You are on page 1of 8

KỶ NIỆM 100 NĂM NGÀY MẤT CỦA LEV TOLSTOI

TOLSTOI BÀN VỀ KHOA HỌC

CHU HẢO

Lev Tolstoi (1828-1910) đã mất cách đây đúng một trăm năm. Một thế kỷ
đã trôi qua mà di sản tinh thần – tư tưởng của ông tưởng chừng như vẫn chưa
được phát lộ hết; và “loài người còn phải lớn lên hơn nữa để thực sự hiểu
được Tolstoi”, như lời khẳng định của Guseinov-một triết gia Nga đương đại.
Quan điểm của Tolstoi về khoa học, về công việc nghiên cứu khoa học, về
người làm khoa học và ý nghĩa của khoa học đối với tiến bộ xã hội... rất đặc
biệt, sâu sắc, nhưng có phần cực đoan và xa lạ với những người đương thời.
Ngày nay nhìn lại chúng ta không khỏi ngạc nhiên nhận ra rằng những quan
ngại của ông về những vấn đề nêu trên vẫn còn nguyên giá trị.
Nhưng Tolstoi đã phê phán nền khoa học nào?
Có thể nói cuộc đời sáng tạo của Tolstoi nằm trọn vẹn trong nửa cuối thế
kỷ 19, vào lúc Khoa học cổ điển1 như một sản phẩm của nền văn hóa phương
Tây đang ở buổi hoàng kim. Khi nhân loại còn đang ngây ngất trước các thành
tựu to lớn của khoa học và kỹ thuật và coi nó như chiếc chìa khoá vạn năng
mở mọi cánh cửa dẫn đến sự thấu hiểu toàn diện vũ trụ và chế ngự thiên nhiên
để thúc đẩy tiến bộ xã hội ...thì đã có những bộ óc xuất chúng hoài nghi, trong
đó có Lev Tolstoi - người hàng ngày vẫn đi theo luống cày sau con ngựa trắng
trên cánh đồng Nga ở trang trại Yasnaya Polyana.
Như chúng ta đã biết, Khoa học cổ điển được hình thành từ khi các cuộc
tranh luận triết lý về tự nhiên ở các tu viện chuyển sang các trường đại học

1
Khoa học cổ điển gắn liền với hình học Euclide và Cơ học Newton, được phân biệt với Khoa học hiện đại
gắn liền với Thuyết tương đối và Cơ lượng tử.

1
(độc lập với giáo hội) vào cuối thế kỷ 16 đầu thế kỷ 17. Mục tiêu duy nhất của
khoa học thời kỳ ấy là giải thích các quy luật của tự nhiên. Phương pháp
nghiên cứu được thừa nhận như là chuẩn mực của thời ấy là chủ nghĩa duy
nghiệm (Empirisn của Francis Bacon, 1561-1626, gắn liền với quy giản luận-
Reductionism) và chủ nghĩa duy lý (Rationalism của René Descartes, 1596-
1650, gắn liền với diễn dịch luận - Deductivism).
Phái duy nghiệm nhấn mạnh tầm quan trọng của các sự kiện quan sát như
là khởi điểm của mọi tri thức khoa học và các đề xuất lý thuyết (rút thành quy
luật được toán học hóa) là chính đáng chỉ khi nào chúng được suy diễn từ hệ
thống dữ liệu thực nghiệm đầy đủ của hiện tượng được khảo sát.
Phái duy lý chú trọng đến việc xây dựng các hệ thống diễn dịch (deductive
systems) chặt chẽ và không chứa đựng mâu thuẫn nội tại cho lý thuyết giống
như hình học Euclide. Họ cho rằng vật lý của thế kỷ 17 phải mở rộng hệ thống
diễn dịch bằng cách đưa thêm vào những tiêu đề mặc định, như trong hình học
Euclide để có một lý thuyết hoàn chỉnh phù hợp, và giải thích được mọi quan
sát thực nghiệm.
Tiếp thu một cách sáng tạo hai phương pháp nghiên cứu khoa học được coi
là chuẩn mực kể trên, Newton (1643-1727) đã thực hành một phương pháp
nghiên cứu mới mà sau này được gọi là phương pháp diễn dịch – giả thiết
(hypothetico – deductive) để đưa khoa học cổ điển trở thành chuẩn thức
(paradigm) với kiệt tác “Nguyên lý toán học của vật lý” (philosophia Naturalis
Principa Mathematica, 1687). Suốt từ đây cho đến khi chịu sự phê phán của
Tolstoi, khoa học cổ điển trong lĩnh vực tự nhiên đã đạt được những thành tựu
huy hoàng. Mặt phải của “tấm huy chương” này là các tiến bộ kỹ thuật làm
tăng lực lượng sản xuất, tạo ra nguồn của cải vật chất dồi dào. Mặt trái của nó
không phải chỉ giới hạn trong quan hệ sản xuất, làm tồi tệ hơn sự bất công và
tình trạng người bóc lột người, mà điều tai hại hơn là trong lĩnh vực tư duy –
nhận thức luận. Từ sự thực đơn giản trong cơ học Newton là nếu hết trạng thái
2
ban đầu của vật thể (toạ độ và xung lượng chẳng hạn) có thể xác định chắc
chắn trạng thái của các vật thể ở mọi thời điểm sau, Laplace (1749-1827) đã
ngoại suy ra quyết định luận: quá trình tiến hoá của Vũ trụ là tất định vì tương
lai của nó chỉ phụ thuộc vào trạng thái ban đầu luôn luôn được xác định. Hơn
thế nữa người ta còn tin rằng có thể áp dụng được các nguyên lý và phương
pháp nghiên cứu của khoa học tự nhiên sang cả lĩnh vực xã hội và nhân văn.
Ngay đến cả Immauel Kant (1724-1804) cũng tin chắc rằng cơ học
Newton và hình học Eudide là hệ thống vật lý và toán hoàn bị và duy nhất
đúng, thậm chí là chân lý cuối cùng về Tự nhiên. Niềm tin này thống trị tư duy
của hầu hết các học giả, các nhà nghiên cứu cho đến cuối thế kỷ 19. Đấy là lúc
Tolstoi lên tiếng. Ông phẫn nộ vạch trần tín điều thời thượng:
“Dưới từ khoa học người ta hiểu cũng cái mà trước đây được hiểu dưới
từ tôn giáo. Cụ thể là cũng như xưa kia, hết thảy những gì được gọi là tôn
giáo chỉ vì nó được gọi là tôn giáo, đều luôn luôn là chân lý không thể hồ
nghi; thì bây giờ cũng hệt như thế, tất cả những gì được gọi là khoa học chỉ vì
nó được gọi là khoa học, cũng luôn luôn là chân lý không thể hồ nghi”.2
Trước thời Khai sáng tôn giáo là độc tôn, sau thời khai sáng khoa học lên
ngôi. Nhưng dưới con mắt của Tolstoi cái khoa học mà người đương thời đang
tung hô là nguỵ khoa học, chứ không phải khoa học, bởi mục tiêu của nó lầm
lạc, nội dung của nó nhảm nhí, phương pháp của nó sai hỏng và tác hại của nó
là khôn lường.
Trước sự mê tín khổng lồ cho rằng khoa học sẽ khám phá mọi bí ẩn của
thế giới, giải quyết được mọi vấn đề của xã hội loài người để mang lại hạnh
phúc tinh thần và vật chất cho con người, Tolstoi khẳng định:
“Minh triết con người không nằm trong sự nhận thức các sự vật. Có hằng
hà sa số những sự vật mà chúng ta không thể nhận hết. Minh triết không phải
làm sao biết được thật nhiều...” Trước sự bùng nổ các bộ môn khoa học vào
2
Tất cả các trích dẫn lời của Lev Tolstoi đều lấy từ cuốn sách “ Đường sống”, Nxb Tri thức 2010.

3
cuối thế kỷ 19, Tolstoi vẫn thấy thiếu một điều cốt lõi “... Trong tất cả các
khoa học mà con người có thể biết và cần biết chính yếu nhất là khoa học về
việc cần phải sống thế nào để làm thật ít điều ác và làm thật nhiều điều
thiện”. (Ông giải thích rõ “Cái thiện chỉ là cái thiện cho tất cả mọi người,
không có ngoại lệ, nhưng cái ác, nếu nó là cái ác dù chỉ cho một người”).
Theo ông: “Nhân loại cần phải sống. Nhưng muốn sống nó cần phải biết sống
như thế nào?... Chính cái trí thức dậy nhân loại phải sống như thế nào ấy, từ
thời Moses (Do thái – Ai Cập, khoảng 700 năm TCN), Solon (Hy Lạp, 638-
558 TCN), Khổng Tử (551-449 TCN) bao giờ cũng được xem là khoa học,
khoa học đích thực của mọi khoa học. Và chỉ thời đại chúng ta mới cho rằng,
nói chung, khoa học dậy phải sống thế nào không phải là khoa học, mà khoa
học “đích thực” chỉ là khoa học thực nghiệm, bắt đầu từ toán học và kết thúc
là xã hội học”.
Xuất phát từ quan điểm trên đây, vào năm cuối cùng của cuộc đời (1909)
Tolstoi đã tuyên bố dứt khoát:
1 - “Tôi phủ định cái mà giữa chúng ta được gọi là khoa học vì rằng, toàn
bộ những gì được gọi giữa chúng ta bằng cái tên ấy chỉ là một tập hợp ngẫu
nhiên của những tri thức cần thiết, hoặc lý thú, hoặc mua vui cho một số
người ít ỏi đã giải phóng khỏi lao động chân tay cần thiết cho đời sống và đã
chất thứ lao động ấy lên cổ nhân dân – những người phần lớn không có được
tri thức sơ khai cần thiết nhất với họ”
2 – “Tôi phủ định cái trong giới chúng ta gọi là khoa học còn bởi vì,
những tri thức được xem là khoa học trong thế giới chung ta đang được mua
bán như mọi thứ hàng hoá; và vì thế chúng chỉ thích hợp với các giai cấp giàu
có và một ít người trong nhân dân, mà hoặc là có năng lực đặc biệt, nhất là
có bộ nhớ để nghiên cứu những tri thức ấy, hoặc là những ngẫu nhiên đặc
biệt của cuộc đời đã tạo cho họ khả năng lĩnh hội thứ khoa học có lợi theo ý

4
nghĩa thông thường ấy để thoát khỏi môi trường của nhân dân lao động, và
nhờ “khoa học” mà ngồi lên đầu lên cổ họ”.
3 – “Cái chính, tôi phủ định những gì được gọi trong giới chúng ta là
khoa học bởi vì, thứ “khoa học” ấy chẳng những không bao gồm những tri
thức cần thiết nhất của nhân loại về linh hồn, về Thượng Đế và về đức lí, mà
ngược lại, còn cố ý coi thường những tri thức ấy, xuyên tạc chúng hoặc truyền
bá những học thuyết sẽ phải thay thế chúng. Bởi thế, tất cả những gì ở ta
được xem và được gọi là khoa học chẳng những không phải là cái chân thực
hiển nhiên và tốt lành với toàn thể nhân dân, như đám con nhang đệ tử của
“khoa học” vẫn tỉ tê đường mật, mà còn là thứ lừa bịp thô bỉ và tàn độc,
giống như sự lừa bịp của giáo luật nhà thờ của Chúa Trời nơi giáo hội với
mục đích: một mặt, thoả mãn những yêu cầu của óc tưởng tượng của trí não
và thậm chí của thói đa cảm ở những người nhàn rỗi, mặt khác, biện hộ cho
thể chế đời sống phi luân, giả dối hiện nay”.
Cần phải nói thêm rằng, theo Tolstoi nền móng của khoa học đích thực cần
thiết cho nhân loại bao gồm 3 học thuyết chính: “Thứ nhất – học thuyết về cái
tôi tách biệt với cái Toàn thể, tức là học thuyết về linh hồn. Thứ hai – học
thuyết nói về cái toàn thể lên cái gì, nhờ đâu mà cái tôi nhân tính nhận ra
mình là cái tách biệt, tức là học thuyết về Thượng đế. Thứ ba – học thuyết về
cái “tôi” phải có thái độ thế nào với cái Toàn thể mà nó bị tách biệt, tức là
học thuyết về Đạo Đức”.
Ở đây Thượng đế của Tolstoi không phải Đấng Sáng thế tạo ra thế giới
muôn loài, mà là cái Toàn thể bản nguyên và nguồn gốc của tất cả vạn vật.
Ông chiêm nghiệm: “Tôi biết sự sống chân chính của tôi không ở trong thân
xác tôi, mà ở cái bản nguyên tinh thần tách biệt với tất cả mà tôi ý thức được
bằng toàn bộ sinh linh mình và gọi là linh hồn. // Tôi cũng biết bản nguyên
tinh thần ấy, không chỉ ở trong tôi, mà ở tất cả các động vật khác.// Cái bản
nguyên tinh thần ấy bị chia cắt bởi thân thể của các vật sống, tôi còn nhận
5
thức được ở trong chính nó, không liên quan với cái gì, không bị giới hạn bởi
cái gì, và tôi gọi cái tâm thức vô giới hạn của tất cả ấy là Thượng Đế.”
Vì vậy có thể nói khoa học đích thực theo Tolstoi là khoa học hướng tới
con người mà phần cốt lõi của nó là linh hồn (bên cạnh thể xác) và Vũ trụ như
một Toàn thể gồm cả thế giới tự nhiên và xã hội loài người. Quan hệ hài hoà
tốt đẹp giữa Con người và Vũ trụ ấy được duy trì bởi Tôn giáo - Đạo đức, là
thứ Tôn giáo coi “luật yêu thương là luật duy nhất mà Thượng đế đặt ra cho
con người.”
Ngay từ khi Tolstoi còn sống, chuẩn thức (paradigm) của Khoa học cổ
điển (cơ học Newton) đã bộc lộ những khuyết tật nội tại không thể sửa chữa;
một chuẩn thức mới của Khoa học hiện đại đang hình thành với sự xuất hiện
của Thuyết tương đối và Cơ lượng tử. Nhưng ông đã không kịp chứng kiến sự
chuyển biến của tư duy khoa học trong suốt cả một thế kỷ sau đó. Từ Tư duy
cơ giới gắn liền với Quy giản luận và Tất định luận, Khoa học hiện đại đã
chuyển sang Tư duy hệ thống và Tư duy phức hợp trên nền tảng Liên kết tri
thức của tất cả các bộ môn khoa học và Phương pháp tiếp cận phù hợp với
tính đa dạng (diversity) và tính bất định (Uncertainty) của cả tự nhiên và xã
hội loài người.
Thế nhưng thật lạ lùng, bằng trí tuệ trực giác của mình hình như Tolstoi đã
cảm nhận điều đó trước đây hơn một trăm năm. Trong “Bàn về khoa học”
ông viết: “Đã nhiều lần tôi phát biểu quan niệm trên, bằng cách so sánh cái
mà theo tôi có thể và cần phải xem là khoa học với một hình cầu mà trong đó
các bán kính có độ dài bằng nhau và chúng được phân bổ theo khoảng cách
đồng đều như nhau từ bán kính này đến bán kính kia. Với so sánh như thế, tôi
đã nói lên điều này: chỉ khi nào các bán kính và độ dài của chúng được phân
bổ đều nhau, thì mới có thể xác lập được hình cầu, hệt như vậy, chỉ khi nào
các tri thức được phân bố đồng đều với cùng một mức độ hoàn thiện, thì mới
có thể xác định được cái có thể xem là khoa học đích thực; còn nếu như ở
6
phía này thì các bán kính có độ dài lớn, nhưng phía kia lại có độ dài nhỏ,
hoặc không có bán kính, thì sẽ không xác lập được hình cầu, hoặc ý niệm về
hình cầu cũng sẽ biến mất. Cũng hệt như thế trong khoa học, việc đẩy sự hoàn
thiện một phần nhỏ của các tri thức lên mức độ thật cao, nhưng lại coi
thường, không đếm xỉa tới các phần khác, chẳng những không thể giúp xác
lập được cái có thể gọi là khoa học, mà còn tạo ra một sự lắp ghép giả tạo
những sản phẩm ngẫu nhiên của trí tuệ, khiến nhân loại đánh mất ngay cả
bản thân ý niệm về cái có thể và cần được gọi là khoa học”.
Còn trong “Lời tựa cho bài viết của Eduard Carpenter” ông phê phán:
“Quả thật khoa học thực nghiệm đang nghiên cứu tất cả, nhưng không theo
nghĩa là tổng hợp tất cả các đối tượng, mà theo nghĩa lộn xộn, hỗn loạn trong
việc phân bổ các đối tượng nghiên cứu, tức là khoa học không ưu tiên nghiên
cứu những gì ít cần thiết hơn cho loài người, và ít nghiên cứu hơn những gì
cần thiết hơn và tuyệt nhiên không nghiên cứu những gì hoàn toàn không cần
thiết, mà nghiên cứu tất cả các những gì vớ được”.
Lời cảnh báo trên đây của Tolstoi quả không thừa bởi tình trạng của khoa
học của thế giới ngày nay vẫn thế: vẫn rất thiếu mà hết sức thừa; thiếu cái hết
sức cần cho đời sống thực tại của con người, mà thừa cái có thể trực tiếp mang
tai họa cho nhân loại. Nếu không trước hết chú trọng đến việc dạy con người
thành người tử tế, hướng thiện thì thành tựu của khoa học có thể không mang
lại tiến bộ cho xã hội, mà ngược lại mang thảm hoạ cho loài người.
Cũng xuất phát từ quan điểm “duy phúc lợi cho nhân dân” mà Tolstoi đã
chỉ trích không thương tiếc đối với tầng lớp “ngụy khoa học” đương thời.
Trong mắt ông không có sự khác biệt nào về giá trị hữu dụng giữa người lao
động trí óc và người lao động chân tay. Những người nông dân và thợ thủ
công không bao giờ phải chứng minh sự hữu ích của lao động và sản phẩm
của mình. Thế thì tại sao đám “có học” lại cứ phải tìm mọi cách chứng minh
sự hữu ích của mình? Và đây là câu trả lời của Tolstoi:
7
“Tuyệt đại đa số những người tự xưng là những nhà khoa học và nghệ sĩ
biết rất rõ rằng những gì họ làm ra không sứng đáng được người đời sử dụng,
và đấy là nguyên nhân duy nhất vì sao họ lại cố gắng đến thế - tựa như các
linh mục của mọi thời đại – chứng minh cho bằng được rằng hoạt động của
họ là không thể thiếu cho hạnh phúc của nhân loại.
Cái vai trò giả dối hiện nay của khoa học và nghệ thuật trong xã hội của
chúng ta phát sinh từ chỗ những người gọi là “có học” đứng đầu là các nhà
khoa học và nghệ sĩ hợp thành một đẳng cấp đặc quyền đặc lợi, tựa như các
linh mục. Thay vì tôn giáo chân chính có ngụy tôn giáo. Thay vì khoa học
thực thụ - ngụy khoa học”.
Nên chăng chúng ta tự vấn: ở nước Nga 100 năm trước thì như thế, ở nước
ta hiện nay thì sao?

You might also like