You are on page 1of 23

Chương II: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ

VẤN ĐỀ DÂN TỘC VÀ CÁCH MẠNG GIẢI


PHÓNG DÂN TỘC.
I. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC
1.Vấn đề dân tộc thuộc địa
a) Thực chất của vấn đề dân tộc thuộc địa.
_ Đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, giải phóng dân tộc.
Dân tộc là một vấn đề rộng lớn. C.Mác, Ph.Ăngghen không đi sâu giải quyết
vấn đề dân tộc, vì thời đó ở Tây Âu vấn đề dân tộc đã được giải quyết trong cách
mạng tư sản; hơn nữa, các ông chưa có điều kiện nghiên cứu sâu về vấn đề dân tộc
thuộc địa.

Quan điểm của chủ nghĩa Mác: Dân tộc là sản phẩm của lịch sử. Mác –
Ăngghen đã đặt nền tảnglý luận cho việc giải quyết vấn đề dân tộc 1 cách khoa
học. Lênin đã phát triển quan điểm về vấn đề dân tộc thành hệ thống lý luận toàn
diện và sâu sắc.

Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản chuyển từ giai đoạn tự do
cạnh tranh sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Các nước đế quốc thi hành chính
sách vũ trang xâm lược cướp bóc, nô dịch các dân tộc nhỏ yếu, vấn đề dân tộc trở
nên gay gắt. Từ đó, xuất hiện vấn đề dân tộc thuộc địa.

Trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, cách mạng giải phóng dân tộc trở thành
một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới, V.I. Lênin có cơ sở thực tiễn để phát
triển vấn đề dân tộc thuộc địa thành một hệ thống lý luận. Tuy cả C. Mác, Ph.
Ăngghen và V.I. Lênin đã nêu lên những quan điểm cơ bản về mối quan hệ biện
chứng giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp, tạo cơ sở lý luận và phương pháp
luận cho việc xác định chiến lược, sách lược của các Đảng Cộng sản về vấn đề dân
tộc và thuộc địa, nhưng từ thực tiễn cách mạng vô sản ở châu Âu, các ông vẫn tập
trung nhiều hơn vào vấn đề giai cấp. Điều kiện những năm đầu thế kỷ XX trở đi
đặt ra yêu cầu cần vận dụng và phát triển sáng tạo lý luận Mác - Lênin cho phù hợp
với thực tiễn ở các nước thuộc địa; chính Hồ Chí Minh là người đã đáp ứng yêu
cầu đó.
Là người dân một nước thuộc địa, Hồ Chí Minh đã sớm nhận thức về vấn đề
dân tộc. Hồ Chí Minh không bàn về vấn đề dân tộc nói chung. Người đã tiếp thu
truyền thống yêu nước của dân tộc, nung nấu ý thức giải phóng dân tộc.
Xuất phát từ nhu cầu khách quan của dân tộc Việt Nam, đặc điểm của thời
đại, Người dành sự quan tâm đến các thuộc địa, vạch ra thực chất của vấn đề dân
tộc ở thuộc địa là “ vấn đề đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, xóa bỏ ách thống
trị, áp bức, bóc lột của nước ngoài , giải phóng dân tộc , thực hiện quyền dân tộc tự
quyết, thành lập Nhà nước dân tộc độc lập”.
Hồ Chí Minh phê phán những quan điểm lệch lạc về vấn đề thuộc địa. Thuộc
địa không phải như nhiều người vẫn tưởng rằng, nó “ chẳng qua chỉ là một xứ dưới
đầy cát và trên là mặt trời, vài cây dừa xanh với mấy người khác màu da”. Người
dân thuộc địa không phải cứ “mãi mãi bị dùng đồ để tế cái ông thần tư bản, rằng
bầy người đó không sống nữa, không suy nghĩ nữa và là vô dụng trong việc cải tạo
xã hội”. Ngược lại, “ người Đông Dương không thể chết, người Đông Dương vẫn
sống, sống mãi mãi”, Đằng sau sự phục tùng tiêu cực, người Đông Dương giấu
một cái gì đang sục sôi, đang gào thét và sẽ bùng nổ một cách ghê gớm, khi thời cơ
đến”.
Các tác phẩm chống chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân, Nguyễn Ái Quốc
thường viết bằng tiếng Pháp, và được in bằng tiếng Anh, tiếng Nga, phổ biến khá
rộng trong các phong trào công nhân quốc tế, lưu hành trong các nước thuộc địa và
một số chính quốc. Hồ Chí minh viết nhiều tác phẩm như Tâm địa thực dân , bình
đẳng ,Vực thẳm thuộc địa, Công cuộc khai hóa giết người … Các tác phẩm đó có ý
nghĩa nhiều mặt: Vừa thức tỉnh tinh thần dân tộc trong nhân dân các thuộc địa, vừa
phát triển chủ nghĩa đế quốc vô sản, chống lại các nhà tư tưởng tư sản với chủ
nghĩa cải lương, cơ hội và xét lại; chống lại những bẻ đang ra sức tán dương ,bênh
vực chính sách thực dân, tố cáo chủ nghĩa thực dân vạch trần cái gọi là “khai hóa
văn minh” của chúng .Người viết : “ Để che đậy sự xấu xa của chế độ bóc lột giết
người, chủ nghĩa tư bản thực dân luôn luôn điểm trang cho cái huy chương mục nát
của nó bằng những châm ngôn lý tưởng : Bác ái, Bình đẳng , ..”. “Nếu lối hành
hình theo kiểu Linsơ của những bọn người Mỹ hèn hạ đối với những người da đen
là một hành động vô nhân đạo, thì tôi không còn biết gọi việc những người Châu
Âu đi nhân danh khai hóa mà giết hàng loạt những người dân Châu Phi là cái gì
nữa” .
Sự thật về cái gọi là “khai hóa văn minh”, tự do, bình đẳng và công lý mà
chủ nghĩa thực dân mang lại cho các dân tộc thuộc địa, được Nguyễn Ái Quốc
vạch trần, châm biếm sâu sắc. “Chế độ thực dân, tự bản thân nó, đã là một hành
động bạo lực của kẻ mạnh đối với kẻ yếu rồi. Bạo lực đó đem ra đối xử với trẻ em
và phụ nữ, lại càng bỉ ổi hơn nữa. Thật là một sự mỉa mai đau đớn khi ta thấy rằng
văn minh dưới nhiều hình thức khác nhau như tự do, công lý … được tượng trưng
bằng hình ảnh một người đàn bà dịu hiền và được một người hào hoa phong nhã ra
sức điểm tô – lại đối xử một cách hết sức bỉ ổi với người đàn bà bằng xương bằng
thịt và xúc phạm một cách vô liêm sỉ tới phong hóa, trinh tiết đời sống của họ”.
Với sự giúp đỡ hào hiệp cảu chủ nghĩa thực dân Pháp, ở Đông Dương thật ra là đã
phục hồi chế độ nô lệ. Nô lệ có 3 loại:1)Tù khổ sai,mà chính quyền cai trị đã cho
bọn chủ các nhà máy sử dụng, sau cả một ngày lao động cho bọn tư bản thì tối đến
họ lại trở về các nhà tù có biển đề hứa hươu, hứa vượn “tự do, bình đẳng và bác
ác”. 2) Nông nô,có thể bao gồm tất cả người An Nam từ 18 đến 60 tuổi, hằng năm
buộc phải đi phu một số ngày nhất định. Song , số lượng những ngày đó chỉ là qui
định ước chừng , còn trên thực tế hầu như không có hạn định. Một phần lớn dân cư
đã bị huy động vào việc làm đường,đào kênh và không có bất kỳ một thứ công xá
nào hết. Số người dân bản xứ chết vì những công việc ấy thật nhiều. 3) Nô lệ ,đúng
theo nghĩa của từ đó, họ bị bán và bị mua. Trong việc mua bán này ,chính quyền
thực dan đã trở thành bọ chủ kinh doanh. Giống như thời chiến tranh,chính quyền
thực dân đã tuyển dân bản xứ làm lính tình nguyện, thì bây giờ chúng lại mộ công
nhân- tình nguyện đi các thuộc địa Pháp khác, chủ yếu cho các đảo ở Thái Bình
Dương. Những người Việt Nam này đến đó bị bán cho bọn chủ đồn điền và chủ
nhà máy người châu Âu. Trong những bài có tiêu đề Đông Dương và nhiều bài
khác, Người lên án mạnh mẽ chế độ cai trị hà khắc, sự bóc lột tàn bạo của thực dân
Pháp ở Đông Dương trên các lĩnh vực kinh tế , chính trị , văn hóa, giáo dục.
Nguyễn Ái Quốc đã phân tích rõ thêm mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản với giai cấp
vô sản ở chính quốc, mâu thuẫn giữa các nước đế quốc và các dân tộc thuộc địa.
Đồng thời chỉ ra những thủ đoạn mới nhất, nguy hiểm nhất của chủ nghĩa đế quốc
đối với các dân tộc thuộc địa và cả giai cấp vô sản ở chính quốc. Chỉ rõ âm mưu
thâm độc của chủ nghĩa tư bản trong việc chia rẽ, gây thù hằn chẳng những giữa
các dân tộc mà cả giữa giai cấp vô sản ở các nước với nhau. Người viết: “ ngày nay
chủ , chủ nghĩa đế quốc đã tiến tới trình độ hoàn bị, gần như khoa học. Nó dùng
người vô sản da trắng để chinh phục những người vô sản ở các thuộc địa. Sau đó
nó lại tiếng những người vô sản ở một nước thuộc địa này đi đánh những người vô
sản ở nước thuộc địa khác. Sau hết, nó dựa vào những người vô sản ở thuộc địa
thống trị những người vô sản da trắng”.
Nếu như C.Mác bàn nhiều về cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư
bản.V.I.Lênin bàn nhiều về cuộc đáu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, thì Hồ Chí
Minh tập trung bàn về cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân. Hồ Chí Minh tiếp
tục làm rõ thêm tính tất yếu phải diệt vong của chủ nghĩa thực dân và chủ nghĩa tư
bản. Nó đã sản sinh ra những lực lượng vật chất có khả năng thủ tiêu chính bản
thân nó. Tức là , nó đã tạo ra giai cấp công nhân trong lòng các dân tộc thuộc địa
với ý muốn cách mạng không gì ngăn nổi. Vì ý muốn đó nảy sinh từ sự tàn bạo, dã
man của chế độ thjực dân. Nghiên cứu sâu sắc chủ nghĩa tư bản Pháp ở Đông
Dương, năm 1928 , Hồ Chí Minh khẳng định rõ; “việc đã tạo ra một giai cấp vô
sản và dạy cho người việt Nam biết sử dụng súng ống là một bằng cớ chứng tỏ chủ
nghĩa đế quốc tự đào hố chôn mình”. Cho nên ,dù cho bọn đế quốc chủ nghĩa có đề
phòng như thế nào đi nữa, nhưng nạn nghèo khổ và sự bóc lột vẫn cứ thúc đẩy
người dân Đông Dương làm cách mạng, để đạp đổ ách thống trị của chủ nghĩa đế
quốc Pháp. C.Mác và Lênin bàn nhiều về cuộc đấu tranh giai cấp ở các nước tư
bản chủ nghĩa, thì Hồ Chí Minh bàn nhiều về đấu tranh giải phóng dân tộc ở thuộc
địa.
Đi theo con đường cử Lênin và Cách mạng tháng Mười, Người kiên quyết
đấu tranh với những tư tưởng cơ hội chủ nghĩa trong phong trào cộng sản và công
nhân quốc tế, đánh giá dúng đắng vị trí vai trò của cách mạng giải phóng dân tộc,
trở thành người chiến sĩ tiên phong và anh hùng giải phóng dân tộc trong thời đại
ngày nay.
Vậy tại sao cách mạng giải phóng dân tộc lại có vị trí quan trọng ngang hàng
với cách mạng vô sản ở các chính quốc. Hơn nữa, nó còn có thể nổ ra thắng lợi
trước cách mạng vô sản ở chính quốc và có vai trò tác động, quyết định tới thắng
lợi của cách mạng vô sản ở chính quốc. Theo Người, thực chất vấn đề dân tộc và
thuộc địa quan trọng là ở chỗ các nước đế quốc mà cầm đầu là các tập đoàn tư bản
lũng loạn chính là kẻ thù chung của giai cấp công nhân và nhân dân lao động toàn
thế giới. Hơn nữa, theo Người trong sự nghiệp chung đó, cách mạng giải phóng
dân tộc có vai trò quan trọng, đồng thời là một yêu cầu cấp bách. Bởi vì: “hiện nay
nọc độc và sức sống của con rắn độc tư bản chủ nghĩa đang tập trung ở các thuộc
địa hơn là chính quốc. Các thuộc địa cung cấp nguyên liệu cho các nhà máy, các
thuộc địa cung cấp binh lính cho quân đội của chủ nghĩa đế quốc. Các thuộc địa trở
thành nền tảng của lực lượng phản cách mạng”. Vì thế muốn đánh chết con rắn tư
bản chủ nghĩa đó, không thể đánh bằng đuôi. Mà phải đánh vào nơi tập trung nọc
độc của nó.Tức là phải làm cách mạng giải phóng dân tộc ở các thuộc địa.
Hồ Chí Minh đã phân tích rõ mối quan hệ mật thiết giữa cách mạng vô sản ở
chính quốc với cách mạng giải phóng dân tộc ở các thuộc địa. Tác động ngược lại
của cuộc đấu tranh cách mạng của các dân tộc thuộc địa là nó có khả năng trực tiếp
giúp đỡ giai cấp vô sản và các nước tư bản trong các cuộc đấu tranh chống các giai
cấp thống trị để tự giải phóng khỏi ách nô lệ của chủ nghĩa tư bản. Người khẳng
định rõ: “Cách mạng ở Phương Tây muốn thắng lợi thì nó phải liên hệ chặt chẽ với
phong trào giải phóng chống chủ nghĩa đế quốc ở các nước thuộc địa và các nước
bị nô dịch”. Sự nhất trí giữa hai cuộc cách mạng đó đảm bảo thắng lợi cho các dân
tộc thuộc địa và phụ thuộc và cho cả giai cấp vô sản ở các nước tư bản. Người đã
ví rất hay rằng sự hỗ trợ lẫn nhau giữa hai cuộc cách mạng nói trên như hai cánh
cuae một con chim. Hai cách đó phải cùng vỗ, con chim đại bàng cách mạng vô
sản mới bay lên. Trên các báo chí và các diễn đàn quốc tế, Hồ Chí Minh đã hăng
hái đấu tranh uốn nắn các quan điểm lệch lạc về vấn đề dân tộc thuộc địa,đấu tranh
cho sự đoàn kết giai cấp vô sản tất cả các nước với các dân tộc bị áp bức.
_Lựa chọn con đường phát triển của dân tộc.
Để giải phóng dân tộc, cần xác định một con đường phát triển của dân tộc,
cần xác định một con đường phát triển của dân tộc, vì phương hướng phát triển dân
tộc qui định những yêu cầu và nội dung trước mắt của cuộc đấu tranh giành độc
lập. Mỗi phương hướng phát triển dân tộc quy định những yêu cầu và nội dung
trước mắt của cuộc đấu tranh giành độc lập. Mỗi phương hướng phát triển gắn liền
với một hệ tư tưởng và một giai cấp nhất định.
Từ thực tiễn phong trào cứu nước của ông cha và lịch sử nhân loại, Hồ Chí
Minh khẳng định phương hướng phát triển của dân tộc trong bối cảnh thời đại mới
là chủ nghĩa xã hội.
Hoạch định con đường phát triển của dân tộc thuộc địa là một vấn đề hết sức
mới mẻ. từ một nước thuộc địa đi lên chủ nghĩa xã hội phải trải qua nhiều giai
đoạn chiến lược khác nhau.Trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản
Việt Nam ,Hồ Chí Minh viết : “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách
mạng để đi tới xã hội cộng sản”.Con đường đó kết hợp trong đó cả nội dung dân
tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội;xét về thực chất chính là con đường độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
“Đi tới xã hội cộng sản” là hướng phát triển lâu dài. Nó qui định vai trò
lãnh đạo của Đảng Cộng sản, đoàn kết mọi lực lượng dân tộc,tiến hành các cuộc
cách mạng chống đế quốc và chống phong kiến cho triệt để.
Con đường đó phù hợp với hoàn cảnh lịch sử cụ thể ở thuộc địa.Đó cũng
là nét độc đáo, khác biệt với con đường phát triển của các dân tộc đã phát triển lên
chủ nghĩa tư bản ở phương Tây.
b)Độc lập dân tộc – nội dung cốt lõi của vấn đề dân tộc thuộc địa.
_Cách tiếp cận từ quyền con người
Trong quá trình tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã tìm hiểu và tiếp
nhận những nhân tố về quyền con người trong Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của
Mỹ, Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền năm 1791 của cách mạng Pháp.
Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hoá cho họ những
quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được
sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc.
Lời bất hủ ấy ở trong bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ. Suy rộng
ra, câu ấy có ý nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng,
dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do.
Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791 cũng
nói: Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự
do và bình đẳng về quyền lợi.
Còn công lao, đóng góp và cái mới trong tư tưởng Hồ Chí Minh chính là ở
chỗ: Một là, từ những lẽ phải không ai có thể bác bỏ được về quyền tự do, bình
đẳng, hạnh phúc của con người, suy rộng ra là ; “Tất cả các dân tộc trên thế giới
đều sinh ra bình đẳng , dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và
quyền tự do”(Hồ Chí Minh :toàn tập ,tập 3).Hai là, Người từng chỉ ra rằng chính
cách mạng tư sản Pháp ,mỹ là những cuộc cách mạng chưa triệt để, đó là những
cuộc cách mạng chưa triệt để ,đó là cuộc cách mạng tư sản, đó là “chưa phải cách
mạng đến nơi”.Tiếng là cộng hòa dân chủ, kỳ thực trong thì bóc lột giai cấp công
nhân, ngoài thì nó đi áp bức các thuộc địa. Nó chà đạp lên cả quyền của con người,
quyền lợi của các công nhân, chà đạp lên quyền bình đẳng của các dân tộc, đe dọa
an ninh và hòa bình thế giới. Cho nên chính đế quốc Mỹ đã phản bội lại bản Tuyên
ngôn của nước Mỹ năm 1776. Ba là, sau cách mạng, Người đã vạch rõ rằng: Nếu
độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc tự do ,thì độc lập cũng không có
nghĩa lý gì. “Chủ nghĩa xã hội nghĩa là tất cả mọi người các dân tộc ngày càng ấm
no, con cháu chúng ta ngày càng sung sướng. Muốn được như vậy thì tất cả mọi
người, gái cũng như trai, tất cả mọi dân tộc phải hiểu rằng:…mình là người chủ tập
thể của nước nhà”.Điều đó có nghĩa là quyền bình đẳng dân tộc chỉ có thể thực
hiện được khi dân tộc ta được hoàn toàn độc lập,nhân dân ta được hoàn toàn tự
do,ấm no ,hạnh phúc.Đất nước ta thống nhất có chủ quyền, tiến lên chủ nghĩa xã
hội. Nhân dân lao động tất cả các dân tộc đều có quyền làm chủ xã hội, làm chủ
vận mệnh mình.Từ đó, Người đã khái quát và nâng lên thành quyền của các dân
tộc: "Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có
quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do".

Hồ Chí Minh đã thấu hiểu cảnh sống nô lệ, lầm than, đói rét và tủi nhục của
nhân dân các dân tộc Việt Nam trong thời thực dân, phong kiến. Bởi vậy, một
trong những nhiệm vụ quan trọng có ý nghĩa quyết định của sự nghiệp giải phóng
xã hội, giải phóng con người, theo Hồ Chí Minh là phải xoá bỏ nghèo nàn và lạc
hậu, vươn tới xây dựng cuộc sống ấm no, tự do và hạnh phúc thật sự cho tất cả mọi
người.

Đó là ước nguyện, là ham muốn tột bậc của Hồ Chí Minh và là ước nguyện
mong mỏi bao đời nay của nhân dân các dân tộc Việt Nam. Người nói: “Tôi chỉ có
một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta hoàn toàn độc lập,
dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được
học hành.”

_Nội dung của độc lập dân tộc.

Độc lập, tự do, hoà bình và thống nhất đất nước là khát vọng cháy bỏng của
người dân mất nước, của các dân tộc thuộc địa.Bởi, mất nước là mất tất cả. Sống
trong cảnh nước mất, nhà tan, mọi quyền lực nằm trong tay quân xâm lược và bọn
tay sai thì quyền sống của con người cũng bị đe doạ chứ nói gì đến quyền bình
đẳng, tự do, dân chủ của mọi người. Nếu có, đó chỉ là thứ tự do cướp bóc, bắt bớ,
giết hại và tù đày của quân xâm lược và bọn tay sai. Hồ Chí Minh nói: "Tự do cho
đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn; đấy là tất
cả những điều tôi hiểu".

Năm 1919, vận hành nguyên tắc dân tộc tự quyết thiêng liêng đã được các
nước đồng minh thắng trận trong Chiến tranh thế giới thứ nhất thừa nhận, thay mặt
những người Việt Nam yêu nước, Người gửi tới Hội nghị Vécxây (Pháp) bản Yêu
sách gồm tám điểm, đòi các quyền tự do, dân chủ cho nhân dân Việt Nam. Bản
Yêu sách chưa đề cập vấn đề độc lập hay tự trị, mà tập trung vào hai nội dung cơ
bản:

Một là, đòi quyền bình đẳng về chế độ pháp lý cho người bản xứ Đông
Dương như đối với người châu Âu. Cụ thể là, phải xóa bỏ các tòa án đặc biệt dùng
làm công cụ khủng bố, đàn áp bộ phận trung thực nhất trong nhân dân (tức những
người yêu nước); phải xóa bỏ chế độ cai trị bằng sắc lệnh và thay thế bằng chế độ
ra các đạo luật.

Hai là, đòi các quyền tự do dân chủ tối thiểu cho nhân dân, đó là các quyền tự
do ngôn luận, tự do báo chí, tự do lập hội, tự do hội họp, tự do cư trú...

Bản Yêu sách đó không được bọn đế quốc chấp nhận. Nguyễn ái Quốc kết
luận: Muốn giải phóng dân tộc, không thể bị động trông chờ vào sự giúp đỡ bên
ngoài, mà trước hết phải dựa vào sức mạnh của chính dân tộc mình.

Đầu năm 1930, Hồ Chí Minh soạn thảo Cương lĩnh chính trị đầu tiên của
Đảng,một cương lĩnh giải phóng dân tộc đúng đắn và sáng tạo, mà tư tưởng cốt lõi
là độc lập, tự do cho dân tộc.

Trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, Hồ Chí Minh xác định mục
tiêu: "Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến", "Làm cho nước Nam
được hoàn toàn độc lập".

Tháng 5-1941, Hồ Chí Minh chủ trì Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành
Trung ương Đảng nêu cao vấn đề giải phóng dân tộc, Đảng ta phân tích rõ : Pháp -
Nhật ngày nay không chỉ là kẻ thù của công nông mà là kẻ thù của cả dân tộc.
Trong lúc này khẩu hiệu của Đảng ta, trước hết phải làm sao giải phóng cho được
các dân tộc khỏi ách của Pháp - Nhật. Muốn làm tròn nhiệm vụ ấy, phải tập trung
được tất cả các lực lượng không phân biệt thợ thuyền, dân cày, phú nông,địa chủ,tư
bản dân tộc, ai có lòng yêu nước thương nòi sẽ cùng nhau thống nhất trong một
mặt trận,thu góp toàn lực đem tất cả ra giành quyền độc lập, tự do cho dân tộc Sự
liên minh tất cả các giai cấp, đảng phái ,các dân tộc, tôn giáo chống Pháp_Nhật là
công việc cốt yếu của Đảng ta. Tháng 6-1941, Người viết thư Kính cáo đồng bào,
chỉ rõ: "Trong lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy". Người chỉ
đạo thành lập Việt Nam độc lập đồng minh (Việt Minh), ra báo Việt Nam độc lập,
ban bố Mười chính sách của Việt Minh, trong đó mục tiêu đầu tiên là: "Cờ treo độc
lập, nền xây bình quyền".
Với sự chuẩn bị công phu, chớp đúng thời cơ cách mạng, Đảng ta và Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã lãnh đạo cách mạng tháng Tám thành công. Đế quốc Pháp Nhật bị
đánh đổ. Chế độ quân chủ phong kiến tồn tại ngàn năm bị xóa bỏ. Quốc gia dân tộc
Việt Nam độc lập với nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á xuất hiện.
Ngày 2 tháng 9 năm 1945 tại Quảng Trường Ba Đình, Người thay mặt Chính phủ
lâm thời đọc Tuyên ngôn độc lập. Trích bản tuyên ngôn độc lập: “Toàn dân Việt
Nam, trên dưới một lòng kiên quyết chống lại âm mưu của bọn thực dân Pháp.

Chúng tôi tin rằng các nước Đồng minh đã công nhận những nguyên tắc dân tộc
bình đẳng ở các Hội nghị Têhêrăng và Cựu Kim Sơn, quyết không thể không công
nhận quyền độc lập của dân Việt Nam.

Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc
đã gan góc đứng về phe Đồng Minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải
được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!

Vì những lẽ trên, chúng tôi, chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa, trịnh trọng tuyên bố với thế giới rằng:

Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự
do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng,
tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy.”

Trong các thư và điện văn gửi tới Liên hợp quốc và Chính phủ các nước vào
thời gian sau Cách mạng Tháng Tám, Hồ Chí Minh trịnh trọng tuyên bố: "... Nhân
dân chúng tôi thành thật mong muốn hòa bình. Nhưng nhân dân chúng tôi cũng
kiên quyết chiến đấu đến cùng để bảo vệ những quyền thiêng liêng nhất: toàn vẹn
lãnh thổ cho Tổ quốc và độc lập cho đất nước". Kháng chiến toàn quốc bùng nổ thể
hiện quyết tâm bảo vệ độc lập và chủ quyền dân tộc, Người ra lời kêu gọi vang dội
núi sông: "Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất
nước ,nhất định không chịu làm nô lệ”.

Khi đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh leo thang ra miền Bắc, Hồ Chí Minh
nêu một chân lý có giá trị cho mọi thời đại: “Không có gì quí hơn độc lập , tự
do”.Không có gì quí hơn độc lập, tự do là mục tiêu chiến đấu ,là nguồn sức mạnh
làm nên chiến thắng của dân tộc Việt Nam, đồng thời cũng là nguồn động viên lớn
đối với các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới. Vì vậy, Người không chỉ được tôn
vinh là “Anh hùng giải phóng dân tộc” của Việt Nam mà còn được thừa nhận là : “
Người khởi xướng cuộc đấu tranh giải phóng của các dân tộc thuộc địa trong thế
kỷ XX”.

Như vậy, nội dung của độc lập dân tộc được thể hiện cụ thể như sau:

Thứ nhất, độc lập dân tộc phải là độc lập thực sự, phải bảo đảm cho dân tộc
có quyền dân tộc tự quyết, quyền lựa chịn chế độ chính trị, lựa chọn con đường
phát triển, độc lập cả về chính trị, kinh tế, văn hóa.

Thứ hai, quyền độc lập cũng thể hiện trong quyền tự quyết dân tộc.

Thứ ba, độc lập tự do là quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm.

Thứ tư, độc lập dân tộc phải gắn liền với hòa bình.

Thứ năm, độc lập dân tộc phải đi đến tự do và hạnh phúc của nhân dân. Độc
lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.

c) Chủ nghĩa dân tộc – Một động lực lớn của đất nước
Khi chuyển sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc ,cường quốc tư bản phương
Tây ra sức tiến hành chiến tranh xâm lược thuộc địa, thiết lập ách thống trị của
chủ nghĩa thực dân với những chính sách tàn bạo.
Từ những năm 20 của thế kỷ XX, Nguyễn Ái Quốc đã nhận thấy sự áp
bức,bóc lột của chủ nghĩa đế quốc đối với các dân tộc thuộc địa càng nặng nề,thì
phản ứng của dân tộc bị áp bức càng quyết liệt.Không chỉ quần chúng lao
động(công nông và nông dân),mà cả các giai cấp và tầng lớp trên trong xã hội(tiểu
tư sản,tư sản và địa chủ) đều phải chịu nỗi nhục của người dân mất nước, của một
dân tộc, mất độc lập, tự do.

Cùng với sự kết án chủ nghĩa thực dân và cổ vũ các dân tộc thuộc địa vùng
dậy đấu tranh, Hồ Chí Minh khẳng định: Đối với các dân tộc thuộc địa ở phương
Đông, “chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nước”.Vì thế , “người ta sẽ
không thể làm gì được cho người An Nam nếu không dựa trên các động lực vĩ đại,
và duy nhất của đời sống xã hội của họ”. Theo Hồ Chí Minh, do kinh tế còn lạc
hậu, chưa phát triển, nên sự phân hóa giai cấp ở Đông Dương chưa triệt để, vì thế
cuộc đấu tranh giai cấp không diễn ra giống như ở phương Tây. Các giai cấp vẫn
có sự tương đồng lớn: dù là địa chủ hay nông dân, họ đều chịu chung số phận là
người nô lệ mất nước. Từ sự phân tích đó, Người kiến nghị về Cương lĩnh hành
động của Quốc tế cộng sản là: "Phát động chủ nghĩa dân tộc bản xứ nhân danh
Quốc tế cộng sản... Khi chủ nghĩa dân tộc của họ thắng lợi... nhất định chủ nghĩa
dân tộc ấy sẽ biến thành chủ nghĩa quốc tế".
Hồ Chí Minh thấy rõ sức mạnh của chủ nghĩa dân tộc với tư cách là chủ
nghĩa yêu nướcchân chính của các dân tộc thuộc địa.Đó chính là sức mạnh chiến
đấu và thắng lợi trước bất cứ thế lực ngoại xâm nào.Từ khi chủ nghĩa tư bản chưa
xuất hiện thì tinh thần,ý thức dân tộc Việt Nam đã được hình thành truyền thống
yêu nước của nhân dân ta.Người tin tưởng dân ta có một lòng nồng nàng yêu nước.
Đó là truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay ,mỗi khi Tổ quốc bị xâm
lăng,thì tinh thần ấy lại sôi nổi,nó kết thành một làng sóng vô cùng mạnh mẽ,to
lớn,nó lướt qua mọi sự nguy hiểm khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và
cướp nước.Chủ nghĩa yêu nước này là một trong những nguồn gốc và nền tảng tư
tưởng Hồ Chí Minh.
Theo Hồ Chí Minh , “Chính do tinh thần yêu nước mà quân đội và nhân dân
ta đã mấy năm trường chịu đựng trăm đắng nghìn cay,kiên quyết đánh cho tan bọn
thực dân cướp nước và bọn Biệt gian phản quốc,kiên quyết xây dựng dân cướp
nước Việt Nam độc lập,thống nhất, dân chủ,tự do,phú cường ,một nước Việt Nam
độc lập, thống nhất, dân chủ,tự do, phú cường,một nước Việt Nam dân chủ
mới”.Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ nghĩa dân tộc chân chính “là một bộ phận
của tinh thần quốc tế”, “Khác hẳn với tinh thần “vị quốc” của bọn đế quốc phản
động”

Như vậy, xuất phát từ sự phân tích quan hệ giai cấp trong xã hội thuộc địa, từ
truyền thống dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh đã đánh giá cao sức mạnh của chủ
nghĩa dân tộc mà những người cộng sản phải nắm lấy và phát huy. Người cho đó là
“một chính sách mang tính hiện thực tuyệt vời”. Chủ nghĩa dân tộc bản xứ nhân
danh Quốc tế cộng sản mà Hồ Chí Minh đề cập ở đây là chủ nghĩa dân tộc chân
chính, chứ không phải là chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi.
2.Mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp
a)Vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp có quan hệ chặt chẽ với nhau
Hồ Chí Minh rất coi trọng vấn đề dân tộc, đề cao sức mạnh của chủ nghĩa
yêu nước, nhưng Người luôn đứng trên quan điểm giai cấp để nhận thức và giải
quyết vấn đề dân tộc. Sự kết hợp nhuần nhuyễn vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc
của Hồ Chí Minh thể hiện:khẳng định vai trò lịch sử của giai cấp công nhân và
quyền lãnh đạo duy nhất của Đảng cộng sản trong quá trình cách mạng Việt Nam;
chủ trương đại đoàn kết dân tộc rộng rãi trên nền tảng liên minh công nhân, nông
dân và tầng lớp trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng; sử dụng bạo lực cách mạng
của quần chúng để chống lại bạo lực phản cách mạng của kẻ thù;thiết lập chính
quyền nhà nước của dân, do dân , vì dân; gắn kết mục tiêu độc lập dân tộc với chủ
nghĩa xã hội.
Ngay từ khi gặp Luận Cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin,
Hồ Chí Minh từng bước hình thành đường lối cứu nước, giải phóng dân tộc theo
con đường cách mạng vô sản. Ở Hồ Chí Minh đã có sự gắn bó thống nhất giữa dân
tộc và giai cấp, dân tộc và quốc tế, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Điều này
thể hiện trong các bài viết của Người đầu năm 20 của thế kỷ XX, như bài cuộc
kháng chiến, nêu rõ mối quan hệ chặt chẽ giữa sự nghiệp giải phóng dân tộc với
sự nghiệp giải phóng vô sản. “Chỉ có giải phóng giai cấp vô sản thì mới giải phóng
được dân tộc. Cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa
cộng sản và của cách mạng thế giới”. Trong Chánh cương vắn tắt, Người viết: “
Chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội
cộng sản”.
b)Giải phóng dân tộc là vấn đề trên hết, trước hết;độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội
Thực tiễn xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX.
Dân ta có một lòng nồng nàn. Chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa dân tộc là
động lực lớn của các phong trào giải phóng, tạo thành một sức mạnh vô cùng mạnh
mẽ, to lớn, giúp dân tộc ta vượt mọi nguy hiểm, khó khăn, đánh đuổi tất cả lũ bán
nước và lũ cướp nước.
Đến giữa thế kỷ XIX, thực dân Pháp xâm lược nước ta. Trong lúc triều đình
nhà Nguyễn nhu nhược từng bước đầu hàng quân xâm lược thì nhân dân Việt Nam
đã anh dũng vùng lên kháng chiến tạo thành các phong trào yêu nước mạnh mẽ
khắp cả nước nhưng cuối cùng cũng lần lượt bị đàn áp. Nguyên nhân cơ bản dẫn
đến sự thất bại của các phong trào yêu nước cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX là sự
khủng hoảng và bế tắc về đường lối cứu nước và giai cấp lẫnh đạo. Các phong trào
đó thiếu một hệ tư tưởng dẫn đường. Thực tế cho thấy, độc lập dân tộc luôn là khát
vọng của nhân dân Việt Nam, nhưng nó không thể đi theo con đường phong kiến
hoặc tư sản. Phải tìm một con đường cứu nước mới vừa đáp ứng được đòi hỏi của
dân tộc, vừa phù hợp với xu thế của thời đại mới.
Thực tiễn các cuộc cách mạng điển hình trên thế giới.
Trên hành trình đi tìm đường cứu nước, đáp ứng những đòi hỏi của dân tộc,
Hồ Chí Minh đã đến nhiều nước, nhiên cứu nhiều cuộc cách mạng tiêu biểu trên
thế giới và rút ra những kết luận cực kỳ chính xác và quan trọng như sau:
“ Dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống người
bóc lột và giống người bị bóc lột. MÀ cũng chỉ có một tình hữu ái là thật mà thôi:
tình hữu ái vô sản”.
“ Cách mệnh Pháp cũng như cách mệnh Mỹ nghĩa là cách mệnh tư bản, cách
mệnh không đến nơi… Cách mệnh đã 4 lần rồi mà nay công nông Pháp hãy còn
phải mưu cách mệnh lần nữa mới hòng thoát khỏi vòng áp bức”.
“ Trên thế giới bây giờ chỉ có cách mệnh Nga là đã thành công và thành
công đến nơi…cách mệnh Nga dạy cho chúng ta rằng muốn cách mệnh thành công
thì phải dân chúng ( công nông ) làm gốc, phải có đảng vững bền, phải bền gan,
phải hy sinh, phải thống nhất. Nói tóm lại là phải theo chủ nghĩa Mã Khắc Tư và
Lênin”.
Cơ sở lý luận
Tháng 7 năm 1920, Hồ Chí Minh được đọc bản Sơ thảo thứ nhất những luận
cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin. Luận cương đã khẳng định
đường lối đúng đắn của Quốc tế Cộng sản đối với cách mạng giải phóng dân tộc ở
thuộc địa. Luận cương của Lênin đã giúp Hồ Chí Minh tìm thấy
“ cái cẩm nang thần kỳ cho sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc”.
Đến với chủ nghĩa Mác- Lênin, Hồ Chí Minh đã được vũ trang bằng lý luận
cách mạng không ngừng. Từ năm 1850, Mác và Ăngghen đã viết: khẩu hiệu chiến
đấu của chúng ta phải là cách mạng không ngừng.
Với thắng lợi cảu Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917, Lênin đã phát
triển thêm lý luận cách mạng không ngừng của Mác. Lênin cho rằng phải tiến
hành cách mạng dân tộc dân chủ tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa. Giữa hai giai
đoạn cách mạng đó không có bức tường thành nào ngăn cách.
Từ những cơ sở thực tiễn và lý luận nêu trên, Hồ Chí Minh đã chọn con
đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Người tổng kết; “Về nội dung
viết, mà các cô, các chú gọi là
‘đề tài” thì tất cả nhwũng bài Bác viết chỉ có một “đề tài” là: chống thực dân đế
quốc, chống phong kiến địa chủ, tuyên truyền độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”.
Trên cơ sở những quan điểm cơ bản của Mác-Lenin về mối quan hệ biện
chứng giữa dân tộc với giai cấp, Hồ Chí Minh đã đưa ra những luận điểm mới và
sáng tạo, góp phần bổ sung và phát triển lý luận của chủ nghĩa Mác Lenin.
Theo Người, ở các nước thuộc địa “chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn
của đất nước”. Người phân tích, do kinh tế còn lạc hậu, chưa phát triển nên sự
phân hoá giai cấp ở nước ta và nhiều nước thuộc địa khác chưa triệt để, mâu thuẫn
chưa đến mức đối kháng quyết liệt. Ở những nước thuộc địa như nước ta, mâu
thuẫn giữa dân tộc với chủ nghĩa đế quốc quyết liệt hơn mâu thuẫn giữa giai cấp
nông dân với địa chủ, giữa công nhân với tư sản. Do đó, trong bối cảnh này không
thể giải quyết vấn đề giai cấp rồi mới giải quyết vấn đề dân tộc như ở các nước tư
bản phương Tây được, mà chỉ có thể giải phóng Dân tộc mới giải phóng được giai
cấp, quyền lợi dân tộc, đất nước phải đặt lên trên quyền lợi giai cấp.
Xuất phát từ luận điểm trên, Hồ Chí Minh từng kiến nghị Cương lĩnh hành
động của Quốc tế Cộng sản theo hướng phát động chủ nghĩa dân tộc bản xứ nhân
danh Quốc tế Cộng sản, khi chủ nghĩa dân tộc của họ thắng, nhất định nó sẽ biến
thành chủ nghĩa quốc tế. Nguyễn Ái Quốc đã đánh giá cao sức mạnh của chủ nghĩa
dân tộc với chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc chân chính, coi đó là một động
lực lớn mà những người cộng sản phải nắm lấy và phát huy, không để ngọn cờ dân
tộc rơi vào tay giai cấp nào khác, phải nhận thức và giải quyết vấn đề dân tộc trên
lập trường của giai cấp vô sản, kết hợp chủ nghĩa dân tộc với chủ nghĩa quốc tế.
Thế nhưng đi về đâu và xây dựng một xã hội như thế nào để thực hiện được
ước nguyện đó nhân dân các dân tộc Việt Nam cũng như cho cả nhân loại bị áp
bức, bóc lột? Đó là điều trăn trở, ưu tư không chỉ ở Hồ Chí Minh mà ở tất cả những
người có lương tri, trọng đạo lý, trọng nghĩa tình khác. Sự bắt gặp và điểm tương
đồng trong tư duy giữa Hồ Chí Minh với những người sáng lập ra học thuyết cách
mạng và khoa học của thời đại cũng chính là ở chỗ đó.
Chứng kiến cảnh sống lầm than, khổ cực, bị bóc lột tới thậm tệ của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động ở thuộc địa và chính quốc, chứng kiến cảnh sống
trái ngang của bọn tư sản, thực dân giàu có và gian ác, nên con đường giải phóng
xã hội, giải phóng con người mà cả Hồ Chí Minh và C. Mác, Ph. Ăngghen, V. I.
Lênin đều khẳng định là phải tiến lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, chứ
không phải là đi theo con đường tư bản chủ nghĩa, càng không phải là quay trở lại
chế độ phong kiến.
Đối với Việt Nam, Hồ Chí Minh khẳng định trước sau như một, là chỉ có
chủ nghĩa xã hội mới có đủ cơ sở và điều kiện để thực hiện công cuộc giải phóng
con người một cách triệt để và thiết thực. Tức là thực hiện được đầy đủ các quyền
của con người, trong đó có quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc
của tất cả mọi người.
Trong Thư gửi Ủy ban nhân dân các kì, tỉnh, huyện và làng, ngày 17-10-
1945, Người viết: “ Ngày nay, chúng ta đã xây dựng nên nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa. Nhưng nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc
lập cũng chẳng có nghĩa lí gì”!. Năm 1960, Người nói : “Chỉ có chủ nghĩa xã hội,
chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao
động trên thế giới khỏi ách nô lệ”.
Xuất phát từ hoàn cảnh của Việt Nam, đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước
nông nghiệp nghèo nàn, hậu quả của bọn thực dân, phong kiến để lại rất nặng nề
nên Hồ Chí Minh cho rằng: “Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho nhân dân đủ ăn, đủ
mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy được học hành, ốm đau có thuốc, già không lao
động thì được nghỉ, những phong tục tập quán không tốt dần dần được xoá bỏ…
tóm lại, xã hội ngày càng tiến, vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt, đó
là chủ nghĩa xã hội.
Tư tưởng Hồ Chí Minh vừa phản ánh quy luật khách quan của sự nghiệp
giải phóng dân tộc trong thời đại cách mạng vô sản, vừa phản ánh mối quan hệ
khăng khít giữa mục tiêu giải phóng dân tộc với mục tiêu giải phóng giai cấp và
giải phóng con người.
Xóa bỏ ách áp bức dân tộc mà không xóa bỏ tình trạng bóc lột và áp bức
giai cấp thì nhân dân lao động vẫn chưa được giải phóng. Chỉ có xóa bỏ tận gốc
tình trạng áp bức, bóc lột, chỉ có thiết lập một nhà nước thực sự của dân, do dân, vì
dân mới bảo đảm cho người lao động có quyền làm chủ, mới thực hiện được sự
phát triển hài hòa giữa cá nhân và xã hội, giữa độc lập dân tộc với tự do và hạnh
phúc của con người. Do đó, sau khi giành độc lập, phải tiến lên xây dựng chủ
nghĩa xã hội, làm cho dân giàu, nước mạnh, mọi người đều được sung sướng, tự
do. Sự phát triển đất nước theo con đường chủ nghĩa xã hội là một bảo đảm vững
chắc cho nền độc lập của dân tộc. Hồ Chí Minh nói: "yêu Tổ quốc, yêu nhân dân
phải gắn liền với yêu chủ nghĩa xã hội, vì có tiến lên chủ nghĩa xã hội thì nhân dân
mình mỗi ngày một no ấm thêm, Tổ quốc mỗi ngày một giàu mạnh thêm".

Hồ Chí Minh đưa ra quan điểm: Độc lập cho dân tộc mình, đồng thời độc lập
cho tất cả các dân tộc.
Cũng chính vì vậy mà con đường đi lên chủ nghĩa xã hội và độc lập phải gắn
liền với chủ nghĩa xã hội trở thành nội dung cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí Minh, và
là mục tiêu chiến lược trong sự nghiệp cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam
suốt hai phần ba thế kỷ và mãi mãi về sau.

c)Giải phóng dân tộc tạo tiền đề để giải phóng giai cấp
Hồ Chí Minh giải quyêt vấn đề dân tộc theo quan điểm giai cấp,nhưng đồng
thời đặt vấn đề giai cấp trong vấn đề dân tộc. Giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị
của chủ nghĩa thực dân là điều kiện để giải phóng giai cấp. Vì thế, lợi ích của giai
cấp phải phục tùng lợi ích dân tộc.
Vào đầu những năm 20 của thế kỷ, Người phân tích rằng: Sau chiên tranh thế
giới lần thứ nhất, các nước đồng minh thắng trận. Các dân tộc bị áp bức trên thế
giới đã bị áp bức trên thế giới đã bị mê hoặc bởi những lời tuyên bố rộng rãi của
Uyn-sơn về quyền dân tộc tự quyết. Họ hy vọng các nước đồng minh sẽ thực hiện
lời tuyên bố rằng sau khi đồng minh thắng lợi, thì một thời đại công lý và chính
nghĩa sẽ đến với họ. Quyền dân tộc tự quyết từ chỗ là một lý tưởng thiêng liêng sẽ
trở thành hiện thực. Nhưng, Hồ Chí Minh vạch rõ : Sau một thời gian nghiên cứu
và theo dõi , Người đã nhận thấy rằng chủ nghĩa Uyn-sơn chỉ là một trò bịp bơm
lớn. Chỉ có giải phóng giai cấp vô sản thì mới giải phóng được dân tộc; cả hai cuộc
giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và của cách mạng
thế giới. Tức là vấn đề giải phóng giai cấp vô sản gắn liền với vấn đề giải phóng
dân tộc.Vấn đề giai cấp gắn liền với dân tộc. Hai vấn đề đó không tách rời nhau.
Song trong thực tiễn phong trào giai cấp công nhân ở mỗi lúc, mỗi nơi mỗi nước
ưu tiên vấn đề giai cấp hay ưu tiên vấn đề dân tộc, không thể máy móc, giáo điều,
mà phải tùy theo hoàn cảnh lịch sử cụ thể của từng nước.
Phân tích kỹ thêm mối quan hệ giai cấp –dân tộc, và việc phải ưu tiên giải
quyết vấn đề giai cấp dân tộc, nghị quyết chỉ rõ: Không phải Đảng ta thủ tiêu vấn
đề giai cấp đấu tranh trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Không! vấn đề giai
cấp đấu tranh vẫn tồn tại lâu dài. Nhưng trong giai đoạn hiện tại , khi vấn đề dân
tộc trên hết, thì tất thảy những yêu sách của bộ phận mà có hại đến quyền lợi của
toàn thể, phải gác lại để giải quyết sau.
Tháng 5-1945, Người cùng trung ương Đảng chuyền hướng chiến lược, nêu
cao ngọn cờ giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu và khẳng định:“Trong lúc
này quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong cảu quốc
gia, của dân tộc. Trong lúc này, nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải
phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn
thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai
cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được. Đó là nhiệm vụ của Đảng ta trong vấn
đề dân tộc.”
d) Giữ vững độc lập của dân tộc mình đồng thời tôn trọng độc lập của các dân
tộc khác

Theo Hồ Chí Minh, độc lập tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm
của các dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn thể hiện khát vọng độc lập trong hòa
bình, hữu nghị giữa các dân tộc. Là một chiến sĩ quốc tế chân chính, Hồ Chí Minh
không chỉ đấu tranh cho độc lập của dân tộc mình mà còn đấu tranh cho độc lập
của tất cả các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới. Người quan tâm sâu sắc về mối
quan hệ giữa độc lập cho dân tộc mình với tôn trọng đấu tranh cho độc lập cảu các
dân tộc khác; giữa độc lập dân tộc với hòa bình. Ở Hồ Chí Minh, chủ nghĩa yêu
nước chân chính, luôn luôn thống nhất với chủ nghĩa quốc tế trong sáng. Nêu cao
tinh thần độc lập tự chủ, thực hiện nguyên tắc về quyền dân tộc tự quyết, nhưng Hồ
Chí Minh không quên nghĩa vụ quốc tế trong việc ủng hộ các cuộc đấu tranh giải
phóng dân tộc trên thế giới.

Đồng thời, kiên quyết đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc , Chủ tich Hồ Chí
Minh luôn giương cao ngọn cờ hòa bình. Người luôn là người đi đầu, chủ động
trình bày ước vọng và giải pháp hào bình, tránh xung đột và chiến tranh. Đối với
Hồ Chí Minh, chiến tranh là sự bất đắc dĩ nhưng cũng nhằm mục tiêu giữa vững
độc lập dân tộc trong hòa bình. Đó chỉ là hành động phản kích sự xâm lược của kẻ
thù.

Năm 1914, khi Chiến tranh thế giới thứ nhất vừa nổ ra, Hồ Chí Minh đã đem
toàn bộ số tiền dành dụm được từ đồng lương ít ỏi của mình ủng hộ quỹ kháng
chiến của người Anh và nói: “ chúng ta phải tranh đấu cho tự do, độc lập của các
dân tộc khác như là tranh đấu cho dân tộc ta vậy”.
Nêu cao tinh thần dân tộc tự quyết, nhưng Hồ Chí Minh không quên nghĩa vụ
quốc tế trong việc ủng hộ các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc trên thế giới.
Những năm 30 đến những năm 50 của thế kỉ XX, Người nhiệt liệt ủng hộ cuộc
kháng chiến chống Nhật của nhân dân Trung Quốc, cuộc kháng chiến chống Pháp
của nhân dân Lào và Campuchia, đề ra khẩu hiệu "giúp bạn là tự giúp mình", và
chủ trương phải bằng thắng lợi của cách mạng mỗi nước mà đóng góp vào thắng
lợi chung của cách mạng thế giới.
Suy cho cùng, tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc là sự vận dụng sáng
tạovà phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin trong điều kiện cụ thể cảu Việt Nam; mang
tính khoa học đúng đắn, vừa có tính chất cách mạng sâu sắc, triệt để, đáp ứng được
đòi hỏi của dân tộc Việt Nam, phù hợp với xu thế phát triển tất yếu cảu thời đại.
Thực tiễn cách mạng đã khẳng định con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
là sự lựa chọn duy nhất đúng của cách mạng Việt Nam. Thể hiện sự kết hợp nhuần
nhuyễn giữa dân tộc và giai cấp, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, chủ
nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng, độc lập cho dân tộc
mình đồng thời cho tất cả các dân tộc. Điều đó hoàn toàn phù hợp với nhận định
của ph.Ănghen từng nói: “Những tư tưởng dân tộc chân chính trong phong trào
công nhân bao giờ cũng là tư tưởng quốc tế chân chính”.

You might also like