Professional Documents
Culture Documents
1
BT: Phân tích tình hình tài chính
- Sản xuất kinh doanh, chế biến và nhập khẩu thủy hải sản đông lạnh, nông sản
thực phẩm và vật tư nông nghiệp
2
BT: Phân tích tình hình tài chính
3
BT: Phân tích tình hình tài chính
4
BT: Phân tích tình hình tài chính
ĐVT : Đồng
5
BT: Phân tích tình hình tài chính
6
BT: Phân tích tình hình tài chính
7
BT: Phân tích tình hình tài chính
Lựa chọn điểm phân tích xuất phát từ khả năng sinh lợi của vốn chủ (ROE). Thông số
này dao động khá mạnh trong 3 năm gần đây, đã có lúc vượt qua con số chung của ngành
(22%, 15,5% so với 7%), và năm 2007 xuống thấp hơn so với ngành (6,1%). Trong năm
2006 cứ 100 đồng vốn chủ tạo ra 15,5 đồng lợi nhuận, so với năm 2005 thì đã giảm 6,5
đồng. Năm 2007 khả năng sinh lợi trên vốn chủ giảm, cụ thể là năm 2007 cứ 100 đồng
vốn chủ tạo ra 6,1 đồng lợi nhuận (giảm 9,4 đồng so với năm 2006). Nguyên nhân dẫn
đến tình trạng này là vốn chủ tăng nhiều nhưng lợi nhuận tăng không đáng kể.
Như vậy, qua phân tích ta thấy năm 2005, 2006 hiệu quả sử dụng vốn chủ tốt hơn nhiều
so với năm 2007.
Ta thấy, khả năng sinh lợi trên tài sản của công ty cao hơn so với tình trạng chung toàn
ngành. Năm 2006 cứ 100 đồng đầu tư vào tài sản thì đem lại 10 đồng lợi nhuận, so với
năm 2005 thì đã tăng 1,1 đồng. Chứng tỏ năm 2006 công ty sử dụng tài sản hiệu quả hơn
so với năm 2005. Tuy nhiên, năm 2007 khả năng sinh lợi trên tài sản giảm, cứ 100 đồng
đầu tư vào tài sản tạo ra 4,5 đồng lợi nhuận (giảm 5,5 đồng so với năm 2006).
Vòng quay tổng tài sản của công ty giảm dần cho thấy hiệu quả tương đối của công ty
trong việc sử dụng tổng tài sản để tạo ra doanh thu giảm dần
Nhận thấy, lợi nhuận gộp biên của công ty vượt xa con số chung của ngành (2%).
Mặt khác, lợi nhuận ròng biên của công ty thấp hơn so với điều kiện chung của ngành.
Lợi nhuận ròng biên năm 2006 là 4,9%, điều này có nghĩa là công ty thu được 4,9 đồng
trên 100 đồng doanh số (tăng 2,1 đồng so với năm 2005). Tuy nhiên, năm 2007 lợi nhuận
ròng biên giảm (giảm 1,8 đồng so với năm 2006). Nguyên nhân là do năm 2007 chi phí
bán hàng và chi phí quản lí doanh nghiệp tăng tương đối so với doanh số và chi phí tài
chính tăng lên.
Các hoạt động đầu tư của công ty đã tạo ra những thay đổi tích cực trong cấu trúc tài
sản cố định. Nợ đã được huy động nhiều hơn. Điều này có thể kiểm chứng thông qua
phân tích khối và phân tích chỉ số về các báo cáo tài chính.
Qua số liệu thông số nợ cho thấy thời kì 2005-2007 mức tài trợ của cổ đông càng cao và
như vậy lớp đệm an toàn bảo vệ các chủ nợ trong trường hợp giá trị tài sản bị giảm hay bị
thua lỗ càng cao.
Trong năm 2006 thông số nợ trên vốn chủ là 56% tức là so với năm 2005 đã giảm
93%, năm 2007 giảm còn 36% (giảm 20% so với năm 2006) cho biết chủ nợ cung cấp
0,36 đồng tài trợ so với mỗi đồng vốn mà cổ đông cung cấp. Tỷ lệ này cho chủ nợ một
cảm giác an toàn vì công ty không sử dụng nhiều vốn vay.
Thông số nợ trên tài sản của công ty cũng giảm dần. Một lần nữa tỷ lệ này cho thấy rủi ro
tài chính của công ty thấp dần.
Qua 3 năm ta thấy khả năng đảm bảo lãi vay của công ty năm 2006 tăng 3,9 lần so với
năm 2005 nhưng năm 2007 giảm còn 3 lần (giảm 3,4 lần so với năm 2006) nhưng con số
này vẫn cho thấy công ty có thể đáp ứng khả năng chi trả tiền lãi và tạo ra lớp đệm an
toàn đối với người cho vay.
Ta thấy khả năng thanh toán hiện thời của công ty đã được cải thiện trong năm 2006,
tuy năm 2007 có giảm nhưng không đáng kể. Năm 2006, khả năng thanh toán hiện thời là
1,65 tức là tăng 0,56 lần so với năm 2005, nguyên nhân tăng là do tốc độ tăng của tài sản
lưu động nhanh hơn các khoản nợ và năm 2007 giảm 0,03 lần so với năm 2006. Như vậy
dựa vào kết quả trên thì trong năm 2007 cứ 1 đồng nợ ngắn hạn có 1,62 đồng tài sản lưu
động đảm bảo. Điều này chứng tỏ mức độ rủi ro trong kinh doanh công ty không lớn mặt
8
BT: Phân tích tình hình tài chính
khác đây là dấu hiệu số tài sản lưu động dư thừa không tạo thêm doanh thu sẽ tăng và
như vậy công ty sử dụng vốn ít hiệu quả hơn.
Trong tài sản lưu động có những khoản mục có khả năng thanh khoản cao và nhưng
khoản mục có khả năng thanh khoản kém, nên khả năng thanh toan hiện thời vẫn chưa
phản ánh đúng năng lực thanh toán của công ty. Để đáng giá kỹ hơn về khả năng thanh
toán nợ ngắn hạn ta tiếp tục đi sâu vào phân tích khả năng thanh toán nhanh.
Khả năng thanh toán nhanh năm 2006 tăng 1 lần so với năm 2005, tuy nhiên khả năng
thanh toán nhanh năm 2007 giảm còn 0,83 lần(giảm 0,24 lần so với năm 2006). Vào năm
2007 có 0,83 đồng tài sản có khả năng thanh khoản cao đảm bảo cho nợ ngắn hạn, thấp
nhất trong 3 năm nguyên nhân là do hàng tồn kho đang được tích lũy khá cao. Điều này
thể hiện khả năng thanh toán của công ty ở năm 2007 ở tình trạng chưa tốt. Do đó trong
những năm tới công ty cần phải nâng dần hệ số này lên.
Cụ thể là thông số vòng quay hàng tồn kho đang giảm và chu kỳ chuyển hóa hàng tồn
kho đang tăng dần. Số vòng luân chuyển hàng tồn kho trong năm 2006 là 10,8 vòng, mỗi
vòng là 34 ngày. So với năm 2005 thì tốc độ luân chuyển hàng tồn kho giảm 1,7 vòng và
mỗi vòng tăng 5 ngày.
Giai đoạn từ năm 2006 – 2007: tốc độ luân chuyển hàng tồn kho trong giai đoạn này
giảm mạnh chỉ còn 6,1 vòng trong năm 2007 tức là đã giảm 4,7 vòng, mỗi vòng tăng 26
ngày so với năm 2006.
Như vậy nhìn chung qua 3 năm 2005 – 2007 tốc dộ luân chuyển hàng tồn kho có xu
hướng giảm dần thể hiện công ty đang duy trì nhiều lượng hàng tồn kho. Công ty cần giải
phóng vốn dự trữ để xoay vòng vốn nhanh tạo điều kiện thuận lợi về vốn để mở rộng sản
xuất kinh doanh góp phần tăng lợi nhuận khi đang hoạt động có lãi. Điều này đòi hỏi
công ty phải quan tâm hơn nữa để cải thiện hoạt động này.
Tốc độ luân chuyển khoản phải thu năm 2007 là 8,8 vòng mỗi vòng là 41,3 ngày không
có sự thay đổi nhiều so với năm 2006 và 2005. Điều này cho thấy công ty tình hình thu
hồi nợ của công ty chưa được chú trọng nhiều, vốn của công ty bị tồn đọng và bị các
công ty khác chiếm dụng.
Chính những yếu tố tích cực như đã nêu ở trên đã khiến cho thị trường đánh giá cao cổ
phiếu của công ty. Thông số giá trên thu nhập (P/E) trong những năm gần đây vẫn đang
tăng liên tục và bỏ khá xa tình trạng trì trệ chung của ngành.
Thời kì 2005 – 2007. Thu nhập trên mỗi cổ phiếu vào năm 2006 là cao nhất 5.910
đồng/cp tăng 561 đồng so với năm 2005. Tuy nhiên, năm 2007 thì giảm còn 2.957
đồng/cp (giảm 2953 đồng)
Tóm lại,.nguồn tài trợ qua các năm đều có xu hướng tăng cả về vốn chủ và vốn vay.
Nhưng qua phân tích cho thấy tính tự chủ trong kinh doanh của công ty tăng lên nên giảm
rủi ro trong kinh doanh của công ty.
Vấn đề cần quan tâm trong tương lai là cải thiện khả năng quản trị về khoản phải thu
khách hàng và tồn kho. Để quản trị tốt khoản phải thu công ty cần phải có chính sách tín
dụng tốt, chính sách tín dụng liên quan đến mức độ chất lượng và rủi ro của doanh thu.
Công ty cần chú trọng hơn vào năng cao khả năng sinh lời của công ty cụ thể là tiếp tục
nâng cao doanh thu, lợi nhuận và nâng cao khả năng sinh lời trên vốn sản xuất kinh
doanh. Để nâng cao khả năng sinh lời thì biện pháp hữu hiệu hơn cả là phải gia tăng lợi
nhuận. Việc gia tăng lợi nhuận chịu ảnh hưởng của 2 nhân tố chủ yếu là doanh thu và chi
phí. Như vậy để gia tăng lợi nhuận công ty phải tăng doanh thu và giảm chi phí.
9
BT: Phân tích tình hình tài chính
Qua bảng phân tích ở dưới ta thấy, qui mô của công ty ngày càng được mở rộng. Bằng
chứng là tài sản ngắn hạn và tài sản dài hạn tăng dần qua các năm từ 2005-2007. Năm
2006 TSNH tăng 82,3% so với năm 2005, năm 2007 tăng 56,7% so với năm 2006. TSDH
năm 2006 tăng 91,7% so với năm 2005, năm 2007 tăng 288,3%. Qua phân tích khối,
trong cơ cấu tổng tài sản cho thấy tỷ trọng tài sản ngắn hạn và đầu tư ngắn hạn có xu
hướng giảm dần và tỷ trọng tài sản dài hạn có xu hướng tăng dần. Các khoản phải thu
tăng dần qua các năm nhưng tỷ trọng khoản phải thu có xu hướng giảm dần trong cơ cấu
10
BT: Phân tích tình hình tài chính
tổng tài sản đây là một dấu hiệu tốt và lượng hàng tồn kho tăng nhanh cụ thể là năm 2006
lượng hàng tồn kho tăng 77,7 % so với năm 2005 và năm 2007 tăng đến 146,% so với
năm 2006 và chiếm tỷ trọng tương đối cao trong cơ cấu tổng tài sản lưu động. Vì vậy,
công ty cần có biện pháp giảm lượng hàng tồn kho.
Đầu tư của công ty vào tài sản dài hạn có xu hướng tăng dần, điều này thể hiện sự chú
trọng của công ty vào đầu tư đổi mới tài sản giúp cho cơ sở vật chất của doanh nghiệp
ngày càng tăng cường và qui mô về năng lực sản xuất ngày càng được mở rộng.
Năm 2007, công ty đã có sự thay đổi trong cơ cấu tài sản dài hạn khi chú trọng vào tăng
đầu tư tài chính dài hạn, sự gia tăng này sẽ tạo nguồn lợi tức trong dài hạn cho công ty.
Nguồn tài trợ qua các năm có xu hướng tăng cả về vốn chủ lẫn vốn vay. Năm 2006, nợ
phải trả tăng 12,1% so với năm 2005 và năm 2007 tăng 35,9% so với năm 2006, công ty
tiến hành tăng dần nợ ngắn hạn và giảm dần nợ dài hạn.
Tuy nhiên, xét về mặt kết cấu trong tổng nguồn vốn thì tỷ lệ nợ của doanh nghiệp có xu
hướng giảm. Nợ dài hạn chiếm tỷ trọng cao hơn rất nhiều so với nợ ngắn hạn.
Quan sát giá trị nguồn vốn chủ sở hữu năm 2006 tăng 195,1% so với năm 2005 và năm
2007 tăng mạnh 315,9% so với năm 2006. Như vậy công ty đã không sử dụng đòn cân nợ
để tăng lợi nhuận. Chứng tỏ mức độ rủi ro trong kinh doanh của công ty thấp dần. Điều
này đồng nghĩa với mức tự chủ trong kinh doanh của công ty càng tăng.
11
BT: Phân tích tình hình tài chính
Lợi nhuận sau thuế năm 2006 tăng 108,5% so với năm 2005 và năm 2007 giảm 38,5% so
với năm 2006. Do vậy tỉ trọng lợi nhuận sau thuế trong tổng doanh thu năm 2006 tăng
đến 1,1% so với năm 2005 và năm 2007 giảm còn 3,1% (giảm 0,8% so với năm 2006)
Do đó trong những năm tới công ty cần có những biện pháp nhằm tiết kiệm chi phí, hạ
giá thành để nâng cao lợi nhuận.
12
BT: Phân tích tình hình tài chính
Từ bảng phân tích về thu nhập trên tổng tài sản (ROA) ta thấy , trong năm 2006 cứ 100
đồng đầu tư vào tài sản thì đem lại 9,9 đồng lợi nhuận, so với năm 2005 thì đã tăng 1,2
đồng. Chứng tỏ năm 2006 công ty sử dụng tài sản hiệu quả hơn so với năm 2005. Năm
2007 hiệu quả sử dụng tài sản của công ty giảm, bằng chứng là cứ 100 đồng đầu tư vào
tài sản đem lại cho công ty 4,5 đồng (giảm 5,4 đồng so với năm 2006). Do đó trong
những năm tới công ty cần phải nâng dần thu nhập trên tổng tài sản lên bằng cách đưa ra
những biện pháp hữu hiệu nhằm tăng cường tốc độ chuyển hóa của tài sản để tạo ra
doanh thu, đồng thời nâng dần lợi nhuận ròng biên.
Với cách tiếp cận Dupont, chúng ta thấy trong năm 2006 cứ 100 đồng vốn chủ tạo ra 15,4
đồng lợi nhuận, so với năm 2005 thi đã giảm 6,2 đồng. Nguyên nhân giảm là do lợi
nhuận ròng biên tăng, vòng quay tổng tài sản giảm và giảm sử dụng nợ.
Năm 2007 lợi nhuận trên vốn chủ giảm, cụ thể cứ 100 đồng vốn chủ sở hữu thì đem lại
6,1 đồng lợi nhuận (giảm 9,3 đồng so với năm 2006). Nguyên nhân dẫn đến tình trạng
này là do lợi nhuận ròng biên giảm, vòng quay tổng tài sản giảm, số nhân vốn chủ cũng
giảm.
Do đó trong những năm tới công ty cần phải nâng dần hiệu quả sử dụng vốn chủ lên bằng
cách nâng vòng quay tài sản và lợi nhuận ròng biên.
13