Professional Documents
Culture Documents
thuật
1. Giới thiệu
Kỹ thuật điều khiển hệ thống và trang thiết bị tự động hóa công nghiệp thuộc lĩnh vực
công nghiệp tiên tiến với mục tiêu nhằm làm giảm chi phí triển khai. Đó là lý do tại sao
giá thành của các thiết bị và linh kiện hiện nay đang ở mức tương đối thấp. Xu hướng này
đồng hành cùng với sự chuyển hướng sang xử lý số tín hiệu bên trong các linh kiện và sự
giao tiếp số giữa chúng.
Chương này đề cập đến lịch sử phát triển từ linh kiện điện tử tương tự liên kết qua
dòng 4-20 mA, hay là công nghệ 24 V, đến linh kiện số với các giao tiếp công nghiệp
như bus trường (field-bus) và Ethernet/TCP/IP. Từ các bước phát triển này, những thay
đổi về việc phân chức năng và yêu cầu tích hợp hệ thống đã phát sinh và những công
nghệ mới xuất hiện nhằm hỗ trợ nhà sản xuất và nhà tích hợp hệ thống đã được giới
thiệu. Tất cả các công nghệ tích hợp này đã hỗ trợ cho việc trang bị các thiết bị trường.
Những ví dụ của các công nghệ này có thế kể đến Ngôn ngữ mô tả linh kiện (được cung
cấp bởi PROFIBUS, Device Net, Fieldbus Foundation), các giao diện chuẩn hóa như
OPC và Kiến trúc thiết bị trường (Field Device Architecture – FDT), tích hợp ứng dụng
điều khiển sử dụng các khối chức năng proxy được viết bằng ngôn ngữ PLC (như ngôn
ngữ IEC 61131-3), và giao tiếp theo chiều thẳng đứng từ thiết bị trường đến SCADA, Hệ
thống điều khiển phi tập trung (DCS) và Hệ thống chấp hành sản xuất (MES) bằng XML.
Độc giả sẽ làm quen với các công nghệ mới nhất được sử dụng trong kỹ thuật thiết bị
trường và các công cụ trang bị hệ thống.
Tính toán thông tin số trên các thiết bị trường và truyền thông số trên các bus trường
đã dẫn tới sự thay đổi cách xử lý các hệ thống tự động trong sản xuất và điều khiển quá
trình. Các thiết bị trường hiện nay chứa nhiều thông tin hơn hẳn so với tín hiệu 4-20 mA.
Thêm vào đó, chúng còn đảm nhận một số chức năng được lập trình từ đầu bên trong
PLC hoặc DCS. Các thiết bị trường này còn được biết đến với cái tên thiết bị thông minh.
Hệ quả của điều này đó là các hệ thống phân tán. Các công cụ để thiết kế và lập trình
các ứng dụng điều khiển, phân bổ chức năng, cũng như bảo trì hệ thống… cần đến cả
việc truy cập được vào dữ liệu của thiết bị trường lẫn các mô tả sản phẩm máy đọc được
chính xác từ các thiết bị trường bao gồm chức năng và dữ liệu của chúng. Các mô tả thiết
bị này được gọi là công nghệ mô tả thiết bị. Sử dụng các mô tả sản phẩm thiết bị này cần
phải tích hợp được các đặc tính giao tiếp chuẩn và các hệ thống thông tin công nghiệp đã
được tiêu chuẩn hóa.
Ví dụ sau đây về một máy phát cho thấy sự biến đổi từ thiết bị tương tự 4-20 mA
thành thiết bị bus trường thông minh. Các loại khác của thiết bị tự động hóa đã và đang
biến chuyển theo xu hướng này. Ngay cả các thiết bị trường số, rời rạc và thiết bị vào/ra
cũng trở nên đơn giản hơn. Công nghệ 24 V cũng sẽ được thay thế bởi các thiết bị kết nối
với bus trường.
Bộ phát trong Hình 1 bao gồm các điện tử, sẽ dò các giá trị đo riêng (mV, mA) và
chuyển đổi tín hiệu dò được sang chuẩn 4-20 mA. Các điều chỉnh cho từng cảm biến và
đường nối được thực hiện bởi transitor cắt. Mỗi bộ phát được nối với PLC bằng đường
dây riêng.
Các phép tính toán tín hiệu số cho độ chính xác cao hơn. Vì thế, việc xử lý tín hiệu
được thực hiện bởi các vi điều khiển (Hình 2). Các bộ tương tự/số và số/tương tự biến đổi
tín hiệu hai lần. Việc xử lý tín hiệu có thế bị tác động bởi một vài tham số, làm cho bộ
phát trở nên mềm dẻo. Các tham số này sẽ được truy cập bởi người vận hành, thông qua
bảng điều khiển được nhà sản xuất đặt trên bộ phát, gồm nút bấm và màn hình hiển thị.
Công cụ trên PC cung cấp các giải pháp tiện lợi hơn cho việc phân chức năng của các bộ
phát thông minh phức tạp.
Hình 1: Cấu trúc bộ phát analog
Về cơ bản, trong bộ phát bus trường thông minh, bộ biến đổi số/tương tự ở cuối chuỗi
tín hiệu được thay thế bằng bộ điều khiển bus trường. Việc này làm tăng độ chính xác của
thiết bị. Ngoài ra, thiết bị như trong Hình 3 cần hoạt động trên một dạng liên lạc đặc
trưng sử dụng thêm một công cụ cấu hình bus trường.
Việc tham số hóa thiết bị trường đã thay đổi từ việc điều chỉnh các linh kiện đầu cuối
bằng tay sang thực hiện trên các phần mềm máy tính. Cấu hình giao tiếp trong hệ thống
cũng được quản lý giám sát trong quá trình vận hành trang bị.
Các thiết bị trường thường được tích hợp như một thành phần của hệ thống tự động
hóa công nghiệp. Hệ thống này thực hiện phần việc có liên quan đến điều khiển tự động
của một ứng dụng hoàn chỉnh. Các thành phần của một hệ thống tự động hóa công nghiệp
có thể được sắp xệp theo các mức phân cấp, liên hệ với nhau bằng hệ thống thông tin,
như minh họa trong Hình 4.
Thiết bị trường là các thành phần ở mức xử lý được kết nối với đầu vào và đầu ra của
các bộ xử lý hoặc các mạng con logic hay vật lý. Thành phần này bao gồm cả các thiết bị
khả trình và router hay gateway. Một hệ thống thông tin sẽ liên kết thiết bị trường với các
bộ điều khiển ở mức cao hơn, thường là các bộ điều khiển khả trình hay DSC hoặc thậm
chí là cả MES. Do các công cụ kỹ thuật và công cụ vận hành sẽ phải truy cập được vào cả
thiết bị trường và các bộ điều khiển, nên các công cụ này được đặt ở mức điều khiển.
Thiết bị trường có thể liên lạc trực tiếp thông qua bus trường hoặc bộ điều khiển (khả
trình). Trong các hệ thống lớn có thể tồn tại các mức cao hơn, được kết nối qua các hệ
thống thông tin như LAN hay Ethernet. Đối với các hệ thống hiển thị mức cao hơn này
(HMI), DCS, công cụ kỹ thuật trung tâm và SCADA cũng được sử dụng. Một nhóm các
thiết bị trường có hoặc không có bộ điều khiển có thể được kết nối qua mạng LAN với
nhau hay với các hệ thống mức cao hơn. Các hệ thống MES, quy hoạch tài nguyên doanh
nghiệp (ERP) và các hệ thống công nghệ thông tin (IT) khác có thể truy cập trực tiếp đến
thiết bị trường qua mạng LAN và các bộ điều khiển hoặc qua các router.
Hình 3: Cấu trúc của một bộ phát bus trường thông minh
Các thiết bị trường là phần được tích hợp trong suốt vòng đời của hệ thống điều
khiển, bắt đầu từ lên kế hoạch/thiết kế, thương mại hóa, tích hợp/phân chức năng hệ
thống, vận hành và kết thúc ở khâu bảo trì. Trong mỗi pha của vòng đời này, thông tin cụ
thể đặc trưng dưới các dạng khác nhau được sử dụng bởi các công cụ hỗ trợ. Khâu lập kế
hoạch và thiết kế sẽ xác định các yêu cầu về chủng loại và đặc tính của thiết bị trường.
Kết quả đạt được là các bản vẽ P&ID điều khiển quá trình và E-CAD với danh sách thiết
bị. Việc thương mại hóa được thực hiện bởi các đơn đặt hàng hoặc thông qua việc chào
hàng trực tiếp. Khâu phân bổ chức năng đảm nhiệm việc tham số hóa và cấu hình các
thiết bị trường kết nối với chương trình của bộ điều khiển khả trình. Trong khâu vận
hành, tương tác giữa bộ điều khiển và thiết bị trường diễn ra. Các thiết bị trường có tác
động đến các công cụ đặc biệt trong khâu bảo trì. Xem xét các thiết bị trường, các tập hợp
con của phạm vi thông tin, định dạng của thông tin (văn bản hướng dẫn, tập tin, cơ sở dữ
liệu, các trang html), và nguồn thông tin (trên giấy, các thông tin máy đọc được trên hệ
thống, thông tin trực tuyến trên thiết bị) sẽ khác nhau giữa các pha của vòng đời. Vì thế,
công nghệ tích hợp sẽ liên quan đến rất nhiều các công nghệ khác. B2B và MES không
nằm trong phạm vi của những công nghệ này, lý do chính là vì bài báo cáo này sẽ tập
trung vào khía cạnh mang tính chức năng của việc tích hợp thiết bị trường. Ngay cả khâu
lập kế hoạch và thiết kế cũng chỉ được đề cập đến trong một mục nhất định vì việc quản
lý dữ liệu sản phẩm không thật liên quan chặt chẽ đến thiết kế chức năng của hệ thống
điều khiển.
Hình 5: Các công cụ khác nhau và nhiều đầu vào dữ liệu trong việc tích hợp các thiết bị
trường.
Cấu hình thông tin trên bus trường
Ngôn ngữ GSD
Một đoạn thông tin sẽ được cấu hình theo từng thiết bị nhất định. Tốc độ baud, địa chỉ
của thiết bị và các tham số định thời thông tin đặc biệt phải được điều chỉnh theo tập hợp
thiết bị và các đặc tính của chúng. Vì thế, các bus trường cung cấp tính năng thông tin
được liệt kê dưới dạng máy đọc được. Mỗi thiết bị sẽ được bán ra cùng với một danh
sách như thế, và sẽ được sử dụng bởi công cụ cấu hình để tạo ra cấu hình truyền tin khả
thi hoặc tối ưu nhất.
Một ví dụ đó là PROFIBUS GSD. GSD có nghĩa là German Device Data Base –
GeräteStammDaten. GSD mô tả các tính năng truyền tin và dữ liệu tuần hoàn của các
thiết bị đơn giản như thiết bị vào ra số và tương tự. Tính năng truyền tin bao gồm tốc độ
baud, các tham số thời gian giao thức truyền, và sự hỗ trợ của các dịch vụ và chức năng
PROFIBUS (như cấp địa chỉ từ xa).
Các thiết bị vào ra đơn giản thường dưới dạng module. Một thiết bị cơ bản với bộ
nguồn và khối xử lý trung tâm có một vài khe cắm, cho phép cắm vào các module có tính
chất tín hiệu khác nhau (số hoặc tương tự; 2, 4, 8, 16 kênh). Tùy theo module được chọn,
các tập hợp dữ liệu khác nhau sẽ được chuyển tuần hoàn giữa các thiết bị PROFIBUS
master và slave. Nói cách khác, mỗi module sẽ đóng góp tập hợp dữ liệu đặc trưng của
mình cho bức điện tín tuần hoàn. Nếu ta coi các công cụ cấu hình cho thiết bị PROFIBUS
master là công cụ hoạt động không phụ thuộc vào nhà sản xuất thiết bị, thì một mô tả rõ
ràng và độc lập với các nhà sản xuất là cần thiết đối với module thiết bị. Đây chính là
nhiệm vụ thứ hai của mô tả GSD.
Ngôn ngữ GSD là một danh sách từ khóa đi kèm với các giá trị được gán cho mỗi
thuộc tính của giao thức PROFIBUS DP và đặc tính của module. Ví dụ sau cho thấy hình
ảnh của một file GSD (Hình 6).
Các module được đặc trưng bởi từ khóa “Module”. Giữa hai từ khóa Module và
End_module là các khai báo để truyền dữ liệu vào bản điện tín tuần hoàn dưới dạng mã
nhị phân, còn gọi là các byte nhận dạng. Mỗi module có một tên gọi được hiển thị trên
màn hình công cụ cấu hình. Nếu module được chọn, các byte nhận dạng riêng sẽ được
nối vào nhau thành chuỗi cấu hình, và được truyền từ master đến slave trong quá trình
khởi tạo truyền dữ liệu tuần hoàn (dịch vụ CFG của PROFIBUS-DP [2]). Thêm vào đó,
phạm vi và giá trị mặc định của các biến có thể đươc cấu hình nhờ khả năng khai báo
biến của GSD.
Bộ công cụ GSD
Tất cả các nhà sản xuất PROFIBUS DP bắt buộc phải bán thiết bị kèm theo một file
GSD, được kiểm tra bởi Tổ chức người dùng PROFIBUS (PROFIBUS User Organisation
– PNO). PNO cung cấp một bộ soạn thảo GSD đặc biệt, chỉ dẫn cho các kỹ sư trong quá
trình phát triển GSD (Hình 7). Các kỹ sư sẽ lựa chọn tính năng của thiết bị từ một tập lớn
tất cả các chức năng PROFIBUS-DP đã có. Trình soạn thảo sẽ tạo ra file ASCII đúng cú
pháp GSD. File này sẽ không được dịch.
Các công cụ cấu hình sẽ đọc các file GSD và đưa ra các chức năng riêng của thiết bị
cho cấu hình truyền tin và điều chỉnh một số tham số ứng dụng. Kết quả của quá trình
này là tạo ra chuỗi cấu hình và tham số hóa cho các dịch vụ PROFIBUS DP (hình 8).
Thao tác trên GSD rất đơn giản và không cần có quá trình huấn luyện riêng. Nó phù
hợp với yêu cầu về vào/ra đơn giản không cần hoặc ít cần đến tham số hóa ứng dụng.