy này (524,4 điểm ngày
10.11) đến đáy khác sâu hơn (482,6 điểm ngày 20.11). Tháng 11 trong 10 năm qua có 6 năm
tăng, 4 năm giảm (2004, 2007, 2008, 2009), năm 2009 VN-Index bị giảm lớn nhất.

Câu 4: Bình luận về giao dịch cp trên TT OTC và TT cổ phiếu DN vừa và nhỏ

1. Khái niệm thị trường sơ cấp


Thị trường sơ cấp là nơi diễn ra quá trình mua bán lần đầu các chứng khoán mới phát hành. Thị
trường sơ cấp còn được gọi là thị trường cấp một hay thị trường phát hành.
2. Chức năng của thị trường sơ cấp
Thị trường sơ cấp thực hiện chức năng quan trọng nhất của thị trường chứng khoán, đó là huy
động vốn cho đầu tư.
Có 2 phương pháp phát hành chứng khoán trên thị trường sơ cấp. Đó là phát hành riêng lẻ và
phát hành ra công chúng.
a) Phát hành riêng lẻ
b) Phát hành ra công chúng
* Phát hành cổ phiếu ra công chúng được thực hiện theo một trong hai hình thức sau:
- Phát hành lần đầu ra công chúng (IPO): là việc phát hành trong đó cổ phiếu của công ty lần đầu
tiên được bán rộng rãi cho công chúng đầu tư.
- Chào bán sơ cấp (phân phối sơ cấp): là đợt phát hành cổ phiếu bổ sung của công ty đại chúng
cho rộng rãi công chúng đầu tư.
* Phát hành trái phiếu ra công chúng được thực hiện bằng một hình thức duy nhất, đó là chào
bán sơ cấp (phân phối sơ cấp).
Ở Việt Nam, việc phát hành chứng khoán ra công chúng để niêm yết tại Trung tâm giao dịch
chứng khoán phải tuân theo các qui định tại Nghị định 14/NĐ-CP ngày 19/01/2007 của Chính
phủ về chứng khoán và thị trường chứng khoán.
Thực trạng:
- Hoạt động phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng: Năm 2009, Trái ngược với sự sôi động
của thị trường chứng khoán, hoạt động chào bán cổ phiếu lần đầu ra công chúng (IPO) lại lâm
vào cảnh "chợ chiều".
Theo Sở Giao dịch chứng khoán TP HCM (HoSE) và Sở Giao dịch chứng khoán Hà Nội (HNX),
từ đầu năm đến nay, hai đơn vị này tiến hành IPO cho 27 doanh nghiệp , song lượng cổ phần bán
được cho nhà đầu tư (NĐT) không bao nhiêu.
Với sự thờ ơ từ phía NĐT, nhiều doanh nghiệp gặp rất nhiều khó khăn trong việc IPO dù số
lượng Cổ phần chào bán không quá lớn. Điển hình là Công ty cổ phần Bến bãi Sài Gòn chỉ bán
được 22.000 Cổ phần trong tổng số hơn 600.000 Cổ phần chào bán trong phiên đấu giá ngày
16/10, tại HoSE.
Các doanh nghiệp tiến hành IPO với số lượng lớn cũng không khá hơn. Chẳng hạn, Công ty Dây
và cáp điện Việt Nam (Cadivi) bán được hơn 50.000 cổ phần so với lượng chào bán là 2,4 triệu,
Công ty TNHH một thành viên Nước sạch Sài Gòn bán được 45.000 cổ phần trên tổng số 1,6
triệu cố phần chào bán, Công ty Nông sản thực phẩm xuất khẩu Cần Thơ bán được 39.000 cổ
phần trong 10,3 triệu cổ phần chào bán.
Mới đây nhất, ngày 22/10, Công ty Cấp thoát nước Bình Thuận đấu giá 3,6 triệu cổ phần nhưng
NĐT chỉ đăng ký mua hơn 540.000 đơn vị. Có doanh nghiệp phải đấu giá tới bốn lần để hoàn tất
IPO, như Công ty Du lịch Bình Thuận. Thậm chí, không ít doanh nghiệp buộc phải hủy các
phiên đấu giá cổ phần do không có NĐT tham gia, như Công ty Du lịch Tà Cú...
Giải thích về sự ảm đạm của hoạt đông IPO trong thời gian gần đây, nhiều chuyên gia cho rằng,
cơ chế IPO và bán cho nhà đầu tư chiến lược còn nhiều bất hợp lý, nên không thu hút sự quan
tâm của NĐT tổ chức nước ngoài, thiếu hàng "khủng" của các doanh nghiệp "đại gia", đặc biệt là
có phần bị vạ lây bởi sự ảm đạm của thị trường OTC.
- Hoạt động phát hành trái phiếu Chính phủ: quí 1/2009 Chính phủ quyết định phát hành 1 tỷ
USD vốn trái phiếu CP. Nguồn vốn huy động từ đợt phát hành này được sử dụng cho mục đích
đầu tư cho các dự án trọng điểm và bù đắp bội chi ngân sách Nhà nước, theo Quyết định số
211/QĐ-TTg ngày 13/2/2009 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành trái phiếu Chính phủ
bằng ngoại tệ trên thị trường vốn trong nước.
Một thống kê cho thấy, tính đến ngày 9/9, đã có 40 đợt phát hành trái phiếu bằng tiền đồng và 2
đợt phát hành trái phiếu bằng ngoại tệ do Chính phủ bảo lãnh phát hành trong năm 2009 thực
hiện tại HNX. Qua đó, chỉ có 2.310 tỷ đồng và 230 triệu USD huy động được; và có tới 36 phiên
đấu thầu không gọi được một đồng nào; nhiều phiên không có nhà đầu tư tham gia, hoặc chỉ đếm
trên đầu ngón tay.
Lí do: Thứ nhất, cơ chế đấu thầu hiện vẫn sử dụng lãi suất trần.
Thứ hai, thời gian gần đây, do áp lực giải ngân cho các dự án trong gói kích cầu của Chính phủ
nên lãi suất huy động trên thị trường tăng lên, cao hơn lãi suất kỳ vọng của Bộ Tài chính nên
không huy động được vốn hoặc rất ít.

Doanh nghiệp vừa và nhỏ.

Tại buổi hội thảo "Cơ hội sau khủng hoảng cho doanh nghiệp vừa nhỏ" diễn ra ngày 29-8 do
Công ty CP Chứng khoán SaigonBank Berjaya (SBBS) - TP.HCM tổ chức, ông Nguyễn Minh
Tuấn - Giám đốc nghiên cứu, tư vấn SBBS cho rằng, bức tranh kinh tế Việt Nam 6 tháng đầu
năm đã khởi sắc sau thời kỳ suy giảm. Cụ thể: tăng trưởng kinh tế đạt 3,1% trong quý 1 và đã
tăng 4,4% trong quý 2, tính trung bình 6 tháng đầu năm đạt 3,9%. Với tốc độ này, những quý
còn lại của năm tốc độ tăng trưởng dự kiến sẽ trên 5%, sản lượng công nghiệp cũng tăng liên
tục qua các tháng… Bên cạnh đó, những chính sách của Chính phủ nhằm phục hồi nền kinh tế
như lãi suất, giảm thuế, kích cầu đã phát huy tác dụng. Dự báo khả năng ngân hàng nhà nước
tiếp tục duy trì mức lãi suất cơ bản 7% cho những tháng cuối năm. Và có khả năng sẽ có gói
kích cầu thứ 2 để ổn định và phát triển kinh tế mạnh hơn… Theo Hiệp hội các doanh nghiệp
vừa và nhỏ (SME), Việt Nam hiện có khoảng 20% DN gặp khó khăn nhưng có thể tiếp tục
hoạt động. 60% DN sản xuất sút kém và 20% còn lại ít chịu ảnh hưởng và vẫn trụ vững. Điều
này cho thấy Chính phủ cần có những giải pháp để hỗ trợ và phát triển cho các doanh nghiệp
này. Về góc độ đáp ứng nhu cầu vốn cho các hoạt động đầu tư sản xuất kinh doanh của các
doanh nghiệp vừa và nhỏ thì hiện có trên 90% các doanh nghiệp vừa và nhỏ (ngoài quốc
doanh) có nhu cầu vay vốn. Tuy nhiên, chỉ hơn 10% số này được vay 100% theo nhu cầu.
Khoảng 50% các doanh nghiệp vừa và nhỏ huy động vốn từ người thân và bạn bè. Điều này
cho thấy tính cấp bách trong việc huy động vốn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Để hưởng
lợi từ gói kích cầu 17.000 tỷ đồng của Chính phủ để đẩy mạnh sản xuất kinh doanh và duy trì
việc làm, theo ông Tuấn các doanh nghiệp vừa và nhỏ cần có chiến lược kinh doanh, thay đổi
cách quản lý, kết hợp kế hoạch kinh doanh và kế hoạch tài chính… Điểm thuận lợi từ sự phục
hồi của thị trường chứng khoán Việt Nam (TTCK VN) tạo ra một kênh huy động vốn cho các
doanh nghiệp vừa và nhỏ. Chính những đòi hỏi từ thực tế, các doanh nghiệp vừa và nhỏ cần
thay đổi tư duy về cách quản trị để tiếp cận TTCK và thông qua TTCK để đánh giá thành quả
quản trị của mình. Ông Nguyễn Minh Tuấn - giám đốc tư vấn, nghiên cứu SBBS cũng phân
tích thêm, hiện số lượng các doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm gần 94% tổng số doanh nghiệp
của Việt Nam và lực lượng lao động làm việc cho các doanh nghiệp này chiếm hơn 50% tổng
số lao động, giải quyết việc làm cho trên 12 triệu lao động, chiếm 17,64% tổng ngân sách thu
từ các doanh nghiệp, đóng góp trên 30% GDP. Theo ông đây là lực lượng quan trọng của nền
kinh tế cần được tập trung đầu tư và hỗ trợ.
Câu 5: Bình luận cp OTC và TT cp tăng trưởng

1. Khái niệm thị trường sơ cấp


Thị trường sơ cấp là nơi diễn ra quá trình mua bán lần đầu các chứng khoán mới phát
hành. Thị trường sơ cấp còn được gọi là thị trường cấp một hay thị trường phát hành.
2. Chức năng của thị trường sơ cấp
Thị trường sơ cấp thực hiện chức năng quan trọng nhất của thị trường chứng khoán, đó là
huy động vốn cho đầu tư.
Có 2 phương pháp phát hành chứng khoán trên thị trường sơ cấp. Đó là phát hành riêng
lẻ và phát hành ra công chúng.
a) Phát hành riêng lẻ
b) Phát hành ra công chúng
* Phát hành cổ phiếu ra công chúng được thực hiện theo một trong hai hình thức sau:
- Phát hành lần đầu ra công chúng (IPO): là việc phát hành trong đó cổ phiếu của công ty
lần đầu tiên được bán rộng rãi cho công chúng đầu tư.
- Chào bán sơ cấp (phân phối sơ cấp): là đợt phát hành cổ phiếu bổ sung của công ty đại
chúng cho rộng rãi công chúng đầu tư.
* Phát hành trái phiếu ra công chúng được thực hiện bằng một hình thức duy nhất, đó là
chào bán sơ cấp (phân phối sơ cấp).
Ở Việt Nam, việc phát hành chứng khoán ra công chúng để niêm yết tại Trung tâm giao
dịch chứng khoán phải tuân theo các qui định tại Nghị định 14/NĐ-CP ngày 19/01/2007
của Chính phủ về chứng khoán và thị trường chứng khoán.
Thực trạng:
- Hoạt động phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng: Năm 2009, Trái ngược với sự sôi
động của thị trường chứng khoán, hoạt động chào bán cổ phiếu lần đầu ra công chúng
(IPO) lại lâm vào cảnh "chợ chiều".
Theo Sở Giao dịch chứng khoán TP HCM (HoSE) và Sở Giao dịch chứng khoán Hà Nội
(HNX), từ đầu năm đến nay, hai đơn vị này tiến hành IPO cho 27 doanh nghiệp , song
lượng cổ phần bán được cho nhà đầu tư (NĐT) không bao nhiêu.
Với sự thờ ơ từ phía NĐT, nhiều doanh nghiệp gặp rất nhiều khó khăn trong việc IPO dù
số lượng Cổ phần chào bán không quá lớn. Điển hình là Công ty cổ phần Bến bãi Sài
Gòn chỉ bán được 22.000 Cổ phần trong tổng số hơn 600.000 Cổ phần chào bán trong
phiên đấu giá ngày 16/10, tại HoSE.
Các doanh nghiệp tiến hành IPO với số lượng lớn cũng không khá hơn. Chẳng hạn, Công
ty Dây và cáp điện Việt Nam (Cadivi) bán được hơn 50.000 cổ phần so với lượng chào
bán là 2,4 triệu, Công ty TNHH một thành viên Nước sạch Sài Gòn bán được 45.000 cổ
phần trên tổng số 1,6 triệu cố phần chào bán, Công ty Nông sản thực phẩm xuất khẩu Cần
Thơ bán được 39.000 cổ phần trong 10,3 triệu cổ phần chào bán.
Mới đây nhất, ngày 22/10, Công ty Cấp thoát nước Bình Thuận đấu giá 3,6 triệu cổ phần
nhưng NĐT chỉ đăng ký mua hơn 540.000 đơn vị. Có doanh nghiệp phải đấu giá tới bốn
lần để hoàn tất IPO, như Công ty Du lịch Bình Thuận. Thậm chí, không ít doanh nghiệp
buộc phải hủy các phiên đấu giá cổ phần do không có NĐT tham gia, như Công ty Du
lịch Tà Cú...
Giải thích về sự ảm đạm của hoạt đông IPO trong thời gian gần đây, nhiều chuyên gia
cho rằng, cơ chế IPO và bán cho nhà đầu tư chiến lược còn nhiều bất hợp lý, nên không
thu hút sự quan tâm của NĐT tổ chức nước ngoài, thiếu hàng "khủng" của các doanh
nghiệp "đại gia", đặc biệt là có phần bị vạ lây bởi sự ảm đạm của thị trường OTC.
- Hoạt động phát hành trái phiếu Chính phủ: quí 1/2009 Chính phủ quyết định phát hành
1 tỷ USD vốn trái phiếu CP. Nguồn vốn huy động từ đợt phát hành này được sử dụng cho
mục đích đầu tư cho các dự án trọng điểm và bù đắp bội chi ngân sách Nhà nước, theo
Quyết định số 211/QĐ-TTg ngày 13/2/2009 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành
trái phiếu Chính phủ bằng ngoại tệ trên thị trường vốn trong nước.
Một thống kê cho thấy, tính đến ngày 9/9, đã có 40 đợt phát hành trái phiếu bằng tiền
đồng và 2 đợt phát hành trái phiếu bằng ngoại tệ do Chính phủ bảo lãnh phát hành trong
năm 2009 thực hiện tại HNX. Qua đó, chỉ có 2.310 tỷ đồng và 230 triệu USD huy động
được; và có tới 36 phiên đấu thầu không gọi được một đồng nào; nhiều phiên không có
nhà đầu tư tham gia, hoặc chỉ đếm trên đầu ngón tay.
Lí do: Thứ nhất, cơ chế đấu thầu hiện vẫn sử dụng lãi suất trần.
Thứ hai, thời gian gần đây, do áp lực giải ngân cho các dự án trong gói kích cầu của
Chính phủ nên lãi suất huy động trên thị trường tăng lên, cao hơn lãi suất kỳ vọng của Bộ
Tài chính nên không huy động được vốn hoặc rất ít.

2. TT CP tăng trưởng

Cổ phiếu tăng trưởng là cổ phiếu của những doanh nghiệp có doanh số, thu nhập và thị phần
đang tăng với tốc độ nhanh hơn bình quân trong vài năm qua và nhà đầu tư kỳ vọng nó tiếp tục
tăng trưởng lợi nhuận cao Có một điểm nổi bật là cổ phiếu tăng trưởng là loại cổ phiếu của các
doanh nghiệp có những sản phẩm hoặc dịch vụ chất lượng cao, có khả năng nắm bắt đáp ứng
được những nhu cầu thiết yếu và mới của xã hội, tạo ra lợi nhuận biên, lợi nhuận trên vốn cổ
phần và chỉ số P/E cao hơn các cổ phiếu khác. Ngoài ra, lợi nhuận cổ phiếu đó được ước tính sẽ
tăng đáng kể trong 1 hoặc 2 năm tiếp theo. Tuy nhiên, cần phân biệt tăng trưởng dài hạn với bộc
phát tức thời.

Nhà đầu tư cổ phiếu tăng trưởng phải biết cách nhìn vượt lên trên các biến chuyển giá cả
trong ngắn hạn của chứng khoán, từ chối dứt khoát việc trả giá quá cao cho sự tăng trưởng. Mặt
khác, tìm ra và chọn được một cổ phiếu tăng trưởng không phải là việc mà nhà đầu tư nào cũng
làm được, bởi nó đòi hỏi thời gian, sự kiên nhẫn và khả năng phân tích thị trường.
Câu 6: Các vấn đề cơ bản về nhà tạo lập thị trường trên thị trường OTC

Nhà tạo lập thị trường được hiểu là: những thành viên tham gian trên thị trường mua bán các
công cụ tài chính hoạt động theo phương thức khớp giá, thực hiện chức năng đặt các lệnh chào
mua, chào bán. Những nhà tạo lập thị trường tạo ra thị trường có tính thanh khoản cao bằng
cách thường xuyên yết lên các mức giá chào mua, chào bán, qua đó đảm một thị trường hai
chiều.

Cụ thể hơn, Nhà tạo lập thị trường là một công ty môi giới-giao dịch chấp nhận rủi ro nắm giữ
một khối lượng nhất định của một loại chứng khoán nhất định trên thị trường để nhận được lệnh
đặt từ phía khách hàng (là các nhà đầu tư tham giá trên thị trường) bằng cách báo các mức giá
chào mua, chào bán đối với một khối lượng chắc chắn có thể giao dịch của loại chứng khoán
nhất định. Khi nhận được lệnh đặt từ phía khách hàng, nhà tạo lập thị trường sẽ gần như ngay lập
tức bán những chứng khoán mà tổ chức đó nắm giữ trong kho hoặc tìm kiếm một lệnh đối ứng
phù hợp. ( http://www.investopedia.com)

Thực thế ở VN hiện nay vẫn chưa tồn tại chính thức một nhà tạo lập thị trường cũng như chưa có
quy định cụ thể nào cho hoạt động của các nhà tạo lập thị trường.

Nhà tạo lập thị trường là người thực hiện chức năng duy trì thị trường cho một loại CK. Chẳng
hạn, đối với CK A là CK không niêm yết và được mua bán trên thị trường phi tập trung (OTC).
Nhà tạo lập thị trường là người đặt ra mức giá bán CK A cho bên mua với sự thách giá trên cơ sở
tương ứng với mức giá mà bên bán (khách hàng của họ) yêu cầu.
Sau khi nhà đầu tư đặt lệnh mua bán CK A trên thị trường OTC, nhà môi giới sẽ chuyển lệnh này
tới nhà kinh doanh (thuộc bộ phận kinh doanh của công ty môi giới). Nhà kinh doanh sẽ tìm
kiếm người có thể bán số CK A (nhà môi giới bên bán). Lúc này, nhà môi giới bên bán đóng vai
trò là người tạo lập thị trường cho CK A.
Thực tế là có nhiều nhà môi giới sẵn sàng bán CK A và như vậy sẽ có rất nhiều nhà tạo lập thị
trường đối với CK A tương đương với các mức "thách giá" khác nhau. Nhà kinh doanh bắt đầu
tiến hành thương lượng về giá cả của CK A với các nhà tạo lập thị trường để có thể đạt được
mức giá tối ưu. Giao dịch sẽ được thực hiện khi nhà kinh doanh tìm được nhà tạo lập thị trường
bán số CK A với mức giá thấp nhất.
Thông thường các nhà tạo lập thị trường là những nhà môi giới đã được đăng ký. Tuy nhiên,
không phải tất cả các nhà môi giới đã đăng ký đều là những nhà tạo lập thị trường. Để có thể trở
thành một nhà tạo lập thị trường thì người môi giới phải thực sự quan tâm đến việc tạo dựng thị
trường cho một loại CK.
Vai trò của các nhà tạo lập thị trường được thể hiện thông qua các hoạt động sau:
- Duy trì tính linh hoạt của thị trường đối với một loại CK khi CK đó được phát hành ra thị
trường.
- Tăng khả năng thực hiện giao dịch một loại CK có thể sinh lời do sự cạnh tranh về giá cả đặt ra
giữa các nhà tạo lập thị trường khác nhau đối với cùng loại CK đó.
- Thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư tới một loại CK không niêm yết trên thị trường.
- Tăng tính linh hoạt của thị trường đối với một loại CK khi tăng số lượng các nhà tạo lập thị
trường.
Các chuyên gia cũng có thể trở thành "nhà tạo lập thị trường" đối với một loại CK cụ thể trong
điều kiện phải chịu sự kiểm soát chặt chẽ. Sự kiểm soát này sẽ hạn chế được các sai phạm nếu họ
lạm dụng quyền hành độc quyền của mình tại Sở giao dịch.
Bên cạnh đó, các nhà tạo lập thị trường có xu hướng cạnh tranh với nhau do luôn có nhiều nhà
tạo lập thị trường đối với một CK, do đó thị trường OTC được đánh giá là có khả năng tự điều
chỉnh tốt hơn thị trường giao dịch CK tập trung.

Cả chuyên gia CK và nhà tạo lập thị trường đều được tiếp cận với các thông tin đặc biệt do họ
thường xuyên tiếp cận trực tiếp với các thông tin trên sổ lệnh, vì vậy họ có nhiều khả năng bị "rò
rỉ" thông tin khi có sự biến động thị trường. Nếu không bị cấm, các chuyên gia và các nhà tạo lập
thị trường có thể sử dụng các thông tin này (bao gồm các thông tin nội bộ) để thực hiện kinh
doanh cho chính họ nhằm thu lợi nhuận. Đó cũng chính là lý do tại sao những đối tượng này bị
kiểm soát chặt chẽ. Một yêu cầu khác nữa là họ phải công bằng với tất cả các nhà đầu tư, không
được phép thiên vị bất cứ bên nào.
Ngày nay, trên thế giới có nhiều loại thị trường mới ra đời như thị trường cổ phiếu, thị trường
trái phiếu, thị trường tương lai, thị trường quyền chọn... cùng với sự hỗ trợ của các phương thức
giao dịch đa dạng đã không ngừng thúc đẩy sự phát triển của hệ thống TTCK, góp phần vào sự
công bằng, hiệu quả và trật tự đối với các giao dịch tại các thị trường này... Vì vậy vai trò của
các chuyên gia và các nhà tạo lập thị trường là luôn được khẳng định. Trong tương lai không xa,
để TTCK Việt Nam nói chung đi vào vận hành ổn định nên cần sớm tính đến việc xây dựng một
đội ngũ các chuyên gia và nhà tạo lập thị trường đủ năng lực tác nghiệp trên thị trường.

Câu 7: Mqh giữa TT thứ cấp và sơ cấp. Bình luận về mqh hệ này ở VN.

* Thị trường sơ cấp là nơi mua bán các chứng khoán lần đầu tiên, là nơi mà các nhà phát hành

chứng khoán cho nhà đầu tư.

- Đặc điểm của thị trường sơ cấp:

+ TT sơ cấp thể hiện mối quan hệ giữa nhà phát hành và NĐT

+ Trên TT này, vốn từ NĐT được chuyển sang cho nhà phát hành thông qua việc NĐT mua

chứng khoán mới, nhờ đó vốn của nhà phát hành tăng lên.

- Vai trò của TT sơ cấp: thực hiện chức năng quan trọng của TTCK-huy động vốn cho các tổ

chức phát hành. TT sơ cấp còn có khả năng thu gom mọi nguồn vốn tiết kiệm lớn nhỏ của dân

cư, lại vừa có khả năng thu hút nguồn vốn to lớn từ nước ngoài, các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi

từ các DN, các tổ chức...tạo thành nguồn vốn khổng lồ tài trợ cho nền kinh tế mà các phương
thức khác không làm được. Nhờ đó, tạo ra môi trường cho các DN gọi vốn để SXKD, giúp Nhà

nước giải quyết vấn đề thiếu hụt ngân sách thông qua phát hành chứng khoán.

* Thị trường thứ cấp là thị trường giao dịch mua bán, trao đổi những chứng khoán đã được phát

hành nhằm đầu tư kiếm lời, di chuyển vốn đầu tư hay di chuyển tài sản XH.

- Đặc điểm:

+ Thể hiện mối quan hệ giữa các NĐT với nhau

+ Các khoản tiền thu được do bán chứng khoán thuộc về các NĐT và các nhà KDCK mà không

thuộc về nhà phát hành do đó nó không làm tăng vốn của nhà phát hành.

+ Là 1 thị trường hoạt động liên tục, các NĐT có thể mua bán CK nhiều lần trên thị trường thứ

cấp.

- Chức năng:

+ TT thứ cấp làm tăng tính thanh khoản của chứng khoán

+ Là nơi xác định giá chứng khoán cho TT sơ cấp.

* Mối quan hệ giữa TT sơ cấp & TT thứ cấp:

Về bản chất, mqh giữa TT sơ cấp & TT thứ cấp là mối quan hệ nội tại biện chứng. TT sơ cấp tạo

điều kiện, động lực cho TT thứ cấp. Hai TT này có mqh mật thiết, hỗ trợ lẫn nhau:

- TT sơ cấp là cơ sở, tiền đề cho TT thứ cấp hoạt động và phát triển vì đó là nơi cung cấp hàng

hóa cho TTCK. Nếu ko có TT sơ cấp sẽ không có hàng hóa trên TT thứ cấp. TT thứ cấp ko thể ra

đời chừng nào chưa có thị trường sơ cấp rộng rãi, vững chắc với nhiều loại CK hấp dẫn nhà ĐT

và công chúng đến bỏ vốn để đầu tư CK. Tuy nhiên, nếu chỉ có TT sơ cấp mà ko có TT thứ cấp

thì TT sơ cấp cũng không thể tồn tại và phát triển được vì khi đó các CK đã phát hành ra trên TT

sơ cấp sẽ không được tiếp tục lưu chuyển, các NĐT ko quan tâm đến việc mua và nắm giữ CK

của tổ chức phát hành. Việc xuất hiện TT thứ cấp đã tạo ra 1 nơi để các CK đã phát hành trên TT

sơ cấp được lưu chuyển nhằm thu hút sự quan tâm của các NĐT nhờ đó tạo điều kiện, động lực

cho sự phát triển của TT sơ cấp.

- TT thứ cấp tạo điều kiện dễ dàng để chuyển các CK thành tiền mặt, làm tăng tính lỏng của CK
khiến chúng được ưa chuộng hơn và như thế là dễ dàng hơn cho các công ty bán chúng ở TT sơ

cấp. Việc TT thứ cấp làm tăng tính lỏng của CK đã phát hành giúp làm giảm rủi ro cho các NĐT.

Các NĐT sẽ dễ dàng hơn trong việc sàng lọc, lựa chọn, thay đổi kết cấu danh mục đầu tư trên cơ

sở đó làm giảm chi phí cho các nhà phát hành trong việc huy động và sử dụng vốn. Tăng tính

lỏng của CK tạo đk cho việc chuyển đổi thời hạn của vốn đồng thời tạo đk cho việc phân phối

vốn 1 cách hiệu quả. Nó còn tạo đk tách biệt giữa quyền sở hữu và quyền quản lý, làm cơ sở cho

việc tăng hiệu quả quản lý DN.

- TT thứ cấp xđ giá của CK đã đc phát hành trên TT sơ cấp. TT thứ cấp được xem là thị trường

định giá các công ty. Những người mua CK ở TT sơ cấp chỉ chấp nhận TT cho công ty phát hành

với giá mà họ cho rằng NĐT trên TT thứ cấp sẽ tăng hơn nữa. Giá CK ở TT thứ cấp càng cao thì

giá CK trên TT sơ cấp càng cao, như vậy công ty phát hành sẽ phát triển đc nhiều vốn đầu tư hơn

và ngược lại.

- Thông qua việc xđ giá, TT thứ cấp cung cấp 1 danh mục chi phí vốn tương ứng với các mức độ

rủi ro khác nhau của từng phương án đầu tư, tạo cơ sở tham chiếu cho các nhà phát hành cũng

như những NĐT trên TT sơ cấp.

Câu 8: Bình luận về TT sơ cấp ở VN

1. Khái niệm thị trường sơ cấp


Thị trường sơ cấp là nơi diễn ra quá trình mua bán lần đầu các chứng khoán mới phát hành. Thị
trường sơ cấp còn được gọi là thị trường cấp một hay thị trường phát hành.
2. Chức năng của thị trường sơ cấp
Thị trường sơ cấp thực hiện chức năng quan trọng nhất của thị trường chứng khoán, đó là huy
động vốn cho đầu tư.
Có 2 phương pháp phát hành chứng khoán trên thị trường sơ cấp. Đó là phát hành riêng lẻ và
phát hành ra công chúng.
a) Phát hành riêng lẻ
b) Phát hành ra công chúng
* Phát hành cổ phiếu ra công chúng được thực hiện theo một trong hai hình thức sau:
- Phát hành lần đầu ra công chúng (IPO): là việc phát hành trong đó cổ phiếu của công ty lần đầu
tiên được bán rộng rãi cho công chúng đầu tư.
- Chào bán sơ cấp (phân phối sơ cấp): là đợt phát hành cổ phiếu bổ sung của công ty đại chúng
cho rộng rãi công chúng đầu tư.
* Phát hành trái phiếu ra công chúng được thực hiện bằng một hình thức duy nhất, đó là chào
bán sơ cấp (phân phối sơ cấp).
Ở Việt Nam, việc phát hành chứng khoán ra công chúng để niêm yết tại Trung tâm giao dịch
chứng khoán phải tuân theo các qui định tại Nghị định 14/NĐ-CP ngày 19/01/2007 của Chính
phủ về chứng khoán và thị trường chứng khoán.
Thực trạng:
- Hoạt động phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng: Năm 2009, Trái ngược với sự sôi động
của thị trường chứng khoán, hoạt động chào bán cổ phiếu lần đầu ra công chúng (IPO) lại lâm
vào cảnh "chợ chiều".
Theo Sở Giao dịch chứng khoán TP HCM (HoSE) và Sở Giao dịch chứng khoán Hà Nội (HNX),
từ đầu năm đến nay, hai đơn vị này tiến hành IPO cho 27 doanh nghiệp , song lượng cổ phần bán
được cho nhà đầu tư (NĐT) không bao nhiêu.
Với sự thờ ơ từ phía NĐT, nhiều doanh nghiệp gặp rất nhiều khó khăn trong việc IPO dù số
lượng Cổ phần chào bán không quá lớn. Điển hình là Công ty cổ phần Bến bãi Sài Gòn chỉ bán
được 22.000 Cổ phần trong tổng số hơn 600.000 Cổ phần chào bán trong phiên đấu giá ngày
16/10, tại HoSE.
Các doanh nghiệp tiến hành IPO với số lượng lớn cũng không khá hơn. Chẳng hạn, Công ty Dây
và cáp điện Việt Nam (Cadivi) bán được hơn 50.000 cổ phần so với lượng chào bán là 2,4 triệu,
Công ty TNHH một thành viên Nước sạch Sài Gòn bán được 45.000 cổ phần trên tổng số 1,6
triệu cố phần chào bán, Công ty Nông sản thực phẩm xuất khẩu Cần Thơ bán được 39.000 cổ
phần trong 10,3 triệu cổ phần chào bán.
Mới đây nhất, ngày 22/10, Công ty Cấp thoát nước Bình Thuận đấu giá 3,6 triệu cổ phần nhưng
NĐT chỉ đăng ký mua hơn 540.000 đơn vị. Có doanh nghiệp phải đấu giá tới bốn lần để hoàn tất
IPO, như Công ty Du lịch Bình Thuận. Thậm chí, không ít doanh nghiệp buộc phải hủy các
phiên đấu giá cổ phần do không có NĐT tham gia, như Công ty Du lịch Tà Cú...
Giải thích về sự ảm đạm của hoạt đông IPO trong thời gian gần đây, nhiều chuyên gia cho rằng,
cơ chế IPO và bán cho nhà đầu tư chiến lược còn nhiều bất hợp lý, nên không thu hút sự quan
tâm của NĐT tổ chức nước ngoài, thiếu hàng "khủng" của các doanh nghiệp "đại gia", đặc biệt là
có phần bị vạ lây bởi sự ảm đạm của thị trường OTC.
- Hoạt động phát hành trái phiếu Chính phủ: quí 1/2009 Chính phủ quyết định phát hành 1 tỷ
USD vốn trái phiếu CP. Nguồn vốn huy động từ đợt phát hành này được sử dụng cho mục đích
đầu tư cho các dự án trọng điểm và bù đắp bội chi ngân sách Nhà nước, theo Quyết định số
211/QĐ-TTg ngày 13/2/2009 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành trái phiếu Chính phủ
bằng ngoại tệ trên thị trường vốn trong nước.
Một thống kê cho thấy, tính đến ngày 9/9, đã có 40 đợt phát hành trái phiếu bằng tiền đồng và 2
đợt phát hành trái phiếu bằng ngoại tệ do Chính phủ bảo lãnh phát hành trong năm 2009 thực
hiện tại HNX. Qua đó, chỉ có 2.310 tỷ đồng và 230 triệu USD huy động được; và có tới 36 phiên
đấu thầu không gọi được một đồng nào; nhiều phiên không có nhà đầu tư tham gia, hoặc chỉ đếm
trên đầu ngón tay.
Lí do: Thứ nhất, cơ chế đấu thầu hiện vẫn sử dụng lãi suất trần.
Thứ hai, thời gian gần đây, do áp lực giải ngân cho các dự án trong gói kích cầu của Chính phủ
nên lãi suất huy động trên thị trường tăng lên, cao hơn lãi suất kỳ vọng của Bộ Tài chính nên
không huy động được vốn hoặc rất ít.

Câu 9: Bình luận về giao dịch trái phiếu.

Sáng 5/7, tại Hà Nội, Deusche Bank, Vietcombank và Hiệp hội Ngân hàng châu Á - Thái Bình
Dương đã họp bàn về các biện pháp phát triển thị trường trái phiếu Việt Nam.

Đại diện Bộ Tài chính, ông Trương Hùng Long, Phó Vụ trưởng Vụ Tài chính - Ngân hàng cho
rằng, thị trường trái phiếu Việt Nam hiện còn nhiều bất cập như tỷ lệ huy động vốn thông qua
trái phiếu còn thấp, chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế và tiềm năng trong xã hội; chủ
thể và phương thức phát hành còn hạn chế, các DN chưa chú trọng đến việc phát hành và niêm
yết trái phiếu trên thị trường chứng khoán...

Trái phiếu Chính phủ: an toàn nhưng lợi nhuận thấp

Bất cập thứ nhất, theo ông Trương Hùng Long, hiện thị trường trái phiếu Việt Nam có quy mô
quá nhỏ. Chủ yếu trái phiếu Chính phủ đang ""thống lĩnh"" thị trường, trong khi trái phiếu của
các DN phát hành rất hạn chế. Tính thanh khoản của các loại trái phiếu còn thấp.

Ông Nguyễn Hòa Bình - t ân Chủ tịch Hội đồng quản trị của Vietcombank nhận định, trái phiếu
Chính phủ là loại chứng khoán có độ an toàn cao nhất; nhưng đầu tư vào loại trái phiếu này chỉ
đem lại một mức thu nhập khiêm tốn.

""Theo nguyên tắc của kinh tế thị trường, muốn kiếm được lợi nhuận cao thì cần phải chấp nhận
rủi ro cao. Thị trường trái phiếu Việt Nam cũng như các nhà đầu tư cần những loại trái phiếu có
độ rủi ro cao hơn vì hứa hẹn những khoản thu nhập cao hơn. Cần có những biện pháp khuyến
khích các công ty huy động vốn qua thị trường chứng khoán thay vì qua kênh ngân hàng như
truyền thống. Ví dụ việc ra đời và hoạt động của Công ty định mức tín nhiệm sẽ giúp cho thị
trường có các mức giá (chi phí huy động vốn) phù hợp với từng đối tượng công ty - theo độ tín
nhiệm của mình. Việc phát hành trái phiếu của các công ty sẽ được tiến hành một cách nhanh
chóng với chi phí thấp hơn"", ông Bình nói.

Theo ông Hùng, thị trường TPCP thiếu một cơ chế giao dịch có khả năng cung cấp thanh khoản
cho các trái phiếu Chính phủ như các nhà tạo lập thị trường, hợp đồng mua lại.. TPCP phát hành
với khối lượng và giá trị niêm yết lớn, trong khi những người nắm giữ TPCP trên thị trường sơ
cấp là các nhà đầu tư có tổ chức (trừ các đợt phát hành riêng lẻ qua hệ thống Kho bạc). Nhu cầu
giao dịch phát sinh là các giao dịch lớn và ít mang tính tương thích thời điểm, hạn chế tính thanh
khoản của trái phiếu.

Ông dẫn chứng, giao dịch trái phiếu trong thời gian từ 2003 đến nay chỉ tập trung vào các TPCP
phát hành qua bảo lãnh, trong khi đó có rất nhiều loại trái phiếu phát hành qua đấu thầu tại Trung
tâm giao dịch chứng khoán TP.HCM vẫn chưa có giá tham chiếu, nghĩa là chưa một lần được
giao dịch trên thị trường kể từ khi phát hành. Điều này bắt nguồn từ đặc thù của phương thức bảo
lãnh phát hành là đa số các đơn vị tham gia mua sơ cấp và sau đó bán lại cho khách hàng. Tuy
nhiên, việc luân chuyển TPCP cũng chỉ dừng lại sau khi bán lần 1 cho khách hàng, các giao dịch
tiếp theo trên thị trường thứ cấp hầu như không tồn tại.

Phó chủ tịch UBCK Nhà nước, ông Nguyễn Đoan Hùng cho rằng, về năng lực hệ thống giao
dịch, trái phiếu hiện được niêm yết theo giá và áp dụng nguyên tắc đấu giá giống như cổ phiếu
(ưu tiên về giá, ưu tiên về thời gian), không áp dụng biên độ dao động giá. Tuy nhiên, cổ phiếu
và trái phiếu là hai loại hàng hóa có đặc điểm và tính chất hoàn toàn khác nhau, việc áp dụng
giao dịch trái phiếu và cổ phiếu như nhau trên cùng một hệ thống giao dịch tại Trung tâm Giao
dịch Chứng khoán là không có hiệu quả. Do đó, cần tách biệt giao dịch trái phiếu và giao dịch cổ
phiếu ra thành 2 bảng giao dịch riêng biệt là cần thiết. Hơn nữa, giữa các trái phiếu cùng chủ thể
phát hành nhưng khác đợt phát hành cũng khác nhau về lãi suất và thời gian đáo hạn. Việc yết
giá trái phiếu theo thị giá cũng không làm nổi bật sự khác biệt đó. Hơn nữa, nếu trong nhiều
phiên liên tiếp, trái phiếu không có giao dịch thì việc công bố giá tham chiếu dựa trên kết quả
giao dịch gần nhất trước đó cũng ít có ý nghĩa vào thời điểm giao dịch thỏa thuận hiện tại.

Thiếu đội ngũ tạo lập thị trường

Bất cập thứ hai, theo ông Hùng, là hệ thống các nhà đầu tư chưa phát triển, nhất là các nhà đầu tư
tổ chức. Hiện chúng ta chưa thiết lập được hệ thống các nhà tạo lập thị trường; các thể chế trên
thị trường chưa hoàn chỉnh. Nhiều định chế tài chính trung gian như các quỹ đầu tư tương hỗ,
quỹ đầu tư mạo hiểm, công ty định mức tín nhiệm... chưa được thành lập.

Số lượng các thành viên tham gia đấu thầu qua TTGDCK TP.HCM còn hạn chế, từ năm 2002 trở
về trước chỉ giới hạn ở các thành viên đấu thầu trong nước và số lượng thành viên cũng không
nhiều. Tính đến năm 2004, số thành viên đấu thầu đủ điều kiện tham gia đấu thầu trên TTGDCK
TP.HCM là 24 thành viên, trong đó chỉ có 2 thành viên nước ngoài bắt đầu tham gia từ năm
2003. Số lượng thành viên đủ điều kiện tham gia đấu thầu càng ít thì số lượng thành viên tham
gia đấu thầu càng hạn chế và lãi suất đặt thầu càng ít mang tính đại diện cho thị trường.

Thị trường trái phiếu vẫn chưa thực sự hấp dẫn các nhà đầu tư và có rất nhiều nguyên nhân khiến
các nhà đầu tư ít quan tâm đến loại chứng khoán này. Lý do là giao dịch trái phiếu đòi hỏi một
lượng vốn lớn, chỉ thích hợp với các nhà đầu tư có tổ chức, trong khi thị trường trái phiếu hiện
nay có rất ít các nhà đầu tư có tổ chức.

Thứ ba, tính đồng bộ của thị trường này còn thấp. Khả năng tập trung và phân bổ nguồn lực tài
chính qua thị trường chưa thực sự hiệu quả, còn có sự chưa ăn khớp giữa cơ cấu và kỳ hạn huy
động vốn với sử dụng vốn. Sự phối hợp giữa các kênh huy động vốn còn chưa đồng bộ; vai trò
của trái phiếu Chính phủ trong việc định hướng lãi suất thị trường còn hạn chế... Theo ông Hùng,
tỷ lệ huy động vốn dài hạn qua kênh tín dụng ngân hàng hiện nay thấp. Trong khi đó, việc sử
dụng quá nhiều vốn ngắn hạn cho đầu tư dài hạn, làm giảm hiệu quả sử dụng và tăng nguy cơ rủi
ro tài chính; việc phối hợp điều hành lãi suất giữa thị trường tiền tệ và thị trường vốn chưa thật
ăn khớp, tiến trình cải cách hệ thống tổ chức tín dụng còn chậm; việc kiểm soát các dòng vốn
trong nền kinh tế chưa thực sự có hiệu quả, vẫn còn tình trạng vốn dài hạn chuyển sang đầu tư
ngắn hạn và ngược lại.

Thứ tư, ông Long cho rằng, khung pháp luật mới được hình thành bước đầu; một số lĩnh vực vẫn
chưa có hệ thống văn bản pháp lý hoàn chỉnh, nhất là lĩnh vực chứng khoán. Các nguyên tắc
quản lý và chuẩn mực quốc tế về tính minh bạch, kế toán, kiểm toán... tuy đã được áp dụng
nhưng còn ở phạm vi hẹp.

Ông Nguyễn Hòa Bình cũng đồng tình, ""sự phối hợp trong điều hành chính sách lãi suất giữa
các cơ quan chức năng như Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước còn bất cập. Một số đợt phát
hành trái phiếu Chính phủ lãi suất huy động ngang bằng với lãi suất huy động của ngân hàng
thương mại"".

Tính cạnh tranh cực thấp

Thứ năm, ông Nguyễn Đoan Hùng cho rằng, tính cạnh tranh của thị trường trái phiếu Việt Nam
cực thấp, TPCP chưa cạnh tranh được với sự thuận tiện của hình thức gửi tiết kiệm, đầu tư kỳ
phiếu ở các ngân hàng thương mại cùng với tính thanh khoản kém hơn nên chưa thu hút được
tiền nhàn rỗi của các tổ chức kinh tế và cá nhân.
Một trong những nguyên nhân chính là mức phí giao dịch trên thị trường hiện còn khá cao
(khoảng 0,15% giá trị giao dịch) khiến cho các nhà đầu tư cá thể không mặn mà với việc đầu tư
qua phương thức giao dịch khớp lệnh vì lợi nhuận ròng sau khi trừ đi chi phí giao dịch không đủ
hấp dẫn các nhà đầu tư cá thể. Đối với các thành viên đấu thầu, việc mua TPCP chủ yếu phục vụ
cho mục tiêu nắm giữ dài hạn. Trong khi đó, lãi suất thị trường lại biến động theo xu hướng tăng
dần, các trái phiếu mới liên tục được phát hành có lãi suất cao hơn, hấp dẫn hơn nên khả năng
bán lại trái phiếu càng khó khăn hơn.

Một thủ phạm khác làm giảm tính cạnh tranh của thị trường là, cơ chế xác định lãi suất đấu thầu
trên thị trường sơ cấp hiện không mang tính thị trường vì áp dụng lãi suất chỉ đạo nên chưa thu
hút được nhu cầu đầu tư của các cá nhân, tổ chức. Quy định lãi suất đặt thầu phải cao hơn lãi suất
chỉ đạo sẽ khiến cho lãi suất trúng thầu mang tính khiên cưỡng chủ quan hơn là mang tính khách
quan thị trường. Điều này cũng có thể dẫn tới tình trạng khối lượng trúng thầu sẽ bị hạn chế đi
rất nhiều so với khối lượng dự định phát hành và sẽ chỉ bó hẹp trong phạm vi một số nhỏ các nhà
đầu tư. Khối lượng trúng thầu thấp cộng với một số nhỏ các nhà đầu tư nắm giữ sẽ làm giảm tính
thanh khoản của trái phiếu trên thị trường thứ cấp.

Hiệu ứng vòng luẩn quẩn (vicious circle) cũng là một nguy cơ. Thị trường trái phiếu thanh khoản
thấp càng làm giảm tính hấp dẫn của nó đối với các nhà đầu tư, và càng ít nhà đầu tư càng làm
giảm tính thanh khoản của thị trường. ""Đây là hiện tượng thường thấy trên các thị trường trái
phiếu mới nổi và mới đi vào hoạt động. Sẽ có ít nhà đầu tư muốn tham gia mua trái phiếu lần đầu
trên thị trường phát hành cũng như mua lại trên thị trường thứ cấp nếu biết rằng khả năng bán lại
các trái phiếu đó là rất ít, hoặc nếu có họ phải chờ một thời gian khá lâu và bỏ lỡ các cơ hội đầu
tư khác"", ông Nguyễn Hòa Bình nói.

Thứ sáu là, từ phía các công ty. Ông Bình cho rằng, thị trường trái phiếu công ty kém phát triển
do các công ty chưa quen với việc huy động vốn vay trực tiếp qua phát hành trái phiếu mà vẫn
dựa vào nguồn vốn vay của ngân hàng, đặc biệt là các Tổng công ty lớn, các DN Nhà nước do có
khả năng tiếp cận các nguồn vốn vay ngân hàng, vay ưu đãi. Các đơn vị này cũng thiếu tổ chức
định mức tín nhiệm giúp cho việc xác định tín nhiệm và làm tăng tính minh bạch cho các trái
phiếu phát hành; chưa xây dựng được đường cong lợi suất phi rủi ro cho TPCP phát hành làm
tiêu chuẩn cho việc định lãi suất phát hành các công cụ nợ khác như trái phiếu công ty, trái phiếu
đô thị...

Câu 10 : Các vấn đề cơ bản về định giá ck


Dinh gia chung khoan

Là nhà đầu tư chứng khoán, bạn còn cần phải xác định được giá CK. Việc cổ phiếu
(CP) đó đáng giá bao nhiêu, lúc nào nên mua-bán là câu hỏi mà bất cứ nhà đầu tư nào
cũng mong mình giải đúng.

Có 6 yếu tố để bạn có thể phân tích giá trị của một cổ phiếu:

Phân tích cơ bản

Điều mà nhà phân tích cơ bản coi như kim chỉ nam chính là cho rằng giá trị thực của một công ty
có mối quan hệ mật thiết với các đặc tính tài chính như: khả năng phát triển; những rủi ro mà
công ty có thể gặp phải; dòng tiền mặt... Bất kỳ một sự chệch hướng nào so với giá trị thực cũng
là dấu hiệu cho thấy CP đó đang ở dưới hoặc vượt quá giá trị thực.

Một chiến lược đầu tư dài hạn thường dựa vào những giả thiết như:

- Mối quan hệ giữa giá trị và các yếu tố tài chính là có thể đo lường được.

- Mối quan hệ này ổn định trong một khoảng thời gian đủ dài.

- Các sai lệch của mối quan hệ sẽ được điều chỉnh lại vào thời điểm thích hợp.

Giá trị là mục tiêu chính trong phân tích cơ bản. Một số nhà phân tích thường sử dụng phương
pháp chiết khấu dòng tiền mặt để xác định giá trị của công ty, trong khi đó một số người lại sử
dụng tỷ số giá trên thu nhập (P/E) hoặc giá trị số tích...

Khi những nhà phân tích này nắm giữ một số lượng lớn các CP đang ở dưới giá trị trong danh
mục đầu tư nghĩa là họ đang nuôi hy vọng danh mục này sẽ đem lại một mức lợi nhuận cao hơn
mức trung bình của thị trường.

Mua đặc quyền kinh doanh

Nhà mua đặc quyền kinh doanh thường tập trung vào một số ít các công ty mà họ hiểu rõ và họ
sẽ tiến hành mua CP khi những công ty này đang ở dưới giá trị thực. Thường thì nhà mua đặc
quyền kinh doanh sẽ có ảnh hưởng lên Ban quản lý và có thể thay đổi chính sách tài chính hoặc
chính sách đầu tư của công ty.
Trên khía cạnh đầu tư dài hạn thì:

- Nhà đầu tư hiểu rõ công ty sẽ ở vị thế tốt hơn trong định giá công ty.

- Có thể mua những công ty ở dưới giá trị thực mà không làm cho giá của chúng tiến đến gần giá
trị thực.

Giá trị cũng đóng vai trò chủ chốt và nhà mua đặc quyền kinh doanh sẽ hướng sự chú ý của mình
vào những công ty mà họ tin tưởng công ty đó đang ở dưới giá. Ngoài ra, họ cũng quan tâm tìm
hiểu xem họ sẽ gia tăng được thêm bao nhiêu giá trị cho công ty nếu họ có thể tái cơ cấu lại công
ty.

Biểu đồ (phân tích kỹ thuật)

Những nhà phân tích kỹ thuật tin tưởng rằng phần giá cả dao động do tâm lý của các nhà đầu tư
ít nhất cũng bằng phần dao động do các yếu tố tài chính. Những thông tin có sẵn như dao động
giá, khối lượng giao dịch, bán khống... sẽ cung cấp những chỉ báo về tâm lý của nhà đầu tư về
dao động giá trong lương lai.

Nhưng nhìn chung có thể thấy các nhà đầu tư cá thể đầu tư theo cảm tính nhiều hơn là đầu tư
theo các phân tích hợp lý.

Trong khi giá trị không đóng vai trò chính trong phân tích kỹ thuật thì cũng có nhiều con đường
để nhà phân tích kỹ thuật có thể kết hợp vào phân tích. Giá trị có thể được sử dụng ví dụ như để
quyết định đường hỗ trợ hoặc kháng cự trên biểu đồ giá.

Trên một biểu đồ đường hỗ trợ thường căn cứ vào điểm dưới mà dưới điểm đó giá có khuynh
hướng ngừng giảm, còn đường kháng cự được căn cứ vào điểm trên mà trên điểm đó giá có
khuynh hướng ngừng tăng. Những mức này thường được dự tính theo giá quá khứ, biên độ của
giá tính theo phương pháp giá trị có thể được sử dụng để quyết định. Có nghĩa là giá trị tối đa sẽ
trở thành mức kháng cự và giá trị tối thiểu sẽ trở thành đường hỗ trợ.

Thông tin

Giá cả lên xuống phụ thuộc vào thông tin về công ty. Những nhà giao dịch căn cứ vào thông tin
giao dịch (dựa trên lợi thế thông tin mới hoặc ngay sau khi thông tin được công bố trên thị
trường), họ sẽ mua vào khi có tin tốt và bán ra khi có tin xấu. Giả thiết được đưa ra là các nhà
giao dịch có thể dự đoán thông tin sắp công bố và đánh giá được phản ứng của thị trường tốt hơn
nhà đầu tư thông thường.

Đối với nhà kinh doanh dựa vào thông tin thì việc nghiên cứu mối quan hệ giữa thông tin và sự
thay đổi giá là quan trọng hơn việc nghiên cứu giá trị. Do đó, nhà kinh doanh này có thể mua
một công ty có giá vượt quá giá trị thực dựa trên niềm tin rằng thông tin kế tiếp là những thông
tin tốt, vượt mức mong đợi và sẽ đẩy được giá lên.

Như vậy, nếu có mối quan hệ trong việc công ty ở dưới giá, trên giá và xác định được cơ chế của
giá CP phản ứng lại những thông tin trên thị trường thì nhà đầu tư dựa trên thông tin sẽ có những
quyết định đầu tư hợp lý.

Thời điểm

Những nhà đầu tư thời điểm cho rằng dự đoán thay đổi của cả thị trường thì dễ hơn việc chọn lựa
cụ thể một CP nào đó và như vậy việc dự đoán được dựa trên những yếu tố có thể quan sát được.

Trong khi việc xác định giá trị của một CP có thể không sử dụng công cụ của nhà phân tích thời
điểm thì chiến lược tính toán thời điểm thị trường lại có thể sử dụng công cụ giá trị bằng ít nhất
hai cách sau:

- Tổng thị trường tự nó được định giá và so sánh theo thời điểm hiện tại.

- Mô hình giá trị có thể được sử dụng để tính toán giá trị của tất cả các CP và kết quả từ việc
kiểm tra chéo có thể được sử dụng để quyết định xem thị trường đang ở dưới hoặc trên giá trị
thực của nó.

Thị trường hiệu quả

Những nhà thị trường hiệu quả tin tưởng rằng giá cả tại một thời điểm nào đại diện cho dự đoán
tốt nhất về giá trị thực của công ty và bất cứ dự định nào nhằm hưởng lợi từ thị trường hiệu quả
sẽ tốn kém hơn là lợi nhuận thu được. Họ cho rằng thị trường thích hợp thông tin một cách
nhanh chóng, chính xác và các nhà đầu tư theo kiểu vay-mua sẽ lập tức lấp đầy những khoảng
không hiệu quả.
Đối với nhà phân tích thị trường hiệu quả thì giá trị là một công cụ kiểm tra hữu hiệu để hiểu rõ
tại sao một CP được bán ở mức giá đó. Kể từ khi giả thiết giá thị trường là dự đoán tốt nhất đối
với giá trị thực của công ty thì đối tượng quyết định đối với giả thiết này là phân tích tác động
của mức tăng trưởng và rủi ro trong giá thị trường hơn là việc tìm kiếm công ty ở dưới hoặc lên
giá trị thực.

1. Định giá trái phiếu

Trái phiếu (bond) là công cụ nợ dài hạn do chính phủ hoặc công ty phát hành nhằm huy động
vốn dài hạn. Trái phiếu do chính phủ phát hành gọi là trái phiếu chính phủ (government bond)
hay trái phiếu kho bạc (treasury bond). Trái phiếu do công ty phát hành gọi là trái phiếu công ty
(corporate bond).

Trên trái phiếu bao giờ cũng có ghi một số tiền nhất định, gọi là mệnh giá của trái phiếu.
Mệnh giá (face or par value) tức là giá trị được công bố của tài sản, trong trường hợp trái phiếu,
mệnh giá thường được công bố là 1000$. Ngoài việc công bố mệnh giá, người ta còn công bố lãi
suất của trái phiếu. Lãi suất của trái phiếu (coupon rate) tức là lãi suất mà trái phiếu được hưởng,
nó bằng lãi được hưởng chia cho mệnh giá của trái phiếu.

Định giá trái phiếu tức là quyết định giá trị lý thuyết của trái phiếu một cách chính xác và
công bằng. Giá trị của trái phiếu được định giá bằng cách xác định hiện giá của toàn bộ thu nhập
nhận được trong thời hạn hiệu lực của trái phiếu.

2. Định giá cổ phiếu ưu đãi

Cổ phiếu ưu đãi là loại cổ phiếu mà công ty phát hành cam kết trả tỷ lệ cổ tức cố định hàng năm
và không có tuyên bố ngày đáo hạn. Rõ ràng loại cổ phiếu này có những tính chất giống như trái
phiếu vĩnh cữu. Do đó, mô hình định giá trái phiếu vĩnh cữu có thể áp dụng để định giá cổ phiếu
ưu đãi. Giá cổ phiếu ưu đãi được xác định theo công thức sau:

V = Dp/kp , trong đó Dp là cổ tức hàng năm của cổ phiếu ưu đãi và kp là tỷ suất chiết khấu thích
hợp. Giả sử REE phát hành cổ phiếu ưu đãi mệnh giá 100$ trả cổ tức 9% và nhà đầu tư muốn lãi
suất đầu tư là 14%, giá cổ phiếu này sẽ là:

V = $9/0,14 = 64,29$
3. Định giá cổ phiếu thường

Cổ phiếu thường là chứng nhận đầu tư vào công ty cổ phần. Người mua cổ phiếu thường được
chia lợi nhuận hàng năm từ kết quả hoạt động của công ty và được sở hữu một phần giá trị công
ty tương ứng với giá trị cổ phiếu họ đang năm giữ.

Khi định giá trái phiếu và cổ phiếu ưu đãi chúng ta thấy rằng giá trái phiếu và cổ phiếu
ưu đãi chính là hiện giá dòng tiền tệ thu nhập tạo ra cho nhà đầu tư. Tương tư, giá cổ phiếu
thường cũng được xem như là hiện giá dòng tiền tệ thu nhập tạo ra cho nhà đầu tư từ cổ phiếu.

Câu 11: Các quan hệ trong định giá TP

Năm quan hệ quan trọng trong định giá trái phiếu


Quan hệ thứ nhất: giá trị của trái phiếu có quan hệ ngược với sự thay đổi của tỷ lệ lợi tức yêu cầu
của NĐT. Nói cách khác, khi lãi suất tăng (hoặc giảm), thì giá trị của trái phiếu giảm (hoặc tăng).
Những thay đổi trong giá trái phiếu thể hiện một yếu tố không chắc chắn đối với NĐT trái phiếu.
Nếu lãi suất hiện hành (tỷ lệ lợi tức yêu cầu) thay đổi, giá cả của trái phiếu sẽ dao động. Một sự
tăng lên của lãi suất sẽ làm cho trái chủ phải chịu một khoản lỗ về giá trị thị trường. Vì lãi suất
tương lai và giá trị cuối cùng của trái phiếu không thể đoán trước chắc chắn, nên NĐT trái phiếu
phải chịu rủi ro của sự thay đổi giá trị khi lãi suất thay đổi. Rủi ro này gọi là rủi ro lãi suất.
Quan hệ thứ hai: giá trị thị trường của mỗi trái phiếu sẽ thấp hơn mệnh giá nếu tỷ lệ lợi tức yêu
cầu của NĐT cao hơn lãi suất coupon và giá sẽ cao hơn mệnh giá nếu tỷ lệ lợi tức của NĐT nhỏ
hơn lãi suất coupon.
Quan hệ thứ ba: khi ngày đáo hạn đến gần, giá thị trường của trái phiếu cũng tiến đến gần mệnh
giá. Từ đó, có thể rút ra kết luận:
- Trái phiếu thưởng là trái phiếu bán cao hơn mệnh giá. Giá của nó sẽ giảm theo thời gian và
bằng đúng mệnh giá tại ngày đáo hạn;
- Trái phiếu chiết khấu có giá bán thấp hơn mệnh giá. Giá trái phiếu chiết khấu tăng dần theo
thời gian và bằng đúng mệnh giá tại ngày đáo hạn.
Quan hệ thứ tư: trái phiếu dài hạn có rủi ro lãi suất lớn hơn so với trái phiếu ngắn hạn.
Quan hệ thứ năm: tính nhạy cảm của giá trị trái phiếu đối với sự thay đổi lãi suất phụ thuộc
không chỉ vào độ dài thời gian cho đến khi đáo hạn, mà còn phụ thuộc vào phương thức trả gốc
và lãi.
Câu 12: các phương thức đầu tư cơ bản trong đầu tư chứng khoán

- Đầu tư ngân quỹ

- Đầu tư hưởng lợi

- Đầu tư phòng vệ

- Đầu tư nắm quyền kiểm soát.

Câu 13: Các loại rủi ro cơ bản trong đầu tư chứng khoán.

Rủi ro là gì? Rủi ro đơn giản là việc xảy ra trong tương lai không được như mong muốn của bạn.
Rủi ro là một phần của đầu tư và việc hiểu rủi ro là rất quan trọng cho Nhà đầu tư. Cũng giống
như nhiều người, bạn rất muốn nhận được lợi nhuận tốt nhất từ khoản đầu tư của mình mà không
phải mất ngủ hàng đêm vì lo lắng. Vậy thì đầu tư cổ phiếu có tốt không? Hay đầu tư vào trái
phiếu thì tốt hơn? Điều quan trọng là: bất kể bạn đầu tư vào loại tài sản nào, bao giờ cũng có
những rủi ro tiềm ẩn nhất định, và bạn cần phải nghiên cứu, cân nhắc trước khi thực hiện các
quyết định đầu tư.

Rủi ro trong đầu tư chứng khoán được hiểu là sự sai lệch giữa lợi nhuận kỳ vọng và lợi nhuận
thực tế khi đầu tư
Sau đây là một số yếu tố rủi ro chủ yếu mà Nhà đầu tư nên quan tâm khi đầu tư vào Quỹ:
Rủi ro thị trường
Rủi ro này phát sinh khi các thị trường tài sản mà quỹ đầu tư có sự suy giảm từng phần hay toàn
bộ trong một khoảng thời gian. Loại rủi ro này dẫn tới sự suy giảm của toàn bộ thị trường. Rủi ro
này thuộc rủi ro mang tính hệ thống nằm ngoài khả năng kiểm soát của công ty quản lý quỹ.
Rủi ro lãi suất
Chứng chỉ Quỹ đầu tư cũng là một công cụ đầu tư nên bị ảnh hưởng bởi yếu tố lãi suất. Lãi suất
làm chi phí đầu vào các doanh nghiệp tăng, mức lãi suất mong đợi tăng sẽ làm giảm giá trị cổ
phiếu, giảm giá chứng chỉ quỹ cũng như giá trị đầu tư vào trái phiếu và ngược lại.
Rủi ro lạm phát
Lạm phát làm tăng chi phí đầu vào, tăng lãi suất danh nghĩa do đó ảnh hưởng đến giá cổ phiếu và
chứng chỉ quỹ đầu tư. Rủi ro về lạm phát ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của các
doanh nghiệp mà quỹ đầu tư vào, do vậy sẽ ảnh hưởng kết quả lợi nhuận v.v. và ảnh hưởng đến
giá trị doanh nghiệp và khoản đầu tư vào cổ phiếu của doanh nghiệp.
Rủi ro mất khả năng thanh toán của tổ chức phát hành trái phiếu/công cụ nợ
Rủi ro mất khả năng thanh toán có thể xảy ra đối với các tổ chức phát hành trái phiếu hoặc công
cụ nợ khác nếu có các khoản đầu tư của quỹ. Rủi ro này phát sinh khi các bên phát hành công cụ
nợ mất khả năng thanh toán lãi suất hoặc tiền gốc đối với các khoản vay.
Rủi ro thiếu tính thanh khoản
Một trong những yếu tố quan trọng của Quỹ là dành phần lớn tổng tài sản đầu tư vào các doanh
nghiệp nhà nước và tư nhân cổ phần hóa. Chính vì vậy, các khoản đầu tư này chỉ có tính thanh
khoản cao khi cổ phiếu này có khả năng được giao dịch trên thị trường chứng khoán. Phần lớn
những doanh nghiệp nhà nước sẽ được nêm yết sau khi cổ phần hóa theo quy định của Nhà nước,
tuy nhiên khoảng thời gian giữa việc cổ phần hóa và niêm yết là yếu tố khách quan mà công ty
quản lý quỹ khó có thể chủ động được.

Rủi ro pháp lý
Từ khi Việt Nam chính thức phát triển nền kinh tế theo hướng thị trường vào đầu thập niên 90,
Chính phủ hoàn thiện dần khung pháp lý cho các hoạt động chứng khoán và TTCK. Các hoạt
động chứng khoán, quỹ đầu tư chứng khoán và TTCK được Chính phủ điều chỉnh trong các văn
bản pháp lý ban hành vào năm 1998. Năm 2006, trước sự bùng nổ của thị trường chứng khoán và
việc gia nhập WTO của Việt Nam, nhiều văn bản pháp lý về thị trường chứng khoán đã được
Chính phủ ban hành như Luật chứng khoán, các nghị định hướng dẫn, quy chế hoạt động... Tuy
nhiên, vẫn còn tồn tại những rủi ro nhất định liên quan đến yếu tố pháp lý như: sự phù hợp với
các cam kết khi Việt Nam gia nhập WTO, các quy định về thuế đối với các nhà đầu tư trong lĩnh
vực tài chính, ngân hàng và chứng khoán, chế độ kế toán quản lý quỹ, các chính sách khuyến
khích đầu tư trong lĩnh vực chứng khoán và tài chính chưa đủ mạnh để có thể thu hút nhiều hơn
các khoản vốn nhàn rỗi trong công chúng vào nền kinh tế.

Rủi ro xung đột lợi ích


Công ty quản lý quỹ cũng sẽ gặp phải những xung đột nhất định về lợi ích giữa các quỹ đầu tư và
các sản phẩm tài chính khác do công ty quản lý quỹ điều hành. Rủi ro này thuộc dạng rủi ro
không hệ thống, có thể kiểm soát được.

Rủi ro về tiến độ giải ngân


Quá trình phân bổ tài sản của quỹ vào các công ty đã nêm yết hoặc chưa nêm yết sẽ phụ thuộc
nhiều vào tiến độ thực hiện của cổ phần hóa, quyết định chấp thuận được niêm yết của các công
ty theo chính sách của Chính phủ và Nhà nước. Do vậy, nhà đầu tư cũng cần quan tâm đến khả
năng xảy ra đối với rủi ro về tiến độ giải ngân của quỹ.

Rủi ro giảm sút giá trị tài sản ròng (NAV) của quỹ
Rủi ro này phát sinh chủ yếu do sự giảm giá của các loại cổ phiếu trên thị trường phi tập trung
(OTC) và cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán mà Quỹ đầu tư. Khi đó, NAV của Quỹ
sẽ bị giảm sút và ảnh hưởng trực tiếp đến thị giá của chứng chỉ quỹ trên thị trường.
Câu 14 : Các lênh cơ bản trong GDCK

Lệnh giao dịch

1. Lệnh giới hạn: là lệnh mua hoặc lệnh bán chứng khoán tại một mức giá xác định hoặc tốt hơn.
Lệnh giới hạn có hiệu lực kể từ khi lệnh được nhập vào hệ thống giao dịch cho đến lúc kết thúc
ngày giao dịch hoặc cho đến khi lệnh bị hủy bỏ.

2. Lệnh thị trường (viết tắt là MP): là lệnh mua chứng khoán tại mức giá bán thấp nhất hoặc lệnh
bán chứng khoán tại mức giá mua cao nhất hiện có trên thị trường. Lệnh MP chỉ được sử dụng
trong thời gian khớp lệnh liên tục. Hiện nay, lệnh MP chưa được áp dụng trên TTCK Việt Nam.

- Nếu khối lượng đặt lệnh của lệnh MP vẫn chưa được thực hiện hết thì lệnh MP sẽ được xem là
lệnh mua tại mức giá bán cao hơn hoặc lệnh bán tại mức giá mua thấp hơn tiếp theo hiện có trên
thị trường.

- Nếu khối lượng đặt lệnh của lệnh MP vẫn còn và không thể tiếp tục khớp được nữa thì lệnh MP
sẽ được chuyển thành lệnh giới hạn mua tại mức giá cao hơn một bước giá so với giá giao dịch
cuối cùng trước đó hoặc lệnh giới hạn bán tại mức giá thấp hơn một bước giá so với giá giao
dịch cuối cùng trước đó.

- Trường hợp giá thực hiện cuối cùng là giá trần đối với lệnh MP mua hoặc giá sàn đối với lệnh
MP bán thì lệnh MP sẽ được chuyển thành lệnh giới hạn mua tại giá trần hoặc lệnh giới hạn bán
tại giá sàn.

3. Lệnh giao dịch tại mức giá khớp lệnh xác định giá mở cửa (viết tắt là ATO): là lệnh đặt mua
hoặc đặt bán chứng khoán tại mức giá mở cửa. Lệnh ATO được ưu tiên trước lệnh giới hạn trong
khi so khớp lệnh. Lệnh ATO được nhập vào hệ thống giao dịch trong thời gian khớp lệnh định
kỳ để xác định giá mở cửa và sẽ tự động bị hủy bỏ sau thời điểm xác định giá mở cửa nếu lệnh
không được thực hiện hoặc không được thực hiện hết.

4. Lệnh giao dịch tại mức giá khớp lệnh xác định giá đóng cửa (viết tắt là ATC): là lệnh đặt mua
hoặc đặt bán chứng khoán tại mức giá đóng cửa. Lệnh ATC được ưu tiên trước lệnh giới hạn
trong khi so khớp lệnh. Lệnh ATC được nhập vào hệ thống giao dịch trong thời gian khớp lệnh
định kỳ để xác định giá đóng cửa và sẽ tự động bị hủy bỏ sau thời điểm xác định giá đóng cửa
nếu lệnh không được thực hiện hoặc không được thực hiện hết.

Nguyên tắc khớp lệnh giao dịch

Hệ thống giao dịch thực hiện so khớp các lệnh mua và lệnh bán chứng khoán theo nguyên tắc ưu
tiên về giá và thời gian, cụ thể:

- Ưu tiên về giá: lệnh mua có mức giá cao hơn/lệnh bán có mức giá thấp hơn được ưu tiên thực
hiện trước.
- Ưu tiên về thời gian: trường hợp các lệnh mua hoặc lệnh bán có cùng mức giá thì lệnh nhập vào
hệ thống giao dịch trước sẽ được ưu tiên thực hiện trước.

Lưu ý

- Lệnh giao dịch tại mức giá khớp lệnh xác định giá mở cửa của chứng khoán nhập vào hệ thống
giao dịch có nội dung như lệnh giới hạn, nhưng không ghi mức giá mà ghi là ATO.

- Lệnh giao dịch tại mức giá khớp lệnh xác định giá đóng cửa của chứng khoán nhập vào hệ
thống giao dịch có nội dung như lệnh giới hạn, nhưng không ghi mức giá mà ghi là ATC.
- Lệnh thị trường nhập vào hệ thống giao dịch có nội dung như lệnh giới hạn nhưng không ghi
mức giá mà ghi là MP. Các thành viên không được nhập lệnh MP vào hệ thống giao dịch khi
chưa có lệnh giới hạn đối ứng đối với chứng khoán đó.

Câu 15: Các chủ thể tham gia thị trường chứng khoán

* Nhà phát hành:

Nhà phát hành là các tổ chức thực hiện huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán. Nhà
phát hành là người cung cấp các chứng khoán - hàng hoá của thị trường chứng khoán.

- Chính phủ và chính quyền địa phương là nhà phát hành các trái phiếu Chính phủ và trái phiếu
địa phương.
- Công ty là nhà phát hành các cổ phiếu và trái phiếu công ty.
- Các tổ chức tài chính là nhà phát hành các công cụ tài chính như các trái phiếu, chứng chỉ thụ
hưởng... phục vụ cho hoạt động của họ.

* Nhà đầu tư :

Nhà đầu tư là những người thực sự mua và bán chứng khoán trên thị trường chứng khoán. Nhà
đầu tư có thể được chia thành 2 loại: nhà đầu tư cá nhân và nhà đầu tư có tổ chức.

* Các tổ chức kinh doanh trên thị trường chứng khoán

- Công ty chứng khoán


- Quỹ đầu tư chứng khoán
- Các trung gian tài chính

* Các tổ chức có liên quan đến thị trường chứng khoán

- Cơ quan quản lý Nhà nước


- Sở giao dịch chứng khoán
- Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán
- Tổ chức lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán
- Công ty dịch vụ máy tính chứng khoán
- Các tổ chức tài trợ chứng khoán
- Công ty đánh giá hệ số tín nhiệm...

Câu 16: Phân tích đặc điểm của chứng khoán.

Chứng khoán là bằng chứng xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với tài
sản hoặc phần vốn của tổ chức phát hành.

Chứng khoán là một phương tiện có thể thỏa thuận và có thể thay thế được, đại diện cho một
giá trị tài chính.

Chứng khoán bao gồm các loại sau:

- Chứng khoán cổ phần.


- Chứng khoán nợ
- Chứng khoán phái sinh.

Đặc điểm của chứng khoán.

- Không khấu hao như các tài sản thực, hình thái của nó thường không liên quan đến giá trị
thực của chúng.
- Chi phí vận chuyển và cất trữ nhỏ.
- Tài sản tài chính dễ dàng có thể thay đổi hình thái hoặc thay thế cho các tài sản khác.
- Là tài sản đầu tư nên chứa đựng tính sinh lời và tính rủi ro.
- Khả năng thanh khoản cao.

Trong đó có 3 đặc điểm tồn tại song song và không thể tách rồi đó là:

- Tính thanh khoản.


- Tính sinh lợi
- Tính rủi ro.

• Tính thanh khoản (hay tính lỏng) được hiểu là việc chứng khoán có khả năng chuyển đổi
thành tiền mặt dễ dàng, thuận tiện cho việc thanh toán hay chi tiêu.

Chứng khoán có tính thanh khoản là những chứng khoán có sẵn thị trường cho việc bán lại dễ
dàng, giá cả tương đối ổn định theo thời gian và khả năng cao để phục hồi nguồn vốn đã đầu tư
nguyên thủy của nhà đầu tư.

Tính thanh khoản của chứng khoán phụ thuộc:


- Kết quả kinh doanh của tổ chức phát hành. Nếu tổ chức phát hành hoạt động kinh doanh
hiệu quả, thì thông thường chứng khoán sẽ có tính thanh khoản cao và ngược lại.
- Mối quan hệ cung cầu trên thị trường chứng khoán. Giá của chứng khoán trên thị trường
không chỉ phụ thuộc vào chất lượng của công ty mà còn phụ thuộc rất lớn vào nhu cầu
của nhà đầu tư. Giả sử chứng khoán rất tốt nhưng thị trường lại đang bão hòa nguồn cung
(nhiều hàng bán) thì chứng khoán đó cũng kho tăng giá, ngược lại, khi thị trường khan
hiếm hàng hóa thì ngay cả chứng khoán có chất lượng kém hơn cũng có thể dễ bán.

Tính sinh lợi của chứng khoán.

Tính sinh lợi của chứng khoản được biểu hiện ở tỷ lệ cổ tức mà nhà phát hành trả cho người sở
hữu cổ phiếu, hay lãi suất mà nhà phát hành trả cho người nắm giữ trái phiếu, ngoài ra nó còn
được biểu hiện ở sự chênh lệch giữa giá mua và giá bán của chứng khoán.

Tính sinh lợi của chứng khoán phụ thuộc vào tình hình hoạt động của tổ chức phát hành. Nếu tổ
chức phát hành hoạt động kinh doanh tốt, thì khả năng trả tỷ lệ cổ tức cao hơn, đồng thời nếu là
trái phiếu thì tỷ lệ lãi suất mà nhà đầu tư có thể nhận được từ nhà phát hành cũng có thể được
điều chỉnh tăng lên và ngược lại.

Ngoài ra, khi thị trường hoạt động có hiệu quả, khả năng thu được lợi nhuận từ sự chênh lệch
giữa giá mua và giá bán là khá cao.

Tính rủi ro của chứng khoán.

Tính rủi ro của chứng khoán được định nghĩa là sự sai khác giữa lợi nhuận kỳ vọng và lợi nhuận
thực tế nhận được khi đầu tư vào một chứng khoán hay một danh mục chứng khoán nào đó.

Tính rủi ro của chứng khoán được thể hiện trên hai mặt: Rủi ro có hệ thống và rủi ro không hệ
thống.

Rủi ro hệ thống là các loại rủi ro liên quan tới hầu hết toàn bộ các loại chứng khoán trên thị
trường như: chính sách kinh tế xã hội …

Rủi ro không hệ thống là những rủi ro chỉ liên quan đến một hoặc một số công ty nhất định.

Tính rủi ro của chứng khoán phụ thuộc rất nhiều vào tình hình hoạt động của thị trường cũng
như tình hình sản xuất kinh doanh của chính tổ chức phát hành.

Các nhà đầu tư thường quan tâm tới việc xem xét, đánh giá các rủi ro liên quan, trên cơ sở đó đề
ra các quyết định trong việc lựa chọn, nắm giữa hay bán các chứng khoán. Điều này phản ánh
mối quan hệ giữa lợi tức kỳ vọng và rủi ro hay sự cân bằng về lợi tức.

3 đặc điểm cở bản của chứng khoán luôn có mối quan hệ tương hỗ lẫn nhau.

Trước hết nói về mối quan hệ giữa tính thanh khoản và tính rủi ro: Rủi ro và thanh khoản có mối
liên hệ thuận nghịch.
- Mối liên hệ nghịch: Tính rủi ro càng cao thì tính thanh khoản càng thấp. Các loại chứng
khoán có mức độ rủi ro thấp thì thường chúng đem lại một tỷ suất lợi nhuận không cao,
điển hình là các loại trái phiếu, công trái … Các chứng khoán này có tỷ lệ lãi suất ổn
định, bù lại các nhà đầu tư có thể an tâm khi đầu tư vào các loại chứng khoán này. Đối
với các nhà đầu tư không muốn mạo hiểm mà chỉ quan tâm đến độ an toàn của chứng
khoán thì họ sẽ có xu hướng đầu tư vào các loại chứng khoán này. Điều đó đồng nghĩa là
trên thị trường, các loại chứng khoán này có khả năng chuyển đổi cao đối với các nhà đầu
tư không có kinh nghiệm nhiều trên thị trường chứng khoán, hoặc đối với những nhà đầu
tư muốn độ an toàn cao khi đầu tư vào chứng khoán.
- Mối liên hệ thuận: Ngược với tình huống trên, những nhà đầu tư chứng khoán nào mong
muốn mạo hiểm trong đầu tư để có thể kiếm được lợi nhuận cao trong tương lai thì họ có
xu hướng đầu tư vào các chứng khoán có độ rủi ro cao như cổ phiếu… cũng tương tự như
trên, thì đối với các nhà đầu tư này, các chứng khoán này cũng sẽ dễ dàng chuyển đổi
trên thị trường – tức nó có tính thanh khoản cao hơn tương đối soi với các chứng khoán
khác.

Mối quan hệ giữa tính rủi ro và tính lợi nhuận, nói đúng hơn là mối quan hệ giữa tính rủi ro của
chứng khoán và lợi nhuận kỳ vọng của nhà đầu tư.

- Trong hoạt động đầu tư ở bất cứ lĩnh vực nào, lợi nhuận kỳ vọng của nhà đầu tư luôn
tương ứng với những rủi ro của khoản mục đầu tư đó, hay là những hậu quả khi mà
những rủi ro đó xảy ra. Trong đầu tư chứng khoán cũng như vậy. Khi mà rủi ro của một
loại chứng khoán nào đó cao thì thông thường lợi nhuận kỳ vọng của nhà đầu tư vào
chứng khoán đó cũng cao theo. Cụ thể là với các loại trái phiếu có độ rủi ro khá thấp, nên
lợi nhuận kỳ vọng của các nhà đầu tư vào đó cũng thấp theo, từ đó mà họ chấp nhận mua
những trái phiếu với lãi suất nhận được thấp. Đối với cổ phiếu thì khác, không phải lúc
nào nhà đầu tư cũng nhận được cổ tức dựa trên khoản đầu tư của mình…
- Như vậy, có thể thấy, ba đặc tính của chứng khoán: tính rủi ro, tính thanh khoản và tính
sinh lợi tạo thành một tam giác, chúng có mối liên hệ mật thiết không thể tách rồi, và luôn luôn
tác động qua lại với nhau để giá cả của chứng khoán được đạt đến một trạng thái cân bằng nhất
định.

Câu 17: Nhận xét về tính thanh khoản trên TTCKVN

Tính thanh khoản và rủi ro thanh khoản trong đầu tư chứng khoán
Trên thực tế, có những thời điểm nhà đầu tư sở hữu lượng cổ phiếu giá trị hàng trăm triệu đồng,
nhưng chúng chỉ là những con số trên giấy. Muốn bán nhưng không ai mua. Lý do? Vì họ đang
sở hữu những cổ phiếu có tính thanh khoản kém.
Vậy tính thanh khoản là gì?
Tính thanh khoản của chứng khoán là khái niệm thể hiện khả năng chuyển đổi dễ dàng từ tiền
sang chứng khoán và ngược lại.
Rủi ro thanh khoản trong đầu tư chứng khoán
Một giá trị của thị trường tập trung là tạo nên tính thanh khoản cao, hỗ trợ nhà đầu tư giao dịch
và chủ động trước các quyết định mua/bán. Tuy nhiên, có những phiên giao dịch, cột dư mua
trống ngay từ đầu phiên, chủ động bán giá sàn nhưng vẫn khó thành công. Đó là điểm lo sợ nhất
đối với nhà đầu tư, bởi nắm chứng khoán trong tay, thấy lỗ qua từng ngày và khả năng thanh
khoản ngày một thu hẹp. Điều này được gọi là rủi ro thanh khoản trong đầu tư chứng khoán.
Một số yếu tố ảnh hưởng đến tính thanh khoản
Thứ nhất, hoạt động sản xuất - kinh doanh của các doanh nghiệp. Những mã cổ phiếu của các
doanh nghiệp có uy tín, hiệu quả làm ăn tốt và thông tin công bố minh bạch, rõ ràng thường có
tính thanh khoản cao hơn và ngược lại.
Thứ hai, những thông tin có tác động mạnh từ các cơ quan quản lý, ví dụ Chỉ thị 03 đã có ảnh
hưởng không nhỏ đối với thị trường chứng khoán. Nhiều nhà đầu tư dù rất muốn mua vào trong
thời điểm thị trường đi xuống nhưng đành đứng nhìn khi không còn nguồn cung tiền từ ngân
hàng.
Thứ ba, hạn chế về “room” của nhà đầu tư nước ngoài. Nhà đầu tư nước ngoài đang gặp phải rào
cản hết “room” (là khoảng cho phép nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phiếu của doanh nghiệp trong
nước đã niêm yết, hiện là 30% đối với các tổ chức tín dụng và 49% đối với các ngành nghề khác)
hoặc gần hết room đối với nhiều cổ phiếu trong tầm ngắm của họ.
Thứ tư, tâm lý của các nhà đầu tư cũng làm cho giao dịch trên thị trường lúc sôi nổi, lúc ảm đạm.
Khi thị trường đi lên, nhà đầu tư hưng phấn thì thị trường có tính thanh khoản cao. Khi thị
trường đi xuống, nhà đầu tư bắt đầu lo sợ thì tính thanh khoản của thị trường thấp, dù ai cũng
biết rằng thị trường đi xuống là cơ hội để mua vào.
Thứ năm, chỉ số giá tiêu dùng tăng cao khiến người dân phải chi nhiều hơn cho tiêu dùng, do đó,
số tiền đổ vào chứng khoán của họ sẽ ít đi.
Ngoài ra, các thị trường bất động sản, bảo hiểm, vàng… có sự liên thông với nhau. Nhà đầu tư
luôn tìm cách hạn chế rủi ro bằng cách phân bổ nguồn vốn vào nhiều lĩnh vực khác nhau, mỗi thị
trường khi có dấu hiệu “nóng” hay “lạnh” đều ảnh hưởng đến thị trường chứng khoán nói chung
và tính thanh khoản của chứng khoán nói riêng.
Vì vậy, khi lựa chọn chứng khoán để đầu tư, nhà đầu tư dứt khoát phải xem xét đến tính thanh
khoản của chứng khoán, hay nói cách khác là khả năng bán chứng khoán để tái tạo nguồn vốn
đầu tư ban đầu.

Tính thanh khoản trên thị trường VN

Tính thanh khoản của chứng khoán phụ thuộc rất nhiều yếu tố như: quan hệ cung cầu, giá chứng
khoán, sự phát triển của thị trường, tình hình sản xuất kinh doanh của công ty, thông tin …

Tại Việt Nam hiện nay, tính thanh khoản có thể được coi là không cao và rất thiếu ổn định. Tính
thanh khoản của thị trường đôi khi phụ thuộc rất nhiều vào tâm lý của nhà đầu tư chứ không phụ
thuộc vào các yếu tố chính khác ...

Tính thanh khoản của trái phiếu rất kém, việc mua bán trái phiếu chủ yếu diễn ra giữa các tổ
chức tài chính với ngân hàng nhà nước và bộ tài chính. Các tổ chức tín dụng tham gia đầu tư vào
trái phiếu với mục đích chính là đảm bảo khả năng thanh toán chứ không phải là vì mục tiêu lợi
nhuận cũng là một nguyên nhân làm cho thị trường trái phiếu kém tính thanh khoản.
Đối với các cá nhân sở hữu các trái phiếu chính phủ thì thường là sở hữu các trái phiếu dài hạn
(thông thường từ 5 năm trở lên), việc chuyển trái phiếu sang tiên mặt có thể được thực hiện bằng
cách đem chiết khấu tại các tổ chức tín dụng, tuy nhiên chi phí là khá cao, do vậy tính thanh
khoản cũng không cao.

Đối với thị trường cổ phiếu, tính thanh khoản cũng không được ổn định, phụ thuộc rất nhiều vào
tâm lý của nhà đầu tư, trong khi đó các yếu tố khác tác động rất yếu. Nguyên nhân là do tính
chuyên nghiệp của các nhà đầu tư chưa cao...

Ngoài ra, còn có hai nguyên nhân rất quan trọng làm cho tính thanh khoản của thị trường kém đó
là:

- Mua chứng khoán ký quỹ: Hiện nay, để đảm bảo cho TTCK còn non trẻ như Việt Nam
được "an toàn" và khỏi bị lũng đoạn thì tỷ lệ ký quỹ của NĐT 100% là hợp lý, nhưng
việc áp dụng quy định này một cách cứng nhắc, thiếu linh hoạt đang phần nào ảnh hưởng
tới NĐT, kéo tính thanh khoản của thị trường giảm đi đáng kể.

Tại một số nước, việc áp dụng tỷ lệ ký quỹ cũng là 100%, nhưng không phải với tất cả NĐT.
Một tỷ lệ ký quỹ thường < 50% được các CTCK áp dụng đối với những khách hàng (NĐT) nào
tạo được niềm tin với CTCK, hoặc họ là những khách hàng lâu năm của CTCK, việc này tạo rất
nhiều cơ hội kinh doanh cho NĐT, đặc biệt là những NĐT lớn, theo đó, tính thanh khoản cũng
tăng lên đáng kể.

Hay thay vì ký quỹ bằng tiền mặt, các nước còn cho phép NĐT ký quỹ bằng cổ phiếu họ đang sở
hữu trong tài khoản của họ (tất nhiên là cổ phiếu ký quỹ và cổ phiếu "cầm" ký quỹ của NĐT phải
khác nhau), đặc biệt khi NĐT sở hữu rất nhiều cổ phiếu trong tài khoản của mình mà chỉ muốn
giao dịch một vài cổ phiếu khác thì việc áp dụng mua cổ phiếu ký quỹ là một cách NĐT thể hiện
tính linh hoạt của mình và thị trường cũng sẽ trở nên nhộn nhịp hơn.

- Khung thời gian thanh toán giao dịch (T+): Ở các nước trong khu vực như Malaysia,
Hàn Quốc hay Nhật Bản, khung thời gian thanh toán của họ áp dụng ở mức T+1 hay T+2,
NĐT có thể bán những cổ phiếu đã mua trước đó sau 1 hoặc 2 ngày.

Khung thời gian T+0 có thể còn quá khó đối với TTCK Việt Nam, nhưng một khung thời gian
nhỏ hơn T+3 là hoàn toàn có thể làm được trong tương lai gần. Khi đó, tính thanh khoản sẽ tăng
lên, NĐT cũng sẽ hồ hởi hơn với khoản đầu tư của mình, họ có thể thu được lợi nhuận trong
ngắn hạn, cũng có thể thực hiện được nguyên tắc cốt yếu là cắt giảm thua lỗ trong thời gian ngắn
nhất.

Thị trường "nóng" hay "lạnh", tốt hay xấu, mạnh hay yếu tuy phụ thuộc rất nhiều yếu tố, nhưng
yếu tố thanh khoản của thị trường cũng góp phần tạo ra "sức khỏe" của thị trường. Khi tính thanh
khoản tăng, thị trường sẽ nhộn nhịp hơn, NĐT sẽ linh hoạt hơn, chủ động hơn, không còn ở vào
thế bị động mỗi khi thị trường dao động ngoài ý muốn của họ. Vì thế, thanh khoản cần lắm một
bước tiến.
Câu 18: Nhận xét về hàng hóa trên TTCKVN

1. Vài nét khái quát

Phát triển thị trường chứng khoán (TTCK) là một trong hai nhiệm vụ cơ bản của cơ quan
quản lý ngành chứng khoán nhưng không thể tách rời quá trình đổi mới và chuyển đổi nền
kinh tế nước ta. Những thành tựu kinh tế đạt được trong những năm qua là kết quả của việc
thi hành chính sách đổi mới toàn diện của Đảng và Nhà nước, tạo điều kiện để xây dựng
TTCK ở Việt Nam nhằm tạo một kênh quan trọng huy động vốn dài hạn cho phát triển kinh
tế, góp phần hoàn thiện hệ thống tài chính Việt Nam, tăng thêm các khả năng lựa chọn về tiết
kiệm và đầu tư cho dân chúng. Để phát triển TTCK, điều thiết yếu là cần phát triển “cung” và
“cầu” hàng hoá cho thị trường. Trong đó, “cung” hàng hoá thực chất liên quan tới hoạt động
phát hành và niêm yết chứng khoán của các tổ chức kinh tế trên thị trường.

TTCK Việt Nam là thị trường đang trong giai đoạn hình thành và phát triển, vấn đề cung hàng
hoá tuy có nhiều tiềm năng, nhưng cũng còn nhiều bất cập. Trong giai đoạn đầu của thị trường
(2000-2004), tiến trình cổ phần hóa (CPH) các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) theo chủ trương
của Đảng và Nhà nước còn chậm, nhiều công ty cổ phần (CtyCP) hoạt động theo Luật Doanh
nghiệp chưa quan tâm đến việc phát hành chứng khoán ra công chúng, nhiều công ty đại chúng
chưa có động lực niêm yết trên TTCK mặc dù đã có một số chính sách khuyến khích, ưu đãi của
Nhà nước. Do đó, trong chiến lược phát triển TTCK do Ủy ban Chứng khoán Nhà nước
(UBCKNN) trình Thủ tướng Chính phủ ban hành năm 2003, vấn đề tạo hàng hoá cho thị trường
phát triển đóng vai trò cốt lõi. Nhiều giải pháp đã được đề xuất nhằm phát triển hàng hoá cho
TTCK Việt Nam một cách toàn diện, hướng tới sự phát triển ổn định cho TTCK Việt Nam.

Giai đoạn 2005-2006 đánh dấu những chuyển biến rất quan trọng về chính sách và luật pháp, ảnh
hưởng tích cực đến việc tăng cung cho TTCK. Với quyết tâm đẩy mạnh công cuộc cải cách
DNNN thể hiện ở Nghị quyết Trung ương 3 và 9 (Đại hội IX), Quốc hội đã ban hành Luật
Doanh nghiệp mới, Thủ tướng Chính phủ ban hành nhiều chỉ thị về đẩy mạnh đổi mới DNNN,
Quyết định 528/QĐ-TTg gắn CPH DNNN với TTCK, Chính phủ ban hành Nghị định
187/2004/NĐ-CP thay thế Nghị định 64/2002/NĐ-CP về CPH DNNN… Đặc biệt, tháng 6/2006,
Quốc hội đã ban hành Luật Chứng khoán với những quy định rất mới về công ty đại chúng và
chào bán chứng khoán ra công chúng hướng theo chuẩn mực quốc tế. Những chính sách và luật
pháp nêu trên đã cơ bản chấm dứt việc CPH khép kín, hạn chế việc bao cấp vốn cho các DNNN.
Từ đó thúc đẩy các doanh nghiệp thực hiện CPH qua TTCK một cách minh bạch hơn và ngày
càng nhiều doanh nghiệp mong muốn thông qua thị trường để huy động vốn đầu tư phát triển
vốn và tăng cường uy tín cũng như hình ảnh của doanh nghiệp.

2. Một số kết quả đạt được

Hoạt động phát hành và niêm yết, giao dịch chứng khoán là những hoạt động cung hàng hoá cho
TTCK. TTCK Việt Nam là thị trường đang trong giai đoạn hình thành ban đầu, trong một nền
kinh tế chuyển đổi và có tốc độ phát triển khá cao, chính vì vậy hàng hoá cho thị trường được
đánh giá là rất tiềm năng. Nếu nhìn một cách bao quát về hoạt động phát hành chứng khoán trên
thị trường sơ cấp, các tổ chức phát hành ngoài Chính phủ là tổ chức phát hành trái phiếu thường
xuyên trên thị trường, còn có các ngân hàng thương mại, các công ty tài chính và các CtyCP.
Hiện có hơn 3.500 DNNN đã CPH và phát hành cổ phiếu ra thị trường thông qua đấu giá, bán lẻ
hoặc phân phối trực tiếp.

Từ đầu năm 2007 đến nay, đã có nhiều công ty nộp hồ sơ đăng ký chào bán ra công chúng dưới
hình thức chào bán cổ phiếu cho cổ đông hiện hữu, đối tác chiến lược, phát hành cổ phiếu
thưởng, phát hành cổ phiếu trả cổ tức, phát hành cổ phiếu theo chương trình lựa chọn cho người
lao động, phát hành lần đầu IPO. Trong giai đoạn này, có 86 công ty được cấp giấy chứng nhận
đăng ký chào bán chứng khoán ra công chúng với số vốn huy động lên đến gần 60.000 tỷ đồng,
đóng góp đáng kể vào sự phát triển của doanh nghiệp cũng như của nền kinh tế nói chung. Ngoài
ra, số lượng các DNNN CPH, bán đấu giá qua Trung tâm Giao dịch chứng khoán (TTGDCK)
cũng lên đến hơn 50 doanh nghiệp với gần 451 triệu cổ phần, trong đó có 2 tập đoàn lớn là Công
ty Phân đạm và Hóa chất dầu khí và Tổng Công ty Bảo hiểm Việt Nam thu về cho Nhà nước
hàng nghìn tỷ đồng...

Thị trường cổ phiếu : Các doanh nghiệp CPH từ DNNN là nguồn cung cấp hàng hoá (cổ phiếu)
chủ yếu trên TTCK hiện nay, bao gồm thị trường sơ cấp và thứ cấp cũng như thị trường có tổ
chức và chưa có tổ chức. Trong đó: các doanh nghiệp thuộc các ngành Công nghiệp, Giao thông,
Xây dựng chiếm gần 70%, các doanh nghiệp thuộc các ngành Thương mại, Dịch vụ chiếm gần
10%. Trong vòng 7 năm qua, lượng cung hàng hoá cho TTCK tăng dần về qui mô; nếu những
năm đầu (2000-2004), không có doanh nghiệp nào chào bán chứng khoán qua TTCK tập trung,
thì giai đoạn 2005-2007, số lượng tổ chức phát hành chào bán chứng khoán tăng đáng kể. Tính
đến 15/10/2007, có 213 công ty niêm yết trên Sở Giao dịch chứng khoán (SGDCK) Tp. HCM và
TTGDCK Hà Nội với tổng giá trị chứng khoán niêm yết đạt khoảng 246.977 tỷ đồng. Chỉ tính
riêng 10 tháng đầu năm 2007, TTCK Việt Nam đã có sự phát triển vượt bậc, số doanh nghiệp
niêm yết tăng nhanh và giá trị bình quân trên thị trường tăng mạnh (xem bảng dưới đây). Đây là
kết quả của sự chỉ đạo quyết liệt và linh hoạt trong điều hành vĩ mô của Chính phủ, Bộ Tài
chính, UBCKNN, cùng với sự phối kết hợp của các bộ ngành và các đơn vị liên quan.

Thị trường trái phiếu : Quyết định số 2276/2006/QĐ-BTC đã tạo ra một thị trường đấu thầu trái
phiếu hoạt động thường xuyên, hiệu quả hơn, tạo được niềm tin cho các thành viên tham gia thị
trường. Hoạt động đấu thầu TPCP bước đầu góp phần đáp ứng nguồn vốn cho đầu tư phát triển
kinh tế và cho các dự án đầu tư trọng điểm, từng bước nâng cao tỷ trọng trái phiếu/GDP. Đã có
hơn 400 mã trái phiếu với giá trị niêm yết là 85.321 tỷ đồng, tính bình quân giao dịch trái phiếu 6
tháng đầu năm 2007 là 351,29 tỷ đồng/ngày. Thị trường trái phiếu Việt Nam được cấu thành từ
một số yếu tố cơ bản, đó là các tổ chức phát hành trái phiếu để thu hút nguồn vốn vay trung và
dài hạn, các nhà đầu tư, các trung gian, cơ sở hạ tầng trong đó có khung pháp lý tạo môi trường
cho hoạt động phát hành và giao dịch trái phiếu. Thị trường trái phiếu ở nước ta hiện nay bao
gồm các bộ phận cấu thành là thị trường TPCP và trái phiếu chính quyền địa phương; Thị trường
trái phiếu công ty, trong đó có các công ty nhà nước và công ty thuộc khu vực tư nhân. TPCP là
một loại hàng hóa chủ yếu trên TTCK Việt Nam hiện nay, chiếm tỷ trọng khoảng gần 70% tổng
giá trị thị trường tính theo mệnh giá niêm yết. Tính đến 15/10/2007, tổng giá trị vốn hoá trên thị
trường trái phiếu đạt gần 114.000 tỷ đồng chiếm 11,7% GDP 2006.
Để tiếp tục duy trì tốc độ phát triển, thực hiện các mục tiêu và nhiệm vụ phát triển đất nước,
hàng năm chúng ta cần huy động một lượng vốn khá lớn thông qua phát hành TPCP, khoảng hơn
600.000 tỷ đồng, tương đương với khoảng 10% GDP của cả nước.

3. Định hướng phát triển hàng hóa cho TTCK Việt Nam

Để từng bước thực hiện được những mục tiêu tổng quát của việc phát triển TTCK nêu trên và
vận hành được thị trường hoạt động theo đúng định hướng, thì một trong những nhiệm vụ trọng
tâm trước mắt là phải có chiến lược phát triển hàng hoá cho TTCK, trong đó chất lượng hàng hoá
của TTCK là yếu tố quyết định đối với sự tồn tại và phát triển của thị trường.

Một yếu tố quan trọng góp phần tăng cung hàng hoá có chất lượng là Quyết định số 1729/QĐ-
TTg ngày 29/12/2006 của Thủ tướng Chính phủ, phê duyệt danh sách các Tập đoàn, các Tổng
công ty nhà nước thực hiện CPH giai đoạn 2007-2010. Việc ban hành Quyết định này đã tạo nên
hy vọng lớn cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước vào tiềm năng phát triển của TTCK Việt
Nam. Vấn đề tới đây là cần có sự chỉ đạo sát sao của Chính phủ cũng như của các ngành các cấp
có liên quan để kế hoạch nói trên được thực hiện đúng tiến độ và gắn kết với TTCK một cách
công khai, minh bạch. Hàng hoá cung cấp cho thị trường một mặt phải dồi dào, phong phú, với
số lượng đáp ứng nhu cầu của thị trường, mặt khác còn phải đáp ứng yêu cầu về chất lượng để
giảm thiểu những rủi ro có thể có đối với các nhà đầu tư và đối với thị trường. Do đó, đối với
việc chào bán chứng khoán ra công chúng, trong thời gian tới sẽ tiếp tục duy trì một số điều kiện
tối thiểu về quy mô vốn và hiệu quả sản xuất kinh doanh nhằm một tạo ra phân khúc thị trường,
đối với các doanh nghiệp quá nhỏ, chưa có hiệu quả có thể tìm đến các quỹ đầu tư, các định chế
tài chính trung gian để giải quyết nhu cầu về vốn, mặt khác sẽ khuyến khích các doanh nghiệp có
triển vọng chào bán chứng khoán ra công chúng.

Mặt khác, để có nhiều hàng hóa và hàng hoá có chất lượng, không thể thiếu các yếu tố đồng bộ
kèm theo nó như phải phát triển các tổ chức kiểm toán, tổ chức định mức tín nhiệm hoạt động
hiệu quả để hỗ trợ quản lý và thông tin làm cơ sở cho quyết định của các nhà đầu tư trên thị
trường.

Về lâu dài, sự tham gia của các nhà đầu tư ngày càng tăng sẽ góp phần tăng tính thanh khoản và
hiệu quả của thị trường chứng khoán, từ đó khuyến khích các doanh nghiệp tăng cường sử dụng
kênh TTCK để huy động vốn và sử dụng vốn một cách có hiệu quả. Bên cạnh đó, để thu hút
được dòng vốn đầu tư trong và nước vào thị trường chứng khoán Việt Nam, cần phải tạo lập môi
trường đầu tư hấp dẫn như: môi trường kinh tế - xã hội ổn định, kiềm chế lạm phát, thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế, ổn định giá trị tiền tệ, tăng cường khả năng sinh lợi lâu bền của nền kinh tế quốc
dân.

Kỷ niệm 10 năm xây dựng và phát triển UBCKNN, mục tiêu phát triển hàng hoá cho một TTCK
mới mẻ như Việt Nam vẫn luôn là một trong những vấn đề được quan tâm hàng đầu của công
chúng đầu tư, cũng như của các nhà quản lý thị trường. Đó cũng là điều kiện kiên quyết để biến
TTCK Việt Nam trở thành một kênh đầu tư hấp dẫn xứng với tiềm năng của nó và để hoạt động
của thị trường được diễn ra lành mạnh.
Câu 19: Phân tích ưu nhược điểm của TP chuyển đổi.

Ưu, nhược điểm của trái phiếu chuyển đổi


1. Đối với công ty phát hành
Ưu điểm:
- Chi phí phát hành và lãi suất phải trả thấp hơn so với phát hành trái phiếu thông thường cũng
như so với lãi suất ngân hàng và điều này đồng nghĩa với việc giảm rủi ro đối với tổ chức phát
hành.
- Tăng vốn cổ phần trong tương lai khi chuyển từ trái phiếu nợ thành vốn cổ phần.
- Giá cổ phiếu thường không bị sụt giảm do tránh được tình trạng tăng số lượng cổ phiếu một
cách nhanh chóng trên thị trường.
- Trước khi trái phiếu được chuyển đổi sẽ không làm giảm thu nhập của các cổ đông hiện hữu so
với phát hành cổ phiếu.
- Dễ dàng hơn trong việc huy động vốn do tính hấp dẫn của việc có thể chuyển đổi từ trái phiếu
sang cổ phiếu.
Nhược điểm:
- Do cổ đông thường tham gia vào việc quản lý công ty nên khi chuyển đổi có thể gây ra một sự
thay đổi trong việc kiểm soát công ty.
- Khi trái phiếu được chuyển đổi, vốn chủ sở hữu bị "pha loãng" do tăng số cổ phiếu lưu hành
nên mỗi cổ phần khi đó đại diện cho một tỷ lệ thấp hơn của quyền sở hữu trong công ty.
- Kết quả chuyển đổi sẽ làm giảm chi phí trả lãi, tức là làm tăng thu nhập chịu thuế của công ty.
Do đó, công ty phải trả thuế nhiều hơn khi chuyển đổi.
2. Đối với nhà đầu tư
Ưu điểm:
- Trái phiếu chuyển đổi cũng giống trái phiếu thường, tức là cũng được thanh toán tiền lãi với
một lãi suất cố định và sẽ được mua lại với giá bằng mệnh giá vào lúc đáo hạn. Thu nhập từ lãi
suất trái phiếu thường cao hơn và chắc chắn hơn thu nhập từ cổ tức trên cổ phiếu.
- Người nắm giữ trái phiếu chuyển đổi có quyền ưu tiên hơn các cổ đông nắm giữ cổ phiếu khi
công ty phá sản và bị thanh lý.
- Giá thị trường của trái phiếu chuyển đổi có chiều hướng ổn định hơn giá cổ phiếu trong thời kỳ
thị trường sa sút. Giá trị của trái phiếu chuyển đổi trên thị trường sẽ được hỗ trợ bởi các lãi suất
hiện hành của những trái phiếu cạnh tranh khác.
- Vì trái phiếu chuyển đổi có thể được chuyển thành cổ phiếu nên giá trị thị trường của chúng sẽ
có chiều hướng tăng nếu giá cổ phiếu tăng.
- Nhà đầu tư có quyền lựa chọn. Họ sẽ không bị lỗ nặng khi giá cổ phiếu sụt giảm xuống dưới
giá chuyển đổi (họ sẽ không thực hiện quyền chuyển đổi) mà vẫn có lợi khi giá cổ phiếu tăng
mạnh (họ sẽ thực hiện quyền chuyển đổi rồi bán cổ phiếu sau khi chuyển đổi).
Nhược điểm:
- Nhà đầu tư được hưởng mức lãi suất thấp hơn so với các loại trái phiếu khác.
- Thời gian chuyển đổi thường dài nên tiềm ẩn nhiều yếu tố rủi ro.
- Nếu công ty phải ngưng hoạt động bởi những tình huống như sáp nhập, hợp nhất hay giải thể
thì những người nắm giữ trái phiếu chuyển đổi sẽ bị mất đặc quyền chuyển đổi
Câu 20: Phân tích các mqh của đặc điểm chứng khoán.

Trong câu này mình có thể lựa chọn một trong những mqh để phân tích.

Thử phân tích TÍNH THANH KHOẢN VÀ TÍNH RỦI RO nhé!

Chúng ta đã được biết tầm quan trọng của tiền mặt trong hoạt động kinh doanh, nhưng sẽ thật là
thiếu xót nếu bỏ qua một khái niệm bao hàm hơn và không kém tầm quan trọng đó chính là tính
thanh khoản.

Thuật ngữ "tính thanh khoản" có thể được hiểu theo 3 cách. Thứ nhất, dùng để chỉ khả năng
chuyển thành tiền của tài sản (tất nhiên bao gồm cả chứng khoán) nhằm trang trải các khoản nợ
và nghĩa vụ ngắn hạn. Để làm được việc này, doanh nghiệp cần phải sở hữu các tài sản có tính
thanh khoản, đó là tiền mặt và tương đương tiền (bao gồm, cổ phiếu blue-chip và các chứng
khoán trên thị trường tiền tệ ví dụ trái phiếu chính phủ). Các tài sản có tính thanh khoản phải
đảm bảo có thể được mua bán trên thị trường nhanh chóng mà không ảnh hưởng đến giá cả, tức
là giá giao dịch không bị chênh lệch quá nhiều so với giá gốc. Tất nhiên, các nhà đầu tư yêu
thích đầu tư vào các tài sản có tính thanh khoản cao vì họ có thể dễ dàng rút khỏi vụ đầu tư và
lấy lại khoản đầu tư của mình (kèm theo cả lãi hoặc nếu là lỗ thì số tiền bị mất cũng không đáng
kể). Thứ hai, tính thanh khoản chỉ khả năng trả nợ của doanh nghiệp khi đến hạn. Và, thứ ba tính
thanh khoản liên quan đến khả năng vận hành trơn tru của thị trường xét về khía cạnh các giao
dịch mua và bán.

Khả năng trả nợ của doanh nghiệp và tính thanh khoản của tài sản

Tính thanh của tài sản giao dịch ngoài tương tác với hoạt động của thị trường còn ảnh hưởng
rất lớn đến tình hình hoạt động của doanh nghiệp, trực tiếp nhất là khả năng trả nợ.

Có rất nhiều công thức cho phép xác định tương đối khả năng trả nợ của doanh nghiệp, tuy nhiên
công thức Tỉ lệ nợ rất đơn giản và dễ hình dung.

Tỉ lệ nợ = Nợ phải trả (ngắn hạn và dài hạn) / Tổng tài sản

*
Nếu tỉ lệ nợ > 1 có nghĩa là doanh nghiệp đang nợ nhiều hơn số tài sản mà mình có. Nếu công ty
gặp phải tình trạng như thế này sẽ rất khó để có thể thu hút được nhà đầu tư hoặc ngân hàng cho
vay tín dụng bởi vì rủi ro không trả được nợ của công ty là quá lớn.
*
Nếu tỉ nợ < 1 có nghĩa rằng tổng tài sản của doanh nghiệp có khả năng bù đắp được cho khoản
nợ. Khi đó lại phải cân nhắc thêm một số yếu tố khác.
Nếu tài sản của doanh nghiệp không thể chuyển thành tiền mặt khi cần (tức là khả năng thanh
khoản kém) thì doanh nghiệp không có khả năng trả nợ khi đến hạn. Khả năng thanh khoản kém
không hẳn đồng nghĩa với vỡ nợ nếu về lâu dài tài sản vẫn có khả năng bán đi được. Tuy vậy, rõ
ràng hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bị ảnh hưởng bởi vì nợ quá hạn có thể còn phải
gánh lãi suất và tiền phạt do trả chậm. Rủi ro cao hơn xảy ra nếu tài sản hoàn toàn không có tính
thanh khoản, khi đó doanh nghiệp không có tiền trả nợ và tất nhiên sẽ rơi vào tình trạng vỡ nợ.
Khoảng cách giữa vỡ nợ và phá sản chỉ là vấn đề thời gian, bởi vì sau khi bị vỡ nợ doanh nghiệp
hoặc các chủ nợ có thể nộp đơn yêu cầu tòa án phá sản tuyên bố phá sản để thanh lý tài sản trả
nợ.

Câu 21: Phân tích vai trò của TTCK. Liên hệ VN.

Với tư cách là phương thức khơi thông dòng vốn đầu tư vào sản xuất kinh doanh thị trường
chứng khoán có vai trò cực kỳ quan trọng trong nền kinh tế đó là:
Thúc đẩy việc tích lũy và tập trung vốn để đáp ứng nhu cầu xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của
nền kinh tế. Nếu chỉ dựa vào nguồn vốn của bản thân một đơn vị hoặc qua con đường vay truyền
thống thì không đáp ứng được về thời gian và lượng vốn. Vì thế các đơn vị và địa phương có thể
phát hành trái phiếu để thu hút vốn nhanh. Thị trường chứng khoán tạo điều kiện thuận lợi cho
việc thực hiện chính sách mở cửa, cải cách kinh tế thông qua việc phát hành chứng khoán ra
nước ngoài. Thị trường chứng khoán rất nhậy cảm đối với các hoạt động kinh tế, là thước đo
hiệu quả các hoạt động kinh tế. Giá trị cổ phiếu của các công ty (thị giá) tỷ lệ thuận với lợi nhuận
mà công ty đạt được. Chỉ số chung của thị trường chứng khoán phản ánh mức tăng trưởng kinh
tế của quốc gia đó trong thời gian ngắn, trung và dài hạn. Thị trường chứng khoán cho phép sử
dụng các chứng từ có giá, bán cổ phiếu, trái phiếu từ đó ngân hàng có thể điều tiết hoạt động của
thị trường, khống chế sự co giãn cung cầu tiền tệ, khống chế quy mô đầu tư, thúc đẩy phát triển
kinh tế và giá trị đồng tiền. Thị trường chứng khoán tạo điều kiện để sử dụng vốn có hiệu quả
hơn đối với cả người có tiền đầu tư và người vay tiền để đầu tư. Thông thường lãi thu được qua
đầu tư chứng khoán cao hơn lãi phiếu nhà nước hay lãi gửi tiết kiệm.

Từ những nội dung trên đây cho thấy thị trường chứng khoán ngày càng phát huy vai trò trọng
yếu trong nền kinh tế, ngày càng thu hút sự quan tâm của nhiều người. Thời gian vừa qua (cuối
năm 2006 và đầu năm 2007) đã có lúc ồn ào sôi động thông tin từ thị trường chứng khoán. Tại
các sàn giao dịch ở Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh thu hút nhiều tầng lớp. Có cả các công ty
sản xuất, các thương lái, sinh viên, cán bộ, viên chức. Có cả người am hiểu và người chưa tường
tận, có cả người tỉnh táo và người “ngái ngủ”. Hậu quả là có không ít người có thu nhập rất cao,
điều lạ là người ta tham gia công khai ở thị trường đồng thời có cả hiện tượng săn lùng chứng
khoán của cả các công ty sắp sửa lên sàn giao dịch (thị trường chưa niêm yết). Kinh nghiệm cho
thấy khi có những sự kiện tạo thu nhập bất ngờ thì đồng thời sẽ có những rủi ro khó lường. Xem
xét diễn biến của thị trường chứng khoán ở nước ta hiện nay, theo chúng tôi cần lưu ý một số vấn
đề sau đây:

Một là: Thị trường chứng khoán sẽ ngày càng phát triển, sẽ có tác dụng tốt cho nền kinh tế
nhưng rất cần sự can thiệp, hướng dẫn, quản lý nhà nước thông qua Luật Chứng khoán, thông
qua việc kiểm tra kiểm soát các cơ quan tài chính trung gian, yêu cầu thông tin trung thực, kịp
thời, đầy đủ từ các công ty sản xuất phát hành cổ phiếu. Việc tăng cường quản lý sẽ tránh được
các đổ vỡ dây chuyền và làm cho thị trường vận hành đúng hướng có tác dụng tích cực.
Hai là: Người tham gia thị trường chứng khoán, mua hoặc bán cổ phiếu cần am hiểu, tìm hiểu
cặn kẽ luật pháp; có tiền đưa vào đầu tư là rất tốt nhưng mua đi, bán lại cổ phiếu chỉ thuần túy
kiếm lời là rất mạo hiểm. Chớ nên đem tiền thật đi mua ảo vọng. Là người lao động sản xuất cần
mua cổ phần để tăng vốn cho đơn vị mình, là người kinh doanh cổ phiếu phải tuân thủ luật pháp
không được lừa dối, không được cung cấp thông tin giả. Bạn là người có tiền không nên cất giữ
mà nên mua công trái, trái phiếu, gửi tiết kiệm, liên doanh góp vốn vào sản xuất. Nếu dư dật qua
thị trường chứng khoán cũng không nên say sưa quá mức. Cái gì cũng có điểm dừng, dừng đúng
lúc là khôn ngoan là hiểu biết.

Ba là: Các cơ quan nhà nước, các tổ chức tài chính, các cơ quan ngôn luận rất nên thông tin đầy
đủ, huấn luyện, đào tạo để nhiều tầng lớp nhân dân thông suốt về thị trường mới mẻ này tránh
những xáo trộn bất ổn trước khi muộn. Cần thiết bổ sung nhanh những chế tài để quản lý thị
trường này chẳng hạn xử lý nghiêm minh những sai phạm, thu thuế thu nhập những người có thu
nhập cao từ hoạt động chứng khoán v.v...

Bất kỳ một loại hoạt động nào cũng phải trải qua thăng trầm trước khi ổn định và phát triển, tuy
nhiên nếu thả lỏng quản lý, nếu ồ ạt phong trào sẽ không thể có kết quả tốt cho một nền kinh tế
lành mạnh và cuộc sống bình yên của mỗi người.

Chúng tôi hy vọng: Mỗi chúng ta cần bình tĩnh, thận trọng khi dấn thân vào thị trường chứng
khoán đầy cám dỗ, đầy rủi ro bất thường.
Câu 22: Cơ hội và thách thức của TTCKVN thời gian tới.

Cơ hội:
TTCK VN hiện nay đang đứng trước nhiều cơ hội lớn, đặc biệt là kể từ sau khi trở thành thành
viên chính thức của WTO. Việc tham gia WTO chắc chắn sẽ góp phần gia tăng mạnh lượng vốn
đầu tư gián tiếp của nước ngoài vào thị trường thông qua quỹ đầu tư đang hoạt động tại VN cũng
như các tổ chức đầu tư nước ngoài vào VN trong thời gian tới.
Đối với các quỹ đầu tư đang hoạt động tại VN, việc VN gia nhập WTO, tốc độ tăng trưởng ổn
định của VN và kết quả hoạt động kinh doanh khá tốt trong vài năm qua sẽ tạo điều kiện thuận
lợi cho các quỹ huy động thêm vốn từ bên ngoài để đầu tư vào TTCK VN.
Việc gia tăng nguồn vốn đầu tư vào VN sẽ tạo cơ hội lớn cho các công ty chứng khoán VN thông
qua việc cung cấp dịch vụ chứng khoán cho các nhà đầu tư tổ chức. Tuy nhiên, cũng có không ít
cạnh tranh từ các tổ chức kinh doanh CK quốc tế.
Với thế mạnh về vốn, kinh nghiệm và trình độ nghiệp vụ, chắc chắn các tổ chức kinh doanh
chứng khoán nước ngoài sẽ có nhiều lợi thế cạnh tranh, đặc biệt trong các nghiệp vụ như tư vấn
tài chính, tư vấn phát hành và niêm yết tại nước ngoài, quản lý tài sản và môi trường kinh doanh
CK cho các nhà đầu tư nước ngoài. TTCK sẽ tăng trưởng mạnh hơn, số lượng các công ty niêm
yết sẽ tăng nhanh hơn.
* Thách thức:
TTCK VN tiếp tục hứa hẹn nhiều cơ hội, nhưng những thách thức cũng không ít.
- Cơ chế, chính sách chưa hoàn thiện: rủi ro hệ thống là những rủi ro mà nhà đầu tư luôn phải
chấp nhận nó. Hiện tại, Luật CK đã có hiệu lực nhưng các văn bản hướng dẫn vẫn đang trong
quá trình dự thảo, các quy định quản lý về thị trường, giao dịch còn lỏng lẻo, thể hiện nhiều bất
cập và cần phải sửa đổi cho phù hợp. Do vậy, chưa thể đáp ứng yêu cầu về tài chính rõ ràng,
minh bạch.
- Quy mô vượt trội dẫn đến thách thức đối với các nhà đầu tư trong nước là rất lớn, thể hiện ở
các khía cạnh:
Rất nhiều cơ hội xem xét đầu tư
Dòng vốn rất lớn sẽ chuyển sang doanh nghiệp mới cổ phần hóa
Các tiêu chí đầu tư không chỉ dừng ở 1 số thông số cơ bản như EPS hay P/E
Xuất hiện các nghiệp vụ đầu tư mới, không chỉ đơn thuần là đầu tư vào cổ phiếu mà còn cả các
công cụ phái sinh.
Xuất hiện các nghiệp vụ đầu tư mới như hoán đổi, bán khống.
- Chất lượng của các nhà đầu tư trong nước còn chưa cao, thị trường vẫn còn thiếu những nhà tạo
lập thị trường với những kiến thức chuyên sâu, có kinh nghiệm trong lĩnh vực chứng khoán.

Câu 23: Tác động của TTCK Mỹ đến TTCKVN thời gian qua.

Lo sợ về cuộc khủng hoảng tài chính, chỉ số chứng khoán ở Mỹ kết thúc phiên giao dịch ngày
28/8 xuống điểm ở mức đáng báo động. Liệu cơn bão tín dụng tại Mỹ có “quét” đến các thị
trường châu Á, trong đó có VN?
Tại hội thảo sáng 29/8 ở Hà Nội, vấn đề này được các chuyên gia kinh tế hàng đầu của Citibank
đề cập.
Giá cổ phiếu tại thị trường Việt Nam chỉ trong vòng 1 tháng qua (từ 18/7- 17/8) đã giảm khoảng
11,2%.
Mức giảm chung tại TTCK khu vực châu Á từ ảnh hưởng của TTCK Mỹ là khoảng 15% (chỉ
duy nhất Trung Quốc tăng 18,2% do nước này đã áp dụng biện pháp về kiểm soát vốn).
Trước khả năng cơn khủng hoảng tài chính tại Mỹ hiện chưa biết đâu là điểm chạm đáy, đề cập
đến Việt Nam, ông Bong ArJonillo, Giám đốc phụ trách về nguồn vốn và kinh tế tại Việt Nam
của Citibank thừa nhận:
“Với đầu tư vốn trực tiếp, gián tiếp vào Việt Nam tăng vọt trong thời gian qua, thị trường Việt
Nam có thể bị ảnh hưởng nhất định nếu các nhà ĐTNN, đấu tư cổ phiếu rút ra khi thị trường biến
động.
Tuy nhiên, nếu nhìn vào những yếu tố cơ bản như: nền kinh tế Việt Nam đang tăng rất mạnh,
nhu cầu đầu tư trong nước, nhu cầu tiêu dùng và sản xuất tăng, Việt Nam gia nhập WTO, thì có
thể thấy đây sẽ là những yếu tố chính tạo niềm tin để các nhà đầu tư lâu dài sẽ chọn Việt
Nam”.
Đánh giá cao các chỉ số kinh tế Việt Nam, theo ông Bong ArJonillo, 5 năm qua GDP của Việt
Nam đang tăng trưởng tốt, dự trữ ngoại hối tăng ngoạn mục. Tuy nhiên, nhìn vào giao dịch trên
TTCK hiện nay, có thể thấy các nhà đầu tư đã thay đổi theo hướng giảm khẩu vị.
“Họ thận trọng và dè dặt hơn bởi thị trường chưa minh bạch lắm. Việt Nam phải làm sao có công
bố thông tin cụ thể của từng doanh nghiệp trong từng lĩnh vực, từng ngành. Các nhà quản lý phải
làm sao để DN niêm yết trên TTCK là bức tranh chuẩn xác, các DN phải thể hiện cho các nhà
đầu tư thấy họ đang rất ổn và sẵn sàng cho tương lai” - Chuyên gia này nhận định.
Ông Nguyễn Đình Cung – Trưởng ban Kinh tế vỹ mô Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung
ương cho rằng: Đối với phần vốn nước ngoài trên TTCK Việt Nam đến từ Mỹ, giả sử như nền
kinh tế Mỹ bị khủng hoảng thì chắc chắn vốn đó trên TTCK Việt Nam sẽ bị giảm do “cầu” giảm
xuống. Nhưng mức ảnh hưởng sẽ không lớn do luồng vốn của nhà đầu tư nước ngoài đổ vào
chưa nhiều.
Tuy nhiên, nếu kinh tế Mỹ sụt giảm, theo ông Cung chắc chắn nó sẽ làm ảnh hưởng đến thị
trường xuất khẩu Việt Nam. Bởi trong báo cáo 5 năm gần đây, Mỹ được xem là thị trường chiếm
tỷ trọng lớn gần như đứng thứ nhất trong xuất khẩu của chúng ta.

Một số chuyên gia tài chính trong nước và quốc tế nhận định, những biến động kinh tế trên
thị trường tài chính Mỹ tuy có tác động tới Việt Nam song mức ảnh hưởng của nó sẽ là
không nhiều.

Một loạt các sự kiện tiêu cực liên tiếp diễn ra trên thị trường tài chính Mỹ vào cuối tuần trước và
đầu tuần này như: việc ngân hàng đầu tư Lehman Brothers đã đệ đơn phá sản vì có khoản nợ quá
lớn (hơn 613 tỷ USD) và đề nghị được bảo vệ; ngân hàng đầu tư lớn thứ ba nước Mỹ là Merrill
Lynch cũng đang vật vã để nhằm tránh số phận tương tự với Lehman Brothers; tập đoàn tài
chính bảo hiểm khổng lồ American International Group (AIG) cũng đang thẳng tiến đến vực
thẳm, đòi hỏi sự cứu giúp của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED)…

Những diễn biến này đã khiến cho thị trường chứng khoán Mỹ mất giá thê thảm. Các chuyên gia
kinh tế cho rằng, thị trường chứng khoán Mỹ chắc chắn trong thời gian tới sẽ không có gì là sáng
sủa. Và nhiều người lo ngại ảnh hưởng từ thị trường chứng khoán Mỹ tới thị trường chứng khoán
Việt Nam vì hiện số lượng các nhà đầu tư nước ngoài hoạt động tương đối nhộn nhịp trên sàn.
Ngoài ra dòng vốn đầu tư cũng sẽ bị ảnh hưởng như một ảnh hưởng phối thuộc không thể tránh
khỏi. Tuy nhiên, theo một số chuyên gia tài chính trong nước và quốc tế, những biến động kinh
tế gây ra cú sốc trên thị trường tài chính Mỹ có tác động tới Viêt Nam nhưng mức ảnh hưởng này
là không nhiều.

Ông Ayumi Konishi - Giám đốc quốc gia Cơ quan đại diện thường trú của Ngân hàng Phát triển
châu Á (ADB) tại Việt Nam khẳng định: "Hệ thống ngân hàng Việt Nam mới chỉ ở đoạn đầu của
sự phát triển và những gì xảy ra đối với thị trường và ngân hàng nước Mỹ rất ít can hệ tới sự
phát triển của hệ thống ngân hàng Việt Nam hiện nay". Khả năng rủi ro của toàn bộ hệ thống
ngân hàng Việt Nam nói chung là rất thấp, mà chỉ có thể xuất hiện ở một số ngân hàng đặc biệt
là các ngân hàng nhỏ – ông Konishi nói.

Ông Lê Đắc Sơn – Tổng Giám đốc Ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc
doanh nhận định: "Ảnh hưởng tại thị trường tài chính Mỹ vẫn ở tầm xa đối với hệ thống ngân
hàng Việt Nam do thị trường Việt Nam mới tham gia vào thị trường Mỹ". Cũng theo ông Sơn,
ảnh hưởng dễ nhận thấy đối với Việt Nam là việc xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam vào
thị trường Mỹ sẽ gặp nhiều khó khăn hơn và có khả năng lượng kiều hối chuyển về nước giảm
xuống.

Câu 24 : Quy trình phân tích cơ bản trong TTCK.

I. Phân tích nhân tố vĩ mô tác động Đến thị trường chứng khoán

1. Môi trường chính sách và pháp luật


v Hệ thống chính sách có tác động rất lớn đến bản thân TTCK và hoạt động của
các doanh nghiệp. Mỗi thay đổi chính sách có thể kéo theo các tác động tốt
hoặc xấu tới TTCK, nhất là trong những thời điểm nhạy cảm.
v Môi trường chính trị – xã hội luôn có những tác động nhất định đến hoạt động
của TTCK. Yếu tố chính trị bao gồm những thay đổi về chính phủ và các hoạt
động chính trị, sửa đổi chính sách có ảnh hưởng rất lớn đến TTCK.
v Môi trường pháp luật là yếu tố quan trọng tác động tới TTCK.
Do vậy môi trường pháp lý cần đuợc xem xét trên các góc độ:
§ Hệ thống hành lang pháp lý của TTCK được xây dựng như thế nào, có đủ bảo
vệ quyền lợi chính đáng của người đầu tư hay không?
§ Những mặt khuyến khích, ưu đãi, hạn chế được quy định trong hệ thống pháp
luật.
§ Sự ổn định của hệ thống luật pháp, khả năng sửa đổi và ảnh hưởng của chúng
đến TTCK.

2. Các ảnh hưởng kinh tế vĩ mô


Có 3 nhân tố vĩ mô cơ bản nhất tác động trực tiếp đến hoạt động đầu tư trên
TTCK:
v Tỷ giá hối đoái: Tỷ giá hối đoái có tác động đến TTCK trên cả 2 giác độ là môi
trường tài chính và chính bản thân hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp,
đặc biệt là những doanh nghiệp nhập nguyên liệu hay tiêu thụ sản phẩm ở
nước ngoài.
v Lạm phát: là sự mất giá của đồng tiền, nó làm thay đổi hành vi tiêu dùng và
tiết kiệm của dân cư và doanh nghiệp. Tỷ lệ lạm phát không hợp lý sẽ gây khó
khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh, ngăn cản sự tăng trưởng và đổi mới
doanh nghiệp.
v Lãi suất: Lãi suất Trái phiếu Chính phủ được coi là lãi suất chuẩn, những thay
đổi trong lãi suất trái phiếu Chính phủ sẽ làm ảnh hưởng tới giá chứng khoán,
khi lãi suất chuẩn tăng làm cho giá cả của các loại chứng khoán khác giảm
xuống, ngược lại lãi suất chuẩn giảm lại làm cho giá của chứng khoán tăng
lên.
Khi nền kinh tế phát triển tốt thì TTCK có xu hướng đi lên và ngược lại khi kinh tế
giảm sút thì TTCK đi xuống. Như vậy, nếu dự đoán được xu hướng phát triển của
nền kinh tế, thì có thể dự báo được xu thế phát triển chung của TTCK. Vì vậy, các
nhà đầu tư cần phải cố gắng dự đoán tình hình kinh tế để tìm ra những đỉnh điểm
của chu kỳ kinh tế và chọn thời cơ để tham gia hoặc rút lui khỏi thị trường chứng
khoán một cách hợp lý nhất.
II. Phân tích ngành
Trong nền kinh tế, có rất nhiều ngành khác nhau như: dược phẩm, hoá chất,
công nghệ thông tin, cơ khí, dịch vụ tài chính….Trong quá trình phân tích cần
xác định ngành nào có triển vọng phát triển để có quyết định đầu tư hợp lý. Vì
vậy, ngoài việc nghiên cứu chính bản thân ngành đó, còn phải nghiên cứu các
vấn đến có ảnh hưởng lớn đến các ngành sản xuất như: chính sách xuất,
nhập khẩu, hạn ngạch thuế quan, các quy định về thuế của Chính phủ đối với
một ngành cụ thể nào đó.
v Trước khi phân tích từng loại chứng khoán riêng lẻ, bạn cần phải phân tích
hoạt động toàn ngành trước những vấn đề:
§ Lợi nhuận và khả năng tăng trưởng của ngành đó.
§ Cần theo dõi động thái hoạt động ngành để tìm cơ hội đầu tư và rút vốn đúng
lúc.
§ Vào cùng một thời điểm các ngành khác nhau sẽ có mức rủi ro khác nhau, do
đó cần đánh giá mức độ rủi ro của từng ngành để xác định mức lợi suất đầu tư
tương xứng cần phải có.
§ Phân tích mức rủi ro từng ngành trong quá khứ để dự đoán rủi ro trong tương
lai.
III. Phân tích tài chính công ty

Việc phân tích các báo cáo tài chính là việc phân tích các dữ liệu có trong các
báo cáo tài chính (chủ yếu là bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả kinh
doanh, báo cáo lưu chuyển tiền tệ) nhằm đánh giá:
§ Tính linh hoạt, nghĩa là khả năng chi trả các khoản nợ, đặc biệt là nợ ngắn hạn
của công ty.
§ Khả năng thanh toán, khả năng thực hiện trách nhiệm nợ dài hạn của công ty.
§ Khả năng sinh lời, là thước đo kết quả hoạt động kinh doanh.
Các hệ số tài chính cơ bản cần phân tích:
I. Hệ số khả năng thanh toán
v Các hệ số về khả năng thanh toán cho biết khả năng của công ty trong việc
thanh toán các nghĩa vụ tài chính ngắn hạn. Ta thường xét đến các hệ số sau:
Tổng tài sản lưu động - Hàng tồn kho
1. Hệ số thanh toán nhanh = Tổng nợ ngắn hạn
v Hệ số này nói lên việc công ty có khả năng đáp ứng việc thanh toán nợ ngắn
hạn vì công ty không gặp khó khăn nào trong việc chuyển từ tài sản lưu động
khác về tiền mặt.
v Hệ số này > 1 thì được đánh giá là an toàn vì công ty có thể trang trải các
khoản nợ ngắn hạn mà không cần đến các nguồn thu hay doanh số bán.
v Đây là hệ số phản ánh sự chắc chắn nhất khả năng của công ty đáp ứng nghĩa
vụ nợ hiện thời. Hệ số này càng cao thì càng được đánh giá tốt.
II. Khả năng lợi nhuận
v Việc tính toán khả năng lợi nhuận chỉ ra số lợi nhuận mà một công ty đạt được
sau khi có doanh thu.
v Hệ số này cho biết mức độ hiệu quả khi sử dụng các yếu tố đầu vào trong quá
trình hoạt động của doanh nghiệp.
v Hệ số lợi nhuận cao có nghĩa là quản lý chi phí có hiệu quả hay nghĩa là doanh
thu tăng nhanh hơn chi phí hoạt động, điều đó rất có lợi cho quá trình hoạt
động của doanh nghiệp.
v Hệ số lợi nhuận ròng phản ánh khoản thu nhập ròng của một công ty so với
doanh thu của nó.
v Trên thực tế mức lợi nhuận ròng giữa các ngành là khác nhau, còn trong bản
thân 1 ngành thì công ty nào quản lý và sử dụng yếu tố đầu vào tốt hơn thì sẽ
có hệ số lợi nhuận cao hơn.
Tiền + Các chứng khoán có thể bán trên thị trường
3. Hệ số thanh toán tức thời = T ng n ng n h n
Tiền + Các chứng khoán khả mại
2. Hệ số thanh toán tức thời = Tổng nợ ngắn hạn
Lợi nhuận ròng - Cổ tức ưu đãi
3. Hệ số thu nhập cổ phiếu phổ thông = Mệnh giá CP Pthông + Thặng dư vốn + Lợi nhuận để lại
Lợi nhuận hoạt động
1. Hệ số lợi nhuận = Doanh thu
Lợi nhuận hoạt động
Lợi nhuận ròng
2. Hệ số lợi nhuận ròng = Doanh thu
v Tỷ lệ này là một trong các biện pháp quan trọng đo lường khả năng tạo lợi
nhuận của công ty năm nay so với các năm khác. Công thức này so sánh số
thu nhập của các cổ đông phổ thông mỗi năm với giá trị của các cổ phiếu công
ty. Hệ số này càng cao càng tốt.
4. Hệ số thu nhập trên vốn cổ phần.
v Hệ số này phản ánh mức thu nhập ròng trên vốn cổ phần của cổ đông. Hệ số
này thường được các nhà đầu tư phân tích để so sánh các cổ phiếu trên thị
trường.
v Thông thường hệ số này càng cao thì cổ phiếu càng hấp dẫn, vì hệ số này cho
thấy khả năng sinh lời và tỷ suất lợi nhuận của công ty.
v Chỉ tiêu này được dùng để xác định giá trị của một cổ phiếu theo số liệu trên
sổ sách, một nhà đầu tư thường quan tâm đến chỉ tiêu này để so sánh với giá
trị thị trường của cổ phiếu, nếu chỉ tiêu này càng thấp hơn so với giá trị thị
trường của cổ phiếu đó thì càng đỡ rủi ro.
III. Đánh giá thu nhập
1. Thu nhập trên mỗi cổ phiếu
v EPS là thu nhập trên mỗi cổ phiếu của cổ đông phổ thông.
v Chỉ số này càng cao thì càng được đánh giá tốt vì khi đó khoản thu nhập trên
mỗi cổ phiếu sẽ cao hơn.
2. Hệ số giá / thu nhập
v Hệ số P/E là một trong những chỉ tiêu quan trọng trong quyết định đầu tư
chứng khoán của nhà đầu tư. Thu nhập từ cổ phiếu có ảnh hưởng quyết định
Tổng tài sản - Tổng số nợ - Cổ phiếu ưu đãi
Giá trị sổ sách =
của cổ phiếu phổ thông Số cổ phiếu phổ thông
Lợi nhuận ròng - Cổ tức ưu đãi
EPS =
Số lượng cổ phiếu phổ thông
Giá thị trường
P/E =
Thu nhập của mỗi cổ phiếu
Lợi nhuận ròng
ROE =
Vốn cổ đông
đến giá thị trường của cổ phiếu đó còn hệ số P/E đo lường mối quan hệ giữa
giá thị trường và thu nhập trên mỗi cổ phiếu.
v P/E cho thấy giá cổ phiếu hiện tại cao hơn thu nhập từ cổ phiếu đó bao nhiêu
lần, hay nhà đầu tư phải trả bao nhiêu đồng cho một đồng thu nhập.
v Hệ số P/E rất có ích cho việc định giá cổ phiếu.
v P/E cao có nghĩa là người đầu tư dự kiến công ty sẽ tăng trưởng nhanh và cổ
tức sẽ tăng cao trong tương lai.
v Hệ số này đo lường tỷ lệ phần trăm lợi nhuận ròng trả cho cổ đông phổ thông
dưới dạng cổ tức. hệ số này càng cao thì cổ phiếu đó càng nhận được sự
quan tâm của các nhà đầu tư, bởi lẽ họ sẽ được trả mức cổ tức cao cho mỗi
cổ phiếu nắm giữ.
v Hệ số này thể hiện tỷ lệ giữa mức cổ tức chi trả so với giá trị thị trường hiện
thời của cổ phiếu, nó phản ánh lợi tức mong đợi của nhà đầu tư khi mua một
loại cổ phiếu tại thời điểm hiện tại.
v Nếu tỷ lệ này càng cao thì càng được các nhà đầu tư quan tâm.
Cổ tức chi trả cho mỗi cổ phiếu phổ thông hàng năm
3. Hệ số chi trả cổ tức = Thu nhập trên mỗi cổ phiếu
Cổ tức hàng năm của mỗi cổ phiếu phổ thông
4. Lợi tức hiện thời = Giá thị trường hiện thời

Câu 25: Các nhân tố ảnh hưởng đến giá trị và thị giá ck
Những nhân tố ảnh hưởng đến giá trị của chứng khoán:

Nhân tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến giá trị của chứng khoán đó là giá trị của công ty, được

thể hiện bằng khả năng sinh lời trên tài sản của chủ sở hữu tương ứng với mức độ rủi ro của chủ

sở hữu.

Ba nhân tố quyết định đến giá trị của cổ phiếu là:

+ Độ lớn và thời điểm của các luồng thu nhập

+ Mức độ rủi ro của luồng tiền

+ Tỷ lệ lợi tức yêu cầu của nhà đầu tư

* Bên cạnh những nhân tố thuộc về giá trị cổ phiếu, thị giá cổ phiếu còn chịu tác động của những

yếu tố cung cầu như: số lượng cổ phiếu lưu hành, số lượng và chất lượng của hàng hóa thay

thế...Mặt khác, thị giá của cổ phiếu còn chịu tác động của nhưng nhân tố:

+ Sự phát triển của nền kinh tế quốc dân, tình hình kinh tế khu vực và thế giới: thông thường, giá

CP có xu hướng tăng lên khi nền kt phát triển (và ngược lại). Bởi khi đó, khả năng kinh doanh có

triển vọng tốt đẹp, nguồn lực tài chính tăng lên, nhu cầu cho đầu tư lớn hơn nhiều so với nhu cầu

tích lũy, như vậy nhiều người sẽ đầu tư vào CK.

+ Lạm phát: lạm phát tăng thường là dấu hiệu cho thấy sự tăng trưởng của nền kinh tế sẽ không

bền vững, lãi suất sẽ tăng lên, khả năng thu lợi nhuận của DN bị hạ thấp khiến giá CP giảm. Lạm

phát thấp thì càng có nhiều khả năng CP sẽ tăng giá và ngược lại.

+ Tình hình biến động của lãi suất: LS tăng làm tăng chi phí vay đối với DN. Chi phí này được

chuyển cho các cổ đông vì nó hạ thấp lợi nhuận mà DN dùng để thanh toán cổ tức. Cùng lúc đó,

cổ tức hiện có từ CP thường sẽ tỏ ra không mấy cạnh tranh đối với nhà đầu tư tìm lợi tức, sẽ làm

cho họ chuyển hướng sang tìm nguồn thu nhập tốt hơn ở bất cứ nơi nào có lãi suất cao. Hơn nữa.

LS tăng còn gây tổn hại cho triển vọng phát triển của DN vì nó khuyến khích DN giữ laij tiền

nhàn rỗi hơn là liểu lĩnh dùng số tiền đó để mở rộng SXKD. Chính vì vậy, LS tăng sẽ làm cho

giá CP giảm và ngược lại.

Tuy nhiên, sự dao động của lãi suất không phải luôn đc tiếp theo bởi sự phản ứng tương đương
và trái ngược của giá CP. Chỉ khi nào LS phản ánh xu hướng chủ đạo trong lạm phát thì nó mới

trở thành thước đo hiệu quả sự dao động of TTCK. LS có xu hướng giảm khi lạm phát giảm và

lạm phát giảm kiến giá cổ phiếu tăng cao hơn. Ngược lại, lạm phát tăng cùng với LS thì giá CP

sẽ giảm. Nhưng nếu lạm phát không phải là 1 vấn đề nghiêm trọng và LS tăng, đầu tư vào TTCK

thường mang lại nhiều lãi. Bởi vì trong trường hợp này, LS tăng là do nền kinh tế tăng trưởng.

+ Chính sách thuế của Nhà nước đối với thu nhập từ chứng khoán: nếu khoản thuế đánh vào thu

nhập từ CK cao (hoặc tăng lên) sẽ làm số người đầu tư giảm xuống, từ đó làm cho giá CK giảm.

+ Những biến động về chính trị-xã hội, quân sự: đây là những yếu tố phi kinh tế nhưng cũng ảnh

hưởng không nhỏ đến giá CP trên thị trường. Nếu những yếu tố này có khả năng ảnh hưởng tích

cực đến tình hình kinh doanh của DN thì giá CP of DN sẽ tăng lên.

+ Những yếu tố nội tại gắn liền với nhà phát hành biến động: yếu tố về kỹ thuật SX, trang thiết bị

máy móc, công nghệ, tiềm năng nghiên cứu phát triển...yếu tố về thị trường tiêu thụ, khả năng

cạnh tranh và mở rộng thị trường...; yếu tố về con người: chất lượng ban lãnh đạo, trình độ nghề

nghiệp của công nhân, tình trạng tài chính của DN.

+ Tâm lý nhà đầu tư: theo thuyết lòng tin về giá CP, yếu tố căn bản trong biến động giá CP là sự

tăng hay giảm lòng tin của nhà đầu tư đối với tương lai của giá CP, của lợi nhuận DN và của lợi

tức cổ phần. Vào bất cứ thời điểm nào trên thị trường cũng xuất hiện 2 nhóm người: nhóm người

lạc quan và nhóm người bi quan. Khi số tiền do người lạc quan chiếm ưu thế thì thị trường sẽ

tăng giá và khi số tiền bán ra của người bi quan nhiều hơn thị trường sẽ hạ giá. Tỷ lệ giữa 2

nhóm người này sẽ thay đổi theo cách diển giải của họ về thông tin, cả về chính trị lẫn kinh

doanh, cũng như những đánh giá của họ về nền kinh tế nói chung và TTCK nói riêng.

Ngoài ra, các hành động lũng đoạn, tung tin đồn nhảm, các biện pháp kỹ thuật của nhà điều hành

thị trường, ý kiến của nhà phân tích,... cũng có thể khiến thị trường giá CP biến động.

Câu 26: Khả năng thanh toán (khả năng trả nợ) ảnh hưởng ntn đến giá trị của chứng

khoán?
Nhân tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến giá trị của chứng khoán đó là giá trị của công ty, được
thể hiện bằng khả năng sinh lời trên tài sản của chủ sở hữu tương ứng với mức độ rủi ro mà chủ
sở hữu có thể gặp phải.

Khi nói đến giá trị của chứng khoán, thông thường ta sẽ hiểu đó là nói đến giá trị của cổ phiếu.
Vì thực sự thì giá trị của trái phiếu rất ít có sự thay đổi, và luôn vận động rất gần xoay quanh
mệnh giá của nó.

Chính vì vậy, trong bài viết này sẽ nói tới giá trị của cổ phiếu.

Trước hết ta sẽ đi tìm hiểu về giá trị của cổ phiếu, bao gồm 2 loại: cổ phiếu thường và cổ phiếu
ưu đãi.

Các hình thức giá trị của cổ phiếu thường:

- Mệnh giá của cổ phiếu thường: là giá trị danh nghĩa mà công ty cổ phần quy định cho
một cổ phiếu được ghi trên cổ phiếu. Mệnh giá của cổ phiếu không liên quan đến giá thị trường
của cổ phiếu đó và thường được dùng để tính toán giá trị kế toán của cổ phiếu thường trong bảng
cân đối kế toán của công ty.

- Giá trị sổ sách(hay là giá trị nội tại): là giá trị của cổ phiếu được xác định dựa trên số
liệu sổ sách của công ty. Nếu công ty chỉ phát hành cổ phiếu thường thì giá trị sổ sách của một
cổ phiếu thường được xác định bằng tổng giá trị tài sản ròng (phần chênh lệch giữa tổng giá trị
tài sản và tổng số nợ) của công ty chia cho tổng số cổ phiếu thường đang lưu hành. Trường hợp
công ty phát hành thêm cổ phiếu ưu đãi thì phải lấy tổng giá trị của tài sản ròng trừ đi tổng giá trị
cổ phiếu ưu đãi rồi mới chia cho số cổ phiếu thường đang lưu hành.

- Giá thị trường: là giá trị của cổ phiếu trên thị trường tại thời điểm hiện tại, được thể hiện
trong giao dịch cuối cùng đã được ghi nhận. Giá trị thị trường còn được gọi là thị giá của cổ
phiếu, phụ thuộc vào rất nhiều nhân tố, được xác định bởi quan hệ cung cầu, do vậy nó có thể
thay đổi thường xuyên.

Giá trị của cổ phiếu ưu đãi: cũng tương tự như trái phiếu, cổ phiếu ưu đãi cũng thường có thu
nhập cố định (ngoại trừ một số cổ phiếu ưu đãi có kèm thêm các quyền như quyền biểu quyết,
quyền mua thêm …), đồng thời việc giao dịch loại cổ phiếu này bị hạn chế bởi một số các quy
định nên giá trị của nó cũng biến động không nhiều, vận động xung quanh mệnh giá với biên độ
không lớn lắm.

Như vậy, nói đến khả năng thanh toán (hay khả năng trả nợ) ảnh hưởng thế nào đến giá trị chứng
khoán; mà cụ thể là giá trị cổ phiếu; là giá trị nội tại của cổ phiếu, hay chính là giá trị nội tại của
công ty.

Khi khả năng thanh toán của công ty tốt và ổn đinh, sẽ tạo điều kiện cho hoạt động sản xuất kinh
doanh của công ty cũng theo đó mà ổn định và trơn tru hơn. Điều đó nâng cao hiệu suất sử dụng
các tài sản, nguồn vốn và các nguồn lực khác của công ty… Như vậy, khả năng sinh lời của các
tài sản của công ty tăng lên, kéo theo là sự tăng lên của giá trị nội tại của công ty. Mà như đã
trình bày ở phần trên, thì khi đó giá trị của cổ phiếu cũng sẽ tăng lên theo. Và ngược lại, khi mà
khả năng thanh toán của công ty không tốt, dẫn tới sự hoạt động của công ty bị trì trệ, không liền
mạch, … từ đó làm cho hiệu suất sử dụng tài sản kém, khả năng sinh lợi của các tài sản và nguồn
lực thấp, giá trị nội tại của công ty cũng từ đó mà khó có thể tăng nhanh, kéo theo giá trị của cổ
phiếu tăng.

Bên cạnh đó, khi khả năng thanh toán của công ty tốt, sẽ tạo được uy tín với các đối tác, bạn
hàng trên thị trường. Khi đó công ty có khả năng sử dụng các nguồn lực khác ngoài công ty, mà
cụ thể là sử dụng đòn bẩy tài chính một cách có hiệu quả, tăng khả năng sinh lợi cho công ty, từ
đó kéo theo tăng giá trị cho cổ phiếu của công ty. Đồng thời cũng sẽ tạo ra lợi thế cạnh tranh của
công ty so với các công ty khác. Nâng cao giá trị của tài sản vô hình của doanh nghiệp, kéo theo
đó là nâng cao giá trị của cổ phiếu.

Ngoài ra, khi mà khả năng thanh toán của công ty tốt là một điều kiện để giảm thiểu rủi ro đối
với cả chủ sở hữu và các chủ nợ, điều này cũng góp phần nâng cao giá trị nội tại của công ty, do
đó nâng cao giá trị của cổ phiếu của công ty …

Nói tóm lại, khi mà khả năng thanh toán của công ty tốt sẽ tạo ra điều kiện để làm tăng giá trị
cho cổ phiếu của công ty.

You might also like