You are on page 1of 3

Lạm phát là một trong bốn yếu tố quan trọng nhất của mọi quốc gia (tăng trưởng

cao, lạm phát


thấp, thất nghiệp ít, cán cân thanh toán có số dư). Tình hình lạm phát hiện nay ở Việt Nam lên
tới mức báo động là 2 con số, vượt qua ngưỡng lạm phát cho phép tối đa là 9% của mỗi quốc
gia. Điều này sẽ dẫn đến nhiều tiêu cực trong đời sống kinh tế của chính phủ: làm suy vong nền
kinh tế quốc gia. Bên cạnh đó là sự tác động mạnh tới đời sống của người dân, nhất là dân
nghèo khi vật giá ngày càng leo thang.

Vậy nguyên nhân của tình trạng lạm phát này bắt nguồn từ đâu? Đứng ở góc độ kinh tế học vĩ
mô, bài viết này xin trình bày 3 nguyên nhân dẫn tới lạm phát và các giải pháp tương ứng để
giảm nhẹ tình hình lạm phát hiện tại.

Tình hình hiện tại: lạm phát cao, tăng trưởng thấp

Chỉ số tăng trưởng GDP hiện nay giảm xuống rất thấp và lạm phát ở mức rất cao (trên 20%).

Chỉ số tăng trưởng GDP hiện nay rất thấp, chỉ còn 6,7% mặc dù tốc độ tăng trưởng của Việt
Nam năm 2007 cao nhất trong 10 năm qua. Mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2008 do Quốc hội đề
ra từ kỳ họp cuối năm trước là 8,5- 9%, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo phấn đấu đạt trên 9%. Tuy
nhiên, tăng trưởng kinh tế quý 1/2008 đã chậm lại so với tốc độ của quý 1/2007.

Lạm phát vượt qua mức tối đa cho phép 9% và lạm phát năm 2008 tình đến nay là 22,3%. Lạm
phát năm 2007 đã ở mức hai chữ số (12,63%), 3 tháng 2008 tiếp tục lồng lên đến mức 9,19%,
cao gấp ba lần cùng kỳ và bằng gần ba phần tư mức cả năm 2007, đã vượt qua mức theo mục
tiêu đã đề ra cho cả năm 2008; nhập siêu gia tăng cả về kim ngạch tuyệt đối (3.366 triệu USD so
với 1.933 triệu USD), cả về tỷ lệ nhập siêu so với xuất khẩu (56,5% so với 18,2%)...

Lạm phát tác động xấu đến tình hình tăng trưởng kinh tế xã hội

Lạm phát làm giảm trầm trọng tốc


độ tăng trưởng GDP vì nó làm
cho người dân nghèo thêm, kiềm
chế sản xuất trong khối doanh
nghiệp.

Ảnh hướng đến đời sống của


các tầng lớp dân cư: Người dân
nhất là những người làm công ăn
lương, những hộ nghèo phải chiụ
sự tác động trực tiếp nhất của lạm
phát trong cơn bão tăng giá. Lạm
phát cũng làm giảm việc làm cho
người dân trong trung và dài hạn.

Ảnh hưởng nhiều đến khối


doanh nghiệp: Lạm phát cũng
gây ra tình trạng thiếu tiền vì các
doanh nghiệp không khai thác được nguồn tín dụng cho việc duy trì sản xuất của mình. Do đó, số
lượng công việc cho người dân làm cũng giảm thiểu trong trung và dài hạn

Nguyên nhân lạm phát bùng nổ tại Việt Nam

Lạm phát ở Việt Nam là do sự tác động tổ hợp của cả ba dạng thức lạm phát: lạm phát tiền tệ
(đây là dạng thức chủ yếu) lạm phát cầu kéo và lạm phát chi phí đẩy.

Lạm phát tiền tệ: Đây là dạng thức lạm phát lộ


diện khá rõ. Năm 2007, với việc tung một khối
lượng lớn tiền đông để mua ngoại tệ từ các nguồn
đổ vào nước ta đã làm tăng lượng tiền trong lưu
thông với mức tăng trên 30%, hạn mức tín dụng
cũng tăng cao, mức tăng 38%. Ấy là chưa kể sự
tăng tín dụng trong các năm trước đã tạo nên hiện
tượng tích phát tác động đến năm 2007 và có thể
cả những năm sau.

Lạm phát cầu kéo: Do đầu tư bao gồm đầu tư


công và đầu tư của các doanh nghiệp tăng, làm
nhu cầu về nguyên liệu, nhiên liệu và thiết bị
công nghệ tăng; thu nhập dân cư, kể cả thu nhập
do xuất khẩu lao động và người thân từ nước
ngoài gửi về không được tính vào tổng sản phẩm
quốc nội (GDP) cũng tăng, làm xuất hiện trong
một bộ phận dân cư những nhu cầu mới cao hơn.
Biểu hiện rõ nhất của lạm phát cầu kéo là nhu cầu
nhập khẩu lương thực trên thị trường thế giới
tăng, làm giá xuất khẩu tăng (giá xuất khẩu gạo
bình quân của nước ta năm 2007 tăng trên 15% so với năm 2006) kéo theo cầu về lương thực
trong nước cho xuất khẩu tăng. Trong khi đó, nguồn cung trong nước do tác động của thiên tai,
dịch bệnh không thể tăng kịp. Tất cả các yếu tố nói trên gây ra lạm phát cầu kéo, đẩy giá một số
hàng hoá và dịch vụ, nhất là lương thực thực phẩm tăng theo.

Lạm phát chi phí đẩy: Giá nguyên liệu, nhiên liệu ( đặc biệt là xăng dầu, các sản phẩm hoá dầu,
thép và phôi thép…) trên thế giới trong những năm gần đây tăng mạnh. Trong điều kiện kinh tế
nước ta phụ thuộc rất lớn vào nhập khẩu ( nhập khẩu chiếm đến 90% GDP ) giá nguyên liệu
nhập tăng làm tăng giá thị trường trong nước.

Giải pháp đối với vấn đề lạm phát ở Việt Nam


Phải kết hợp đồng bộ các chính
sách về tiền tệ với chính sách tài
khoá và chính sách tỉ giá để nâng
cao hiệu quả đầu tư của kinh tế
nhà nước, giảm bớt sức ép của
chính sách tiền tệ đến hoạt động
của các ngân hàng thương mại và
doanh nghiệp, bảo đảm các doanh
nghiệp có nguồn tín dụng để mở
rộng đầu tư, làm cho việc chống
lạm phát không ảnh hưởng nhiều
đến tăng trưởng và việc làm.

Thắt chặt tiền tệ: Các biện pháp


dành cho chính sách thắt chặt tiền
tệ hiện nay cần phải được áp dụng
một cách linh hoạt. Xuất phát từ
nhận định lạm phát thường xuất
hiện khi lượng tiền trong lưu thông tăng, chúng ta cần hạn chế lượng tiền trong lưu thông bằng
cách: Tăng lãi suất cho vay vốn và lãi suất tái chiết khấu và hạn chế mức tăng tín dụng. Quy định
dự trữ bắt buộc hợp lí để vừa bảo đảm an toàn hệ thống đồng thời nâng cao được khả năng thanh
khỏan trong hoạt động ngân hàng. Thêm nữa là việc phát hành tín phiếu và phân hạn mức mua
cho các Ngân hàng Thương mại để rút bỏ bớt tiền khỏi lưu thông

Chính sách tài khóa: Cần phải thực hiện từng bước kế hoạch giảm thâm hụt để tiến tới cân bằng
ngân sách, vì đây cũng là một chỉ tiêu kinh tế vĩ mô quan trọng. Thắt chặt chi tiêu của chính phủ;
kiểm soát chặt chẽ đầu tư công và đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước; giảm mạnh chi phí
hành chính trong các cơ quan nhà nước nhằm giảm bớt sức ép về cầu nhất là các loại cầu không
tạo ra hiệu quả. Với các dự án, cần loại bỏ những dự án đầu tư kém hiệu quả, thắt chặt những
khoản chi chưa thực sự cần thiết nhưng tạo mọi điều kiện cho đầu tư tư nhân và đầu tư nước
ngoài để thúc đẩy tăng trưởng.

Sử dụng công cụ tỉ giá: Nên điều chỉnh tăng nhẹ VND so với USD. Điều này cũng phù hợp với
việc đồng đô la Mỹ liên tục bị giảm giá so với các đồng tiền khác. Tăng nhẹ giá trị VND tuy có
ảnh hưởng đến xuất khẩu nhưng không quá lớn. Tăng giá VND sẽ làm giá hàng nhập khẩu giảm,
tăng nguồn cung, có tác dụng giảm mức tăng giá trên thị trường nội địa, nhất là trong điều kiện
nhập khẩu hiện chiếm tỉ lệ cao trong GDP của nước ta. Tăng giá VND cũng góp phần kìm giữ
giá luơng thực hiện đang tăng tăng cao và có khả năng còn tiếp tục tăng trước nhu cầu của thị
trường thế giới.

You might also like