Professional Documents
Culture Documents
Hoặc ở các nhà máy nhiệt điện hơi nước sau khi giãn nở ở tuabin rồi được ngưng tụ ở bình
ngưng có áp suất khoảng 0,05 bar với nhiệt độ khoảng 320C), rõ ràng là ta sẽ phải tốn thêm một nhiệt
lượng để gia nhiệt cho nước cấp từ nhiệt độ thấp đến nhiệt độ sôi ứng với áp suất tương ứng.
Ví dụ sau cho thấy hiệu quả của việc gia nhiệt nước cấp trước khi đưa vào lò hơi:
Cho lò hơi hoạt động với hơi bão hòa ở áp suất p = 10 bar, sản lượng hơi D = 10
tấn/giờ. Nhiệt độ nước cấp là 300C. Dùng dầu mazút có thành phần làm việc như sau:
Nhiệt lượng cần thiết để gia nhiệt nước thành hơi bão hòa ở áp suất 10 bar:
Giả sử hiệu suất nhiệt là 100%, ta thấy lượng tiêu hao nhiên liệu là:
Nếu như nước cấp được gia nhiệt đến nhiệt độ sôi, thì nhiệt lượng để sinh hơi bão hòa
là:
Với : entanpi của nước ở áp suất 10 bar ứng với nhiệt độ sôi
Từ đồ thị ta thấy, khi nước được hâm nóng, thì nhiệt lượng cần thiết để cung cấp cho
quá trình sinh hơi sẽ giảm và lượng tiêu hao nhiên liệu cũng giảm, trong trường hợp này ta đã tiết kiệm
được 24,34% nhiên liệu.
Một phần tử khác cần được gia nhiệt trong lò hơi là không khí. Như ta đã biết, không khí đưa
vào buồng lửa để cung cấp oxi cho quá trình cháy. Không khí thường được lấy ở môi trường bên ngoài
có nhiệt độ khoảng 300C, nếu đưa không khí này vào buồng lửa thì sẽ hấp thu một phần nhiệt lượng do
nhiên liệu cháy sinh ra. Do đó việc sấy không khí để tăng thêm nhiệt lượng đưa vào buồng lửa sẽ làm
tăng thêm nhiệt lượng hữu ích để sinh hơi. Giả sử ta dùng dầu để gia nhiệt không khí:
Ở lò phun, nhiệt độ không khí đưa vào buồng lửa khoảng 2500C, nhiệt lượng cần thiết để gia
nhiệt cho không khí là:
Với : thể tích không khí lý thuyết cần thiết để đốt cháy hết nhiên liệu
i1: entanpi của không khí ở 2500C
i2: entanpi của không khí ở 300C
Nếu dùng dầu để gia nhiệt thì ta phải tốn thêm một lượng nhiên liệu:
Ngoài ra, đối với các lò đốt bằng nhiên liệu lỏng mà chủ yếu là dầu nặng (FO) thì việc hâm
nóng dầu trước khi đưa vào buồng lửa là cần thiết vì độ nhớt của dầu ở nhiệt độ thường rất cao gây
khó khăn cho việc dẫn dầu trong các ống cũng như việc phun dầu vào buồng lửa. Thông thường người
ta thường gia nhiệt dầu lên đến khoảng 900C. Trước đây người ta thường dùng bộ gia nhiệt dầu bằng
điện kết hợp với hơi nước. Ví dụ sau cho thấy nhiệt lượng cần thiết để gia nhiệt cho dầu
Nhiệt lượng cần thiết để gia nhiệt dầu:
Với B: lương tiêu hao nhiên liệu (lấy ở ví dụ trên B = 0,189 kg/s)
Cnl: tỷ nhiệt của nhiên liệu
Trong đó:
Từ đó, ta tính được
Từ các ví dụ trên ta thấy nhiệt lượng của khói thải nếu được tận dụng để hâm nước cấp, sấy
không khí, hâm dầu… thì sẽ tiết kiệm được một chi phí rất lớn. Vì lý do đó mà ngày nay người ta
thường lắp đặt các bộ trao đổi nhiệt phía sau lò, ở đường khói thải để gia nhiệt cho nước, không khí
cũng như dầu (thường gọi là bộ hâm nước, bộ sấy không khí và bộ hâm dầu). Tùy thuộc vào từng loại
lò mà có thể có hoặc không có 1 trong 3 phần tử kể trên. Ngoài ra, đối với những lò có công suất lớn
thì nhiệt thải khói có thể lên đến rất cao, tuy đã tận dụng nhưng vẫn còn một nguồn nhiệt lượng khá
lớn, do đó người ta sẽ tìm cách để tận dụng nguồn nhiệt lượng này để đun nước sinh hoạt cho các xí
nghiệp hoặc hộ tiêu dùng hay trong vấn đề về tiết kiệm năng lượng thì dùng nhiệt do khói thải này dể
chạy các máy lạnh hấp thụ.
Theo sơ đồ ta thấy, khi cấp nhiệt cho bình phát sinh thì NH 3 trong hỗn hợp dung dịch gồm NH3
– H2O sẽ bốc hơi (do ở cùng điều kiện áp suất thì NH3 có nhiệt độ bay hơi thấp hơn H 2O). NH3 bay lên
còn nước sẽ đi xuống dưới. Hơi NH3 tiếp tục đi vào bình ngưng và được ngưng tụ thành lỏng nhờ
nước làm mát, sau đó NH3 lỏng đi qua van tiết lưu để giảm áp suất và đi vào bình bốc hơi. Ở đây nó sẽ
nhận nhiệt từ chất cần làm lạnh (ở đây ví dụ là nước) và bốc hơi rồi đi qua bình hấp thụ. Tại bình hấp
thụ, NH3 sẽ được H2O từ bình phát sinh hấp thụ trở lại và hỗn hợp này được bơm về bình phát sinh để
tiếp tục chu trình của nó. Ta thấy về mặt năng lượng (nếu không kể nguồn nhiệt từ khói đã có sẵn) thì
máy lạnh hấp thụ tiêu tốn ít năng lượng hơn nhiều so với máy lạnh có máy nén, vì công cần thiết cho
máy nén để nén 1kg hơi từ áp suất po lên áp suất pk sẽ cao hơn nhiều công để bơm hỗn hợp lỏng từ áp
suất po đến áp suất pk. Do đó, tận dụng nhiệt thải của khói cho máy lạnh hấp thụ không những giúp
giảm tổn thất do khói thải ra ngoài mà còn giúp ta tiết kiệm một phần năng lượng mà lẽ ra phải dùng
khi sử dụng máy lạnh có máy nén hơi.
Cấu tạo
a. Bộ hâm nước:
Bộ hâm nước cũng như một thiết bị trao đổi nhiệt, dùng nhiệt của khói nóng đi bên ngoài
để gia nhiệt cho nước lạnh đi bên trong ống.
Để tăng cường diện tích trao đổi nhiệt, người ta bố trí thêm nhiều ống nối với nhau: “dạng
phẳng” hoặc “không gian”
Để tăng cường hệ số trao đổi nhiệt, người ta làm thêm cánh về phía khói, do khói có hệ số
tỏa nhiệt đối lưu α bé hơn nước
Tuỳ theo mức độ gia nhiệt trong bộ hâm nước mà bộ hâm nước có thể làm việc ở trạng thái
sôi hoặc không sôi. Ở các lò ghi do nhiệt độ không khí nóng không cao nên toàn bộ lượng nhiệt còn lại
thường dùng để gia nhiệt cho bộ hâm nước. Vì vậy bộ hâm nước thường làm việc ở trạng thái sôi.
Cấu tạo của bộ hâm nước thường chia làm 3 loại: ống thép trơn, ống thép có cánh và ống
gang. Do tính chất của gang là chịu va đập kém nên thường dung gang cho những bộ hâm nước không
sôi.
Nước ra
Nước vào
Khuyết điểm của bộ sấy không khí bằng gang là kích thước cồng kềnh và nặng nề.
Bộ sấy không khí kiểu hồi nhiệt: khói đầu tiên đốt nóng kim loại rồi sau đó nhiệt tích tụ ở
kim loại sẽ truyền lại cho không khí. Bộ phận chính là một rôto qua với tốc độ 2 ÷ 5 vòng/phút xung
quanh trục đứng. Trên rôto có gắn các lá thép, những lá thép này trong quá trình rôto quay sẽ lần lượt
khi thì tiếp xúc với khói nóng, khi thì tiếp xúc với không khí lạnh và qua đó “chuyển” nhiệt lượng từ
khói sang không khí. Đường khói và không khí được bố trí ở hai phía cố định và được ngăn bởi vách
ngăn.
Hình ảnh các “khung” và “rotor” của bộ sấy không khí kiểu hồi nhiệt, người ta sẽ lắp vào những
khung này những “lá thép” để tăng diện tích trao đổi nhiệt. Trong quá trình hoạt động, các lá thép bị
bám tro nên sẽ làm giảm hệ số trao đổi nhiệt nên ta dùng nước áp suất cao để rửa sạch.
Thông thường, bộ sấy không khí được lắp sau bộ hâm nước. Hoặc người ta chia bộ hâm nước
và bộ sấy không khí làm hai và đặt chúng xen kẽ. Việc chia cấp như vậy sẽ giảm nhiệt độ khói ở phía
cuối đường ống và như thế cho phép chế tạo bộ sấy không khí (hoặc bộ hâm nước) cấp 2 với kim loại
rẻ tiền hơn.
Ví dụ về việc tận dụng nhiệt do khói thải
Nhiên liệu: dầu mazút có các thành phần làm việc như sau
C = 83% - H = 10,4% - S = 2,8% - O = 0,7% - A = 0,1 % - W = 3%
Thông số hơi: p = 10 bar - D = 10 tấn/giờ
Các tổn thất khác: q3 = 3% - q4 = 0% - q5 = 1% - q6 = 0%
Hệ số không khí thừa: α = 1,2
Khi không tận dụng khói thải:
Giả sử nhiệt độ khói ra khỏi buồng lửa là 11000C, nếu không tận dụng nhiệt thải này thì
Tổn thất nhiệt do khói thải ra ngoài
Q2 = (I1 – Ikkl)(1-q4/100)
Với I1 = IRO2 + IN2 + IH2O + (1 – α)Ikk
= VRO2(Ct1)RO2 + VN2(Ct1)N2 + VH2O(Ct1)H2O + (1 – α)Vkk(Ct1)kk
Ikkl = α.Vkk .ckkl.tkkl
Với nhiệt độ khói thải là 11000C và nhiệt độ không khí lạnh là 300C, ta tính được:
Q2 = (I1 – Ikkl)(1-q4/100) = 21664,002 kJ/kg
Nhiệt lượng đưa vào buồng lửa
Qđv = Qt + Qnl + Qkkn + Qp
Do không có sấy không khí, hâm nóng nhiên liệu cũng như phun hơi nên
Qđv = Qt = 39002,9 kJ/kg
Phần trăm tổn thất do khói thải
Với Q1 = (1 – q2 – q3 – q5)Qđv
ibh: entanpi của hơi nước bão hòa ở áp suất 10 bar
inc: entanpi của nước có nhiệt độ 300C ở áp suất 10 bar
Từ đó ta tính được
B = 0,467 kg/s
Tận dụng nhiệt thải để hâm nước:
Giả sử nước cấp được gia nhiệt đến trạng thái lỏng sôi ở áp suất 10 bar
Kết hợp 2 phương trình ta tính được các giá trị sau:
I2 = 14739,28 kJ/kg B = 0,241 kg/s
Q2 = 14261,3 kJ/kg q2 = 36,56 %
η = 59,44 % qth = 18,79 %
Tận dụng nhiệt thải để sấy không khí
Giả sử không khí được sấy đến nhiệt độ 4000C với nhiệt độ không khí lạnh là 300C
Từ đó ta tính được:
B = 0,158 kg/s qth = 29,83 %
Tận dụng nhiệt thải qua các thiết bị:
Giả sử tận dụng nguồn nhiệt để đun nước dùng trong sinh hoạt, với yêu cầu của khói thải ra
khoảng 2000C, vì nhiệt độ khói thấp hơn nhiệt độ đọng sương sẽ gây ra hiện tượng ăn mòn đường ống.
Ta tính được:
B = 0,139 kg/s qth = 40,58 %
Lượng nước tận dụng nhiệt
Qknr = Qnnv
φB(I4 – I5) = G.cp (tn2–tn1)
Suy ra: G = 2,305 kg/s
Đồ thị cho ta thấy khi tận dụng nhiệt khói thải thì hiệu suất nhiệt của lò hơi tăng lên, tổn
thất nhiệt do khói thải giảm xuống, đồng thời lượng tiêu hao nhiên liệu cũng giảm xuống.
Đồ thị cho biết, phần trăm nhiệt lượng thu hồi được và lượng nhiệt thu hồi được so với nhiệt lượng đưa
vào.
2- Nước xả lò:
Nước cấp cho lò hơi dù được xử lý kỹ những vẫn có thể còn cáu cặn. Trong quá trình
hoạt động, nước trong lò bốc thành hơi để lại cáu cặn, lâu ngày bám dưới đáy lò làm giảm hệ
số truyền nhiệt và gây ra những hư hỏng khác do đó cần xả bỏ những cáu cặn này. Quá trình xả
bỏ cáu đồng thời phải xả luôn nước đang sôi ở áp suất cao trong lò. Lượng nước này có nhiệt
độ cao nên khi thải bỏ đi sẽ gây ra tổn thất.
Ví dụ: Lò hơi hoạt động với thong số p = 10 bar, D = 10 tấn/giờ, lượng nước xả lò D x =
300 kg/giờ
Nhiệt năng do nước xả = Dx . i’ = 63,56 kW
Trong đó i’ là entanpi của nước ở trạng thái lỏng sôi ứng với áp suất 10 bar
Tuy nhiên, do chứa cáu nên lượng nước này không dùng lại được mà phải có cách thu
hồi nhiệt của nó.
Một đặc điểm nữa của lượng nước này là: do đang ở áp suất cao, nên khi xả nước vào
môi trường áp suất thấp sẽ làm bốc hơi một phần nước, hơi này có nhiệt độ cao khi bay ra gây
nguy hiểm. Do đó, cần có biện pháp cách ly lượng hơi này với môi trường bên ngoài. Bên cạnh
đó, lượng hơi này cụng có nhiệt lượng đáng kể nên cũng cần có biện pháp thu hồi lại nguồn
nhiệt thải này.
Lượng nước xả lò hóa hơi (Flash steam) được tính qua phương trình cân bằng nhiệt sau
(giả sử như nước được xả vào môi trường có áp suất 1,2 bar):
i’10.Dx = x.Dx.i’’1,2 + (1 – x)Dx.i’1,2
Trong đó:
i’10 là entanpi của nước ở trạng thái lỏng sôi ứng với áp suất 10 bar
i’’1,2 là entanpi của hơi bão hòa ở áp suất 1,2 bar
i’1,2 là entanpi của nước ở trạng thái lỏng sôi ứng với áp suất 1,2 bar
x là tỷ lệ nước hóa hơi
Từ đó, ta tính được x = 14,41%
Nhiệt năng của lượng hơi này = x . Dx . i’’ = 32,22 kW
Từ đồ thị ta thấy, lượng hơi tuy chiếm tỷ lệ nhỏ nhưng nhiệt lượng của nó lại chiếm một
tỷ lệ khá lớn.
Để có thể tách được hơi ra khỏi nước xả lò, người ta dùng bình phân ly
Nước xả lò (blowdown) sau khi ra khỏi lò hơi được đưa vào bình phân ly. Áp suất bình
phân ly vào khoảng 1,2 bar, tại đây xảy ra sự bốc hơi một phần của nước. Nước xả lò đi xuống theo
hình xoắn ốc đồng thời hơi nước bốc lên bay ra khỏi bình phân ly, nước xả ngưng đi theo đường ống
phía dưới. Hơi bốc lên là hơi sạch nên lượng hơi này được đưa trở lại bồn chứa nước cấp và gia nhiệt
cho nước cấp và ngưng tụ lại thành lỏng. Quá trình này xảy ra trong bình hồi nhiệt.
Như vậy, ta đã tận dụng được nguồn nhiệt của hơi nước phân ly. Còn lượng nước xả
ngưng từ bình phân ly sẽ được thải bỏ??? Như ở ví dụ trên, lượng nhiệt do nước xả ngưng dư chiếm
khoảng 50% nhiệt lượng nước xả lò, vì vậy nên tìm cách để tận dụng lại nguồn nhiệt này.
Như đã nói, lượng nước xả ngưng này chứa cáu cặn nên không thể sử dụng lại mà ta sẽ
cho nó đi qua một thiết bị trao đổi nhiệt để gia nhiệt cho nước cấp. Ngoài ra, việc nhả nhiệt cho nước
cấp sẽ làm cho nhiệt độ của nước xả ngưng giảm xuống và như thế việc xả bỏ nó ra ngoài sẽ an toàn
hơn
3- Nước ngưng:
Nước ngưng là hơi nước ngưng tụ sau khi qua các thiết bị công nghiệp hoặc ở bình ngưng
trong nhà máy nhiệt điện. Hơi nước ngưng tụ từ các thiết bị công nghiệp thường có nhiệt độ cao (ứng
với nhiệt độ sôi ở áp suất tương ứng)
Lượng nước ngưng này hoặc được đưa trở lại lò hơi để tiếp tục sinh hơi, hoặc tiếp tục qua các
bộ trao đổi nhiệt để tận dụng nhiệt lượng của nó. Điều này sẽ làm giảm nhiệt độ nước cấp cho lò hơi
nhưng như đã trình bày ở trên, ta hoàn toàn có thế dùng khói để gia nhiệt lại cho nước cấp. Do đó, tùy
thuộc vào điều kiện cụ thể mà nên có những phương pháp thích hợp.
Ngược lại, nước ngưng từ bình ngưng ở nhà máy nhiệt điện có nhiệt độ khá thấp (320C ứng với
áp suất ngưng tụ 0,05 bar). Do đó, lượng nước ngưng này khó có thể tận dụng được nhưng nhiệt lượng
của nó là đáng kể. Vì vậy hiện nay người ta kết hợp cả chu trình cấp điện và cấp nhiệt, khi đó hơi nước
sẽ giãn nở xuống áp suất cao hơn áp suất khí quyển, do đó nhiệt độ nước ngưng cũng sẽ cao hơn và
được dùng để cung cấp cho hộ sinh hoạt hoặc thiết bị công nghiệp.
Một loại nước ngưng khác là nước ngưng từ các ống dẫn hơi. Các ống tuy được bọc cách nhiệt
cẩn thận nhưng cũng sẽ có một lượng tổn thất nhất định ra môi trường xung quanh. Chính lượng tổn
thất này làm ngưng tụ một phần hơi nước và lượng nước ngưng này cần được lấy ra vì những lý do an
toàn. Về mặt cơ bản, việc lấy nước ngưng từ ống dẫn hơi cũng như việc xả lò đã trình bày ở trên do
nước ngưng trong ống cũng có nhiệt độ và áp suất cao. Như vậy, nước ngưng từ các cốc ngưng sẽ
được đưa vào bình phân ly và tận dụng nhiệt.
4- Xỉ
Ở các lò đốt than bột còn có một nguồn nhiệt thải đáng kể là xỉ. Theo nghiên cứu, xỉ lò là một
nguồn nguyên liệu rất tốt có thể thay thế cho một phần xi măng, do đó hiện nay người ta thường có xu
hướng tận thu xỉ lò để dùng trong xây dựng.
Xỉ bao gồm hai loại: xỉ khô và xỉ lỏng.
Với xỉ khô, nhiệt độ xỉ thải ra không cao nên tổn thất nhiệt hầu như không đáng kể, người ta có
thể vận chuyển trực tiếp chúng đến bãi chứa rồi đến các công trình xây dựng.
Đối với xỉ lỏng, ngoài nhiệt độ khá cao nên tổn thất nhiệt do xỉ lỏng thải ra là đáng kể, vấn đề
quan trọng là kết hạt xỉ để có thể tận thu nó. Trước đây người ta thường sử dụng phương pháp kết hạt
ướt: xỉ thải ra được cho vào máng dẫn nước, khi vào môi trường có nhiệt độ thấp lập tức xỉ sẽ bị rạn vỡ
và kết thành các hạt nhỏ. Sau đó người ta đưa cả nước và xỉ đến bãi chứa, để cho nước bốc hơi và thu
được xỉ hạt.
Dưới đây là hình ảnh thực tế của một đĩa kim loại với các hạt xỉ bắn ra nhờ lực ly tâm.
Kết hạt bằng trống quay