You are on page 1of 17

Công nghệ tích hợp cho các thiết bị trường trong điều khiển phân tán và các hệ thống kỹ

thuật

1. Giới thiệu

Kỹ thuật điều khiển hệ thống và trang thiết bị tự động hóa công nghiệp thuộc lĩnh vực
công nghiệp tiên tiến với mục tiêu nhằm làm giảm chi phí triển khai. Đó là lý do tại sao
giá thành của các thiết bị và linh kiện hiện nay đang ở mức tương đối thấp. Xu hướng này
đồng hành cùng với sự chuyển hướng sang xử lý số tín hiệu bên trong các linh kiện và sự
giao tiếp số giữa chúng.

Chương này đề cập đến lịch sử phát triển từ linh kiện điện tử tương tự liên kết qua
dòng 4-20 mA, hay là công nghệ 24 V, đến linh kiện số với các giao tiếp công nghiệp
như bus trường (field-bus) và Ethernet/TCP/IP. Từ các bước phát triển này, những thay
đổi về việc phân chức năng và yêu cầu tích hợp hệ thống đã phát sinh và những công
nghệ mới xuất hiện nhằm hỗ trợ nhà sản xuất và nhà tích hợp hệ thống đã được giới
thiệu. Tất cả các công nghệ tích hợp này đã hỗ trợ cho việc trang bị các thiết bị trường.
Những ví dụ của các công nghệ này có thế kể đến Ngôn ngữ mô tả linh kiện (được cung
cấp bởi PROFIBUS, Device Net, Fieldbus Foundation), các giao diện chuẩn hóa như
OPC và Kiến trúc thiết bị trường (Field Device Architecture – FDT), tích hợp ứng dụng
điều khiển sử dụng các khối chức năng proxy được viết bằng ngôn ngữ PLC (như ngôn
ngữ IEC 61131-3), và giao tiếp theo chiều thẳng đứng từ thiết bị trường đến SCADA, Hệ
thống điều khiển phi tập trung (DCS) và Hệ thống chấp hành sản xuất (MES) bằng XML.
Độc giả sẽ làm quen với các công nghệ mới nhất được sử dụng trong kỹ thuật thiết bị
trường và các công cụ trang bị hệ thống.

2. Lịch sử của thiết bị thông minh:

Tính toán thông tin số trên các thiết bị trường và truyền thông số trên các bus trường
đã dẫn tới sự thay đổi cách xử lý các hệ thống tự động trong sản xuất và điều khiển quá
trình. Các thiết bị trường hiện nay chứa nhiều thông tin hơn hẳn so với tín hiệu 4-20 mA.
Thêm vào đó, chúng còn đảm nhận một số chức năng được lập trình từ đầu bên trong
PLC hoặc DCS. Các thiết bị trường này còn được biết đến với cái tên thiết bị thông minh.

Hệ quả của điều này đó là các hệ thống phân tán. Các công cụ để thiết kế và lập trình
các ứng dụng điều khiển, phân bổ chức năng, cũng như bảo trì hệ thống… cần đến cả
việc truy cập được vào dữ liệu của thiết bị trường lẫn các mô tả sản phẩm máy đọc được
chính xác từ các thiết bị trường bao gồm chức năng và dữ liệu của chúng. Các mô tả thiết
bị này được gọi là công nghệ mô tả thiết bị. Sử dụng các mô tả sản phẩm thiết bị này cần
phải tích hợp được các đặc tính giao tiếp chuẩn và các hệ thống thông tin công nghiệp đã
được tiêu chuẩn hóa.

Ví dụ sau đây về một máy phát cho thấy sự biến đổi từ thiết bị tương tự 4-20 mA
thành thiết bị bus trường thông minh. Các loại khác của thiết bị tự động hóa đã và đang
biến chuyển theo xu hướng này. Ngay cả các thiết bị trường số, rời rạc và thiết bị vào/ra
cũng trở nên đơn giản hơn. Công nghệ 24 V cũng sẽ được thay thế bởi các thiết bị kết nối
với bus trường.

Bộ phát trong Hình 1 bao gồm các điện tử, sẽ dò các giá trị đo riêng (mV, mA) và
chuyển đổi tín hiệu dò được sang chuẩn 4-20 mA. Các điều chỉnh cho từng cảm biến và
đường nối được thực hiện bởi transitor cắt. Mỗi bộ phát được nối với PLC bằng đường
dây riêng.

Các phép tính toán tín hiệu số cho độ chính xác cao hơn. Vì thế, việc xử lý tín hiệu
được thực hiện bởi các vi điều khiển (Hình 2). Các bộ tương tự/số và số/tương tự biến đổi
tín hiệu hai lần. Việc xử lý tín hiệu có thế bị tác động bởi một vài tham số, làm cho bộ
phát trở nên mềm dẻo. Các tham số này sẽ được truy cập bởi người vận hành, thông qua
bảng điều khiển được nhà sản xuất đặt trên bộ phát, gồm nút bấm và màn hình hiển thị.
Công cụ trên PC cung cấp các giải pháp tiện lợi hơn cho việc phân chức năng của các bộ
phát thông minh phức tạp.
Hình 1: Cấu trúc bộ phát analog

Hình 2: Cấu trúc bộ phát 4-20 mA thông minh

Về cơ bản, trong bộ phát bus trường thông minh, bộ biến đổi số/tương tự ở cuối chuỗi
tín hiệu được thay thế bằng bộ điều khiển bus trường. Việc này làm tăng độ chính xác của
thiết bị. Ngoài ra, thiết bị như trong Hình 3 cần hoạt động trên một dạng liên lạc đặc
trưng sử dụng thêm một công cụ cấu hình bus trường.

Việc tham số hóa thiết bị trường đã thay đổi từ việc điều chỉnh các linh kiện đầu cuối
bằng tay sang thực hiện trên các phần mềm máy tính. Cấu hình giao tiếp trong hệ thống
cũng được quản lý giám sát trong quá trình vận hành trang bị.

Các thiết bị trường thường được tích hợp như một thành phần của hệ thống tự động
hóa công nghiệp. Hệ thống này thực hiện phần việc có liên quan đến điều khiển tự động
của một ứng dụng hoàn chỉnh. Các thành phần của một hệ thống tự động hóa công nghiệp
có thể được sắp xệp theo các mức phân cấp, liên hệ với nhau bằng hệ thống thông tin,
như minh họa trong Hình 4.

Thiết bị trường là các thành phần ở mức xử lý được kết nối với đầu vào và đầu ra của
các bộ xử lý hoặc các mạng con logic hay vật lý. Thành phần này bao gồm cả các thiết bị
khả trình và router hay gateway. Một hệ thống thông tin sẽ liên kết thiết bị trường với các
bộ điều khiển ở mức cao hơn, thường là các bộ điều khiển khả trình hay DSC hoặc thậm
chí là cả MES. Do các công cụ kỹ thuật và công cụ vận hành sẽ phải truy cập được vào cả
thiết bị trường và các bộ điều khiển, nên các công cụ này được đặt ở mức điều khiển.
Thiết bị trường có thể liên lạc trực tiếp thông qua bus trường hoặc bộ điều khiển (khả
trình). Trong các hệ thống lớn có thể tồn tại các mức cao hơn, được kết nối qua các hệ
thống thông tin như LAN hay Ethernet. Đối với các hệ thống hiển thị mức cao hơn này
(HMI), DCS, công cụ kỹ thuật trung tâm và SCADA cũng được sử dụng. Một nhóm các
thiết bị trường có hoặc không có bộ điều khiển có thể được kết nối qua mạng LAN với
nhau hay với các hệ thống mức cao hơn. Các hệ thống MES, quy hoạch tài nguyên doanh
nghiệp (ERP) và các hệ thống công nghệ thông tin (IT) khác có thể truy cập trực tiếp đến
thiết bị trường qua mạng LAN và các bộ điều khiển hoặc qua các router.
Hình 3: Cấu trúc của một bộ phát bus trường thông minh

Hình 4: Cấu hình tự động hóa điển hình

Các thiết bị trường là phần được tích hợp trong suốt vòng đời của hệ thống điều
khiển, bắt đầu từ lên kế hoạch/thiết kế, thương mại hóa, tích hợp/phân chức năng hệ
thống, vận hành và kết thúc ở khâu bảo trì. Trong mỗi pha của vòng đời này, thông tin cụ
thể đặc trưng dưới các dạng khác nhau được sử dụng bởi các công cụ hỗ trợ. Khâu lập kế
hoạch và thiết kế sẽ xác định các yêu cầu về chủng loại và đặc tính của thiết bị trường.
Kết quả đạt được là các bản vẽ P&ID điều khiển quá trình và E-CAD với danh sách thiết
bị. Việc thương mại hóa được thực hiện bởi các đơn đặt hàng hoặc thông qua việc chào
hàng trực tiếp. Khâu phân bổ chức năng đảm nhiệm việc tham số hóa và cấu hình các
thiết bị trường kết nối với chương trình của bộ điều khiển khả trình. Trong khâu vận
hành, tương tác giữa bộ điều khiển và thiết bị trường diễn ra. Các thiết bị trường có tác
động đến các công cụ đặc biệt trong khâu bảo trì. Xem xét các thiết bị trường, các tập hợp
con của phạm vi thông tin, định dạng của thông tin (văn bản hướng dẫn, tập tin, cơ sở dữ
liệu, các trang html), và nguồn thông tin (trên giấy, các thông tin máy đọc được trên hệ
thống, thông tin trực tuyến trên thiết bị) sẽ khác nhau giữa các pha của vòng đời. Vì thế,
công nghệ tích hợp sẽ liên quan đến rất nhiều các công nghệ khác. B2B và MES không
nằm trong phạm vi của những công nghệ này, lý do chính là vì bài báo cáo này sẽ tập
trung vào khía cạnh mang tính chức năng của việc tích hợp thiết bị trường. Ngay cả khâu
lập kế hoạch và thiết kế cũng chỉ được đề cập đến trong một mục nhất định vì việc quản
lý dữ liệu sản phẩm không thật liên quan chặt chẽ đến thiết kế chức năng của hệ thống
điều khiển.

3. Trang bị thiết bị trường


Hiện nay, một số lượng lớn các chủng loại thiết bị từ các nhà cung cấp khác nhau tồn
tại bên trong một dự án hệ thống đã làm cho việc tham số hóa và cấu hình thiết bị trường
trở nên khó khăn và mất thời gian. Các công cụ khác nhau phải được kiểm soát và dữ liệu
phải được trao đổi giữa các công cụ này. Việc trao đổi dữ liệu không được tiêu chuẩn
hóa, vì thế cần có sự chuyển đổi dữ liệu, việc này yêu cầu phải có kiến thức chuyên sâu.
Cuối cùng, sự nhất quán của dữ liệu, tài liệu và các cấu hình chỉ có thể được đảm bảo
bằng việc kiểm tra theo chiều sâu toàn bộ hệ thống.
Vùng làm việc trung tâm cho các dịch vụ và tác vụ chẩn đoán trong hệ điều khiển
không bao trùm toàn bộ các khả năng hoạt động của thiết bị trường. Hơn nữa, các công
cụ đặc trưng thiết bị khác nhau không thể tích hợp vào công cụ phần mềm của hệ thống.
Thông thường, các công cụ này chỉ có thể kết nối trực tiếp vào đường bus trường hoặc
vào thiết bị trường (Hình 5).
Để duy trì tính liên tục và độ tin cậy vận hành của công nghệ điều khiển quá trình, cần
phải tích hợp đầy đủ các thiết bị trường vào như một chi tiết phụ của tiến trình tự động
hóa.
Các thiết bị trường thường phải được điều chỉnh đến các mục đích ứng dụng cụ thể; vì
thế các thành phần phần mềm bổ sung là cần thiết cho việc tham số hóa. Lý do là vì các
bảng vận hành với một số lượng ít ỏi các nút điều khiển và màn hiển thị nhỏ không thích
hợp cho việc tham số hóa một cách phức tạp. Về cơ bản, các trường hợp trong ứng dụng
có thể xảy ra như sau:
• Thiết bị với chức năng cố định và không có sự tham số hóa cho ứng dụng của thiết
bị. Những thiết bị này thực hiện đặc tính thông tin the các mô tả như PROFIBUS
GSD và CAN EDS. Công cụ cấu hình thông tin sẽ kiểm chứng tất cả các đặc tính
của các thiết bị kết nối với một đoạn thông tin và tạo ra cấu hình thông tin từ các
tham số truyền tin như tốc độ baud và địa chỉ của thiết bị.
• Thiết bị chỉ có ít tham số dữ liệu được ấn định một lần trong pha phân bổ chức
năng (chẳng hạn như tốc độ tối đa và tối thiểu của bộ truyền động, hiệu chỉnh bộ
phát). Thiết bị này sẽ nhận dữ liệu thông qua bus trường từ trạm điều khiển. Vì
thế, nhiều hệ thống bus trường đã thêm các từ khóa tham số hóa vào các mô tả có
liên qua đến truyền tin, như PROFIBUS GSD và CAN EDS. Công cụ cấu hình bus
trường cung cấp khả năng sửa đổi các giá trị tham số; bộ điều khiển đảm bảo độ
ổn định của dữ liệu tham số. Trong trường hợp này không cần đến các công cụ
tham số hóa bổ sung, nếu có hỏng hóc xảy ra thì việc thay thế thiết bị có thể được
thực hiện một cách đơn giản.
• Thiết bị với rất nhiều tham số và các phương tiện tham số hóa phức tạp từ trước đó
đã có những thiết bị đầu cuối với các công cụ phân chức năng của riêng nó. Các
công cụ có khả năng tham số hóa các loại thiết bị từ các nhà sản xuất khác nhau đã
có mặt trên thị trường. Các ngôn ngữ được biết đến nhiều như HART DDL
(Device Description Language [HART, 1995]), Fieldbus Foundation DDL (FF,
1996), và PROFIBUS EDD (Electronic Device Description [PNO, 2001b]), cùng
thuộc một họ ngôn ngữ (IEC61084, 2003). Các ngôn ngữ này được đặc trưng bởi
việc tham số hoá ngoại tuyến, định hướng từng thiết bị bởi người vận hành và khả
năng kiểm tra tính nhất quán một cách rộng rãi. Việc quản lý sự toàn vẹn dữ liệu
có liên quan trực tiếp đến công cụ tham số hóa, vì thế việc thay thế thiết bị mà
không cần đến các công cụ này là điều không thể.
• Thiết bị với chuỗi tham số hóa và dạng dữ liệu phức tạp (như hiển thị thông tin
dạng đồ họa hay video) không thể mô tả bằng các ngôn ngữ đã nói ở trên. Các
thiết bị này cần công cụ khai thác riêng (như máy quét Laser).

Hình 5: Các công cụ khác nhau và nhiều đầu vào dữ liệu trong việc tích hợp các thiết bị
trường.
Cấu hình thông tin trên bus trường
Ngôn ngữ GSD
Một đoạn thông tin sẽ được cấu hình theo từng thiết bị nhất định. Tốc độ baud, địa chỉ
của thiết bị và các tham số định thời thông tin đặc biệt phải được điều chỉnh theo tập hợp
thiết bị và các đặc tính của chúng. Vì thế, các bus trường cung cấp tính năng thông tin
được liệt kê dưới dạng máy đọc được. Mỗi thiết bị sẽ được bán ra cùng với một danh
sách như thế, và sẽ được sử dụng bởi công cụ cấu hình để tạo ra cấu hình truyền tin khả
thi hoặc tối ưu nhất.
Một ví dụ đó là PROFIBUS GSD. GSD có nghĩa là German Device Data Base –
GeräteStammDaten. GSD mô tả các tính năng truyền tin và dữ liệu tuần hoàn của các
thiết bị đơn giản như thiết bị vào ra số và tương tự. Tính năng truyền tin bao gồm tốc độ
baud, các tham số thời gian giao thức truyền, và sự hỗ trợ của các dịch vụ và chức năng
PROFIBUS (như cấp địa chỉ từ xa).
Các thiết bị vào ra đơn giản thường dưới dạng module. Một thiết bị cơ bản với bộ
nguồn và khối xử lý trung tâm có một vài khe cắm, cho phép cắm vào các module có tính
chất tín hiệu khác nhau (số hoặc tương tự; 2, 4, 8, 16 kênh). Tùy theo module được chọn,
các tập hợp dữ liệu khác nhau sẽ được chuyển tuần hoàn giữa các thiết bị PROFIBUS
master và slave. Nói cách khác, mỗi module sẽ đóng góp tập hợp dữ liệu đặc trưng của
mình cho bức điện tín tuần hoàn. Nếu ta coi các công cụ cấu hình cho thiết bị PROFIBUS
master là công cụ hoạt động không phụ thuộc vào nhà sản xuất thiết bị, thì một mô tả rõ
ràng và độc lập với các nhà sản xuất là cần thiết đối với module thiết bị. Đây chính là
nhiệm vụ thứ hai của mô tả GSD.
Ngôn ngữ GSD là một danh sách từ khóa đi kèm với các giá trị được gán cho mỗi
thuộc tính của giao thức PROFIBUS DP và đặc tính của module. Ví dụ sau cho thấy hình
ảnh của một file GSD (Hình 6).
Các module được đặc trưng bởi từ khóa “Module”. Giữa hai từ khóa Module và
End_module là các khai báo để truyền dữ liệu vào bản điện tín tuần hoàn dưới dạng mã
nhị phân, còn gọi là các byte nhận dạng. Mỗi module có một tên gọi được hiển thị trên
màn hình công cụ cấu hình. Nếu module được chọn, các byte nhận dạng riêng sẽ được
nối vào nhau thành chuỗi cấu hình, và được truyền từ master đến slave trong quá trình
khởi tạo truyền dữ liệu tuần hoàn (dịch vụ CFG của PROFIBUS-DP [2]). Thêm vào đó,
phạm vi và giá trị mặc định của các biến có thể đươc cấu hình nhờ khả năng khai báo
biến của GSD.

Hình 6: Một phần của file GSD.

Bộ công cụ GSD
Tất cả các nhà sản xuất PROFIBUS DP bắt buộc phải bán thiết bị kèm theo một file
GSD, được kiểm tra bởi Tổ chức người dùng PROFIBUS (PROFIBUS User Organisation
– PNO). PNO cung cấp một bộ soạn thảo GSD đặc biệt, chỉ dẫn cho các kỹ sư trong quá
trình phát triển GSD (Hình 7). Các kỹ sư sẽ lựa chọn tính năng của thiết bị từ một tập lớn
tất cả các chức năng PROFIBUS-DP đã có. Trình soạn thảo sẽ tạo ra file ASCII đúng cú
pháp GSD. File này sẽ không được dịch.
Các công cụ cấu hình sẽ đọc các file GSD và đưa ra các chức năng riêng của thiết bị
cho cấu hình truyền tin và điều chỉnh một số tham số ứng dụng. Kết quả của quá trình
này là tạo ra chuỗi cấu hình và tham số hóa cho các dịch vụ PROFIBUS DP (hình 8).
Thao tác trên GSD rất đơn giản và không cần có quá trình huấn luyện riêng. Nó phù
hợp với yêu cầu về vào/ra đơn giản không cần hoặc ít cần đến tham số hóa ứng dụng.

Hình 7: Trình soạn thảo GSD.


Hình 8: Công cụ và thao tác của GSD.

Tham số hóa ứng dụng thiết bị trường – Ngôn ngữ mô tả thiết bị


Để thực hiện tham số hóa, trước tiên có thể phân biệt hai dạng người dùng:
• Người dùng cuối hay người vận hành máy móc xí nghiệp;
• Người làm nhiệm vụ tích hợp hệ thống.
Đối với người dùng cuối của một hệ thống điều khiển phân tán, điều quan trọng nhất
có liên quan đến mô tả thiết bị đó là “tính trong suốt” (transparency). Người dùng cuối
chỉ cần nhìn thấy giao diện đồ họa của thiết bị trên phần mềm SCADA hay trên các giao
diện người/máy (Human Machine Interface – HMI). Vì thế, mô tả thiết bị phải được xây
dựng dựa trên nguyên lý “cắm là chạy” (plug and play). Hơn nữa, trao đổi thiết bị trong
một ứng dụng không được dẫn đến các thao tác kỹ thuật phức tạp, mà phải được thực
hiện thật đơn giản và chắc chắn. Và mô tả thiết bị phải hỗ trợ được điều này.
Khác với người dùng cuối, người tích hợp hệ thống sẽ đảm nhiệm việc thiết kế, trang
bị và chuẩn bị tài liệu. Mục đích của người tích hợp là giảm thời gian kỹ thuật để giải
quyết các vấn đề phối hợp nhưng không làm tăng nỗ lực để thiết kế ứng dụng tối ưu liên
quan đến chất lượng sản phẩm được tạo ra từ hệ thống điều khiển. Hiệu quả công việc
của kỹ sư tích hợp phụ thuộc trực tiếp vào sự hỗ trợ của mô tả thiết bị dễ xác định, được
tiêu chuẩn hóa và máy đọc được hoàn toàn.
Như vậy, ngôn ngữ mô tả thiết bị phải được thiết kế chủ yếu trên quan điểm của
người tích hợp hệ thống, vì người này phải thao tác trực tiếp với các mô tả thiết bị điện
tử. Các hướng tiếp cận để trao đổi dữ liệu bằng phương tiện điện tử đã được phát triển,
trong đó bao gồm cad DDL (như HART, FF, và EDD – Electronic Device Description –
cho PROFIBUS)
Các tính năng chính của công nghệ mô tả này(EDD – Electronic Device Description),
bao gồm cả ngôn ngữ kèm theo, có thể được vắn tắt như sau:
• Một file EDD được cung cấp bởi nhà sản xuất đi kèm với thiết bị.
• EDD được sử dụng trong quá trình thiết kế hệ thống điều khiển phân tán, hỗ trợ
việc lập kế hoạch, phân chức năng, vận hành, chẩn đoán và bảo dưỡng.
• Có nhiều cách trình bày EDD, dưới dạng nhị phân hoặc dạng ngôn ngữ thông
thường.
• EDD hầu hết được lưu trữ trên ổ đĩa và một phần bên trong các thiết bị (vận
chuyển qua bus trường).
• EDD gần như độc lập với hệ thống bus trường bên dưới.
• EDD được dùng để mô tả thông tin nhằm nhận diện các phần tử và xác định mối
quan hệ giữa chúng (có tính phân cấp, có tính liên quan).
• EDD đưa ra các thành phần ngôn ngữ giúp trình bày trên một giao diện người/máy
(HMI) và giúp truy cập thông tin.
• Một file EDD đưa ra một dạng mô tả tĩnh, tức là phần khai báo của thiết bị; vì thế
chỉ các giao tiếp/hành vi bên ngoài của thiết bị mới được mô tả.
Một công cụ tham số hóa cần có sự thích nghi đặc biệt với các chức năng và tham số
của mỗi thiết bị. Chức năng và tham số khác nhau theo từng thiết bị, nhưng lại được mô
tả với một ngôn ngữ xác định. Công cụ này hiểu ngôn ngữ và tự phối hợp với các chức
năng được mô tả, theo nghĩa thao tác trên màn hình đồ họa sẽ tương tác với thiết bị. Nói
chung, thiết bị sẽ được bán kèm với đĩa chứa mô tả thiết bị của nó, và công cụ sẽ lấy
được cấu hình của thiết bị sau khi đọc và biên dịch mô tả thiết bị này. Những phần chính
của EDD bao gồm:
• Mô tả các biến và tham số, bao gồm cả các thuộc tính (Biến quá trình (Process
Variable – PV) với các nhãn để in ra màn hình như mức thủy tĩnh, kiểu dữ liệu dấu
phẩy động, quyền truy cập chỉ đọc – read/only, giá trị mặc định = 0).
• Hiển thị biến trên công cụ HMI (ví dụ: PV với nhãn “Temprature”);
• Hướng dẫn cho người vận hành trong việc phân chức năng (ví dụ: thứ tự của các
mục menu trong thiết bị đầu cuối cầm tay hay trên PC).
• Mục lục các thành phần của thiết bị.
• Tham số cấu hình thiết bị (ví dụ: ký hiệu nhận dạng của module trong thiết bị).
• Tham số cấu hình truyền tin (ví dụ: tốc độ baud = 500 kBaud).
EDD là một ngôn ngữ hình thức dùng để mô tả một cách đầy đủ và rõ ràng hình ảnh
một thiết bị trường khi nhìn từ đường truyền thông tin số của nó. EDD bao gồm các mô
tả của biến truy cập, tập lệnh của thiết bị, và quy trình vận hành. Nó cũng bao gồm cả mô
tả cấu trúc menu cho người vận hành sử dụng. EDD được viết dưới dạng văn bản, chứa
một danh sách các đối tượng cùng với các thuộc tính. Ví dụ được trích ra từ EDD của
một lưu lượng kế được cho trong Hình 10.
Lợi ích chủ yếu mà ngôn ngữ mô tả thiết bị (DDL) đem lại cho nhà cung cấp đó là nó
tách riêng quá trình sản xuất thiết bị chủ và thiết bị trường. Mỗi nhà thiết kế có thể hoàn
tất việc phát triển sản phẩm với một sự đảm bảo rằng sản phẩm mới sẽ phối hợp chính
xác với các thiết bị hiện tại hoặc cũ hơn, cũng như với các thiết bị sẽ xuất hiện trong
tương lai. Thêm vào đó, chương trình mô phỏng có thể được dùng để kiểm thử giao diện
người dùng của EDD, cho phép đánh giá lại và cải tiến thiết bị ngay cả khi nó chưa hình
thành.
Đối với người dùng, lợi ích lớn nhất đó là khả năng sử dụng lẫn các thiết bị từ các nhà
cung cấp khác nhau, với sự tin tưởng mỗi thiết bị có thể hoạt động với toàn bộ khả năng
của nó. Những nâng cấp ở mức trường cho phép thiết bị chủ làm việc với các thiết bị
trường mới, qua đó thúc đẩy các tiến bộ trong nghiên cứu thiết bị trường. EDD được giới
hạn trong việc mô tả một thiết bị đơn lẻ và được sử dụng bởi một công cụ gần như độc
lập. Việc xác định một DDL được tiêu chuẩn hóa sẽ góp phần làm tăng số lượng người
dùng tiềm năng cho các công cụ phần mềm và thúc đẩy quá trình tự động hóa trên nền
bus trường.

Hình 10: Ví dụ về mô tả thiết bị.


Lập trình các ứng dụng điều khiển với các chức năng thiết bị trường tích hợp
Khái niệm ủy nhiệm (Proxy) sẽ tổ chức các mối liên hệ chức năng và dữ liệu giữa các
thiết bị trường và bộ điều khiển khả trình (Hình 11). Các thiết bị trường được triển khai
một số bộ xử lý tín hiệu, ví dụ như định tỷ lệ hay kiểm tra giới hạn, là một phần của các
thư viện thuộc bộ điều khiển khả trình sử dụng công nghệ 4-20 mA. Kết quả của sự thay
đổi này đó là sự ngắt quãng của chuỗi chức năng đã được thực hiện trong một chương
trình PLC. Chương trình này được phát triển với một công cụ phần mềm. Hiện nay các
thiết bị khác nhau với các tài nguyên riêng biệt, được bố trí theo các kiểu không đồng bộ,
thực hiện chức năng và sẽ là không rõ ràng nếu thứ tự chuỗi hoạt động theo cách cần
thiết. Thêm vào đó, PLC và các thiết bị trường được lập trình với các công cụ khác nhau.
Các chuẩn IEC 61499 (IEC 61499, 2001), PROFInet (PROFInet, 2002), và IDA (IDA,
2001) cung cấp các phương tiện để giải quyết các vấn đến này; tuy nhiên các chuẩn này
chưa xuất hiện rộng rãi trên thị trường.
Sẽ thuận tiện hơn nếu bộ lập trình PLC có thể sử dụng các chức năng phân tán bên
trong môi trường lập trình thông thường của nó với tất cả các tính năng tiêu biểu. Điều
này là có thể nếu trong thư viện PLC có khối chức năng của thiết bị. Khối chức năng thiết
bị này mô tả thiết bị trường bằng dữ liệu đầu vào và giao tiếp đầu ra. Các đặc điểm bên
trong khối chức năng sẽ do nhà sản xuất định nghĩa. Khái niệm về các khối chức năng
thiết bị được gọi là khái niệm về ủy nhiệm (proxy concept). Thông tin giữa proxy và thiết
bị trường được thực hiện bởi các phương tiện tuần hoàn (cho các biến quá trình) và phi
tuần hoàn (cho sự tham số hóa thiết bị), hay là các khối chức năng thông tin của PLC.
Nếu các khối chức năng thông tin này được tiêu chuẩn hóa và PLC thỏa mãn tiêu chuẩn
IEC 61131-3 [11], thì các khối chức năng thiết bị trở nên khả chuyển (portable) dễ dàng.
Các khối chức năng thiết bị khả chuyển có nghĩa là đối với các giao diện và hành vi chính
của chúng thì các khối chức năng thông tin là độc lập. Tiêu chuẩn IEC 61131-5 chỉ rõ các
khối chức năng thông tin không thỏa mãn các yêu cầu về truyền tải thông tin phối hợp sẽ
không được chấp nhận trên thị trường. Vì thế PROFIBUS được xây dựng trên tiêu chuẩn
kỹ thuật của riêng nó, dựa trên IEC [xx].
Proxy là những thành phần bổ sung phải được cung cấp bởi nhà sảng xuất thiết bị
trường. Đây là hệ quả của sự gia tăng chức năng thiết bị và sự phân tán của hệ thống. Các
proxy là nền tảng rất tốt cho các chức năng của nhà sản xuất và người dùng quy định, nó
có thể được triển khai vào các chương trình PLC thay vì nhúng phần mềm vào thiết bị
trường. Vì thế, nhà sản suất trở nên linh động hơn với nhu cầu của người dùng.
Tích hợp hệ thống thiết bị trường
Vấn đề thường thấy đối với các công nghệ được mô tả ở phần trên đó là giới hạn về
phạm vi dữ liệu trong các công cụ độc lập. Các hệ thống kỹ thuật và giám sát (Hình 4)
cần dữ liệu

You might also like