You are on page 1of 16

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN

KHOA MÔI TRƯỜNG


------oOo------

BÁO CÁO TIỂU LUẬN

TÌM HIỂU THỦY ĐIỆN VÀ CÁC


VẤN ĐỀ MÔI TRƯỜNG LIÊN QUAN

Nhóm Cao học Quản lý môi trường K19:


BÙI THỊ TÂM PHƯƠNG
HOÀNG TRƯỜNG GIANG
NGUYỄN THỊ BÍCH THỦY
NGUYỄN HỮU TÂM

TP HỒ CHÍ MINH, THÁNG 12– 2009


MỤC LỤC

CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ THỦY ĐIỆN

I.1. Giới thiệu...............................................................................................3

I.2. Ưu điểm và tác động tiêu cực của thủy điện...............................................4

I.2.a Ưu điểm.......................................................................................................4

I.2.b. Các tác động tiêu cực của thủy điện đến môi trường..............................5

CHƯƠNG II: TIỀM NĂNG VÀ VAI TRÒ CỦA THỦY ĐIỆN

I.1. Tiềm năng của thủy điện trên thế giới và ở Việt Nam:...........................10

I.2. Vai trò của thủy điện trong cơ cấu năng lượng quốc gia.........................11

CHƯƠNG III: CÁC VẤN ĐỀ MÔI TRƯỜNG LIÊN QUAN ĐẾN TÁC ĐỘNG
CỦA THỦY ĐIỆN Ở VIỆT NAM.............................................................................14
Kết luận.............................................................................................................................16
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ THỦY ĐIỆN

I.1. Giới thiệu về thủy điện

Thủy năng (hydropower) là nhóm năng lượng gồm thủy điện và các loại hình
tương lai như điện thẩm thấu, điện thủy triều, điện sóng, thủy nhiệt. Trong đó, thủy
điện có thể được xem là một trong những phương pháp sản xuất điện cổ xưa nhất:
tận dụng dòng nước chuyển động để sản xuất điện.

Khả năng sản xuất năng lượng này phụ thuộc vào thể tích và độ cao mà nước
chảy (áp lực của luồng nước). Xây dựng đằng sau một con đập cao, nước có tiềm
năng tích lũy năng lượng lớn. Năng lượng này biến thành năng lượng cơ khí khi
nước ồ ạt đổ xuống cửa cống và đập vào cánh tuabin. Sự quay vòng của tuabin làm
quay nam châm điện sản sinh ra dòng điện ở các cuộn dây tĩnh (nguyên lý cảm ứng
từ). Cuối cùng, dòng điện đi qua một máy biến áp để truyền tải trên các đường dây
điện lực.

Các thành phần của một công trình thủy điện bao gồm:

1. Đập- hồ chứa

2. Cửa lấy nước

3. Bể lắng cát

4. Các đường dẫn nước

5. Đường ống áp lực

6. Tuốc-bin

7. Cửa xả đáy

8. Các tháp điều áp

9. Trạm biến áp -truyền tải

3
Hình 1: Các thành phần của nhà máy thủy điện

Hình 2: Cấu tạo của máy phát điện trong nhà máy thủy điện

4
I.2 Ưu điểm và các tác động tiêu cực của thủy điện đến môi trường

I.2.a Ưu điểm

Lợi ích lớn nhất của thuỷ điện là giá thành nhiên liệu, đây là một nguồn
năng lượng tái tạo được (tính bền vững): những trận mưa rào làm hồi phục lượng
nước trong hồ chứa, vì vậy không bao giờ sợ cạn kiệt. Các nhà máy thuỷ điện
không phải chịu cảnh tăng giá của nhiên liệu hóa thạch như dầu mỏ, khí thiên nhiên
hay than đá, và không cần phải nhập nhiên liệu. Các nhà máy thuỷ điện cũng có tuổi
thọ lớn hơn các nhà máy nhiệt điện, một số nhà máy thuỷ điện đang hoạt động hiện
nay đã được xây dựng từ 50 đến 100 năm trước. Chi phí nhân công cũng thấp bởi vì
các nhà máy này được tự động hoá cao và có ít người làm việc tại chỗ khi vận hành
thông thường. Ở Mỹ, giá thành sản xuất thủy điện là 0,85 cent/kWh, bằng 50% giá
điện hạt nhân, 40% giá điện nhiên liệu hóa thạch và 25% giá điện khí tự nhiên.

Do không sử dụng nhiên liệu hóa thạch, các nhà máy thủy điện không phát
thải ra các chất khí, chất rắn gây ô nhiễm môi trường, không tiêu thụ ôxygen, không
phát sinh nhiệt, không thải ra các khí gây hiệu ứng nhà kính. Do đó, có thể coi đây
là dạng năng lượng sạch.

Những hồ chứa dung tích lớn được xây dựng cùng với các nhà máy thuỷ điện
sẽ tích nước vào các tháng mùa mưa để có thể dùng để phát điện trong mùa khô.
Như vậy, thủy điện giúp đồng bằng hạ du chống lũ về mùa mưa và hạn hán vào
mùa khô; cải thiện dòng chảy kiệt và xâm nhập mặn.

Các nhà máy thuỷ điện hồ chứa bằng bơm hiện là công cụ đáng chú ý nhất
để tích trữ năng lượng về tính hữu dụng, cho phép phát điện ở mức thấp vào giờ
thấp điểm (điều này xảy ra bởi vì các nhà máy nhiệt điện không thể dừng lại hoàn
toàn hàng ngày) để tích nước sau đó cho chảy ra để phát điện vào giờ cao điểm
hàng ngày. Việc vận hành cách nhà máy thuỷ điện hồ chứa bằng bơm cải thiện hệ
số tải điện của hệ thống phát điện.

Những hồ chứa được xây dựng cùng với các nhà máy thuỷ điện thường là
những địa điểm thư giãn tuyệt vời cho các môn thể thao nước, nuôi trồng thủy sản

5
và trở thành điểm thu hút khách du lịch, tạo nguồn thu hữu ích trong việc điều hành
đập.

I.2.b Các tác động tiêu cực của thủy điện đến môi trường

Việc xây dựng các hồ chứa làm mất đi một diện tích lớn đất đai và thông
thường có cả đất rừng. Theo tính toán, để có 1 MW điện phải mất ít nhất 7,5 – 10 ha
rừng. Những nhà môi trường đã bày tỏ lo ngại rằng các dự án nhà máy thuỷ điện
lớn có thể làm thay đổi dòng chảy về cả số lượng và chất lượng, phá vỡ sự cân
bằng của hệ sinh thái xung quanh. Thứ nhất, các nghiên cứu đã cho thấy rằng đập
sẽ ngăn cản những con đường di cư của loài cá, biến những đoạn sông nước chảy
xiết thành những cái ao tù đọng và gây nguy hiểm cho các khu vực cá đẻ và ấp
trứng. Điển hình các đập nước dọc theo bờ biển Đại Tây Dương và Thái Bình
Dương của Bắc Mỹ đã làm giảm lượng cá hồi vì chúng ngăn cản đường bơi ngược
dòng của cá hồi để đẻ trứng, thậm chí ngay khi đa số các đập đó đã lắp đặt thang lên
cho cá. Cá hồi non cũng bị ngăn cản khi chúng bơi ra biển bởi vì chúng phải chui
qua các tuốc-bin . Điều này dẫn tới việc một số vùng phải chuyển cá hồi con xuôi
dòng ở một số khoảng thời gian trong năm. Các thiết kế tuốc-bin và các nhà máy
thuỷ điện có lợi cho sự cân bằng sinh thái vẫn còn đang được nghiên cứu.

Thứ hai, các tua-bin thường mở không liên tục, có thể quan sát thấy sự thay
đổi nhanh chóng và bất thường của dòng chảy làm mực nước sông dâng lên hoặc hạ
xuống rất nhanh, đặc biệt là vùng hạ lưu ngay sát nhà máy. Điều này có thể gây
thiệt hại về người và của cho khu vực dưới chân đập.

Cuối cùng, nước chảy ra từ tuốc-bin lạnh hơn nước trước khi chảy vào đập,
điều này có thể làm thay đổi số lượng cân bằng của hệ động vật, gồm cả việc gây
hại tới một số loài.

Do lượng phù sa bị giữ lại trong lòng hồ, nước sau khi ra khỏi tuốc-bin
thường chứa rất ít phù sa làm giảm độ phì nhiêu đối với vùng đồng bằng. Phù sa
cho phép sự hình thành bờ sông, châu thổ, phù sa, hồ, đê tự nhiên, đường bờ biển.
Ngoài ra, điều này cùng việc thay đổi lưu lượng có thể gây ra tình trạng sạt lở bờ

6
sông và thay đổi hình thái lòng sông, nhất là vùng cửa sông. Đáy sông bị tụt xuống
kéo theo mực nước ngầm dọc sông xuống thấp.

Trên thực tế, việc sử dụng nước tích trữ thỉnh thoảng khá phức tạp bởi vì yêu
cầu tưới tiêu có thể xảy ra không trùng với thời điểm yêu cầu điện lên mức cao
nhất. Trong mùa cạn, nhiều hồ chứa thuỷ điện tăng cường việc tích nước để dự trữ
phát điện, nên giảm lượng nước xả xuống hạ lưu, gây xâm nhập mặn sâu và thiếu
nước tưới. Ngoài ra, các nhà máy thuỷ điện hiện nay đều vận hành phát điện hàng
ngày theo chế độ phù đỉnh. Trong đó, để tạo ra hiệu quả sản xuất điện năng cao nhất
nên vào ban đêm, lượng nước qua tuốc bin xả xuống hạ lưu giảm đến mức tối thiểu,
hoặc có khi ngừng hẳn.

Một số dự án thuỷ điện cũng sử dụng các kênh, thường để đổi hướng dòng
sông tới độ dốc nhỏ hơn nhằm tăng áp suất có được, trong một số trường hợp, toàn
bộ dòng sông có thể bị đổi hướng để trơ lại lòng sông cạn. Bên cạnh đó, nhiều
công trình thuỷ điện dùng đường ống áp lực để dẫn nước từ hồ chứa đến nhà máy
thuỷ điện bố trí ở cao trình thấp để tạo đầu nước lớn, nâng cao hiệu quả phát điện,
nên đoạn sông từ đập đến nhà máy không có nước trở thành một đoạn sông chết có
chiều dài từ vài km đến hàng chục km ngay sau tuyến đập chính.

Việc thu dọn lòng hồ trước khi tích nước lần đầu nếu không tốt sẽ ô nhiễm
nước hồ do quá trình phân huỷ thực vật trong lòng hồ. Các hồ chứa của các nhà máy
thuỷ điện ở các vùng nhiệt đới có thể sản sinh ra một lượng lớn khí metan và
carbon dioxid. Điều này bởi vì các xác thực vật mới bị lũ quét và các vùng tái bị lũ
bị tràn ngập nước, mục nát trong một môi trường kỵ khí và tạo thành methan, một
khí gây hiệu ứng nhà kính mạnh. Metan bay vào khí quyển khí nước được xả từ đập
để làm quay turbin. Theo bản báo cáo của Uỷ ban Đập nước Thế giới (WCD), ở nơi
nào đập nước lớn so với công suất phát điện (ít hơn 100 watt trên mỗi km2 diện tích
bề mặt) và không có việc phá rừng trong vùng được tiến hành trước khi thi công
đập nước, khí gas gây hiệu ứng nhà kính phát ra từ đập có thể cao hơn những nhà
máy nhiệt điện thông thường. Ở các hồ chứa phương bắc Canada và Bắc Âu, sự

7
phát sinh khí nhà kính tiêu biểu chỉ là 2 đến 8% so với bất kỳ một nhà máy nhiệt
điện nào.

Với các công trình thủy điện, do mất rất nhiều đất ở và đất canh tác để làm
hồ chứa nên sản xuất nông nghiệp và đời sống của người dân có thể gặp khó khăn.
Vấn đề di dân -tái định cư cho dân cư nông nghiệp sống trong vùng hồ chứa không
đơn giản, tác động về mặt xã hội sẽ rất lớn và lâu dài. Vấn đề là phải dành một diện
tích canh tác rất lớn để phân chia và xây chỗ ở cho các người tái định cư. Đối với
trường hợp người nông dân sau định cư sẽ phải kiếm sống bằng những ngành nghề
phi nông nghiệp nếu không có chính sách hỗ trợ dạy nghề, kiếm việc làm thì thất
nghiệp là chắc chắn và Nhà nước lại phải tiếp tục hỗ trợ đời sống lâu dài. Trong
nhiều trường hợp không một khoản bồi thường nào có thể bù đắp được sự gắn bó
của họ về tổ tiên và văn hoá gắn liền với địa điểm đó vì chúng có giá trị tinh thần
đối với họ. Hơn nữa, về mặt lịch sử và văn hoá các địa điểm quan trọng có thể bị
biến mất, như dự án Đập Tam Hiệp ở Trung Quốc, đập Clyde ở New Zealand và
đập Ilisu ở đông nam Thổ Nhĩ Kỳ.

Cuối cùng, các đập nước lớn làm thay đổi kết cấu địa chất dữ dội đến mức
đó có thể là nguyên nhân dẫn đến các thảm họa kinh khủng như động đất hay lũ lụt.
Một nghiên cứu của các nhà khoa học thuộc Đại học Columbia (Mỹ) cho thấy trận
động đất kinh hoàng làm 80.000 người chết và mất tích ở tỉnh Tứ Xuyên, Trung
Quốc tháng 5/2008 có thể khởi nguồn sâu xa từ việc tích trữ 320 triệu tấn nước ở
hồ chứa Zipingpu, cách nơi xảy ra động đất hơn 1,5km. Lời giải thích là việc nén
một lượng nước quá lớn ở một khu vực chật hẹp có thể gây ra những nứt gãy bên
dưới các lớp địa chất mới hình thành.

Tóm lại, thay đổi dòng chảy là một trong những hậu quả chính của việc xây
đập. Tối đa hóa công suất điện của một nhà máy thủy điện theo nhu cầu có thể gây
ra những hậu quả nghiêm trọng với cả các hệ sinh thái và những người sử dụng
nguồn nước. Đặc biệt trong bối cảnh biến đổi khí hậu, tài nguyên nước ngày càng
khan hiếm, việc xây dựng nhiều thủy điện trên cùng một lưu vực sông quốc tế sẽ dễ
xảy ra một cuộc chiến tranh về tài nguyên nước giữa các quốc gia. Tuy nhiên, trong

8
nhiều trường hợp có thể điều chỉnh chế độ hoạt động của đập, tạo ra Dòng chảy môi
trường đáp ứng và hài hòa các nhu cầu khác nhau. Dòng chảy môi trường có đóng
góp quan trọng tới “sức khỏe” của con sông, tới phát triển kinh tế và giảm nghèo.
Dòng chảy môi trường không phải là dòng chảy tự nhiên mà là một chế độ nước tạo
ra sự cân bằng nhằm đáp ứng các nhu cầu khác nhau về nguồn nước, trong đó có
nhu cầu của hệ sinh thái và cộng đồng dân cư.

9
CHƯƠNG II: TIỀM NĂNG VÀ VAI TRÒ CỦA THỦY ĐIỆN

II.1 Tiềm năng của thủy điện trên thế giới và ở Việt Nam

Hiện nay, từ bắc tới nam, từ đông sang tây, tất cả các quốc gia trên thế giới
đều sử dụng thủy điện. thủy điện là nguồn năng lượng dễ khai thác và không mấy
tốn kém. Vì vậy, trên thế giới hiện có 45.000 con đập thủy điện lớn (còn đập thủy
điện nhỏ thì không thống kê chính xác được). Hiện nay, nó được coi là một nguồn
năng lượng không thể thiếu, góp phần vào công cuộc phát triển của mọi quốc gia
trên thế giới. Theo Ủy ban Năng lượng Thế giới (WEC), thủy điện cung cấp 19%
nhu cầu năng lượng toàn cầu và hiện vẫn chưa được khai thác hết, đặc biệt tại các
quốc gia đang phát triển. WEC dự báo, để khai thác được 2/3 tiềm năng còn lại của
thủy điện, cần xây dựng thêm 20.000 nhà máy thủy điện với tổng công suất lên tới
1400 kW và chi phí 1500 tỉ USD.

Việt Nam có 2360 con sông với chiều dài từ 10 km trở lên, trong đó có 9 hệ
thống sông có diện tích lưu vực trên 10.000 km2. Mật độ sông suối trung bình trên
toàn lãnh thổ là 0,6 km/km2. Hàng năm, mạng lưới sông suối Việt Nam vận chuyển
ra biển lượng nước 870 km3/năm, tương ứng với lưu lượng dòng chảy bình quân
khoảng 37.500 m3/s. Tổng kết các nghiên cứu về quy hoạch thủy điện ở nước ta cho
thấy thấy tổng trữ năng lý thuyết của các con sông đựơc đánh giá đạt 300 tỷ
kWh/năm, công suất lắp máy đựợc đánh giá khoảng 34.647 MW. Trữ năng kinh tế
– kỹ thuật đựơc đánh giá khoảng 80-84 tỷ kWh/năm, công suất lắp máy đựợc đánh
giá khoảng 19.000 - 21.000 MW.

10
Bảng 1: Tiềm năng thủy điện của Việt Nam

Hệ thống sông Diện tích lưu vực Số công trình Công suất lắp máy

km2 MW
Đà 17.200 8 6.800
Lô-Gâm-Chảy 52.500 11 1.600
Mã-Chu 28.400 7 760
Cả 27.200 3 470
Hương 2.800 2 234
Vu Gia-Thu Bồn 10.500 8 1.500
Sêsan 11.450 8 2.000
Srêpok 12.200 5 730
Ba 13.800 6 550
Đồng Nai 17.600 17 3.000
Thủy điện nhỏ 1.000-3.000
Tổng cộng 19.000 - 21.000

II.2. Vai trò của thủy điện trong cơ cấu năng lượng quốc gia

Hơn nửa thế kỷ qua, công cuộc phát triển thủy điện ở nước ta đã trải qua một
chặng đường dài đầy khó khăn, gian khổ nhưng đã mang lại hiệu quả vô cùng to lớn
cho nền kinh tế quốc dân.

- Trước năm 1945: Các trạm thủy điện nhỏ do Pháp xây dựng phục vụ nhu
cầu khai khoáng và nghỉ dưỡng.

- Giai đoạn 1945-1975: Đã xây dựng thủy điện Thác Bà Nlm=108MW, thủy
điện Đa Nhim Nlm=160MW

- Từ năm 1975 đến nay: Thủy điện Trị An: Nlm=400MW (1989)

Thủy điện Hòa Bình: Nlm=1920MW (1994)

Thủy điện Thác Mơ: Nlm=150MW (1994)

Thủy điện Ialy: Nlm=720MW( 2001)

11
Thủy điện Hàm Thuận – Đa Mi: Nlm=475MW (2001)

Thủy điện Sê San 3: Nlm=260MW (2007)

Thủy điện Tuyên Quang: Nlm=342MW (2008) v.v.

Và hàng loạt các công trình thủy điện khác đang xây dựng như thủy điện Sơn
La (Nlm=2400MW), Bản Vẽ (Nlm=320MW), Sê San 4 (Nlm=360MW)v.v…

Nếu như năm 1982 thủy điện chỉ chiếm 20% công suất trong hệ thống điện
Việt Nam thì đến năm 1992, tức là thời kỳ nền kinh tế nước ta mở cửa và hội nhâp,
thủy điện đóng góp tới 60,4% trong tổng sản lượng điện quốc gia. Còn hiện tại, năm
2009, thủy điện cũng chiếm tới 1/3 sản lượng điện sản xuất. Trong quy hoạch đến
năm 2025, Việt Nam vẫn phải tiếp tục xây dựng thêm các nhà máy thủy điện mới để
tăng gấp đôi sản lượng so với năm 2010. Như vậy, tính đến năm 2025, dù đã khai
thác hết công suất lắp máy, thủy điện cũng chỉ đáp ứng được gần ¼ nhu cầu năng
lượng của nền kinh tế. Để giải quyết nhu cầu thiếu hụt, theo quy hoạch, Việt Nam
sẽ phát triển mạnh các nguồn nhiệt điện. Còn điện nguyên tử dù suất đầu tư ban đầu
rất cao nhưng cũng đã được tính đến, hiện Quốc hội đã thông qua Nghị quyết về
chủ trương đầu tư dự án 2 nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 1 và 2 với công suất
trên 4.000 MW.

Bảng 2: Công suất các nguồn điện tại Việt Nam

Năm 1982 Năm 1992 Năm 2010 Năm 2025


Nguồn điện
MW % MW % MW % MW %
Thủy điện 268 21,8 2.120 60,4 9.412 35,9 20.178 22,7

12
Nhiệt điện than 205 16,7 645 15,4 6.595 25,2 36.290 40,8
Nhiệt điện diesel &
638 51,2 588 16,7 472 1,8 2.400 27,0
dầu
Nhiệt điện khí 120 9,7 157 4,5 9.072 34,6 17.224 19,4
Điện nhập khẩu 658 2,5 4.756 5,3
Điện nguyên tử 8.000 9,0
Tổng cộng 1231 3.510 26.209 88.848

Trong khi đó, thống kê của Cơ quan Thông tin năng lượng Mỹ (EIA) cho
thấy ở hầu hết các nước phát triển, năng lượng thủy điện chỉ chiếm vai trò thứ yếu.
Ví dụ với Nhật Bản, thủy điện chỉ chiếm 3% nguồn cung cấp năng lượng trong năm
2005, so với 20% từ năng lượng than đá và 13% năng lượng nguyên tử.

Ở các nước có nhiều điểm tương đồng với VN như Indonesia và Malaysia,
theo số liệu của EIA năm 2009, thủy điện chỉ chiếm 2% nhu cầu năng lượng quốc
gia. Còn Trung Quốc, mặc dù các nhà máy thủy điện đã được xây dựng khá rầm rộ,
nhưng thống kê của EIA cho thấy trên thực tế năng lượng thủy điện chỉ chiếm 6%
tổng nguồn cung cấp năng lượng của nước này.

Vậy các nước dựa vào nguồn năng lượng nào để thay thế thủy điện? Chúng
ta hãy tham khảo người láng giềng Trung Quốc: năm 2007, quốc gia này đã khởi
động chiến dịch đầy tham vọng là đến năm 2010, họ sẽ đáp ứng 10% nhu cầu năng
lượng cả nước từ các nguồn năng lượng sạch (gió, thủy triều, năng lượng sinh học
và các năng lượng có thể tái chế khác) và năm 2015 sẽ là 15%.

13
CHƯƠNG 3: CÁC VẤN ĐỀ MÔI TRƯỜNG LIÊN QUAN ĐẾN
TÁC ĐỘNG CỦA THỦY ĐIỆN Ở VIỆT NAM

Việc xây dựng, vận hành các công trình thuỷ điện có tác động sâu sắc và lâu
dài đến tài nguyên nước và môi trường lưu vực sông, bao gồm cả tác động tích cực
và tác động bất lợi. Ngoài các tác động tiêu cực đã nói trong chương 2, thực tiễn
tình hình thủy điện ở Việt nam có một số vấn đề phát sinh có thể liệt kê như sau:

Quy hoạch, thiết kế các công trình thủy điện vừa và nhỏ còn chưa chặt
chẽ, đặc biệt mật độ rất dày ở miền Trung và Tây Nguyên. Rất nhiều doanh nghiệp
muốn phát triển thủy điện vì đây là loại hình kinh doanh rất có lãi. Với suất đầu tư
bình quân 25 tỉ đồng/MW thì một dự án chỉ từ 8-10 năm là thu hồi vốn. Quy hoạch
thủy điện đã được Chính phủ phê duyệt từ tháng 6-2007, đối với các hồ chứa thủy
điện vừa và nhỏ thì Chính phủ giao cho UBND tỉnh phê duyệt. Hiện cả nước có trên
800 quy hoạch dự án thủy điện nhỏ và vừa ở 35 tỉnh thành phố, trong đó miền
Trung có 335 dự án. Hiện có nhiều thủy điện nhỏ công suất chỉ 2-3 MW được xây
dựng, thậm chí có thủy điện công suất rất nhỏ, chỉ dưới 1MW. Việc phát triển thuỷ
điện ồ ạt chắc chắn sẽ tiềm ẩn nhiều nguy cơ đối với môi trường. Lý do được đưa ra
là những dự án thủy điện nhỏ này khi triển khai sẽ rất khó kiểm soát, gây mất đất,
mất rừng, thay đổi hệ sinh thái cũng như tính nguyên vẹn của dòng sông, gây xáo
trộn đời sống người dân tộc thiểu số. Trong khi đó các dự án này không có tác động
nhiều đến việc thúc đẩy kinh tế - xã hội địa phương phát triển. Ngoài ra, cửa sông
miền Trung rộng nhưng lại bị các cồn cát chắn nên thoát lũ rất kém. Nguyên nhân là
các thủy điện mùa khô phải giữ nước đã khiến động lực nước biển thắng động lực
nước sông, đẩy các cồn cát hình thành cao hơn, chắc hơn, gần bờ hơn, gây khó thoát
nước khi lũ đến.

Một số công trình thủy điện còn được dự kiến nằm trong vùng khu bảo tồn
thiên nhiên như trường hợp dự án nhà máy thuỷ điện Sông Giằng 1, 2, 3, 4 nằm trên
sông Thanh trong khu bảo tồn thiên nhiên Sông Thanh. Rất may các công trình này
đã bị xóa bỏ đầu tư.

14
Hiện tượng khá phổ biến trong quy hoạch, thiết kế các công trình thuỷ điện
là chưa chú ý đến hiệu quả tổng hợp về kinh tế, xã hội và môi trường. Các công
trình thường chỉ chú trọng tới hiệu quả về phát điện và lợi nhuận của đầu ra, chưa
đưa yêu cầu phòng lũ cho hạ du như là một trong những nhiệm vụ chính của công
trình. Ở nhiều công trình thuỷ điện miền Trung và lưu vực Đồng Nai, nhiệm vụ
chống lũ cho hạ du chỉ được xem là nhiệm vụ kết hợp. Trong khi đó, Việt Nam là
một trong 5 quốc gia bị ảnh hưởng nặng nhất của biến đổi khí hậu, nước biển dâng,
các hiện tượng thời tiết trở nên cực đoan, diện tích rừng đầu nguồn ngày càng suy
giảm, tất cả đều dẫn đến lũ lụt càng trầm trọng hơn.

Hầu hết các dự án thủy điện vừa và nhỏ ở Quảng Nam ngay trong quy hoạch
ban đầu đều không có dung tích chống lũ bởi các dự án đều lấy lòng sông làm hồ
chứa. Ngay như thủy điện lớn là A Vương, dung tích chống lũ của công trình này
cũng chỉ khoảng 14 triệu m3, quá nhỏ so với quy mô của dự án. Việc nhiều thủy
điện trên cùng một con sông nhưng không có dung tích chống lũ như sông Bung đã
khiến nhiều người quan ngại về một nguy cơ “lũ chồng lũ” khi có mưa lớn ở thượng
nguồn và những thân đập được xây dựng không an toàn. Hậu quả là việc xả lũ từ
đập A Vương xuống hạ nguồn trong hai ngày 29 va 30/9/2009, khi cơn bão số 9
đang hòanh hành miền Trung đã góp phần lũ nhấn chìm hàng trăm nghìn dân ở hạ
lưu sông Vu Gia và Thu Bồn.

Một khi không có dung tích chống lũ đủ lớn thì dù quy trình xả lũ thực hiện
đúng cũng khó tránh gây ngập lụt cho hạ lưu. Chính vì không có dung tích cắt lũ mà
các hồ chứa thủy điện thường tích nước sớm do e ngại gặp năm thời tiết bất thường,
rủi ro ít mưa, không có lũ sẽ không đủ nước để phát điện cho mùa kế tiếp.

Một vấn đề khác trong quy hoạch, thiết kế của hầu hết các dự án thủy điện ở
Quảng Nam khiến các địa phương phía hạ lưu đau đầu, đó là không có cửa xả đáy.
Cả hai thủy điện lớn đã và đang xây dựng là A Vương và Đăk Mi 4 đều thiết kế
không có cửa xả đáy. Điều này đồng nghĩa với việc vào mùa khô hạn, vì lý do nào
đó các nhà máy này tạm ngưng phát điện thì chắc chắn sẽ không một giọt nước nào
có thể lọt qua đập để về hạ lưu được.

15
KẾT LUẬN

Thủy điện có thể được coi là một nguồn năng lượng tái tạo, thải ra rất ít khí
nhà kính so với các phương thức sản xuất điện khác. Tuy nhiên, khi phát triển thủy
điện phải tính đến yếu tố cân bằng gồm: kinh tế, xã hội và môi trường. Ở Việt Nam
hiện nay chỉ chú ý đến kinh tế nhiều hơn mà chưa chú ý đến yếu tố xã hội và môi
trường. Việc chúng ta làm ngày hôm nay là phát triển nhiều thủy điện, nhưng chưa
tính đến yếu tố “để dành” cho thế hệ sau. Nhiều thủy điện chưa tính đến yếu tố tác
động môi trường và xã hội nên thế hệ sau phải gánh chịu.

16

You might also like