You are on page 1of 21

CHƯƠNG 4 : NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG

I. NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG

1. Bản chất của ngân hàng trung ương

Để hiểu được bản chất của NHTW ta sẽ tìm hiểu thông qua lịch sử hình thành
của nó.
Dưới tác động của các quy luật cạnh tranh dẫn đến tình trạng một số ngân
hàng có ưu thế giành được quyền phát hành kỳ phiếu ngân hàng, từ đó các
ngân hàng phát hành đã được phân định rõ với các NHTM khác. Các ngân
hàng phát hành ít dần các nghiệp vụ vốn có của mình và chỉ tiến hàng giao
dịch với các NHTM và các tổ chức tín dụng khác bằng hình thức nhận tiền gửi
và tiếp vốn cho các NHTM và các tổ chức tín dụng khác.

Các NHPH ban đầu là công cụ mạnh mẽ của các trùm tư bản tài chính có khả
năng gây lũng đoạn về kinh tế và chính trị, do đó dần về sau Nhà nước đã
từng bước can thiệp vào cơ cấu tổ chức cũng như hoạt động của các NHPH
(tuy nhiên ban đầu các NHPH vẫn thuộc tư hữu).

Sau khủng hoảng kinh tế 1929-1933 và World War II, nhiều nước đã thực hiện
quốc hữu hoá NHPH do đã nhận ra được vai trò to lớn của nó (bằng cách bỏ
tiền ra mua lại toàn bộ cổ phiếu của các NHPH) và tên gọi mới của loại ngân
hàng này là Ngân hàng trung ương.

NHTW vừa thực hiện chức năng độc quyền phát hành tiền lại vừa thực hiện
chức năng quản lý Nhà nước về mặt tiền tệ, tín dụng, ngân hàng.

Như vậy về bản chất: NHTW là ngân hàng phát hành, nơi tập trung quyền lực
của nhiều ngân hàng vào một ngân hàng; là bộ máy quyền lực to lớn có khả
năng chi phối cả về mặt kinh tế, chính trị trong nước; nó là một trung tâm tài
chính tiền tệ lớn của Quốc gia.

Tuy NHTW là một định chế quản lý Nhà nước về tiền tệ tín dụng, nó nằm
trong bộ máy quyền lực quốc gia nhưng tùy từng điều kiện lịch sử cụ thể của
mỗi nước mà NHTW độc lập hay trực thuộc Chính Phủ :

 Ở MỸ , CHLB Đức thực hiện thể chế NHTW độc lập với CP, trong thể chế
ấy CP không được can thiệp vào hoạt động của NHTW.
 Ở Anh, Pháp, Việt Nam,… thực hiện thể chế NHTW trực thuộc Chính
Phủ, CP có ảnh hưởng quyết định đến mọi hoạt động của NHTW.

Ở Việt Nam, NHTW có tên gọi là Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, là thành viên
của Hội đồng Chính Phủ. Cơ quan lãnh đạo cao nhất của NHNNVN là Hội đồng
quản trị gồm 10 thành viên với : Chủ tịch là Thống đốc;Phó chủ tịch là phó
thống đốc; 4 uỷ viên cấp thứ trưởng đại diện cho Bộ tài chính, Bộ công
thương, Bộ kế hoạch và đầu tư; còn 4 uỷ viên còn lại chọn trong số các
chuyên gia kinh tế - tiền tệ. Ngoài Thống đốc được bổ nhiệm như là thành

Đặng Chí Thọ _ Khái lược bài soạn giảng 1


viên khác của Chính phủ, các thành viên còn lại do Thủ tướng Chính phủ bổ
nhiệm theo đề nghị của Thống đốc ngân hàng. Nhiệm kỳ của HĐQT là 5 năm.
Điều hành công việc hàng ngày của NHNN là Thống đốc và một số phó thống
đốc cùng với bộ máy hoạt động cấp trung ương, cấp tỉnh và thàng phố trực
thuộc trung ương.

2. Chức năng của NHTW

Khác với chức năng quản lý nhà nước của các Bộ, NHTW thực hiện việc quản
lý Nhà nước thông qua các nghiệp vụ mang tính kinh doanh mang lại lợi
nhuận (nhưng tính kinh doanh này chỉ là phương tiện nâng cao hiệu suất
công tác quản lý chứ không phải là mục đích cuối cùng của NHTW).

Mục đích hoạt động của NHTW là : cung ứng tiền cho nền kinh tế; điều hoà
lưu thông tiền tệ và quản lý hệ thống ngân hàng nhằm đảm bảo lưu thông
tiền tệ ổn định, từ đó tạo điều kiện tăng trưởng kinh tế, tạo thêm việc làm và
kiềm chế lạm phát.
Muốn vậy, NHTW cần thực hiện 3 chức năng cơ bản sau :

2.1 NHTW phát hành và điều tiết lưu thông tiền tệ

Chức năng này cơ bản và quan trọng nhất trong 3 chức năng. Việc thực hiện
chức năng này có ảnh hưởng đến tình hình lưu thông tiền tệ Quốc gia và có
thể ảnh hưởng tới mọi mặt hoạt động của đời sống kinh tế xã hội.

Việc phát hành tiền tệ bao gồm phát hành tiền đúc, tiền giấy, tiền chuyển
khoản. NHTW nắm độc quyền phát hành tiền giấy và tiền đúc (ở nhiều nước,
phát hành tiền đúc có thể do ngân khố nhà nước đảm nhiệm).

Ngày nay, việc phát hành tiền giấy không còn dựa trên cơ sở dự trữ kim loại
quý nữa (đặc biệt là dự trữ vàng). Phát hành tiền dựa trên uy tín của Nhà
nước và sức mạnh của nền kinh tế quốc dân thông qua cơ chế tín dụng. Ngoài
việc phát hành tiền để đảm bảo cho sự vận động của hàng hoá thì NHTW còn
có thể phát hành tiền để cho ngân sách vay, tham gia bình ổn thị trường hối
đoái… Do việc phát hành tiền có ảnh hưởng rộng lớn và mạnh mẽ đến lưu
thông tiền tệ trong nền kinh tế, vì thế đòi hỏi việc phát hành tiền phải tuân
theo những nguyên tắc nhất định và phải đi đôi với việc điều tiết lưu thông
tiền tệ nhằm đảm bảo cung ứng một khối lượng tiề tệ phù hợp với nhu cầu
phát triển của nền kinh tế (khối lượng tiền vừa đảm bảo cung ứng đủ phương
tiện lưu thông lại không gây lạm phát).

Còn đối với việc phát hành tiền chuyển khoản, NHTW kiểm soát chặt chẽ hoạt
động phát hành tiền chuyển khoản của các ngân hàng và các công cụ khác
có thể ảnh hưởng đến quy mô tín dụng của các ngân hàng kinh doanh và thu
chi NSNN như : công cụ dự trữ bắt buộc, lãi suất chiết khấu, thị trường mở,
hạn mức tín dụng,…

2.2 NHTW là ngân hàng của các ngân hàng

Chức năng này được thể hiện ở chỗ đối tượng giao dịch chủ yếu của NHTW

Đặng Chí Thọ _ Khái lược bài soạn giảng 2


là các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng khác trong nền kinh
tế. Cụ thể:

- NHTW nhận tiền gửi và bảo quản tiền tệ cho các ngân hàng thương mại
và các tổ chức tín dụng: các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín
dụng sẽ không sử dụng hết nguồn vốn của mình để cho vay mà sẽ giữ lại
một khoản nhất định để đảm bảo khả năng thanh toán. Khoản tiền này
được gởi cho NHTW bảo quản. (Cần chú ý ở Việt Nam hiện nay số tiền dự
trữ vượt mức của NHTM gửi vào NHTW không được trả lãi).
- NHTW cấp tín dụng cho các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín
dụng. Hoạt động này của NHTW nhằm đảm bảo cung ứng cho nền kinh tế
có đủ phương tiện thanh toán trên cơ sở thực hiện các chính sách tiền tệ.
Trong trường hợp này, NHTW đóng vai trò là người chủ nợ và là người cho
vay cuối cùng, do đó nghiệp vụ cấp tín dụng của NHTW cho các ngân
hàng thương mại có ý nghĩa quyết định đối với hoạt động tín dụng của cả
nền kinh tế.
- Với việc nhận tiền gửi và cấp tín dụng cho các NHTM,NHTW đã trở thành
trung tâm tín dụng của cả nền kinh tế, trung tâm thanh toán giữa các
ngân hàng thương mại. Với tư cách đó, NHTW đứng ra tổ chức thanh toán
bù trừ hay thanh toán tứng lần giữa các ngân hàng thương mại. Nhờ hoạt
động thanh toán này của NHTW mà quá trình chu chuyển thanh toán của
nền kinh tế mới phát triển thuận lợi.

2.3 NHTW là ngân hàng của Nhà nước

Trước tiên: NHTW là thuộc sở hữu Nhà nước, ban hành các văn bản pháp
quy về tín dụng, tiền tệ, ngoại hối, ngân hàng và thực hiện công tác kiểm
tra việc thi hành các văn bản ấy. Thay mặt Chính phủ ký kết hoặc tham
gia ký kết các hiệp định về tiền tệ, tín dụng, thanh toán,… đối nội cũng
như đối ngoại; thay mặt Chính phủ tham gia vào một số tổ chức tài chính
quốc tế với cương vị là thành viên của tổ chức này.

Thứ hai : NHTW thay mặt Nhà nước quản lý các hoạt động tiền tệ, tín
dụng, và thanh toán đối nội, đối ngoại của đất nước.

Thứ ba : NHTW là bên cung ứng các phương tiện thanh toán cho hệ thống
kho bạc Nhà nước, nhận tiền gửi cho hệ thống kho bạc Nhà nước (mở tài
khoản giao dịch cho KBNN và làm đại lý cho KBNN); đặc biệt là cấp tiền
vay cho Chính phủ nhằm cân đối NSNN lúc cần thiết.

3. Vai trò của NHTW

NHTW đóng vai trò quan trọng trong tiến trình phát triển của nền kinh tế
xã hội. Vai trò đó được thể hiện thông qua:

3.1 NHTW góp phần ổn định phát triển nền kinh tế xã hội thông qua điều
tiết khối lượng tiền trong lưu thông

Đặng Chí Thọ _ Khái lược bài soạn giảng 3


Mức cung tiền có ảnh hưởng mạnh mẽ đến tăng trưởng kinh tế thông qua
sự thúc đẩy mức tăng tổng sản phẩm quốc nội GDP, trực tiếp ảnn hưởng
đến sự ổn định và phát triển kinh tế. Nền kinh tế có lúc thăng lại có lúc
trầm (theo chu kỳ hoặc có thể do những yếu tố khác tác động) do vậy nhu
cầu về tiền sẽ biến động tương ứng và sự điều tiết của NHTW đối với khối
tiền trong lưu thông là vô cùng cần thiết.

NHTW thực hiện vai trò này thông qua các công cụ điều tiết trực tiếp và
gián tiếp như : lãi suất, hạn mức tín dụng , tỷ lệ dự trữ bắt buộc, lãi suất
tái chiết khấu, hoạt động thị trường mở,…

Sự điều tiết khối lượng tiền trong lưu thông nhằm đảm bảo cho sự ổn định
và phát triển kinh tế chỉ có hiệu quả trong điều kiện có được sự phối hợp
đồng bộ với quá trình sử dụng linh hoạt các công cụ tài chính – kinh tế
khác nữa.

3.2 NHTW với việc thiết lập và điều chỉnh cơ cấu nền kinh tế

Trước hết do NHTW tham gia vào xây dựng chiến lược phát triển kinh tế
xã hội nhằm thiết lập một cơ cấu kinh tế hài hoà nhất và có hiệu quả cao
nhất.
Thứ hai là do vị trí đặc biệt của NHTW nên nó có thể thông qua tài trợ tín
dụng (NHTM làm trung gian tín dụng cho sự tài trợ này) duy trì sự hoạt
động để đạt sự hiệu quả hoạt động của cơ cấu kinh tế đã thiết lập .
Thứ ba là trong điều kiện phát triển nhanh của nền kinh tế, NHTW phải
góp phần điều chỉnh kịp thời cơ cấu kinh tế hiện tại sao cho phù hợp với
thực tiễn của nền kinh tế đất nước, phù hợp với định hướng phát triển kinh
tế xã hội và có thể hội nhập tốt vơi sự phát triển của kinh tế thế giới.

3.3 NHTW với vài trò ổn định sức mua của đồng tiền Quốc gia

NHTW một mặt cần cân đối tổng cung và cầu xã hội thông qua ổn định
sức mua của đồng nội tệ (thông qua ổn định chỉ số giá hàng hoá và chỉ số
giá vàng), mặt khác cần tác động mạnh đến việc cân đối cung cầu ngoại
tệ để giữ vững tỷ giá hối đoái, góp phần ổn định sức mua đối ngoại của
đồng tiền Quốc gia. (lấy ví dụ và phân tích sức mua của đồng VNĐ và USD
trong 9 tháng đầu năm 2007, động thái của FED trong trường hợp hạ lãi
suất và động thái của các ngân hàng Châu Âu và sự biến động của giá
vàng, giá dầu cùng thời điểm).

Ổn định sức mua của đồng nội tệ không có nghĩa là cố định nó. Sức mua
của đồng tiền đối nội và đối ngoại có thể biến động lên xuống trong một
thời kỳ nào đó, nhưng sự biến động ấy cần được kiểm soát và duy trì ở
mức độ hợp lý cho phép và nó phải được điều chỉnh theo hướng có lợi cho
quốc gia.

3.4 NHTW với vai trò chỉ huy toàn bộ hệ thống ngân hàng

Đặng Chí Thọ _ Khái lược bài soạn giảng 4


Vai trò này vừa mang tính lý thuyết lại vừa mang tính thực tiễn.

Về lý thuyết : NHTW chỉ thực sự là sản phẩm tất yếu của quá trình phát
triển của hệ thống ngân hàng khi nó thực sự chỉ huy được hệ thống ấy.

Về thực tiễn : Việc chỉ huy được hệ thống ngân hàng là một trong nhiều
biện pháp hữu hiệu để xử lý các công cụ tiền tệ, tín dụng và thanh toán
phục vụ cho các hoạt động kinh tế xã hội diễn ra thường xuyên và sôi
động hàng ngày

Sự chỉ huy của NHTW đối với toàn bộ hệ thống ngân hàng phải dựa vào
hành lang pháp lý nghiêm ngặt và đội ngũ cán bộ điều hành và cán bộ
nghiệp vụ thành thạo về chuyên môn, phẩm chất đạo đức tốt.

Ngoài ra vai trò của NHTW cũng được thể hiện thông qua việc thực hiện
các chức năng của mình ở mặt : xây dựng chiến lược phát triển hệ thống
ngân hàng, xây dựng và tổ chức thực hiện các dự án luật, pháp lệnh, các
văn bản luật,…thông qua việc thu hồi tiền, huỷ tiền,… và việc ký kết các
hiệp định quốc tế.

II. CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ CỦA NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG

Chính sách tiền tệ là tổng hoà các phương thức mà NHTW thông qua
các hoạt động của mình tác động tới khối lượng tiền trong lưu thông nhằm
phục vụ cho việc thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội của đất nước trong
một thời kỳ nhất định.

1. Mục tiêu của chính sách tiền tệ

1.1 Mục tiêu cuối cùng:

Mục tiêu cao nhất (hay cuối cùng) của CSTT là ổn định và tăng trưởng kinh tế;
tạo việc làm; kiểm soát lạm phát.

- Ổn định và tăng trưởng kinh tế là mục tiêu hàng đầu, cơ bản và tất yếu của
CSTT. Muốn làm được điều đấy thì cần phải gia tăng đầu tư, thực hiện tái sản
xuất mở rộng. Để gia tăng đầu tư thì bên cạnh việc sử dụng công cụ tài trợ
của NSNN cần thêm tới quy mô gia tăng của đầu tư tín dụng trong hệ thống
ngân hàng với sự tác động của NHTW và sự khai thác tối đa, hiệu quả sử
dụng các nguồn lực trong và ngoài nước.

- Tạo việc làm là đòi hỏi rất bức thiết và thường trực của xã hội. Và tuỳ vào
tình hình tăng trưởng kinh tế mà số việc làm được tạo ra nhiều hay ít. Tuy
nhiên nếu khoa học kỹ thuật phát triển và trình độ tự động hoá cao, cải tiến
kỹ thuật đạt được hiệu quả đáng kể thì không những việc làm (sức người)
không tăng thêm mà còn lại bị giảm đi do máy móc làm thay được khá nhiều,

Đặng Chí Thọ _ Khái lược bài soạn giảng 5


và do đó thất nghiệp gia tăng. Trước tình hình đó, NHTW cần có trách nhiệm
trong việc vận dụng cách công cụ của mình góp phần tăng cường đầu tư mở
rộng sản xuất kinh doanh, bên cạnh đó là các biện pháp duy trì sự ổn định và
tăng trưởng kinh tế (vì dùng CSTT để tạo công ăn việc làm dễ dẫn tới tình
trạng lạm phát cao), khống chế tỷ lệ thất nghiệp không vượt quá mức thất
nghiệp tự nhiên.

- Kiểm soát lạm phát là một mục tiêu rất quan trọng. Khi kinh tế tăng trưởng
thì nó hàm chứa trong mình các nhân tố của lạm phát như sự mất ổn định của
giá cả, sự mất ổn định của tỷ giá hối đoái. Do đó NHTW phải góp phần duy trì
sự ổn định , triệt tiêu những nhân tố gây nên sự tăng nhu cầu giả hoặc đẩy
chi phí lên cao. Trong cuộc chiến đấu này, lãi suất và cung ứng tiền là hai vũ
khí lợi hại nhât.

Sự phối kết hợp hài hoà của 3 mục tiêu nêu trên là vô cùng quan trọng.
Không phải lúc nào cũng thực hiện cả 3 mục tiêu trên đồng thời mà lại không
phát sinh mâu thuẫn. Do đó phải căn cứ thực tế mà sắp xếp thứ tự ưu tiên,
điều chỉnh kịp thời.

1.2 Mục tiêu trung gian

Để đạt được mục tiêu cuối cùng các NHTW cũng phải cần xác định và đạt
được các mục tiêu trung gian. Nguyên nhân là NHTW sử dụng các mục tiêu
trung gian để có thể xét đoán nhanh chóng tình hình thực hiện các hoạt động
của mình phục vụ cho các mục tiêu cuối cùng hơn là chờ cho đến khi nhìn
được kết quả cuối cùng của các mục tiêu đấy.

Mục tiêu trung gian của CSTT là cái gì? Đó là các khối tiền tệ M1, M2, M3 và
lãi suất. Các mục tiêu trung gian mang tính định hướng, chúng có thể đo
lường, kiểm soát được và có thể đoán trước được tác động của chúng đối với
việc thực hiện các mục tiêu cuối cùng của CSTT.

Qua tăng giảm khối tiền tệ, NHTW đã góp phần tác động đến sự tăng giảm
tổng cung và tổng cầu tiền tệ của xã hội (ở các nước chuộng dùng khối tiền
tệ). Bên cạnh đó việc sử dụng công cụ lãi suất cũng có tác động đến tăng
giảm tổng cung và tổng cầu tiền tệ của xã hội. (ở Mỹ sử dụng khối M2 làm
mục tiêu trung gian, ở Việt Nam thì sao?)

2 Các công cụ của CSTT

Về cơ bản có 2 loại: Chính sách nới lỏng tiền tệ và Chính sách thắt chặt tiền
tệ.

Chính sách nới lỏng tiền tệ.


Chính sách này được áp dụng trong điều kiện nền kinh tế bị suy thoái, nạn
thất nghiệp gia tăng. Trong tình hình đó, chính sách nới lỏng tiền tệ làm
tăng lượng tiền cung ứng cho nền kinh tế, mở rộng đầu tư, mở rộng sản
xuất, tạo công ăn việc làm cho người lao động. Chính sách nới lỏng tiền tệ
đồng nghĩa với chính sách tiền tệ chống suy thoái.

Đặng Chí Thọ _ Khái lược bài soạn giảng 6


Chính sách thắt chặt tiền tệ.
Còn được gọi là chính sách đóng băng tiền tệ. Loại chính sách này được áp
dụng khi nền kinh tế có sự phát triển thái quá, đồng thời lạm phát ngày
càng gia tăng. Chính sách thắt chặt tiền tệ đồng nghĩa với chính sách tiền
tệ chống lạm phát.

Để thực hiện được hai chính sách tiền tệ nêu trên thì NHTW có thể sử
dụng hai loại công cụ là: công cụ trực tiếp và công cụ gián tiếp.

2.1 Các công cụ trực tiếp

a/ Ấn định lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay :

NHTW có thể ấn định lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay và bắt buộc các
NHTM phải thi hành.

Ưu điểm: NHTW có thể tác động trực tiếp đến các dự án đầu tư bằng các
điều kiện tín dụng
Nhược điểm: Lãi suất được ấn định có thể không phù hợp với nền kinh tế
gây khó khăn cho việc thực hiện các dự án đồng thời tính linh hoạt của thị
trường tiền tệ sẽ bị suy giảm.
Việc quy định lãi suất tiền gửi của các NHTM áp dụng có tác động trực tiếp
đến thị trường tiền tệ nhưng lại làm cho hoạt động của tổ chức tín dụng
kém linh hoạt, mất tính chủ động trong kinh doanh.
Công cụ này có thể dẫn tới tình trạng ứ đọng vốn tại ngân hàng trong khi
thiếu vốn đầu tư hoặc khuyến khích dân chúng dùng tiền để dự trữ vàng,
ngoại tệ, BĐS trong khi ngân hàng hụt hẫng về tiền mặt cũng như nguồn
vốn cho vay.

Việc ấn định khung lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay nhìn chung ngày
càng ít được áp dụng ở các nước theo kinh tế thị trường bởi vì lãi suất của
nó rất nhạy cảm với đầu tư, nó phải được vận động theo quan hệ cung cầu
vốn trên thị trường.

b/ Ấn định hạn mức tín dụng

Là việc NHTW ấn định 1 khối lượng sẽ cung cấp cho nền kinh tế trong 1
thời gian nhất định, sau đó tìm các kênh để đưa vào.
Biện pháp này được thực hiện rất lâu ở các nước XHCN theo cơ chế kế
hoạch hóa tập trung, đây là cách vận dụng máy móc công thức của Marx:
Kt=Kc, tức là nhận định rằng phải định được Kc sau đó tạo ra Kt và đưa
vào nền kinh tế, thật ra đây là sự hiểu lầm công thức của Marx,ông chỉ
đưa ra yêu cầu để hàng hóa lưu thông bình thường thì Kt=Kc chứ ông
không định lượng Kc là 1 con số nào đó bởi vì Kc=P.Q/V là 1 đại lượng luôn
biến động và khó tính toán trong 1 thời gian tương đối dài, hiện nay người

Đặng Chí Thọ _ Khái lược bài soạn giảng 7


ta sự đoán 1 Kc mà nó có thể cần thiết cho nền kinh tế sau đó tạo điều
kiện để thực hiện nó trên cơ sở để cho quy luật cung cầu vận động. Biện
pháp này có ưu và nhược điểm:

Ưu điểm: Có thể kế hoạch 1 cách chắc chắn khối lượng tiền trong lưu
thông
Nhược điểm: Thiếu linh hoạt khi tình hình biến động và chỉ thực hiện được
trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung.

c/ Phát hành trái phiếu Nhà nước

Nhằm làm giảm khối lượng tiền trong lưu thông qua việc NHTW thỏa
thuận với Bộ Tài chính về việc phát hành 1 khối lượng trái phiếu nhất định,
biện pháp này chỉ thực hiện khi không còn biện pháp nào khác.
Ưu điểm: là làm giảm bớt khối lượng tiền trong lưu thông.
Nhược điểm: là phục vụ cho mục tiêu chi tiêu của NSNN; việc phân bổ trái
phiếu Nhà nước thường mang tính chất bắt buộc

d/ Phát hành tiền trực tiếp cho ngân sách và cho đầu tư

Khi ngân sách bị thiếu hụt, NHTW có thể phát hành tiền để đáp ứng nhu
cầu chi tiêu của ngân sách. Biện pháp này dễ đưa đến lạm phát, thông
thường biện pháp này được áp dụng để phát hành tiền cho đầu tư phát
triển xem như là ứng trước cho sản xuất.

Tóm lại, trong nền kinh tế thị trường các công cụ trực tiếp thường được áp
dụng trong những trường hợp nhất định. NHTW thường sử dụng các công
cụ gián tiếp để điều hành chính sách tiền tệ

2.2 Các công cụ gián tiếp

a/ Quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc

Là phương thức quản lý khối lượng tiền trong lưu thông bằng các quy định
tỷ lệ mà các NHTM được phép cho vay khi nhận được 1 khối lượng tiền gửi,
tỷ lệ dự trữ pháp định là tỷ lệ % trên số tiền gửi mà một NHTM nhận được
phải gửi vào tài khoản tại NHTW hoặc giữ tại ngân hàng theo quy định (cụ
thể là tiền dự trữ bắt buộc của NHTM nằm tại kho bạc nhà nước). Với biện
pháp này NHTW nắm được khối lượng tín dụng mà các NHTM và các tổ
chức tín dụng khác cung cấp và có khả năng cung cấp cho nền kinh tế. Do
đó NHTW có thể tác động trực tiếp đến khối lượng tín dụng bằng cách
tăng hay giảm tỷ lệ dự trữ pháp định.

Đi kèm với công cụ trên là giới hạn khối lượng tín dụng trên số tiền gửi
nhận được:
NHTW quy định giới hạn tỷ lệ tín dụng mà các NHTM có thể cung cấp khi
nhận được 1 lượng tiền gửi, thông thường NHTW thường quy định tỷ lệ dư

Đặng Chí Thọ _ Khái lược bài soạn giảng 8


nợ tín dụng của các NHTM không được vượt qua bao nhiêu nhiêu lần so
với vốn tự có. Biện pháp này có ưu điểm quy định được 1 khối lượng tín
dụng vừa phải theo yêu cầu phát triển kinh tế có tính đến mối quan hệ
giữa tiết kiệm và đầu tư.

b/ Công cụ thị trường mở

Nội dung của biện pháp này là NHTW tiến hành mua và bán các giấy tờ có
giá trên thị trường tiền tệ theo mục tiêu của chính sách tiền tệ trong từng
thời kỳ.

Trong trường hợp NHTW muốn tăng khối lượng tiền trong lưu thông NHTW
sẽ mua vào 1 lượng chứng khoán nhất định, việc các NHTM bán chứng
khoán cho NHTW sẽ làm tăng dự trữ cho các NHTM nhờ vào lượng tiền
nhận được từ NHTW.

Ngược lại, nếu NHTW muốn thu hẹp khối lượng tiền tệ NHTW sẽ bán ra 1
lượng chứng khoán nhất định.

Ưu điểm là tác động trực tiếp đến dự trữ của các NHTM buộc các NHTM
phải gia tăng hay giảm khối lượng tín dụng.
Nhược điểm chỉ thực hiện được trong điều kiện các khoản tiền trong lưu
thông đều nằm tại các NHTM.

Công cụ này sẽ có hiệu quả cao hơn ở những nước có thị trường tài chính
hoàn chỉnh, cơ chế thanh toán không dùng tiền mặt phát triển cao.

c/ Biện pháp chiết khấu, tái chiết khấu và cho vay của NHTW

Là hình thức cung cấp tín dụng của NHTW cho các NHTM trong điều kiện
có thế chấp, chiết khấu, tái chiết khấu các giấy tờ có giá của các NHTM.
Việc ấn định lãi suất cho vay, lãi suất chiết khấu, tái chiết khấu cao hay
thấp có tác động đến khả năng cho vay của các NHTM và do đó làm cho
khối cung tiền tệ tăng lên hay giảm đi.
Ưu điểm: các khoản cho vay của NHTW đảm bảo thu được về. Việc cho
vay gắn liền với yếu cầu phát triển kinh tế, do sự tác động của quy luật
cung cầu.
Nhược điểm việc vay hay không vay phụ thuộc vào các NHTM.

d/ Giới hạn khối lượng tín dụng trên số tiền gửi nhận được:

NHTW quy định giới hạn tỷ lệ tín dụng mà các NHTM có thể cung cấp khi
nhận được 1 lượng tiền gửi, biện pháp này thường được đi kèm bằng biện
pháp quy định tỷ lệ dự trữ ổn định, NHTW thông thường quy định tỷ lệ dư
nợ tín dụng của các NHTM không được vượt qua bao nhiêu nhiêu lần so
với vốn tự có. Biện pháp này có ưu điểm quy định được 1 khối lượng tín
dụng vừa phải theo yêu cầu phát triển kinh tế có tính đến mối quan hệ
giữa tiết kiệm và đầu tư.

Đặng Chí Thọ _ Khái lược bài soạn giảng 9


2.3 Một số công cụ khác

a/ Dự đính công trái bắt buộc


Là việc NHTW quy định 1 tỷ lệ trên số tiền gửi mà một NHTM nhận được
phải dùng vào việc mua công trái bắt buộc nhằm hạn chế khối lượng tín
dụng của các NHTM và làm công cụ của NHTW thông qua việc chiết khấu
các công trái này, khi các NHTM cần vốn thông qua đó NHTW có thể sử
dụng công cụ thị trường mở để điều tiết khối lượng tiền tệ trong lưu thông

b/ Dự đính công trái tự nguyện

Ngoài việc buộc các NHTM mua công trái bắt buộc, NHTW còn kích thích
các NHTM mua thêm công trái khi số tiền cho vay không hết.

c/ Phát hành giấy bạc, cho phép lưu thông các công cụ thay tiền mặt

Thông thường khi các công cụ thay tiền mặt được sử dụng thì lưu thông
tiền tệ sẽ nhanh hơn tiết kiệm được chi phí lưu thông và đặc biệt làm tăng
khả năng tín dụng của các NHTM bởi vì khi mọi khoản tiền đều được thanh
toán qua ngân hàng bằng các công cụ thay tiền mặt như séc, thẻ tín
dụng, lệnh chuyển khoản... sẽ làm cho toàn bộ hệ thống ngân hàng gần
như không bao giờ mất khả năng cung cấp tín dụng cho nền kinh tế.

III/. Lạm phát

Để tiếp cận kiến thức về lạm phát, đề nghị sinh viên xem lại phần cung cầu
tiền tệ và phần chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ương.

Lạm phát là vấn đề rất nhạy cảm, có ảnh hưởng đa chiều đến nền kinh tế xã
hội. Bạn đã từng nghe: “ lạm phát bao giờ và ở đâu cũng là một hiện tượng
tiền tệ” ? Có lẽ cái mà các bạn đã từng nghe hoặc hay nghe là những thông
tin, những đoạn thông báo qua báo chí hoặc các phát thanh viên nói trên đài
rằng mức giá cả tháng này tăng bao nhiêu phần trăm so với tháng trước ?
Trong chương này chúng ta sẽ nghiên cứu và làm rõ xem lạm phát là gì,
nguyên nhân gây ra lạm phát, lạm phát tác động như thế nào đến nền kinh tế
và có những biện pháp kiểm soát lạm phát nào ?

1. Khái niệm và phân loại lạm phát

1.1 Khái niệm lạm phát

Lạm phát trước hết là một phạm trù kinh tế khách quan phát sinh từ chế độ
lưu thông tiền giấy (một loại dấu hiệu giá trị, không có giá trị nội tại mà chỉ
mang giá trị danh nghĩa, được đưa vào lưu thông thay thế cho tiền đủ giá
nhằm thực hiện vai trò trung gian trao đổi). Khi thừa tiền giấy trong lưu thông
sẽ xuất hiện xu hướng dân chúng không giữ trong tay những đồng tiền bị mất

Đặng Chí Thọ _ Khái lược bài soạn giảng 10


giá và lượng tiền thừa sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất và lưu thông hàng
hoá.

Có nhiều nhà kinh tế học đã đi tìm định nghĩa đúng và đủ cho thuật ngữ lạm
phát, tuy nhiên vẫn còn chưa có sự thống nhất hoàn toàn.

Các quan điểm tĩnh về lạm phát trước đây giúp ta hiểu rõ về hiện tượng lạm
phát nhưng lại không cho ta thấy được nguyên nhân của lạm phát và khiến ta
lầm tưởng lạm phát cao là hệ quả của mức cung tiền cao (ví dụ như quan
điểm cho rằng lạm phát xảy ra khi số tiền lưu hành vượt quá dự trữ vàng làm
đảm bảo của ngân hàng phát hành hoặc quan điểm cho rằng lạm phát là sự
mất cân đối giữa tiền và hàng trong nền kinh tế.

Có quan điểm cho rằng lạm phát nảy sinh là do sự mất cân đối sâu sắc
trong chính cơ cấu của nền kinh tế (mất cân đối giữa tích luỹ và tiêu dùng,
giữa công nghiệp và nông nghiệp,giữa sản xuất và dịch vụ,…), chính sự
mất cân đối này làm cho nền kinh tế phát triển không có hiệu quả.

Quan điểm lạm phát chi phí cho rằng: lạm phát nảy sinh do mức tăng chi
phí sản xuất kinh doanh nhanh hơn mức tăng năng suất lao động. Mức
tăng này chủ yếu là tăng về tiền lương, giá các nguyên, nhiên, vật liệu,….

Lại có quan điểm cho rằng lạm phát là hiện tượng tăng lên của mức giá
chung (mức bình quân, mức giá tổng hợp) theo thời gian. Điều này cũng chưa
chuẩn xác vì có thể giá chỉ tăng đột biến do sự mất cân đối giữa cung và cầu
trong khoảng thời gian ngắn nào đó (ví dụ Tết Nguyên Đán của Việt Nam).
Thật ra, giá cả đồng loạt tăng lên chỉ là một trong những biểu hiện cơ bản của
lạm phát mà thôi

Các nhà kinh tế học theo trường phái trọng tiền đứng đầu là M.Friedman đã
định nghĩa “lạm phát là hiện tượng giá cả tăng nhanh và liên tục trong thời
gian dài “. Ông cho rằng: “lạm phát bao giờ và ở đâu cũng là một hiện tượng
tiền tệ”. Qua định nghĩa của Milton Friedman, ta nhận thấy sự tăng lên của
mức giá chung chỉ là biểu hiện của lạm phát, còn bản chất của lạm phát
được thể hiện ở tính chất của sự tăng giá đó : tăng giá với tốc độ cao và kéo
dài. Cách định nghĩa “lạm phát là hiện tượng giá cả tăng nhanh và liên tục
trong thời gian dài “ được đại đa số các nhà kinh tế học và các nhà điều hành
chính sách tiền tệ quốc gia ủng hộ. Chúng ta cũng đi đến thống nhất với nhau
về định nghĩa của lạm phát như trên.

Bên cạnh đó khi xem xét lạm phát trong điều kiện của sự mất cân đối, thâm
hụt ngân sách, hệ thống chính trị khủng hoảng ảnh hưởng tới niềm tin của
dân chúng vào sức mua của đồng tiền quốc gia, Nhà nước chủ động sử dụng
lạm phát như là một công cụ thực thi chính sách tiền tệ của mình, qua lạm
phát để phân phối lại sản phẩm và thu nhập của nền kinh tế. Ta nhận thấy
rằng lạm phát không phải chỉ là một phạm trù kinh tế khách quan phát sinh
từ chế độ lưu thông tiền giấy, là hiện tượng tự nhiên của nền kinh tế mà nó
còn mang bản chất kinh tế, xã hội sâu sắc.

1.2 Phân loại lạm phát

Đặng Chí Thọ _ Khái lược bài soạn giảng 11


Người ta có thể phân loại lạm phát dựa vào việc so sánh hai chỉ tiêu là tỷ
lệ tăng giá và tỷ lệ tăng trưởng tiền tệ. Nhưng vì biểu hiện đặc trưng của
lạm phát là giá cả hàng hoá tăng liên tục nên người ta thường căn cứ vào
chỉ số giá cả hàng hoá (hay dùng là CPI) tăng để làm căn cứ phân thành 3
loại lạm phát sau :

Lạm phát vừa phải (lạm phát một con số):


Biểu hiện của loại này là chỉ số giá cả tăng chậm trong khoảng 10% trở
lại. Do đó, đồng tiền mất giá không nhiều, không ảnh hưởng đến sản xuất
kinh doanh. Ở hầu hết các nước trên thế giới áp dụng và xem đó là chất
xúc tác cho nền kinh tế phát triển.

Lạm phát phi mã:


Giá cả hàng hoá bắt đầu tăng vởi tỷ lệ 2 hoặc 3 con số. Khi lạm phát này xuất
hiện thì bắt đầu gây ảnh hưởng đến đời sống kinh tế, xã hội.

Siêu lạm phát:


Loại này xảy ra khi tốc độ tăng giá vượt xa lạm phát phi mã. Người ta
thường ví siêu lạm phát (lạm phát siêu phi mã) với căn bệnh nan y khó
chữa. Một khi siêu lạm phát xảy ra thì chắt chắc nó sẽ gây ảnh hưởng rất
lớn đến nền kinh tế của quốc gia ( trong lịch sử vẫn có một số nền kinh tế
vẫn phát triển tốt như của Brazil, nhưng hiếm).

Để đánh giá (đo lường) mức độ lạm phát người ta căn cứ vào tỷ lệ lạm
phát được xác định theo công thức sau với mức giá được đo bằng giá cả
trung bình của các loại hàng hoá và dịch vụ.

Tỷ lệ lạm phát năm t = { Mức giá năm t - Mức giá năm (t -1) } / Mức
giá năm (t -1)

Trên thực tế, người ta đo mức giá bằng chỉ số giá (là 1 chỉ tiêu phản ánh
sự thay đổi giá cả hàng hoá, dịch vụ của 1 năm nào đó so với năm gốc). .
Tuỳ theo nhu cầu phân tích, chí số dùng để tính tỉ lệ lạm phát là chỉ số giá
toàn bộ hàng hoá, dịch vụ trong nền kinh tế hoặc là tính theo giá của một
nhóm hàng hoá tiêu biểu.

*Chỉ số giá tiêu dùng: (CPI: Consumer price index):


Được tính theo giá bán lẻ của 1 giỏ hàng hoá và dịch vụ trên thị trường,
các giỏ hàng hoá chính là lượng thực, thực phẩm, quần áo, nhà cửa, chất
đốt, thuốc y dược. Giỏ hàng hoá được chọn với cơ cấu và số lượng cố định.

CPIt = { Σ P it q i0 / ΣP i0 q i0 } x 100%

Trong đó:

Đặng Chí Thọ _ Khái lược bài soạn giảng 12


Năm 0 được chọn là năm gốc.
CPIt : chỉ số giá tiêu dùng của năm t.
Pit , Pi0 : giá cả của sản phẩm i ở năm t và năm 0
qi0 : số lượng của sản phẩm i dùng để tính ở năm 0.

* Chỉ số giá sản xuất: (PPI: procuder price index)


Được tính theo giá bán buôn của các nhóm hàng hoá như lượng thực, thực
phẩm, thực phẩm của ngành chế tạo, khai khoáng. Chỉ số này được các
doanh nghiệp sử dụng, cách tính hoàn toàn giống như tính CPI, các số đo
về tỷ trọng nhằm phản ảnh tầm quan trọng của từng loại sản phẩm, sản
phẩm càng chiểm tỷ trọng lớn thì sự thay đổi giá cả của nó càng ảnh
hưởng mạnh đến mức giá chung.

Đo lường lạm phát cũng được xác định dựa trên chỉ số giảm phát tổng sản
phẩm quốc nội (GDP).
Chỉ số này đo lường mức giá bình quân của tất cả các hàng hoá dịch vụ
tạo nên tổng sản phẩm quốc nội. Nó được tín toán như sau:

Chỉ số giảm phát GDP = { GDP danh nghĩa / GDP thực tế } x 100
%

Trong đó:
 GDP danh nghĩa đo lường sản lượng theo giá năm hiện tại.
 GDP thực tế đo lường sản lượng theo năm hiện tại theo giá năm
được chọn làm gốc.

2. Nguyên nhân gây ra lạm phát

Khi nghiên cứu nguyên nhân của lạm phát, các nhà kinh tế có nhiều quan
điểm khác nhau do cách tiếp cận khác nhau. Nhìn chung lạm phát có thể
xảy ra bởi các nguyên nhân sau:

2.1 Lạm phát do cầu kéo (demand pull inflation)

Lạm phát do cầu kéo (hay lạm phát do nhu cầu chi tiêu của xã hội vượt
quá mức cung ứng hàng hoá của xã hội) là hiện tượng khi nền kinh tế đạt
tới hoặc vượt quá mức sản lượng tiềm năng thì việc tăng tổng mức cầu
một cách liên tục và lâu dài sẽ tạo áp lực dẫn tới sự leo thang của mức giá
và dẫn tới lạm phát.

Cầu tăng là do tổng lượng tiền lưu hành tăng hoặc do tốc độ lưu thông
tiền tăng:
* Số lượng tiền lưu hành tăng do nhiều nguyên nhân: do NSNN thâm hụt
nên việc tài trợ thâm hụt sẽ được thực hiện thông qua phát hành trái
phiếu, vay từ NHTW, vay nước ngoài dẫn tới khối tiền trong lưu thông
tăng; các NHTM cũng tham gia vào việc mở rộng cho vay tạo tiền gửi và

Đặng Chí Thọ _ Khái lược bài soạn giảng 13


do đó cung cấp thêm nữa các phương tiện thanh toán,…
* Tốc độ lưu thông tiền tệ gia tăng chủ yếu là do hệ thống chính trị khủng
hoảng, kinh tế suy thoái nên lòng tin của dân chúng vào chế độ tiền tệ
của Nhà nước bị giảm sút mạnh, từ đó gây ra tâm lý đẩy nhanh những
đồng nội tệ đang ngày một mất giá. Sự tăng các nhu cầu có khả năng
thanh toán của toàn xã hội đã dẫn đến áp lực tăng giá cả.

Chú ý:

a/ Trong điều kiện nền kinh tế chưa đạt sản lượng tiền năng
Tăng tổng cầu sẽ làm cho giá cả tăng ít hơn so với sản lượng tăng nhiều
hơn và khi đó nó trở thành chính sách lạm phát có hiệu quả đẩy mạnh khả
năng sản xuất của xã hội.

b/ Trong điều kiện nền kinh tế đã đạt sản lượng tiền năng
Khi đó sự tăng tổng cầu bởi những nguyên nhân đã đề cập phía trên chỉ
làm cho giá cả tăng lên trong khi sản lượng không tăng.

Price

AS1
AD1
P2 E1
P1 A

Po Eo

ASo AD0

Yo Y1 Real
GDP

Giả sử năm trước nền kinh tế đạt mức sản lượng tiềm năng (mức tỷ lệ thất
nghiệp đạt mức tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên a%). Năm nay khi tổng cầu AD tăng
từ AD0 đến AD1 thì điểm cân bằng mới của nền kinh tế chạy từ Eo đến A. Tại
đó mức giá mới được thiết lập tại P1 và mức sản lượng thực tế Y1 vượt quá
mức sản lượng tiềm năng Yo.

Trước khi đi vào phân tích cần chú ý rằng tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên là tỷ lệ
thất nghiệp khi có công ăn việc làm đầy đủ, nghĩa là do xung đột về lợi ích
nên trên thị trường lao động nên vẫn xảy ra xung đột giữa giới chủ và người
làm thuê khiến giới chủ quyết định “cho” một bộ phận người lao động “được
tình nguyện thất nghiệp còn hơn là đi làm mà tiền lương không thoả mãn yêu
cầu của cá nhân”.
Chú ý tiếp theo là khi có một bộ phận công nhân “tình nguyện thất nghiệp”
thì số công nhân tham gia sản xuất sẽ “luôn được” giới chủ tìm cách hai thác
để sản xuất đạt sản lượng thực tế phù hợp với nhu cầu thị trường, trong

Đặng Chí Thọ _ Khái lược bài soạn giảng 14


trường hợp gặp giới hạn về thể chất và tinh thần của người lao động dẫn tới
việc khó có thể đạt được sản lượng đáp ứng nhu cầu tăng thêm của xã hội
(cầu kéo) thì giới chủ sẽ phải tìm cách thoả thuận với những người “tình
nguyện thất nghiệp” kia nhằm giải quyết bài toán cầu phát sinh.

Khi cầu tăng, điểm cân bằng mới tại điểm A được thiết lập nhưng nó sẽ không
tồn tại lâu. Để có thể huy động nguồn nhân lực tham gia vào sản xuất để có
thể tạo ra mức sản phẩm gia tăng do cầu tăng (Y1-Yo) thì rõ ràng cần phải
huy động số nhân lực “tình nguyện thất nghiệp” trước đấy. Và như vậy đồng
nghĩa với việc phải trả lương cao hơn cho số người “nhàn rỗi” này, khi đó
đường tổng cung sẽ di chuyển tới AS 1 thì dừng lại (do lại đạt mức tỷ lệ thất
nghiệp tự nhiên). Và tại điểm cân bằng AD 1 với AS1 , mức sản lượng quay về
mức sản lượng tiềm năng như trước nhưng giá cả đã lại tăng lên mức P2

Như vậy lạm phát do cầu kéo được mô tả là kết quả của việc các nhà hoạch
định chính sách, giới chủ theo đuổi các chính sách về một chỉ tiêu sản phẩm
quá cao hoặc cách tương đương là một tỷ lệ thất nghiệp quá thấp (so với tỷ lệ
thất nghiệp tự nhiên) sẽ dẫn tới sự tăng dần của giá cả và lạm phát trong khi
mức sản lượng thực tế lại được duy trì ở mức sản lượng tiềm năng.

2.2 Lạm phát do chi phí đẩy (cost push inflation)

Khác với nguyên nhân tạo lạm phát cầu kéo, lạm phát chi phí đẩy xảy ra lại
do cú sốc cung tiêu cực hoặc do công nhân đẩy lương của họ lên.

Price AS2

ADo AD1
AS1

ASo
E1
P1 A
Po
Eo Real GDP
Yo

Yo

Giả sử tại thời điểm ban đầu mức cân bằng đạt tại giao điểm Eo của ASo và
ADo.
Giả định là công nhân muốn tăng mức lương bởi vì hoặc họ muốn được tăng
lương thực tế hoặc là do họ dự đoán mức lạm phát trong thời gian tới nên họ
đòi hỏi tăng lương nhằm không bị thiệt thòi khi lạm phát xảy ra theo tính
toán. Khi đó ảnh hưởng của xu thế tăng lương (tương tự như một cú sốc cung
tiêu cực) là đường cầu ASo sẽ chuyển dịch sang trái về tới AS1 và nếu chính
sách tài chính và tiền tệ của Chính phủ hơn mức sản lượng tiềm năng tự
nhiên của nó trong khi mức giá cả tăng lên mức P1 (một số lượng người lao

Đặng Chí Thọ _ Khái lược bài soạn giảng 15


động rời bỏ việc khiến tỷ lệ thất nghiệp thực tế cao hơn mức tỷ lệ thất nghiệp
tự nhiên). Khi đó điều gì xảy ra?

Những nhà hoạch định chính sách sẽ làm gì để hoàn thành một chính sách
đạt chỉ tiêu việc làm cao, giới chủ làm gì để có thể đạt lại mức sản lượng tiềm
năng vốn có ? Đó là chính sách điều hòa qua việc tăng cường tổng cầu chạy
về AD1 và công nhân đạt được mục đích của mình là tăng lương _ giới chủ
phải nhượng bộ trả lương cao hơn cho số “tạm nhàn rỗi” để họ tham gia lao
động sản xuất và thoả mãn nhu cầu tăng lương của số công nhân hiện đang
làm. Khi đó AS1 giao AD1 ở E, sản lượng lại quay về sản lượng tiền năng

Một lượng công nhân khác thấy mức lương của mình sụt hơn của đồng nghiệp
nên không muốn thua kém sẽ lại đòi tăng lương của mình lên và kết quả
đường cung lại chạy về AD2 , thất nghiệp lại phát triển và nếu quá trình này
cứ thế tiếp tục như xu hướng trước đó thì kết quả là mức giá cả cứ thế leo
thang. Đây chính là nguyên nhân gây ra lạm phát có tên gọi là lạm phát do
chi phí đẩy.

Qua hai phân thích về 2 loại lạm phát trên ta thấy rằng: lạm phát cầu kéo đi
liền với thời kỳ mà thất nghiệp thấp hơn mức thất nghiệp tự nhiên trong khi
đó lạm phát chi phí đẩy lại đi liền với thời kỳ mà thất nghiệp thấp cao mức
thất nghiệp tự nhiên.
Sự phân biệt giữa hai loại lạm phát nêu trên bị lu mờ đi bởi vì lạm phát chi phí
đẩy có thể do lạm phát cầu kéo gây nên. Khi lạm phát cầu kéo gây nên lạm
phát cao hơn thì lạm phát dự tính cuối cùng sẽ tăng lên và làm cho công
nhân đòi tăng lương vì thế mà tiền lương thực tế của công nhân đã không bị
giảm xuống.

Chú ý về các nguyên nhân khác gây nên lạm phát :

 Thâm hụt ngân sách có thể là một nguyên nhân gây ra lạm phát nếu
như sự thâm hụt ấy là dai dẳng chứ không phải là tạm thời và Chính
phủ tiến hành bù đắp thâm hụt thông qua việc tạo thêm tiền chứ
không phải là phát hành trái khoán ra công chúng.
 Khi nền kinh tế đạt đến mức toàn dụng, nghĩa là các yếu tố của sản
xuất như nhân công, nguyên nhiên vật liệu,…đã được khai thác tối đa
trong khi mức cung hàng hoá trên thị trường lại có xu hướng giảm dần
và tình trạng tắc nghẽn thị trường cũng làm giới hạn mức cung hàng
hoá. Tình trạng đó được gọi là trình trạng mất cần đối các yêu tố sản
xuất giữa các khu vực nhưng thị trường lại không tạo ra cơ chế điều
phối hiệu quả khiến cho hàng hoá không đáp ứng tốt nhu cầu tăng lên
của thị trường. Hàng hoá hiếm đã khiến giá cả tăng. Cần lưu ý là nếu
ngay lúc nền kinh tế chưa đạt mức toàn dụng nhưng nếu cơ cấu kinh tế
tổ chức bất hợp lý thì cũng không thể cho phép tạo ra mức cung hàng
hoá đủ với sự gia tăng của cầu thị trường và khi đó cũng nảy sinh hiện
tượng lạm phát.

3. Tác động của lạm phát

Đặng Chí Thọ _ Khái lược bài soạn giảng 16


Tác động kinh tế xã hội của lạm phát là rất khác nhau tuỳ thuộc vào mức độ
lạm phát và khả năng dự đoán chính xác biến động của mức lạm phát. Nhìn
chung, lạm phát vừa phải có thể đem lại điểm thuận lợi bên cạnh những bất
lợi không đáng kể cho nền kinh tế xã hội; còn lạm phát cao thường gây ra
nhiều tác hại cho kinh tế, xã hội. Các đợt lạm phát nếu dự tính và tính toán
được từ trước thi nó không gây nên gánh nặng kinh tế lớn vì người ta có thể
đưa ra những giải pháp để thích nghi với nó; còn lạm phát không dự đoán
được trước sẽ dần tới các quyết định đầu tư sai lầm và phân phối lại một cách
ngẫu nhiên làm mất ổn định môi trường kinh tế xã hội.

3.1 Tác động phân phối lại thu nhập và của cải

Phát sinh từ những điểm khác biệt của các loại tài sản và nợ nần của nhân
dân. Khi xảy ra lạm phát, những người có tài sản sẽ được lợi do giá các loại tài
sản đã phần đều tăng lên còn người đi vay cũng hưởng lợi do giá trị đồng tiền
giảm xuống. Để tránh thiệt hại và đồng thời tránh gây ảnh hưởng đến đầu tư,
tiết kiệm (và cuối cùng là ảnh hưởng tới tốc độ tăng trưởng), nhiều nước đã
áp dụng phương pháp chỉ số hoá và điều chỉnh lãi suất phù hợp và hợp lý với
tình hình lạm phát.
Tình trạng này cũng rất dễ gây ra sự khủng hoảng củ hệ thống tín dụng.

3.2 Tác động trong lĩnh vực lưu thông buôn bán
Giá cả hàng hoá tăng dẫn đến tình trạng tích đầu cơ tích trữ hàng hoá,
gây hỗn loạn quan hệ cung cầu, tạo sự mất cân đối giả tạo làm cho lĩnh
vực lưu thông cũng bị rối loạn.
Lạm phát cao tác động đến cán cân thanh toán quốc tế. Khi mà tỷ lệ lạm
phát của quốc gia cao hơn tỷ lệ lạm phát của nước bạn hàng thì hàng xuất
khẩu trở nen kém hấp dẫn do giá tăng, còn hàng nhập khẩu từ ngoài vào
lại hấp dẫn vì giá trở nên rẻ. Điều này làm xấu đi tình trạng cán cân vãng
lai, gây áp lực đối với tỷ giá,…

3.3 Tác động tới tỷ lệ thất nghiệp


Giữa lạm phát và thất nghiệp có mối tương quan tỷ lệ nghịch. A.Phillips đã
đưa ra “thuyết trao đổi về lạm phát”. Đối phó với lạm phát nếu Chính phủ
chọn giảm lạm phát bằng các chính sách thay đổi về phía cung thì sẽ
không có sự đánh đổi, nghĩa là sự giảm lạm phát sẽ kèm theo sự gia tăng
số lượng và việc làm, nhưng những chính sách này rất khó thực hiện. Phần
lớn các chính phủ đều giảm lạm phát theo hướng cắt giảm tổng cầu và vì
thế sẽ làm cho thất nghiệp tăng lên và ngược lại khi thực hiện chính sách
mở rộng tổng cầu để thúc đẩy sản lượng tăng lên nhằm giảm thất nghiệp
thì phải chấp nhận 1 tỷ lệ lạm phát cao hơn. Mối quan hệ đó được thể hiện
bằng đường cong Philips áp dụng cho ngắn hạn bởi vì nó chỉ đúng trong
ngắn hạn.

Lạm
phát

Đặng Chí Thọ _ Khái lược bài soạn giảng 17


Thất nghiệp

Đường cong Phillips

Trong dài hạn, khi nghiên cứu thực tế của nền kinh tế, người ta nhận thấy
rằng, có thời kỳ thất nghiệp ở mức cao nhưng lạm phát vẫn không giảm.
Thực tế là giá cả và tiền lương không được hình thành trên thị trường cạnh
tranh, mà chúng được quyết định bởi các nhân tố kinh tế khác như doanh
nghiệp và công đoàn. Ở bất kỳ thời kỳ nào, một số khu vực phát triển
trong khi vẫn có những khu vực bị trì trệ. Ở khu vực phát triển thì giá cả
và tiền lương tăng, còn ở khu vực bị trì trệ thì giá cả và tiền lương tương
đối ổn định. Như vậy, tính trung bình, giá cả vẫn tăng khi có sự trì trệ vừa
phải. Trong dài hạn, không có mối quan hệ trao đổi nào của lạm phát và
thất nghiệp.

3.4 Tác động tới hoạt động sản xuất kinh doanh và cơ cấu ngành sản xuất
Do lạm phát, giá cả hàng hoá,nguyên liệu tăng làm cho việc sản xuất kinh
doanh và kết quả cuối cùng ngày càng giảm sút và không chính xác, dẫn đến
sự phát triển không đồng đều, mất cân đối giữa các ngành (ngành có chu kỳ
sản xuất kinh doanh dài ngày càng bị thua lỗ nặng nề, trong khi ngành có
chu kỳ sản xuất kinh doanh ngắn thì có thể trụ được nhưng vẫn gặp không ít
khó khăn.

3.5 Tác động tới lĩnh vực tài chính Nhà nước
Tuy lúc đầu lạm phát mang lại thu nhập chi NSNN qua cơ chế phân phối
lại thu nhập và kể cả qua cơ chế phát hành. Nhưng ảnh hưởng nặng nề và
lâu dài của lạm phát lại làm giảm nguồn thu của ngân sách, chủ yếu là
thuế do sản xuất bị sút kém, nhiều doanh nghiệp, công ty bị phá sản, giải
thể,…. Trật tự an toàn xã hội bị phá hoại nặng nề.

4. Các biện pháp kiềm chế lạm phát

Các biện pháp kiềm chế lạm phát rất đa dạng, tuỳ thuộc vào điều kiện của
từng quốc gia mà chọn biện pháp khác nhau. Có thể chia các biện pháp
kiềm chế lạm phát thành hai loại: nhóm những biện pháp cấp bách và
nhóm những biện pháp chiến lược.

4.1 Các biện pháp cấp bách (tình thế)

Mục đích áp dung là nhằm giảm tức thời cơn lạm phát để qua đó tạo cơ sở
cho việc áp dụng các biện pháp ổn định lâu dài.

Đặng Chí Thọ _ Khái lược bài soạn giảng 18


a/ Biện pháp về chính sách tài khoá

Trong một số trường hợp lạm phát do nguyên nhân thâm hụt NSNN kéo
dài. Do đó nếu giải quyết được đầu mối liên quan đến tổng cầu này này sẽ
kiềm toả được lạm phát đang phi mã hoặc siêu phi mã. Về cơ bản cần
làm:
 Tiết kiệm triệt để trong chi tiêu NSNN, cắt giảm những khoản chi
chưa cấp bách.
 Tăng thuế trực thu đánh và cá nhân, doanh nghiệp có thu nhập cao
và chống thất thu thuế.
 Sử dụng tín dung Nhà nước thông qua vay nợ trong nước và nước
ngoài.

b/ Biện pháp thắt chặt tiền tệ


Nhằm giảm lượng tiền thừa trong lưu thông, cụ thể:
 Đóng băng tiền tệ (ngừng phát hành tiền lưu thông) thông qua việc
NHTW tạm ngừng thực hiện tái chiết khấu, tái cấp vốn, cho vay theo
hồ sơ tín dụng,… đối với các tổ chức tín dụng. Bội chi NSNN cũng
không sử dụng vốn phát hành để khắc phục.

 Nâng lãi suất tín dụng, tác động của nó là thu hút tiền mặt của dân
cư và doanh nghiệp chạy về ngân hàng.Tuy nhiện sử dụng biện
pháp này cần sự hỗ trợ của NHTW và NSNN

 Kiểm soát khả năng “tạo tiền”của các NHTM qua tăng tỷ lệ dự trữ
bắt buộc.

c/ Biện pháp kiềm chế giá cả

 Nới lỏng thuế quan, khuyến khích tự do mậu dịch, nhập hàng nước
ngoài về để bổ sung lượng hàng còn thiếu ở trong nước, tạo sự cân
đối cung cầu.

 Bán vàng, ngoại tệ nhằm hút tiền mặt trong lưu thông. Ổn định dần
giá vàng và tỷ giá hối đoái nhằm tạo tâm lý ổn định giá cả của các
mặt hàng khác.

 Quản lý chặt chẽ thị trường, chống đầu cơ tích trữ.

d/ Biện pháo đóng băng lương và giá

Để thực hiện được chính sách này cần có sự hậu thuẫn của bên lãnh tụ
công đoàn về vấn đề đóng băng lương (do tăng lương không thực sự giúp
ích cho những người có mức lương cố định vì nếu lương tăng giá cả cũng
tăng theo). Đồng htời đại diện giới chủ doanh nghiệp cũng cần phải cam
kết đóng băng giá. Phần mình, Nhà nước cam kết sẽ cố gắng giữ cho các

Đặng Chí Thọ _ Khái lược bài soạn giảng 19


yếu tố khác không trở nên xấu hơn ví dụ như không để thiếu hụt thêm
NSNN,…

e/ Biện pháp cải cách tiền tệ


Biện pháp này thực hiện ở tình thế bắt buộc khi lạm phát đã ở mức cao
mà việc vận dụng các biện pháp khác đã không mang lại kết quả mong
muốn. Nhà nước sẽ tiến hành huỷ tiền hoặc thu hồi tiền cũ để phát hành
tiền mới hòng thiết lập lại một trật tự mới trong lưu thông tiền tệ.

4.2 Các biện pháp chiến lược

Các biện pháp chiến lược tác động đồng bộ, lâu dài lên mọi mặt hoạt động
của nền kinh tế với mục tiêu nhằm tạo ra sức mạnh về tiền lực kinh tế
quốc gia, xác lập cơ sở ổn định tiền tệv vững chắc.
Trong thực tế thường áp dụng các biện pháp sau đây:

a/ Xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội đúng đắn

 Xuất phát từ nguyên lý lưu thông hàng hoá là tiền đề của lưu thông
tiền tệ nên để có tiền đề vững chắc nhằm ổn định lưu thông tiền tệ
cần có quỹ hàng hoá được tạo ra với số lượng lớn , chất lượng cao,
phong phú về chủng loại,…Một nước kinh tế thị trường phát triển là
nước có đồng tiền mạnh và đồng tiền ấy là những ngoại tệ tự do
chuyển đổi của thế giới, do vậy cần nhuần nhuyễn giữa kế hoạch và
thị trường trong cả ngắn hạn và dài hạn.
 Bên cạnh đó cần chú trọng tới việc huy động tốt và tối đa hoá các
nguồn lực để phát triển kinh tế thông qua việc xây dựng và thực
hiện chiến lược phát triển kinh tế hợp lý trong đó chú trọng tới xây
cơ cấu kinh tế hài hoà, hợp lý và căn cứ vào hoàn cảnh riêng có của
quốc gia để xây dựng nên ngành mũi nhọn mang tính độc quyền tạo
nguồn thu ngoại tệ cho quốc gia.

b/ Soát xét thường xuyên chính sách thu chi của Nhà nước đồng thời cắt
giảm biên chế, kiện toàn bộ máy hành chính

NSNN cần đảm bảo tính hiệu quả và tiết kiệm. Cần quản lý chặt chẽ
nguồn thu, tăng thu từ thuế chủ yếu dựa trên cơ sở mở rộng và nuôi
dưỡng nguồn thu, chống thất thu có hiệu quả. Các khoản chi ngân sách
xem xét và sử dụng theo hướng thiết thực, hợp lý và tiết kiệm.

c/ Thực hiện chiến lược thị trường cạnh tranh hoàn hảo

Cạnh tranh hoàn hảo sẽ tránh được độc quyền đẩy giá lên. Mặt khác cạnh
tranh sẽ thúc đẩy cải tiến kỹ thuật, tiết kiệm chi phí sản xuất góp phần
làm cho giá cả hàng hóa hạ xuống.

d/ Dùng lạm phát để chống lạm phát

Đặng Chí Thọ _ Khái lược bài soạn giảng 20


Với những quốc gia còn tiềm năng về lao động, đất đai, tài nguyên,… vẫn
còn chưa khai thác được hết vì thiếu vốn. Nhà nước có thể tăng chỉ số
phát hành để rồi mạnh dạn đầu tư và hy vọng các công trình đấy mang lại
hiệu quả góp phần kiền chế lạm phát. Điều kiện áp dụng biện pháp này là
phải có một tiềm lực mạnh về các yếu tố sản xuất, trình độ khoa học kỹ
thuật tiên tiến, trình độ quản lý kinh tế cao thì mới thành công được.

Đặng Chí Thọ _ Khái lược bài soạn giảng 21

You might also like