You are on page 1of 26

BÀN VỀ KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM NGHỀ LUẬT SƯ

PHAN TRUNG HOÀI


Đoàn Luật sư Tp. Hồ Chí Minh

1. Khái niệm nghề luật sư:

1.1- Quan niệm hoạt động luật sư như một nghề nghiệp trong xã hội không phải đã được thừa
nhận trong hệ thống pháp luật thực định ở nước ta trong suốt một thời gian dài cho đến trước
thời điểm ban hành Pháp lệnh luật sư năm 2001. Thực tế này có căn nguyên về mặt lịch sử và
từ quan niệm chung của xã hội, nhất là khi nước ta trải qua một quá trình lịch sử dài lâu đấu
tranh giành độc lập dân tộc. Về mặt khoa học, khái niệm nghề luật nói chung và nghề luật sư
nói riêng chưa xuất hiện phổ biến trong các tác phẩm khoa học pháp lý, trong các văn bản
pháp quy và đời sống xã hội. Thực tế, khi đánh giá cả một quá trình lịch sử, thời gian gần đây
có ý kiến nhận định ở Việt Nam, nghề luật cũng được coi trọng, nhất là từ sau năm 1945 và hệ
thống văn bản về nghề và hành nghề luật đã tương đối hoàn chỉnh1. Ý kiến này tuy có cơ sở
lịch sử của nó, nhưng chưa phản ánh được bản chất và nội hàm hoàn chỉnh của khái niệm
nghề luật sư. Chỉ vào cuối năm 2001, khi ban hành Pháp lệnh luật sư mới, Trường Đào tạo các
chức danh tư pháp thuộc Bộ Tư pháp mới mở khóa đầu tiên chính thức đào tạo luật sư. Khi
bàn tới khái niệm nghề luật sư, về phương diện lý luận, cần đặt nó trong bối cảnh so với các
nghề nghiệp khác của xã hội, các giá trị, chuẩn mực nghề nghiệp và vị trí, vai trò của nó trong
sự phát triển của xã hội.

Có ý kiến quan niệm việc hành xử chức năng luật sư như là một thiên chức (mission) hơn là
một nghề nghiệp (profession) để mưu sống. Trên một bình diện khác, có tác giả cho rằng chưa
có sự chính xác về mặt ngôn ngữ khi sử dụng cụm từ “nghề luật sư” hay “nghề nghiệp luật sư”
và “hành nghề luật sư”, vì “luật sư” là một danh từ chỉ người, chứ không phải dùng để chỉ một
nghề (trong tiếng Anh người ta dùng “lawyer” để chỉ luật sư và “practice law” để chỉ hành
nghề luật). Tuy nhiên, theo tác giả, việc sử dụng cụm từ nói trên là phù hợp với thực tiễn của
Việt Nam và phù hợp với Pháp lệnh luật sư năm 20012. Hoạt động luật sư trong cơ chế thị
trường được coi là một loại hình dịch vụ nghề nghiệp, được điều chỉnh bằng các đạo luật về
hành nghề luật sư và các luật lệ về kinh doanh. Tuy nhiên, giữa các nước theo hệ thống tập
quán pháp và các nước theo hệ thống luật thành văn có những điểm khác nhau trong quan
niệm về nghề luật sư. Các nước theo tập quán pháp coi nghề luật sư là một nghề kinh doanh,
nhưng thuộc loại hình kinh doanh đặc biệt; còn các nước theo hệ thống luật thành văn nhìn
chung coi hoạt động luật sư là một trong những nghề tự do (luật sư, công chứng, kiểm toán,
bác sỹ, kiến trúc sư…)3. Ngày nay, theo một quan điểm được đa số các nhà nghiên cứu pháp
luật ủng hộ, “có đầy đủ lý do để khẳng định rằng luật sư là một nghề cao quý trong xã hội và
càng được tôn vinh trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân,
do dân, vì dân, phấn đấu xây dựng xã hội công bằng, dân chủ văn minh”4.

Tuy nhiên, xác định hoạt động luật sư như là một nghề cao quý không thể thiếu trong xã hội
và cơ chế pháp lý điều chỉnh hoạt động nghề nghiệp này như thế nào vẫn đang là những vấn
đề lý luận và thực tiễn pháp lý cần nghiên cứu thấu đáo nhằm đưa ra các giải pháp cho sự
hoàn thiện và phát triển của nghề luật sư. Trước hết, hiện nay trong một số văn kiện của
Đảng và pháp luật của Nhà nước, hoạt động luật sư được coi là hoạt động “bổ trợ tư pháp” .
Quan niệm này xuất phát từ thực tiễn là hành nghề của luật sư thường gắn rất chặt với hoạt
động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử của Tòa án. Vì thế, tổ chức nghề nghiệp của
luật sư (Đoàn, Hội luật sư) thường được thành lập trong phạm vi thẩm quyền tài phán của một
Tòa án địa phương theo công thức: Tòa án địa phương/ Đoàn luật sư địa phương/ luật sư địa
phương. Cũng vì lý do đó mà nhiều nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam đã coi luật sư là
một hoạt động “bổ trợ tư pháp”5. Trong hệ thống các quy định pháp luật về tố tụng, luật sư
được xác định là “người tham gia tố tụng”, có địa vị pháp lý hoàn toàn khác so với những
người tiến hành tố tụng. Trong khi đó, xét về bản chất thì chức năng bào chữa tồn tại độc lập
và đối trọng với chức năng công tố như là một tất yếu khách quan tự thân của tranh tụng hình
sự. Xét ở một bình diện khác, một quan điểm rất đáng chú ý là trong luật tố tụng hình sự thực
định hiện hành, chức năng bào chữa không chỉ thuộc về bên bào chữa mà còn thuộc về cả bên
buộc tội và cơ quan xét xử nữa6.

Vì thế, xếp hoạt động luật sư vào khuôn khổ của các hoạt động “bổ trợ tư pháp” vô hình trung
đã làm giảm nhẹ đi ý nghĩa sâu xa và các giá trị xã hội mà hoạt động này mang lại cho sự
phát triển của dân chủ nói chung và hoạt động tư pháp nói riêng. Thực tế cho thấy khi giải
quyết tranh chấp giữa cá nhân và cá nhân hay giữa cá nhân với cơ quan Nhà nước, hầu hết
các nước trên thế giới đều có thành lập 3 định chế: Một là công tố nghiêng về buộc tội; hai là
ngọn đèn khách quan soi sáng sự thật dưới mọi khía cạnh để cho cơ quan xét xử thực hành
thiên chức của mình một cách công bằng. Định chế thứ ba bắt buộc phải là định chế luật sư,
độc lập với cơ quan buộc tội và cơ quan xét xử. Tính chất độc lập này không thể chỉ giới hạn
trong phạm vi tranh tụng tại phiên tòa, mà còn mở rộng đến các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Ngay như ở Nhật Bản, một nước châu Á, chỉ đến 5 năm gần đây, trong nhận thức của giới tư
pháp đã bắt đầu có những cải cách thật sự khi xác định luật sư là một chức danh tư pháp và
chế định về luật sư được coi là một trong ba chiếc cánh nâng đỡ nền tư pháp Nhật Bản. Trong
điều kiện phát triển của xã hội hiện nay và yêu cầu của chiến lược cải cách tư pháp, một điều
dễ nhận thấy là luật sư đã được nhìn nhận như là một chủ thể độc lập và quan trọng trong quá
trình tranh tụng, là những người hành nghề chuyên nghiệp về pháp luật. Theo các quy định
của Pháp lệnh luật sư năm 2001, họ còn được đào tạo nghề nghiệp và phải qua kỳ thi và thời
gian tập sự mới được cấp chứng chỉ hành nghề luật sư. Xét về vị trí, vai trò của luật sư trong
xã hội, họ còn có sứ mạng bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo đảm việc thực thi pháp luật
được đúng đắn, bảo vệ công bằng và chính nghĩa. Có thể khẳng định rằng, giá trị của hoạt
động nghề nghiệp luật sư không khác gì với những người làm công tác giám sát và thực thi
pháp luật khác. Nếu như chúng ta đưa ra các tiêu chí như luật sư không được coi là “công
chức”, hay họ không phải là người được Nhà nước trả lương và các khoản bảo hiểm xã hội
khác, hoặc bản chất nghề nghiệp không tạo ra cho họ thứ “quyền lực” mà các nhân viên điều
tra, kiểm sát viên hay thẩm phán đã có để làm căn cứ phân biệt tính chất nghề nghiệp luật sư
thì hoàn toàn không đúng cả về phương diện lý luận và thực tiễn.

1.2- Về mặt ngữ nghĩa, khái niệm nghề luật sư bao gồm hai cụm từ: Nghề với tính chất là một
nghề nghiệp và luật sư chỉ những người đủ điều kiện hành nghề luật sư theo quy định của
pháp luật về luật sư. Theo Từ điển tiếng Việt, nghề là “công việc chuyên làm theo sự phân
công của xã hội” hoặc hiểu theo nghĩa thứ hai là “thành thạo trong một công việc nào đó”.
Nghề nghiệp được hiểu là “nghề nói chung”, còn nghề tự do có nghĩa là “nghề tự mình làm để
sinh sống, không thuộc tổ chức, cơ quan nào7. Nếu theo giải thích của Từ điển tiếng Việt nêu
trên, cách hiểu nghề luật sư như một nghề tự do lại không hoàn toàn phản ánh đầy đủ bản
chất và đặc trưng của nghề nghiệp này. Luật sư hoạt động trong khuôn khổ của pháp luật và
cùng với việc được cấp chứng chỉ hành nghề, phải đăng ký hoạt động trong một tổ chức hành
nghề luật sư nhất định và sinh hoạt trong một tổ chức xã hội nghề nghiệp nhất định nơi địa
phương mình cư ngụ. Mặt khác, khái niệm “nghề tự do” nói trên mới đặt nặng khía cạnh “kiếm
sống” mà không bao hàm được vị trí, vai trò của nghề nghiệp trong sự phát triển của xã hội.
Trong luật thực định của một số nước, luật sư được coi là một chủ thể độc lập trong hoạt động
tư pháp, nhưng họ quan niệm tính chất của nghề nghiệp là tự do. Theo quan điểm của chúng
tôi, hiện nay về mặt lý luận, chúng ta chưa làm rõ được tính chất “tự do” của nghề nghiệp và
luật sư là người hoạt động trong lĩnh vực pháp luật, bởi đây là hai khái niệm hoàn toàn khác
nhau. Nói tới tính chất là nói tới thuộc tính cơ bản của một sự vật, trong trường hợp này, luật
sư là chủ thể độc lập trong hoạt động tư pháp, là người thực thi và truyền bá pháp luật của
Nhà nước nên không thể nói tính chất của nghề nghiệp này là nghề tự do. Tính chất độc lập
cần phải được coi là thuộc tính của nghề nghiệp luật sư, còn nói tới tự do là nói tới phương
thức hành nghề tự do của luật sư, như có thời gian và không gian hoạt động tự do, có quyền
tự do lựa chọn khách hàng, không bị những hạn chế, bó buộc như một công chức Nhà nước.

Từ những phân tích, kiến giải nêu trên, lần đầu tiên chúng tôi khái quát hóa và định nghĩa khái
niệm nghề luật sư như sau: “Nghề luật sư là một nghề luật, trong đó các luật sư bằng kiến
thức pháp luật của mình, độc lập thực hiện các hoạt động tư vấn pháp lý và bảo vệ quyền lợi
hợp pháp cho cá nhân, tổ chức theo quy định của pháp luật và quy chế trách nhiệm nghề
nghiệp, nhằm mục đích phụng sự công lý, góp phần tích cực bảo vệ pháp chế và xây dựng Nhà
nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa”.
2- Đặc điểm của nghề luật sư:

Nghề luật sư rất chú ý đến vai trò cá nhân, uy tín nghề nghiệp của luật sư và phương thức tự
do trong hành nghề luật sư . Nhiều ý kiến quan niệm nghề luật sư có những điểm tương đồng
với nghề bác sỹ. Nghề luật sư cần có kiến thức pháp luật, thông thạo nghề nghiệp để chăm
sóc những “con bệnh pháp luật” của mình. Có tác giả quan niệm: “Nghề luật sư đòi hỏi tiêu
chuẩn đạo đức nghề nghiệp cao, tương tự như nghề y. Luật sư mang trên vai gánh nặng niềm
tin mà xã hội và khách hàng ủy thác cho họ. Nếu như người bệnh tin tưởng, phó thác sức khỏe
và cuộc sống của mình vào người bác sỹ vì người bệnh hy vọng rằng chính bác sỹ mới là người
có đủ khả năng cứu giúp họ thì cũng tương tự như vậy, khách hàng đặt quyền lợi vật chất
hoặc cao hơn nữa là sinh mạng chính trị, tự do, danh dự, nhân phẩm…của mình vào người luật
sư”8. Cách nhìn và so sánh như trên được nhiều người tán đồng. Tuy nhiên, theo quan điểm
của chúng tôi, cũng cần chỉ ra sự khác biệt rất quan trọng của hai nghề này, phương thức “tác
động” của nghề nghiệp đối với khách hàng của mình khác nhau: Bác sỹ có thể chủ động và
chịu trách nhiệm về số phận của bệnh nhân, thông qua hành vi, thao tác mổ xẻ, điều trị trực
tiếp; còn luật sư giúp đỡ cho khách hàng của mình về phương diện pháp lý, nhưng nhiều
trường hợp, số phận của khách hàng lại không phụ thuộc vào sự trợ giúp của luật sư, mà chịu
sự định đoạt của pháp luật.

Đã có một số tác giả đề cập đến các đặc trưng của nghề luật nói chung, nhưng đối với nghề
luật sư, việc xác định các đặc điểm riêng có cần phải xuất phát từ bản chất, vị trí, vai trò của
nghề luật sư trong toàn bộ các định chế chính trị và tư pháp ở thượng tầng kiến trúc và các
quan niệm mang tính phổ biến được hình thành trong lịch sử thế giới và ở Việt Nam.

Theo quan niệm đó, có thể xem xét các đặc điểm của nghề luật sư trên các bình diện sau đây:

2.1- Nghề luật sư trước hết là một nghề luật:

Nói nghề luật sư là một nghề luật trước hết nhằm để phân biệt với các nghề khác trong xã hội.
Như vậy, nói tới nghề luật là nói tới công việc chuyên môn của những người hoạt động liên
quan đến pháp luật, như nghề thẩm phán, công tố, công an, công chứng… Tuy nhiên, nghề
luật sư có những khác biệt với những nghề liên quan đến pháp luật nói trên không chỉ ở chức
năng, theo sự phân công của xã hội, mà còn ở chỗ nó được thể hiện qua các phương thức
hành nghề một cách tự do. Luật sư không phải là một công chức, không phải là một chức vụ
được đề cử hoặc đề bạt, mà là một danh xưng được đặt ra theo sự phát triển của lịch sử và
được pháp lý hóa. Nghề luật sư bao hàm ý nghĩa chỉ những người hội đủ điều kiện theo quy
định của pháp luật mới được phép hành nghề luật sư. Điều này cũng phân biệt một số trường
hợp được coi là người bào chữa hoặc là người đại diện theo ủy quyền như quy định trong pháp
luật tố tụng (như bào chữa viên nhân dân, người thân thích của bị can, bị cáo…) nhưng không
phải là người hoạt động trong nghề luật sư nhằm giúp cho quá trình hành nghề được hợp
pháp.

2.2- Nghề luật sư mang tính chất dịch vụ và được nhận thù lao của khách hàng

Tính chất dịch vụ của nghề luật sư không phải đã được thừa nhận rộng rãi. Nhiều người quan
niệm không nên đề cập đến tính chất dịch vụ như một trong những đặc điểm của nghề luật sư
bởi sự cao quý của nghề nghiệp này. Hơn nữa, hiểu dịch vụ như là “đổi trao, mua bán” thứ
hàng hóa là “kiến thức - kỹ năng pháp luật” sẽ hạ thấp vai trò của luật sư trong việc thúc đẩy
sự phát triển dân chủ trong hoạt động tư pháp và xã hội nói chung.

Tính chất dịch vụ của nghề luật sư là một loại dịch vụ đặc biệt, khác với quan niệm về dịch vụ
thông thường. Theo Điều 5.5 Luật Thương mại, dịch vụ thương mại được hiểu gồm những dịch
vụ gắn với việc mua bán hàng hóa. Trong Hiệp định thương mại Việt- Mỹ, lại xuất hiện khái
niệm thương mại dịch vụ, được định nghĩa là việc cung cấp một dịch vụ (a) từ lãnh thổ của
một bên vào lãnh thổ bên kia; (b) tại lãnh thổ của một bên cho người sử dụng dịch vụ của bên
kia và (c) bởi một nhà cung cấp dịch vụ của một bên, thông qua sự hiện diện của các thể nhân
của một bên tại lãnh thổ của bên kia. Trong Bộ luật dân sự Việt Nam, hợp đồng dịch vụ được
hiểu là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên làm dịch vụ thực hiện một công việc cho bên
thuê dịch vụ, còn bên thuê dịch vụ phải trả tiền công cho bên làm dịch vụ. Đối tượng của hợp
đồng dịch vụ phải là công việc có thể thực hiện được, không bị pháp luật cấm, không trái đạo
đức xã hội. Theo Điều 527 Bộ luật dân sự, “bên thuê dịch vụ phải trả tiền công theo thỏa
thuận, khi công việc đã hoàn thành; nếu không thỏa thuận về mức tiền công, thì mức tiền
công là mức trung bình đối với công việc cùng loại tại thời điểm và địa điểm hoàn thành công
việc”.

Nhìn ra thế giới, một trong những kết quả quan trọng của vòng đàm phán Uruguay là lần đầu
tiên trong lịch sử, thương mại dịch vụ và sở hữu trí tuệ được đưa vào hệ thống thương mại thế
giới, được điều chỉnh bởi Hiệp định chung về thương mại dịch vụ (GATS) trong khuôn khổ của
Tổ chức thương mại thế giới WTO. Theo GAST, khái niệm dịch vụ pháp lý theo nghĩa rộng bao
gồm dịch vụ tư vấn pháp luật (Advisory Services), dịch vụ đại diện (Representation Services)
và tất cả các hoạt động liên quan đến tư pháp như xét xử, công tố, bào chữa công… Tuy
nhiên, ở hầu hết các nước trên thế giới, các hoạt động liên quan đến tư pháp được coi là dịch
vụ do các cơ quan Chính phủ thực hiện trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình, nên các
hoạt động này không thuộc phạm vi điều chỉnh của GATS. Trong Bảng phân loại các lĩnh vực
dịch vụ của WTO, “dịch vụ pháp lý” là một phân ngành “dịch vụ nghề nghiệp” (Professional
Services) thuộc lĩnh vực “dịch vụ kinh doanh” (Bussiness Services). Theo Danh mục phân loại
tạm thời các lĩnh vực dịch vụ (PCPC) của Liên Hợp quốc kèm theo mã số cho từng lĩnh vực và
phân ngành dịch vụ cụ thể thì dịch vụ pháp lý có mã số 861 và được phân chia thành nhiều
tiểu phân ngành như: (a) dịch vụ tư vấn và đại diện liên quan đến pháp luật hình sự (PCPC
86111); (b) dịch vụ tư vấn và đại diện trong tố tụng tư pháp liên quan đến các lĩnh vực khác
của pháp luật (PCPC 86119); (c) dịch vụ tư vấn và đại diện trong các thủ tục hành chính,
trọng tài (PCPC 86120) (d) dịch vụ lập và xác nhận các giấy tờ pháp lý (PCPC 86130) và (e)
các dịch vụ pháp lý khác (PCPC 8619)… Việt Nam đã tham gia ký Hiệp định khung ASEAN về
dịch vụ (AFAS) vào ngày 15-12-1995 tại Băng cốc (Thái Lan), trong đó mở rộng mức độ tự do
hóa thương mại dịch vụ các về chiều rộng lẫn chiều sâu ra ngoài khuôn khổ những cam kết
của GATS. Tại vòng đàm phán đầu tiên về hợp tác dịch vụ vào tháng 1-1996, Việt Nam đã đưa
ra cam kết về dịch vụ tư vấn pháp luật và các cam kết này về cơ bản dựa vào các quy định
của pháp luật hiện hành trong lĩnh vực này9. Tuy nhiên, khi coi nghề luật sư mang tính chất
dịch vụ, có nghĩa là nói đến khía cạnh dịch vụ pháp lý hiểu theo nghĩa ở trên. Vì là dịch vụ nên
Pháp lệnh luật sư quy định “khách hàng phải trả thù lao khi sử dụng dịch vụ pháp lý của Văn
phòng luật sư, Công ty luật hợp danh”, đồng thời quy định rõ căn cứ và phương pháp tính thù
lao.

2.3- Nghề luật sư gắn liền với số phận con người:

Có thể nói, nghề luật sư, cũng như các nghề luật khác, từ bao đời nay được coi là một nghề
nghiệp gắn bó với số phận của con người. Đồng chí Lê Duẩn từng căn dặn cán bộ ngành
KS,TA,CA: “Lý tưởng của chúng ta là chống áp bức, bóc lột, một lòng một dạ vì nhân dân mà
phục vụ. Phải thấu suốt lý tưởng đó, kiên quyết không dung thứ những điều oan ức và không
làm điều oan cho bất cứ một ai. Một người bị tội oan, chẳng những người ấy đau khổ, mà gia
đình con cái họ càng đau khổ hơn. Làm điều oan cho một người nào đó thì chúng ta không còn
lẽ sống nữa, bởi vì chúng ta là những người cộng sản. Cán bộ các ngành CA,TA,KS phải thấy
hết trách nhiệm cao cả và nặng nề của mình” (phát biểu tại Hội nghị toàn ngành Kiểm sát
tháng 3-1967).

Phần nhiều các ý kiến đều quan niệm luật sư có nhiệm vụ bảo vệ các quyền và lợi ích hợp
pháp cho bị can, bị cáo đồng thời với nhiệm vụ bảo vệ pháp chế XHCN, tôn trọng sự thật và
pháp luật. Hai nhiệm vụ trên không mâu thuẫn với nhau, trái lại gắn bó hữu cơ và mật thiết
với nhau. Tuy nhiên, có tác giả lại quan niệm sứ mạng cao cả và thiêng liêng của luật sư là
bênh vực và bảo vệ kẻ yếu. “Kẻ yếu” ở đây được hiểu là “người dân trong quan hệ với cơ quan
công quyền, người kém hiểu biết hơn và nghèo hơn trong quan hệ với người hiểu biết hơn và
giàu hơn…Kẻ yếu, để làm tăng sức mạnh của mình thì có một cách tốt là sử dụng luật sư”10.
Quan niệm như trên không phải là một quan niệm đúng cả về phương diện lịch sử và bản chất
nghề nghiệp luật sư. Không thể quan niệm quyền lợi người dân như là “kẻ yếu” chỉ vì họ kém
hiểu biết hoặc nghèo hơn người khác. Phải nhìn nhận rằng, dân chủ và nhân đạo là bản chất
của chế độ XHCN. Nhà nước ta coi trọng quyền của con người. Những quyền này được Hiến
pháp quy định (Điều 70): “Công dân có quyền được pháp luật bảo hộ về tính mạng, tài sản,
danh dự và nhân phẩm”. Quyền này được nêu thành nguyên tắc cơ bản trong Bộ luật TTHS và
được xếp lên hàng đầu. Sự gắn bó của nghề nghiệp luật sư với số phận của con người, bất
luận trong trường hợp nào, cũng được coi là sự kết nối tự nhiên, mang tính bản chất. Đối
tượng của nghề nghiệp luật sư, vì thế không đơn thuần mang tính dịch vụ và chỉ nghĩ đến việc
kiếm lời từ dịch vụ đó, mà trước hết chính là nhằm đáp ứng nhu cầu chính đáng của người dân
cần được sự trợ giúp về mặt pháp lý.

2.4- Nghề luật sư hoạt động dựa trên pháp luật và quy chế trách nhiệm nghề nghiệp

Cũng như bất cứ hoạt động nghề nghiệp nào khác, nền tảng hoạt động của nghề luật sư phải
dựa trên pháp luật và các quy chế trách nhiệm nghề nghiệp. Pháp luật về luật sư được coi là
hệ thống các quy phạm pháp luật xác định vị trí, vai trò của luật sư trong xã hội, quy định các
quyền và nghĩa vụ của luật sư trong hành nghề, phạm vi quản lý Nhà nước đối với hoạt động
luật sư và tính tự quản trong tổ chức nghề nghiệp luật sư; xử lý vi phạm trong hoạt động nghề
nghiệp… Tuy nhiên, khi nói tới quy chế trách nhiệm nghề nghiệp như chuẩn mực nền tảng đạo
đức và kỷ luật của hoạt động luật sư thì cũng không có nghĩa là quy chế này “chi phối luật sư
cả trong công việc và đời sống riêng của họ” như có tác giả đã đề cập. Ở đây, chúng ta chỉ có
thể nói đến sự chi phối trong hoạt động nghề nghiệp và những tác động của hành vi ứng xử
của luật sư trong cuộc sống riêng có thể làm ảnh hưởng đến uy tín, danh dự của luật sư.

Tuy đối tượng và phạm vi điều chỉnh của pháp luật và quy chế trách nhiệm nghề nghiệp luật
sư có khác nhau, nhưng giữa chúng có mối liên hệ mật thiết và chi phối lẫn nhau. Pháp luật về
luật sư có tác dụng như “hành lang”, “khuôn mẫu chung” cho luật sư hoạt động với các quyền
và nghĩa vụ cụ thể trước pháp luật, còn quy chế trách nhiệm nghề nghiệp luật sư lại chủ yếu
điều chỉnh hành vi ứng xử của luật sư trong hoạt động nghề nghiệp và trong xã hội, tuy không
hoàn toàn mang tính bắt buộc nhưng cũng đòi hỏi phải được sự tôn trọng từ phía các luật sư.
Trong nhiều trường hợp, đối với nghề nghiệp luật sư, các quy tắc ứng xử thuộc về phạm trù
đạo đức lại chi phối và có tác động lớn lao đến uy tín, danh dự của luật sư và ảnh hưởng chi
phối rất nhiều đến chất lượng dịch vụ cung cấp cho khách hàng. Sự cộng hưởng qua lại giữa
pháp luật và quy tắc trách nhiệm nghề nghiệp trong hoạt động của luật sư là một trong những
minh chứng cho mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức nói chung.Tuy nhiên, điều chúng tôi
muốn bàn thêm chính là ở chỗ, khi xem xét mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức nói chung,
người ta không thể không đề cập đến một vấn đề lý luận rất quan trọng là với sự trùng khớp
về nội hàm của hai khái niệm này trong mục đích điều chỉnh hành vi của xã hội, cần phải nhìn
thấy “tính pháp lý” của các quy phạm đạo đức và “tính đạo đức” của các quy phạm pháp luật.
Nhìn lại lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật Việt Nam nói chung và pháp luật về bảo
đảm quyền bào chữa của công dân, về luật sư nói riêng, đã có một giai đoạn khá dài trong lịch
sử, nhiều quan hệ xã hội được điều chỉnh chủ yếu bằng các hương ước, luật tục và trong nhiều
trường hợp, tính “vượt trội” của thứ lệ làng này cao hơn phép nước. Các quy phạm xã hội như
hương ước, luật tục đã không chỉ tồn tại dưới dạng truyền khẩu, bất thành văn, mà đã được
nâng lên một bước với việc được in ấn dưới nhiều hình thức khác nhau. Nói cách khác, các quy
phạm xã hội này được “luật hóa” thông qua việc thể hiện bằng các văn bản mang tính chế
ước, có tác dụng cưỡng chế nhất định, thứ cưỡng chế không xuất phát từ quyền lực Nhà nước.
Ở chiều ngược lại, nhiều quy phạm pháp luật lại mang tính định hướng, giáo dục hơn là răn đe,
trừng phạt.

Vấn đề này có ý nghĩa lý luận to lớn ở chỗ, không chỉ đôi khi các giá trị đạo đức có ý nghĩa
ràng buộc trách nhiệm công dân lớn hơn pháp luật, mà thật sự nền tảng phát triển của pháp
luật trong đời sống sẽ có một “dung môi” tốt hơn nếu tính tự giác và ý thức pháp luật được
hình thành từ đạo lý, từ bề dày lịch sử truyền thống văn hóa của dân tộc. Bất luận trong
trường hợp nào, vấn đề cốt lõi là làm sao cho người dân nhận ra được nhu cầu về dịch vụ pháp
lý một cách trung thực và lựa chọn được hình thức dịch vụ thích hợp nhằm bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của mình.
2.5- Nghề luật sư là bất khả kiêm nhiệm:

Thông lệ hành nghề luật sư trên thế giới là bất khả kiêm nhiệm. Tuy nhiên, do đặc điểm lịch
sử của đất nước và quá trình hình thành nghề luật sư ở Việt Nam, nên trong một thời gian khá
dài sau giải phóng, pháp luật về luật sư vẫn cho phép duy trì chế độ luật sư kiêm chức. Những
luật sư kiêm chức này thực chất vẫn bảo đảm các tiêu chuẩn hành nghề luật sư, nhưng họ
đang là công chức hoặc những người làm việc liên quan đến pháp luật khác, chiếm tỷ lệ gần
40% số lượng luật sư trong cả nước. Khiếm khuyết của tình trạng kiêm nhiệm này trong thời
gian qua là luật sư kiêm chức không thật sự sống với nghề và bằng nghề, thời gian dành cho
hoạt động luật sư bị chi phối bởi thời gian làm việc mang tính bắt buộc của công chức, thậm
chí gây phiền hà cho các cơ quan tiến hành tố tụng khi vắng mặt tại phiên tòa xét xử bị cáo
mà mình đã nhận trách nhiệm bào chữa. Tính không chuyên nghiệp trong hoạt động luật sư về
phương diện này còn làm cho người cần hỗ trợ về pháp lý, bị can, bị cáo cảm thấy không tin
tưởng vào sự tận tâm của luật sư, các cơ quan tiến hành tố tụng vì thế mà có đánh giá không
tốt về hoạt động nghề nghiệp luật sư, giảm thiểu vai trò luật sư trong đời sống xã hội.

Bất khả kiêm nhiệm như một đặc điểm trong hoạt động của nghề luật sư không chỉ bảo đảm
hoạt động này mang tính chuyên nghiệp, mà còn góp phần nâng cao vị trí, vai trò của luật sư
trong xã hội. Mặt khác, về phương diện pháp lý, Pháp lệnh công chức quy định cán bộ, công
chức không được thành lập và tham gia thành lập, quản lý điều hành các loại hình doanh
nghiệp, hợp tác xã, trường học, tổ chức nghiên cứu khoa học tư; không được tư vấn về các
công việc có liên quan đến bí mật Nhà nước, bí mật công tác, các công việc thuộc thẩm quyền
giải quyết của mình… Quan điểm của những nhà làm luật cho rằng, để tiến tới chuyên nghiệp
nghiệp hóa đội ngũ luật sư, cần thực hiện nguyên tắc bất khả kiêm nhiệm để luật sư có thể
chuyên tâm với nghề nghiệp, đáp ứng nhu cầu giúp đỡ pháp lý ngày càng phong phú và phức
tạp của nhân dân.

2.6- Nghề luật sư là hoạt động mang tính quốc tế

Tính chất quốc tế của hoạt động nghề nghiệp luật sư hình thành cùng với sự phát triển của
nghề luật sư trong lịch sử. Cùng với sự phát triển của các hình thái kinh tế- xã hội của loài
người, các cuộc chiến tranh liên miên đã kéo theo sự xê dịch của các nền văn hóa và pháp lý.
Ngày nay, cùng với sự phát triển kinh tế và chủ động hội nhập đời sống quốc tế, luật sư các
nước trên thế giới đã mở rộng phạm vi và lĩnh vực hoạt động ra khỏi biên giới quốc gia, đóng
một vai trò ngày càng quan trọng trong việc thúc đẩy các quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội
giữa các nước. Người ta đã quen với hình ảnh bên cạnh các doanh nghiệp quốc tế đến làm ăn
tại Việt Nam có một đội ngũ luật sư giúp tư vấn và soạn thảo hợp đồng, tham gia giải quyết
tranh chấp. Các hiệp ước song phương và đa phương ký kết giữa các nước có sự tham gia soạn
thảo của các luật sư giàu kinh nghiệm. Trong điều kiện đất nước chủ động tham gia tiến trình
hội nhập quốc tế, Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản pháp quy điều chỉnh hoạt động hành
nghề tư vấn pháp luật của tổ chức luật sư nước ngoài tại Việt Nam, theo đó các luật sư nước
ngoài chỉ được tư vấn về pháp luật nước ngoài, pháp luật quốc tế trong lĩnh vực đầu tư, kinh
doanh, thương mại, không được tư vấn pháp luật Việt Nam, không tham gia tố tụng trước Tòa
án Việt Nam. Nhiều luật sư Việt Nam đã tham gia giải quyết các vụ kiện tranh chấp có yếu tố
nước ngoài tại các Tòa án, trọng tài quốc tế…

Pháp lệnh luật sư năm 2001 đã cho phép các Văn phòng luật sư, Công ty luật hợp danh được
thuê luật sư nước ngoài, hợp tác với tổ chức luật sư nước ngoài theo quy định của pháp luật về
hành nghề của luật sư nước ngoài tại Việt Nam; đặt cơ sở hành nghề ở nước ngoài theo quy
định của Chính phủ. Nghị định số 94/2001/NĐ-CP ngày 12-12-2001 của Chính phủ đã quy
định chi tiết các điều kiện mà tổ chức hành nghề luật sư được đặt cơ sở hành nghề ở nước
ngoài, cũng như cử luật sư thực hiện dịch vụ pháp lý ở nước ngoài. Các quy định pháp lý nêu
trên đã mở ra khả năng to lớn cho việc nâng cao sức cạnh tranh của đội ngũ luật sư Việt Nam
trên trường quốc tế.
1 TS. Phan Hữu Thư, Nghề và nghề luật, Đặc san Nghề luật, Trường Đào tạo các chức danh tư
pháp, Số 1/2001, tr. 4.

2 TS. Hà Hùng Cường, Pháp lệnh về hành nghề luật sư ở Việt Nam, Bài giảng vào ngày 26-6-
2002 tại Khóa I Lớp đào tạo nguồn luật sư các tỉnh phía Nam tổ chức tại TPHCM.

3 Trường Đào tạo các chức danh tư pháp, Kỹ năng hành nghề luật sư, tập I, Nhà xuất bản
Công an nhân dân, Hà Nội, 2001, tr. 11-12.

4 TS. Nguyễn Đình Lộc, Về Pháp lệnh Luật sư năm 2001, Số chuyên đề về Pháp lệnh Luật sư
năm 2001, Bộ Tư pháp và Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, tr. 6.

5 TS. Hà Hùng Cường, Pháp lệnh luật sư năm 2001 với việc đáp ứng yêu cầu hội nhập khu vực
và thế giới, Số chuyên đề về Pháp lệnh Luật sư năm 2001, Sđd, tr. 23.

6 TS. Phạm Hồng Hải, Về chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự, Tạp chí Nhà nước và
Pháp luật, Viện Nhà nước và Pháp luật, Số 2 (85), 1994, tr.27.

7 Nguyễn Như Ý (chủ biên), Đại từ điển tiếng Việt, Nhà xuất bản Văn hóa thông tin, Hà Nội,
1999, tr. 1192.

8 TS. Hà Hùng Cường, Pháp lệnh luật sư năm 2001 với việc đáp ứng yêu cầu hội nhập khu vực
và thế giới, Sđd, tr. 19.

9 Lê Hồng Sơn- Dương Thu Phương, Hành nghề tư vấn pháp luật của luật sư nước ngoài tại
Việt Nam, Số chuyên đề về Pháp lệnh luật sư năm 2001, Sđd, tr. 107-111.

10 Nguyễn Tiến Lập, Tham luận tại Hội thảo Đạo đức nghề nghiệp luật sư, Bộ Tư pháp, TPHCM
3/2001.

Nghề luật và nghề luật sư

Xin giới thiệu một bài viết khá hay về nghề luật và nghề luật sư. Xin lưu ý, bài viết này
dựa trên các văn bản luật cũ về nghề luật sư, bạn có thể cập nhật thông qua các văn bản
đã thay thế. Tuy nhiên, về nội dung cơ bản là không thay đổi.

Rất nhiều người tự hào giới thiệu mình làm nghề luật. Khi nghĩ suy về nghề luật trong quá
khứ, hiện tại và tương lai, chúng ta cần xác định rõ nghề luật là gì?
1. Nghề luật

Ở nghĩa rộng nhất, nói đến những người làm nghề luật là chúng ta nói đến thẩm phán, luật
sư, kiểm sát viên, công chứng viên…

Thẩm phán được hiểu là những người làm việc tại Toà án, được quyền nhân danh Nhà
nước để xét xử các vụ án. Thẩm phán – ở nghĩa lý tưởng được hiểu là người được quyền
ra quyết định cuối cùng để mang lại sự công bằng cho mọi người, cứu người vô tội và
trừng phạt kẻ ác.

Kiểm sát viên là người buộc tội tại phiên toà (ở nước ngoài thường được gọi là công tố
viên). Họ được quyền đưa một vụ phạm pháp ra xem xét để xử lý, ra lệnh bắt giữ, tham
gia điều tra vụ án, truy tố người phạm tội.

Luật sư là người có đủ tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề theo quy định của pháp luật của
mỗi quốc gia, thực hiện dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức. Luật
sư là những người hành nghề trong Văn phòng hoặc Công ty luật. Thu nhập của luật sư là
từ các khoản thù lao do khách hàng trả.

Công chứng viên là người làm việc tại các Phòng công chứng, có quyền xác nhận tính hợp
pháp của các giao dịch, hợp đồng…

Nếu hiểu nghề luật như là nghề kiếm sống có liên quan đến luật, có thể kể ra nhiều công
việc khác cũng được gọi là nghề luật như: chấp hành viên, điều tra viên, giám định viên,
chuyên viên pháp lý, cố vấn pháp lý, giáo viên dạy luật, cán bộ nghiên cứu pháp luật…
trong các cơ quan thi hành án dân sự, cơ quan công an, cơ quan hành chính Nhà nước, các
tổ chức đoàn thể, doanh nghiệp, trường học, viện nghiên cứu… . Ở nghĩa rộng, chúng ta
thấy nghề luật thật phong phú và đa dạng và trong xã hội pháp quyền, tất cả các nghề luật
đều cần được tôn vinh một cách xứng đáng.

2. Nghề luật sư

Ở nghĩa hẹp hơn, nói đến nghề luật là chúng ta nói đến nghề luật sư. Nghề luật sư là nghề
luật tiêu biểu nhất, nghề luật sư thể hiện đầy đủ nhất những đặc trưng của nghề luật.

Nghề luật sư không giống như những nghề bình thường khác vì ngoài những yêu cầu về
kiến thức và trình độ chuyên môn thì yêu cầu về việc hành nghề luật sư còn phải tuân thủ
theo quy chế đạo đức nghề nghiệp. Đây là một nét đặc thù riêng của nghề luật sư và nét
đặc thù này tác động sâu sắc đến kỹ năng hành nghề, đặc biệt là kỹ năng tranh tụng của
luật sư.

Trong suy nghĩ của chúng ta, hoạt động nghề nghiệp của luật sư bao gồm ba tính chất: trợ
giúp, hướng dẫn và phản biện.

(i) Tính chất trợ giúp: Do sự phát triển không đồng đều cả về đời sống vật chất lẫn tinh
thần, bất kỳ xã hội nào trong cộng đồng dân cư cũng tồn tại những người rơi vào vị thế
thấp kém so với mặt bằng xã hội như người nghèo, người già đơn côi, người chưa thành
niên mà không có sự đùm bọc của gia đình. Những người ở vào vị thế thấp kém này
thường bị ức hiếp, bị đối xử bất công trái pháp luật và rất cần sự giúp đỡ, bênh vực của
những người khác và đặc biệt cần sự trợ giúp hoàn toàn vô tư, không vụ lợi của luật sư.
Ở thời kỳ cổ đại, những người dám đứng ra bênh vực, trợ giúp các đối tượng bị ức hiếp
được xã hội tôn vinh như là các “hiệp sỹ”. Ngày nay, xã hội loài người đã phát triển
nhưng ở nhiều nước, ở nhiều địa phương vẫn tồn tại những người ở vào vị thế thấp kém,
vẫn tồn tại sự ức hiếp, sụ đối xử bất công. Hoạt động trợ giúp của luật sư đối với những
đối tượng này không chỉ là bổn phận mà còn là thước đo lòng nhân ái và đạo đức của luật
sư.

(ii) Tính chất hướng dẫn: Tính chất nghề nghiệp đòi hỏi luật sư không chỉ thông hiểu pháp
luật hiện hành mà còn hiểu biết cả tinh thần, nội dung những quy định của pháp luật ở
từng thời điểm của thời gian đã qua. Luật sư còn phải hiểu sâu rộng cả tục lệ và bản sắc
văn hoá của dân tộc.

Mọi người hiểu và nghĩ về luật sư như vậy, cho nên mỗi khi bản thân hoặc gia đình có
điều gì vướng mắc đều tìm đến luật sư, nhờ luật sư tư vấn. Vì vậy, hoạt động của luật sư
luôn luôn có tính chất hướng dẫn. Yêu cầu của hoạt động này là hướng dẫn cho đương sự
hiểu đúng tinh thần và nội dung của pháp luật để biết cách xử sự tháo gỡ vướng mắc của
họ phù hợp với pháp lý và đạo lý.

(iii) Tính chất phản biện: Tính chất phản biện trong hoạt động của luật sư là những biện
luận nhằm phản bác lại lý lẽ, ý kiến quan điểm của người khác mà mình cho là không phù
hợp với pháp lý và đạo lý.

Tính chất phản biện trong hoạt động của luật sư, thông thường thể hiện ở lĩnh vực tố tụng,
đặc biệt là trong tố tụng hình sự. Điều 36, khoản 3 Bộ Luật tố tụng hình sự hiện hành quy
định: “Người bào chữa có nghĩa vụ sử dụng mọi biện pháp do pháp luật quy định để làm
sáng tỏ những tình tiết xác định bị can, bị cáo vô tội, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự của bị can, bị cáo; giúp bị can, bị cáo về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của họ”.

Phản biện là phải dựa trên sự thông hiểu tường tận về pháp lý và đạo lý. Hoạt động phản
biện của luật sư là lấy pháp luật và đạo đức xã hội làm chuẩn mực để xem xét mọi khía
cạnh của sự việc nhằm xác định rõ phải trái, đúng sai…từ đó đề xuất những biện pháp phù
hợp bảo vệ lẽ phải, loại bỏ cái sai, bảo vệ công lý.

Ở đây có thể có câu hỏi đặt ra là trong trường hợp không phát biện ra điều gì sai, không
có cơ sở để phản biện thì luật sư sẽ làm gì?. Xin nêu một câu ngạn ngữ phương Tây:
“Luật sư chỉ giỏi khi gặp Công tố viên tồi”. Câu ngạn ngữ này có nghĩa là khi người tiến
hành tố tụng hoạt động hoàn toàn đúng pháp luật với những nhận định và kết luận chuẩn
xác thì không còn chỗ cho luật sư phản biện. Luật sư không còn chỗ để phản biện, cũng
giống như thầy thuốc không có bệnh nhân để chữa thì thật là hạnh phúc.

Hoạt động của luật sư trong trường hợp này chỉ còn ý nghĩa là người chứng kiến. Việc
chứng kiến của luật sư không phải là không quan trọng. Trong nhiều trường hợp, sự hiện
diện của luật sư là chỗ dựa tin cậy của bị can, bị cáo. Sự chứng kiến của luật sư trong khi
hỏi cung, khi đối chất, khi xét xử đảm bảo chắc chắn rằng quyền và lợi ích hợp pháp mà
pháp luật dành cho bị can, bị cáo sẽ được bảo đảm.
Người phạm tội phải chịu sự trừng phạt của pháp luật, nhưng không thể bị tra tấn, đánh
đập, hành hạ về thể xác cũng như xúc phạm nhân phẩm. Sự có mặt của luật sư là cần thiết
bởi những người đã lâm vào vòng lao lý, phải đối mặt với uy lực của cơ quan công quyền,
không phải ai cũng có đủ can đảm tự bảo vệ quyền hợp pháp của mình. Người xưa đã có
câu: “Khôn ngoan đến cửa quan mới bíết”.

Do vai trò và tác dụng của hoạt động luật sư, nên Khoản 2 Điều 1 Pháp lệnh Luật sư năm
2001 đã nêu rõ: “Bằng hoạt động của mình luật sư góp phần bảo vệ công lý, công bằng xã
hội và pháp chế xã hội chủ nghĩa”. Nghị quyết 08 của Bộ Chính trị viết: “Các cơ quan Tư
pháp có trách nhiệm tạo điều kiện để luật sư tham gia vào quá trình tố tụng: tham gia hỏi
cung bị can, bị cáo, nghiên cứu hồ sơ vụ án tranh luận dân chủ tại phiên toà…”

Xuất phát từ tính chất, đặc thù của nghề luật sư, nó đòi hỏi luật sư ngoài các phẩm chất
chung là Chân, Thiện, Mỹ, luật sư còn phải là người có khối óc thông minh, tấm lòng
trong sáng, dũng cảm, biết lấy pháp luật và đạo đức xã hội làm cơ sở hoạt động mới xứng
đáng với sự tin cậy và tôn vinh của xã hội .

II.Nghề luật sư trong quá khứ

Nghề luật sư luôn gắn với sự hình thành và phát triển của hệ thống pháp luật. Có thể nói
luật gia đầu tiên xuất hiên trong xã hội chính là nhà lập pháp, người định ra các quy phạm
pháp luật. Sau đó là sự xuất hiện của các thẩm phán, người có nhiệm vụ bảo đảm cho các
quy phạm pháp luật được tôn trọng và cũng là người quyết dịnh hình phạt đối với người vi
phạm các quy phạm pháp luật.

Lúc đầu, chứng cứ của hành vi vi phạm pháp luật chỉ dựa vào sự suy đoán hay những lời
thề thốt, thú nhận của các bên có liên quan. Việc bào chữa, biện hộ cho các bên chưa được
bảo đảm. Nghề luật sư xuất hiện, luật sư tham gia vào quá trình xét xử, đảm bảo công việc
bào chữa trong các phiên toà.

Nghề luật sư đã xuất hiện ở châu Âu từ thời Hy Lạp và La Mã cổ đại. Vào thế kỷ V trước
Công nguyên, trong nhà nước Hy Lạp cổ, tổ chức toà án hình thành và việc xét xử có sự
tham gia của mọi người dân. Nguyên cáo hoặc bị cáo có thể tự trình bày ý kiến, lý lẽ của
mình trước Toà hoặc nhờ người khác có tài hùng biện trình bày hộ ý kiến, lý lẽ trước Toà.
Việc bào chữa xuất phát tự nhiên nhằm minh oan cho bạn bè hoặc người thân bị nhà cầm
quyền bắt giam vô cớ và trừng phạt một cách độc đoán dần phát triển.

Ở La Mã cổ đại, cũng với sự xuất hiện của pháp luật đã xuất hiện những mầm mống của
nghề luật sư. Pháp luật La mã cổ đại mang tính huyền bí, thần thánh và việc áp dụng pháp
luật gắn liền với lễ nghi tôn giáo. Trong phiên toà, có sự tham gia của các nhà chuyên
môn, người am hiểu pháp luật để nhắc lại những quy tắc, quy định tôn giáo để tránh việc
viện dẫn sai hoặc vi phạm thủ tục tố tụng.
Trong xã hội dần dần hình thành một nhóm người chuyên sâu, am hiểu về pháp luật và
việc diễn giải pháp luật của họ được xem xét như hoạt động nghề nghiệp. Hoạt động của
các luật sư được chấp nhận và uy tín của họ trong xã hội ngày càng được nâng cao. Nghề
luật sư được xem như một nghề vinh quang trong xã hội.

Sau khi Đế quốc La Mã tan rã, châu Âu chuyển sang thời kỳ Trung cổ với các triều đại
phong kiến phân quyền cát cứ. Tổ chức Toà án và chế độ luật sư ở các nước được xây
dựng dưới nhiều hình thức khác nhau nhằm mục đích phục vụ tôn giáo và chế độ phong
kiến.

Dưới chế độ tư bản, nghề luật sư được tổ chức chặt chẽ với những điều kiện khắt khe
nhằm bảo vệ quyền lợi riêng cho một số ít người xuất thân từ giai cấp bóc lột. Từ xuất
phát điểm của những người tự nguyện thực hiện việc bào chữa vì sự thật và công lý, nghề
luật sư dưới chế độ tư bản dần dần trở thành nghề tự do, nghề làm vì tiền.

Ở Việt Nam, từ năm 1930 trở về trước, người Pháp chiến độc quyền trong hành nghề luật
sư. Với Sắc lệnh ngày 25/5/1930 của Toàn quyền Đông Dương, thực dân Pháp tổ chức
Hội đồng luật sư ở Hà Nội và Sài Gòn cho những người đã tốt nghiệp luật khoa và đã tập
sự 5 năm trong một Văn phòng biện hộ của luật sư thực thụ.

Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 46/SL
ngày 10/10/1945 tổ chức đoàn thể luật sư. Quyền bào chữa của bị can, bị cáo được ghi
nhận ngay trong Sắc lệnh về Toà án ngày 13/9/1945 của Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt
Nam dân chủ cộng hoà. Do hoàn cảnh kháng chiến, một số luật sư tham gia cách mạng,
một số luật sư chuyển sang hoạt động ở lĩnh vực khác, nghề luật sư thời kỳ này hầu như
không được chú trọng.

Sau hoà bình lập lại, để đảm bảo quyền bào chữa của bị cáo đã được Hiến pháp 1959 quy
định, năm 1963, Văn phòng luật sư thí điểm được thành lập lấy tên là Văn phòng luật sư
Hà Nội.

III.Nghề luật sư hiện tại: Vấn đề xây dựng một đội ngũ luật sư đạo đức và tài năng.

Luật sư ở nước ta hiện nay còn đang thiếu và mới chỉ đáp ứng một phần nhỏ nhu cầu của
xã hội. Thống kê cho thấy chỉ khoảng dưới 10% vụ án có luật sư. Số luật sư lại chủ yếu
tập trung tại các đô thị lớn (riêng ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh chiếm hơn 50 %
tổng số luật sư toàn quốc). Luật sư còn rất thiếu ở vùng sâu, vùng xa.

Việt Nam đang trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế và hoà mình vào dòng chảy toàn
cầu hoá, pháp luật Việt Nam nói chung và pháp luật về luật sư nói riêng đã không ngừng
hoàn thiện, sửa đổi bổ sung để tạo cơ sở pháp lý cho việc phát triển đội ngũ luật sư và
nâng cao hiệu quả hoạt động của đội ngũ luật sư. Chiến lược cải cách tư pháp đến năm
2020 đặt ra yêu cầu cấp bách là đất nước cần có một đội ngũ luật sư đạo đức và tài năng.
Nghĩ về nghề luật sư hôm nay, chúng ta thấy nổi lên hai vấn đề chính đó là vấn đề đạo
đức nghề nghiệp và vấn đề nâng cao kỹ năng nghề nghiệp của luật sư.

(i) Đạo đức nghề nghiệp của luật sư: Khi bàn về đạo đức nghề nghiệp luật sư, có nhiều ý
kiến và quan niệm khác nhau. Có ý kiến cho rằng, trong xã hội nghề nào cũng đòi hỏi
người làm nghề phải có lương tâm, trách nhiệm đối với nghề của mình trước xã hội. Bởi
vậy không cần phải đặt đạo đức nghề nghiệp luật sư thành vấn đề riêng. Ý kiến khác lại
cho rằng, trong thời buổi kinh tế thị trường, mọi nghề trong xã hội đều mang tính cạnh
tranh và nhằm thu lợi nhuận cao nhất. Nghề luật sư là một nghề giống như các nghề khác,
cũng phải chịu sự chi phối của quy luật thị trường do đó đặt đạo đức nghề nghiệp luật sư
thành một vấn đề riêng biệt là hoàn toàn vô lý.

(ii) Người ta bất cứ làm nghề gì cũng đều phải có lương tâm, trách nhiệm đối với công
việc của mình. Nhưng mỗi ngành nghề khác nhau đều có tính chất khác nhau, đòi hỏi
lương tâm, trách nhiệm, đạo đức của người làm nghề có sự khác nhau. Nhưng nghề luật
sư lại có đặc thù riêng, đó là phải gắn liền với các lĩnh vực pháp luật của Nhà nước trong
khi đó các ngành nghề khác chỉ quan hệ đến một vài lĩnh vực pháp luật có liên quan mà
thôi.

Luật sư là nghề nghiệp đặc thù, đòi hỏi sự “trong sáng về đạo đức”. Người làm công việc
này phải tuân theo những quy tắc đạo đức hành nghề bắt buộc, có như vậy mới nâng cao
được uy tín và vị thế trong xã hội. Tuy nhiên, giới luật sư Việt Nam lại chưa có những
quy định chung này. Hiện chỉ tồn tại quy tắc riêng lẻ do mỗi đoàn luật sư tự ban hành, áp
dụng với các thành viên của mình. Rõ ràng là cần phải có bộ quy tắc hành nghề luật sư để
đưa ra chuẩn mực điều chỉnh hoạt động của luật sư.

(iii) Theo chúng tôi nghĩ, có thể đưa ra những nguyên tắc chung sau: Trong đạo đức hành
nghề, luật sư phải trung thành với khách hàng, không tiết lộ thông tin khách hàng cho bất
cứ ai, bất cứ cơ quan nào; không đồng lõa và giúp khách hàng làm những việc sai trái.
Liên quan đến việc tiếp nhận vụ việc từ khách hàng, luật sư phải tuân theo các quy tắc:
Không mâu thuẫn quyền lợi (không đại diện cho hai khách hàng trong cùng một vụ việc
có quyền lợi đối lập). Luật sư phải từ chối các vụ việc không thuộc lĩnh vực của mình và
giúp khách hàng tìm các luật sư có lĩnh vực chuyên môn phù hợp. Luật sư cũng không
được buôn bán cổ phiếu, không làm ăn chung với khách hàng…

(iv) Nâng cao và đổi mới kỹ năng hành nghề luật sư: Việc hành nghề của luật sư hôm nay
đòi hỏi phải có sự nâng cao và đổi mới về kỹ năng hành nghề để bắt kịp những yêu cầu
của tiến trình đổi mới và hội nhập.

Trong tổng số gần 4.000 luật sư Việt Nam hiện nay, kể cả luật sư tập sự, chỉ có khoảng 50
người hiểu biết về luật pháp quốc tế, có thể hỗ trợ doanh nghiệp trong những giao dịch
thương mại quốc tế. Song thực sự chỉ chừng 10-15 luật sư là đáp ứng được các tiêu chuẩn
pháp luật thế giới (Những tiêu chuẩn pháp luật thế giới được hiểu là các kiến thức pháp
luật chung, uy tín, khả năng tranh tụng ở tòa nước ngoài, được khách hàng nước ngoài tin
tưởng, khả năng ngoại ngữ…)
Từ lâu nhiều chuyên gia đã cảnh báo rằng Việt Nam cần phải có một đội ngũ luật sư
chuyên về hội nhập kinh tế thế giới, nếu không doanh nghiệp trong nước dễ lâm vào tình
trạng “kiếm củi 3 năm đốt 1 giờ”. “Vấn đề ở đây là hội nhập toàn cầu, nếu doanh nghiệp
không được trang bị tốt những kiến thức về luật lệ chung của thế giới, những rào cản, sân
chơi riêng của từng quốc gia… thì sẽ dễ vấp những vụ tranh tụng dẫn đến thua kiện, phá
sản, mất thị trường nhanh chóng.

Nhiều vụ việc tranh chấp đã xảy ra như vụ Bỉ bắt giữ Phó giám đốc Công ty Afiex Bửu
Huy theo yêu cầu của Mỹ, sự cố tàu Cần Giờ bị Tanzania bắt giữ, Hàng không VN thua
kiện tại Italy…, chính là hậu quả của tình trạng ngại trang bị kiến thức pháp luật quốc tế
thông qua luật sư trong giới doanh nghiệp, cũng như thể hiện sự yếu và thiếu của đội ngũ
luật sư trong nước.

Kết quả khảo sát cũng cho thấy chất lượng đội ngũ luật sư hiện nay chưa đáp ứng được
yêu cầu về cải cách tư pháp và hội nhập kinh tế quốc tế. Hệ thống pháp luật không rõ
ràng, đồng bộ, thiếu; cơ chế tranh tụng tại tòa khá mới mẻ so với luật sư Việt Nam; thiếu
luật sư chuyên sâu về các lĩnh vực đầu tư, kinh doanh, thương mại như sở hữu trí tuệ, tài
chính ngân hàng, bảo hiểm, hàng hải, thương mại quốc tế, giải quyết tranh chấp thương
mại quốc tế…

Trên thực tế, các luật sư Việt Nam tham gia rất hạn chế trong giải quyết các vụ kiện có
liên quan đến yếu tố nước ngoài. Đa phần luật sư của chúng ta chỉ tham gia bào chữa tại
các phiên toà xử các vụ án dân sự, hình sự, lao động, kinh tế và các quan hệ khác ở trong
nước. Việc tham gia giải quyết những tranh chấp có yếu tố nước ngoài đối với luật sư Việt
Nam hiện đang còn những khó khăn.

Nguyên nhân của tình trạng này là do việc định hướng đào tạo đội ngũ luật sư về kinh tế,
thương mại, vận tải, dịch vụ quốc tế có thể nói là yếu và rất hạn chế. Bên cạnh đó, đối với
các luật sư Việt Nam có một cái rào cản rất lớn là ngoại ngữ. Hiện những luật sư thông
thạo ngoại ngữ để có thể tham gia các vụ kiện quốc tế mới chỉ đếm được trên đầu ngón
tay.

Bộ Tư pháp và các cơ quan có thẩm quyền ở Việt Nam đang có kế hoạch để đào tạo,
chuẩn bị cho đội ngũ luật sư Việt Nam có thể tham gia vào được các vụ kiện, các vụ tranh
chấp quốc tế giữa các doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức Việt Nam với các doanh nghiệp, cơ
quan, tổ chức nước ngoài. Vấn đề đặt ra là phải làm gì để tới đây, chúng ta có thể chủ
động và khẳng định được vai trò của mình trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.

Theo chúng tôi cần phải làm rất nhiều việc, cần phải có những biện pháp tổng thể nhưng
trước mắt có thể thực hiện ngay hai việc sau: Thứ nhất, trong các lớp đào tạo cấp chứng
chỉ hành nghề luật sư, ngoài nội dung có tính chất kỹ năng nghề nghiệp thì phải cung cấp
thêm những kiến thức như: thương mại, tư pháp quốc tế, kinh nghiệm giải quyết các vụ
tranh chấp và những vấn đề liên quan đến yếu tố nước ngoài…. Thứ hai, hiện nay chúng
ta có nhiều văn phòng luật sư, công ty luật sư nước ngoài đăng ký hoạt động tại Việt Nam.
Thông qua hợp tác và thực tập tại các văn phòng này, các luật sư Việt Nam sẽ có điều
kiện học hỏi, trao đổi và tham gia vào các vụ việc giải quyết tranh chấp thương mại có
yếu tố nước ngoài. Ngoài ra, như chúng ta biết, Bộ Tư pháp đang xây dựng đề án trình với
Chính phủ để chọn lựa một số luật sư giỏi, có khả năng ngôn ngữ để gửi đi đào tạo ngắn
hạn để về phục vụ cho đất nước.

IV.Trong tương lai: Luật sư cần phải làm gì?

Theo đánh giá sơ bộ, Việt Nam phải có được từ 18.000 tới 20.000 luật sư hành nghề, tức
là gấp 5 lần số luật sư hiện nay. Không thể có phép mầu nào thực hiện được điều này một
cách nhanh chóng, theo suy nghĩ của chúng tôi, lộ trình đào tạo để có được một đội ngũ
luật sư đạo đức và tài năng phải qua hàng chục năm. Trước mắt, theo chúng tôi trong thời
gian sắp tới, mỗi luật sư cần phải có những định hướng cụ thể cho mình để đáp ứng những
yêu cầu của công cuộc hội nhập và để đáp ứng những đòi hỏi của cuộc sống.

(i) Luật sư cần chuyên môn hoá lĩnh vực hoạt động của mình: Làn sóng thương mại và
đầu tư mới đổ vào Việt Nam trong thời gian hậu WTO sẽ gia tăng mạnh mẽ. Các tranh
chấp liên quan đến thương mại và đầu tư chắc chắn ngày càng nhiều và phức tạp. Do đó
để hạn chế rủi ro, doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ phải có ý thức
“phòng bệnh” thông qua các luật sư. Điều này bắt buộc các luật sư phải chuyên môn hoá
hoạt động của mình.

Vẫn biết rằng người hành nghề luật sư cần am hiểu về mọi lĩnh vực pháp luật, nhưng
trong xu hướng hội nhập hiện nay các vụ án hình sự và phi hình sự rất đa dạng, xuất hiện
trên mọi lĩnh vực của đời sống cho nên luật sư cần xác định cho mình lĩnh vực tranh tụng
chuyên sâu để hành nghề. Bên thềm hội nhập, chúng ta cũng không thể đi khác với xu
hướng hành nghề của các luật sư trên thế giới hiên nay.

Luật sư của các nước theo hệ thống pháp luật Civil Law hay Common Law đều hành nghề
theo hướng chuyên môn hoá một lĩnh vực cụ thể. Ở các nước đó chúng ta không xa lạ gì
khi nghe đến tên gọi “luật sư hình sự”, “luật sư về thừa kế”, “luật sư về hôn nhân & gia
đình”, “luật sư về ngân hàng”, “luật sư về chứng khoán”, “luật sư về bảo hiểm”, “luật sư
về bất động sản”, thậm chí có “luật sư về bồi thường thiệt hại”, “luật sư chuyên về tai nạn
giao thông”….

Khách hàng của luật sư hôm nay không chỉ dừng lại là những khách hàng mang quốc tịch
Việt Nam mà họ còn là khách hàng mang quốc tịch của nhiều quốc gia khác. Do vậy,
trong bối cảnh hiện nay, các luật sư cần chủ động, linh hoạt hoàn thiện mọi điều kiện hành
nghề cần thiết cho bản thân để mở rộng đối tượng phục vụ cho mình, hướng tới phục vụ
cho cả các khách hàng nước là cá nhân, tổ chức nước ngoài.

(ii) Luật sư cần cập nhật kiến thức pháp luật mới: Luật sư phải căn cứ vào lĩnh vực
chuyên sâu hành nghề của mình là gì để đáp ứng yêu cầu cập nhật kiến thức pháp luật mới
(đặc biệt là pháp luật quốc tế) và các kiến thức ngoại ngữ, tin học. Điều này sẽ giúp cho
luật sư hướng tới cơ hội tham gia tranh tụng tốt tại các phiên toà của các vụ việc có yếu tố
nước ngoài hay xét xử tại nước ngoài. Xu hướng hội nhập buộc các luật sư trẻ của chúng
ta phải tự hoàn thiện đầy đủ các kiến thức chuyên môn cũng như khả năng ngoại ngữ, tin
học để tự tin hành nghề, độc lập tranh tụng tại bất cứ đâu, cho dù nơi xét xử nằm ngoài
biên giới Việt Nam.

Chúng ta sẽ không thể có các luật sư tranh tụng các vụ kiện kinh doanh – thương mại giỏi
trên thương trường quốc tế nếu luật sư của chúng ta không có khả năng ngoại ngữ lưu loát
khi tranh tụng, không hiểu biết về quy tắc UNCITRAL, về pháp luật của WTO liên quan
tới GATT, GATS, TRIMS, TRIPS…cũng như pháp luật của các nước có chủ thể tham gia
tố tụng hữu quan . Ngày nay, hình ảnh nhiều luật sư sử dụng thành thạo các phần mềm
ứng dụng của công nghệ thông tin như truy cập website, gửi nhận thư điện tử, truyền dữ
liệu là hình ảnh, âm thanh…..không còn xa lạ với chúng ta khi nhìn thấy họ tác nghiệp và
hành nghề.

Vì vậy, việc đầu tiên để các luật sư nâng cao kỹ năng tranh tụng của mình trong các vụ án
hình sự hay phi hình sự là yêu cầu chuyên môn hoá lĩnh vực tranh tụng, hoàn thiện kiến
thức chuyên môn, khả năng ngoại ngữ và tin học trước khi tiếp nhận vụ việc từ khách
hàng và chuẩn bị tham gia phiên toà.

Bên cạnh việc chuyên môn hoá lĩnh vực tranh tụng, giỏi chuyên môn, giỏi ngoại ngữ, tin
học luật sư cần phải đổi mới kỹ năng tiếp xúc và làm việc với khách hàng khi nhận bào
chữa hay bảo vệ quyền lợi hợp pháp của họ. Để làm được điều này, các văn phòng luật sư
cần chuẩn bị các mẫu giấy tờ rõ ràng, mang tính chuyên nghiệp, đơn giản mà không mang
nặng tính hành chính để giúp cho việc giao kết hợp đồng dịch vụ pháp lý với khách hàng
được nhanh chóng, thuận tiện.
Bên cạnh đó, cũng cần công khai Bảng tính mức thù lao, danh sách các luật sư được
chuyên môn hoá trong từng lĩnh vực tranh tụng cụ thể, tiến trình tố tụng để giải quyết yêu
cầu của khách hàng để khách hàng được biết trước khi ký Hợp đồng. Kỹ năng tiếp xúc
khách hàng hiện nay buộc luật sư phải kết hợp và coi khách hàng như một người cộng sự
trong quá trình giải quyết vụ việc của họ. Điều này cũng đồng nghĩa với việc luật sư cần
có sự nhận thức mới về quan hệ giữa luật sư với khách hàng.

Đã qua đi cái thời mà khách hàng chẳng hiểu biết và cũng không cần biết về vụ việc, miễn
là giao “trọn gói” cho luật sư thực hiện yêu cầu giúp đỡ pháp lý của mình. Tham gia tranh
tụng hôm nay, luật sư chúng ta cần phải nhận thức là chúng ta đang “hợp tác” với khách
hàng chứ không phải khách hàng đang “nhờ vả” chúng ta để chúng ta cho mình cái quyền
quyết định mọi thứ không cần hỏi ý kiến khách hàng ngay cả khi họ là những người trình
độ văn hoá thấp, thiếu hiểu biết pháp luật. Cho nên, luật sư trong quá trình trao đổi với
khách hàng cần thông tin thường xuyên về tình hình công việc luật sư đang thực hiện, đặc
biệt cần phải làm cho khách hàng nhận diện bản chất của vụ việc một cách trung thực, rõ
ràng.

(iii) Đổi mới tư duy về quyền con người: Luật sư tham gia tranh tụng hôm nay phải nhận
thức và đổi mới tư duy về quyền con người – bởi quyền con người luôn được tôn trọng và
ngày một nâng cao cho dù thân chủ chúng ta là bị cáo, người bị hại hay các đương sự. Do
vậy, đối với việc tham gia tranh tụng trong vụ án hình sự luật sư đừng quá lệ thuộc vào
kết luận điều tra, cáo trạng hay quyết định đưa vụ án ra xét xử của Toà án mà có tư duy
làm sao để bảo vệ thân chủ tối đa – hãy quyết định đường hướng giải quyết vụ việc trong
nhận thức của luật sư trên cơ sở luật định mặc dù trước đó đã có những chứng cứ buộc tội,
bất lợi cho thân chủ.

Còn trong tố tụng phi hình sự, xu hướng hiện đại cho thấy các vụ án đều hướng đến vấn
đề hoà giải mà không cần tới việc xét xử của Toà án. Do vậy, đối với tranh tụng phi hình
sự, bên cạnh việc quan tâm và bảo vệ lợi ích tối đa cho thân chủ luật sư phải nhận diện
đúng yêu cầu của thân chủ, bản chất của vụ việc để có sự đánh giá khách quan và hướng
thân chủ đến với hoà giải nếu điều đó cũng là mong muốn của thân chủ, hoặc thân chủ
không mong muốn nhưng việc xét xử sau này sẽ bất lợi cho họ nếu căn cứ theo quy định
pháp luật…

Chúng tôi cho rằng một xã hội dân sự có nền tư pháp dân chủ, văn minh là xã hội không
phải có thật nhiều các bản án được tuyên thấu tình, đạt lý mà phải là xã hội ít tranh chấp,
nếu có tranh chấp thì trước tiên phải được giải quyết bằng con đường hoà giải mà các bên
vẫn đạt được quyền lợi cho mình chứ không chỉ tưu duy theo lối quyền lợi của mình chỉ
có thể đạt được khi có bản án có hiệu lực của cơ quan Toà án. Đây cũng là xu hướng
chung hiện nay được giới luật sư của các nước đang phát triển coi trọng và áp dụng.

(iv) Hoàn thiện kỹ năng tranh tụng: Xu hướng tranh tụng gần đây và đặc biệt sau khi Việt
Nam gia nhập WTO buộc chúng ta phải tuân thủ các cam kết quốc tế và pháp luật quốc tế,
chắc chắn vấn đề tranh tụng công khai tại phiên toà sẽ là con đường xác định sự công
bằng, lẽ phải để tuyên án. Do vậy, các luật sư cần phải tích cực tham gia, tham dự các
phiên toà nhiều hơn để đúc kết kinh nghiệm cho mình; đồng thời ngoài việc lập sẵn cho
mình kế hoạch xét hỏi, cần biết dự đoán các vấn đề cần tranh tụng công khai tại phiên toà
trên cơ sở nghiên cứu hồ sơ, đánh giá chứng cứ kết hợp với quan điểm bào chữa, bảo vệ
của luật sư.

Để làm được điều này, các luật sư cần phải giành thời gian để tự hùng biện quan điểm bào
chữa hay bảo vệ của mình đối với yêu cầu của thân chủ. Kỹ năng nói, tốc độ nói, giọng
nói, phong thái, tư thế đi lại tại phiên toà là những vấn đề bắt buộc luật sư phải quan tâm
và xử lý tốt mới giúp luật sư tự tin. Các luật sư phải đặc biệt quan tâm nhiều hơn kỹ năng
của mình đối với phần tranh luận công khai tại phiên toà. Do vậy bài bào chữa hay bản
luận cứ nên để dưới dạng “mở” có thể thay đổi linh hoạt cho phù hợp với diễn biến phiên
toà chứ không nên theo cách chuẩn bị cổ điển “đóng” bằng cách viết sẵn để đọc và trình
bày trước Hội đồng xét xử.

Luật sư của các nước theo pháp luật Common Law mặc dù chịu sự điều chỉnh rất lớn của
các “án lệ” trước đó, nhưng không vì thế mà họ không thể hiện tốt kỹ năng tranh luận để
bảo vệ tối đa cho thân chủ mình, trái lại tại các phần tranh luận luật sư luôn là người chủ
động, điều khiển phần tranh luận theo đúng mục tiêu cần đạt tới của mình.

Suy nghĩ về nghề luật sư, chia sẻ với những nghĩ suy của những luật sư có kinh nghiệm và
tâm huyết với nghề, chúng ta nhìn nhận về nghề luật sư trong quá khứ để hiểu nghề luật
sư hiện tại và hướng tới nghề luật sư trong tương lai như một nghề cao quý, một nghề
được cả xã hội tôn vinh.
Nguồn: http://hungngominh.wordpress.com/

You might also like