Professional Documents
Culture Documents
Bài mở đầu
z Nuôi trồng thủy sản (NTTS) là ngành kinh tế mũi nhọn của nhiều
quốc gia có ưu thế về mặt nước,
z Việt Nam là một trong số các nước đó.
z Những năm gần đây, sự phát triển mạnh mẽ và không ngừng về nuôi
trồng thủy sản của các nước trên thế giới, trong khu vực và Việt Nam
đã chứng minh hiệu quả to lớn của ngành kinh tế này.
z Khi nuôi trồng thủy sản càng phát triển, đặc biệt khi đã đạt được trình
độ thâm canh cao, thì vấn đề dịch bệnh trở nên càng nghiêm trọng, có
thể là 1 nguyên nhân quan trọng ảnh hưởng tới hiệu quả kinh tế - xã
hội của ngành này.
z Môn BHTS trở thành môn học có tầm quan trọng đặc biệt trong
chương trình đào tạo kỹ sư ngành nuôi trồng thủy sản.
I. Mục tiêu của môn học
z BHTS là môn học kết nối các môn học cơ bản, cơ sở và kỹ thuật
chuyên ngành, tạo nên hệ thống kiến thức hoàn chỉnh.
z Liên quan tới các môn học cơ bản: môn Sinh Học Cơ Bản; các môn
Hóa Học; VSV Đại Cương; Miễn Dịch Học Đại Cương...
z Liên quan tới các môn cơ sở ngành: Các môn như Động Thực Vật
Thủy Sinh; Sinh Lý Động Vật Thủy Sản; ....
z Liên quan tới các môn học chuyên ngành như: môn QLCL Nước trong
NTTS; VSV ứng dụng, MDTS, Dinh Dưỡng và Thức Ăn; Kỹ thuật
Nuôi Giáp Xác; Kỹ Thuật Nuôi Cá Nước Ngọt; Kỹ Thuật Nuôi Động
Vật Thân Mềm...
z Ngoài ra môn Bệnh Học Thủy Sản còn liên quan đến một số môn học
chuyên ngành của các ngành học khác như ngành Thú Y, ngành Y
(Dược lý học, chẩn đoán bệnh).
z Để học tốt môn học này, SV cần nắm được kiến thức của các môn học
có liên quan làm nền tảng để tiếp thu khi học và vận dụng khi làm việc
trong thực tiến sản xuất.
III. Lịch sử PT ngành KH BHTS
z Từ 1970 đến những năm cuối của thế kỷ 20, ngành NTTS của
thế giới đã phát triển mạnh.
z Không phải chỉ nuôi cá nước ngọt, mà nhiều loài cá biển, giáp
xác, động vật thân mềm có giá trị kinh tế đã được đưa vào nuôi.
z Hình thức nuôi công nghiệp (thâm canh và siêu thâm canh) đã
thay thế cho hình thức nuôi quảng canh truyền thống, làm bệnh
tật phát sinh nhiều, gây tác hại rất lớn.
z Ngoài các công trình nghiên cứu về KST, hàng loạt các công
trình nghiên cứu về các bệnh truyền nhiễm do virus, vi khuẩn
và nấm gây ra ở các đối tượng nuôi như cá, tôm, cua, động vật
thân mềm 2 vỏ....đã được tiến hành.
z Các bệnh do yếu tố vô sinh (do dinh dưỡng, do môi trường)
cũng được nhiều nhà khoa học nghiên cứu.
III. Lịch sử PT ngành KH BHTS
z Các phương pháp chẩn đoán và phòng trị cũng được phát triển nhằm phục
vụ chẩn đoán bệnh trong thực tế sản xuất. Một số phương pháp hiện đại
cũng được ứng dụng để chẩn đoán bệnh ở động vật thủy sản, như chẩn đoán
bằng phương pháp miễn dịch học (Elisa, phản ứng ngưng kết huyết thanh),
phương pháp sinh học phân tử.(Polymerase Chain Reaction-PCR).
z Đặc biệt ở giai đoạn này, việc ứng dụng một số sản phẩm của công nghệ
sinh học như vaccine, chế phẩm vi sinh, các chất kích thích miễn dịch... để
phòng bệnh và quản lý môi trường, sức khỏe ĐVTS đã phổ biến ở nhiều
quốc gia có nghề nuôi thủy sản phát triển.
z Các thành tựu nghiên cứu trên được đánh dấu bằng các cuộc hội thảo khoa
học quốc tế và khu vực về BHTS được tổ chức nhiều lần, ở nhiều quốc gia.
Tại đây các công trình nghiên cứu được công bố và ứng dụng vào sản xuất.
III. Lịch sử PT ngành KH BHTS
* Sơ lược một số kết quả nghiên cứu của thế giới về lĩnh vực bệnh học
thủy sản như sau:
z Đã phát hiện ra khoảng 60 loại virus gây bệnh ở cá, 18 loại virus gây
bệnh ở giáp xác và 12 loại virus gây bệnh ở động vật thân mềm
z Hàng trăm loài vi khuẩn khác nhau gây bệnh ở ĐVTS cũng đã được
phát hiện và nghiên cứu, trong đó tập trung chủ yếu ở một số giống
như: Vibrio spp., Aeromonas spp., Pseudomonas spp., Mycobacterium
spp., Streptococcus spp., ...
z Nhiều giống loài nấm nước ký sinh ở ĐVTS cũng đã được phát hiện
và nghiên cứu sâu nhằm hạn chế tác hại của chúng như: Saprolegnia
spp., Achlya spp., Aphanomyces spp., Lagenidium spp., Atkinsiella
spp., Fusarium spp., Haliphthoros spp. và Sirolpidium spp.
III. Lịch sử PT ngành KH BHTS
* Hiện nay có một số vấn đề thuộc lĩnh vực BHTS đang được thế giới
quan tâm và tập trung nghiên cứu:
z Quản lý dịch bệnh trong nuôi trồng thủy sản thông qua việc làm tăng
sức đề kháng ở động vật nuôi bằng cách ứng dụng công tác chọn
giống, lai tạo ra đàn giống không mang mâm bệnh và có sức đề kháng
cao.
z Sử dụng các sản phẩm của khoa học công nghệ (vaccine, chế phẩm vi
sinh, chất kích thích miễn dịch) để quản lý sức khỏe, môi trường và
phòng bệnh trong NTTS.
z Quan tâm đến những loại thuốc chữa bệnh có nguồn gốc thảo dược
nhằm tận dụng ưu thế của loại thuốc này an toàn đối với vật nuôi, con
người và môi trường để phòng trị bệnh cho ĐVTS.
III. Lịch sử PT ngành KH BHTS
z Từ năm 1960 đến 1990 các công trình nghiên cứu về bệnh ĐVTS ở Việt
nam, chủ yếu tập trung vào nghiên cứu các khu hệ KST và các bệnh do KST
ký sinh gây ra ở cá.
z Công trình đầu tiên: “NC khu hệ KST và bệnh của cá nước ngọt miền Bắc
Việt Nam " của Hà Ký, NC này thực hiện trong 15 năm (1960- 1975), đã
mô tả 120 loài ký sinh trùng ký sinh trên cá nước ngọt ở miền Bắc Việt
Nam, trong đó có 42 loài ký sinh trùng mới, một giống và một họ phụ mới
đối với khoa học.
z Công trình nghiên cứu: "khu hệ KST ký sinh trên 41 loài cá nước ngọt
ĐBSCL" của Bùi Quang Tề và ctv (1984-1990). Công trình này đã phát
hiện được 157 loài ký sinh trùng và một số loài mới với khoa học.
z Công trình nghiên cứu: "Khu hệ KST ký sinh ở 20 loài cá nước ngọt ở miền
Trung và Tây Nguyên" của Nguyễn Thị Muội và Đỗ Thị Hòa (1980-1985).
Công trình này đã phát hiện được 57 loài ký sinh trùng.
III. Lịch sử PT ngành KH BHTS
z Công trình nghiên cứu " Thành phần KST ký sinh trên một số loài cá biển có giá
trị kinh tế tại Phú Khánh (Khánh hòa )" của Nguyễn Thị Muội và Đỗ Thị Hòa
(1978-1980). Công trình này đã phát hiện được 80 loài KST ký sinh trên cá biển.
z Từ năm 1990 đến nay, nuôi trồng thủy sản ở Việt Nam đã có bước phát triển mới,
những đối tượng có giá trị kinh tế lớn như: tôm sú (Penaeus monodon), tôm hùm
(Panulirus spp.), cá mú (Epinepherus spp.), cua biển (Scylla spp.), cá chẽm (Lates
calcalifer), tôm càng xanh (Macrobranchium rosenbergii)... đã được đưa vào
nuôi ở mức độ bán thâm canh và thâm canh ở nhiều địa phương trong cả nước và
dịch bệnh là trở ngại lớn nhất, ảnh hưởng tới hiệu quả kinh tế của nghề nuôi các
đối tượng này. Do vậy, trong thời kỳ này, NC về BHTS ở Việt Nam đã có nhiều
thành tựu mới:
z "Bước đầu tìm hiểu bệnh tôm sú ở Khánh Hòa và đề ra biện pháp phòng trị" của
Nguyễn Trọng Nho (1990-1991).
z " NC một số bệnh trên tôm sú nuôi ở các tỉnh Nam Trung bộ " của Đỗ Thị Hòa
(1992-1995), NC này đã phát hiện một số bệnh do Protozoa, vi khuẩn và nấm gây
ra trên tôm sú nuôi tại khu vực này.
III. Lịch sử PT ngành KH BHTS
z " NC các biện pháp phòng trị bệnh cho 13 bệnh khác nhau ở tôm và cá
nuôi tại Việt Nam" của Hà Ký và CTV (1990-1995). Trong nghiên cứu
này đã đi sâu về biện pháp phòng trị của 1 số bệnh quan trọng như: Bệnh
đốm đỏ ở cá trắm cỏ, bệnh phát sáng ở ấu trùng tôm sú, bệnh ăn mòn vỏ
kitin ở tôm sú, bệnh xuất huyết cá ba sa nuôi bè, bệnh hoại tử do vi khuẩn
ở cá trê, bệnh hoại tử đốm nâu ở tôm càng xanh, bệnh viêm sau khi cấy
trai ngọc...
z " Tìm hiểu nguyên nhân gây chết tôm nuôi ở đồng bằng sông Cửu Long"
của Nguyễn Việt Thắng và CTV (1994-1996). Nghiên cứu này đã thu hút
sự tham gia của nhiều Viện NC và trường ĐH, nhằm tìm ra nguyên nhân
và giải pháp khắc phục tình trạng tôm chết dữ dội ở các tỉnh Nam bộ. Đây
là dấu hiệu thể hiện sự quan tâm của nhà nước, bộ thủy sản và các nhà
khoa học về vấn đề dịch bệnh tôm ở Việt Nam.
z "Nghiên cứu bệnh xuất huyết trên cá trắm cỏ" tập trung chủ yếu ở phòng
bệnh của viện NCNTTS I. "Nghiên cứu bệnh xuất huyết trên cá Ba sa ở
các tỉnh đồng bằng sông cửu long" tập trung chủ yếu ở viện NCNTTS II.
III. Lịch sử PT ngành KH BHTS
z “NC bệnh Monodon Type Baculovirus (MBV) trên tôm sú nuôi tại Khánh
Hòa của Đỗ Thị Hòa và CTV (1997-2000) cho thấy tỷ lệ nhiễm phổ biến
của virus này trên tôm sú (Penaeus monodon) ở Khánh Hòa và miền
Trung Việt nam và cảnh báo sự suy giảm của chất lượng tôm giống sản
xuất tại địa phương do tác hại của virus này.
z "NC bệnh virus đốm trắng (WSSV) ở tôm sú nuôi (Penaeus monodon) và
đề xuất biện pháp phòng trị tại Khánh Hòa" của Đỗ Thị Hòa và CTV
(2000-2002) đã cho thấy tác hại, đặc điểm dịch tễ học và mức độ nhiểm
của virus WSSV trên tôm sú tại Khánh Hòa. Đặc biệt tác giả cũng thông
báo về sự nhạy cảm của bệnh này dưới những tác động của các nhân tố
gây stress từ môi trường như: Độ mặn, pH, nồng độ của Ammonia trong
nước ao.
z "NC một số bệnh nguy hiểm ở tôm sú và tìm hiểu các yếu tố nguy cơ để
đưa ra các PP chẩn đoán, phòng trị bệnh" của Nguyễn Văn Hảo và CTV
(2000-2003) chủ yếu thực hiện trên địa bàn các tỉnh đồng bằng sông Cửu
Long. Nghiên cứu này nhằm tìm ra được biện pháp phòng bệnh từ các
giải pháp môi trường, xác định mùa vụ và tăng cường sức khỏe vật nuôi.
III. Lịch sử PT ngành KH BHTS
2.3. Căn cứ vào vị trí cư trú và phạm vi gây tác hại của bệnh
Bệnh cục bộ: Tác nhân xâm nhập, cư trú và gây tác hại chỉ ở
một bộ phận nào đó của cơ thể, không có khả năng xâm lấn và
gây tác hại đến các bộ phận khác, cơ quan khác trong cơ thể.
Bệnh toàn thân: Khi cá, tôm bị bệnh loại này, tác nhân gây
bệnh có thể theo hệ thống tuần hoàn xâm nhập vào nhiều tổ
chức cơ quan khác nhau, tác hại của nó ảnh hưởng tới toàn bộ
hoạt động sống của cơ thể.
Trong thực tế, có nhiều trường hợp các bệnh cục bộ sau một
thời gian bệnh sẽ khỏi mà không gây tác hại gì đáng kể, nhưng
cũng không ít trường hợp, bệnh cục bộ sẽ phát triển thành
bệnh toàn thân khi gặp điều kiện thuận lợi, như sức khỏe vật
nuôi suy giảm do nhiều lý do khác nhau.
2.4. Căn cứ vào mức độ nặng nhẹ và diễn biến của bệnh
Bệnh cấp tính: Bệnh hay xảy ra đột ngột, quá trình bệnh lý biến đổi rất
nhanh chóng, có thể trong vài giờ, hoặc vài ngày, có một số bệnh cấp
tính, khi triệu chứng bệnh chưa kịp xuất hiện rõ trên cơ thể, thì vật
nuôi đã bị chết.
Tỷ lệ nhiễm bệnh trong quần đàn thường cao, sức khỏe động vật bị
bệnh suy giảm nhanh chóng. Có thể gây ra tỷ lệ chết cao.
Đặc biệt khi bệnh cấp tính xảy ra, công tác chữa bệnh thường tốn
kém và ít mang lại hiệu quả.
Trong thực tế bệnh cấp tính hay xảy ra ở các loại bệnh truyển nhiễm,
hay các bệnh do yếu tố môi trường.
Một số bệnh KST do động vật đơn bào (Protozoa) hay giun sán cũng
có thể gây ra các bệnh cấp tính. Ví dụ: bệnh trùng quả dưa ở cá trê
hương chỉ trong 24-48 giờ, cá con có thể bị chết 100% khi bị nhiễm
với tỷ lệ và cường độ cao.
Bệnh thứ (Ắ) cấp tính: Bệnh xảy ra khá nặng, bệnh lý của bệnh phát
triển tương đối nhanh, trong vòng 2- 6 tuần, bệnh này cũng có thể gây
chết rải rác, nếu không chữa trị thì tỷ lệ chết tích lũy trong ao cũng
không nhỏ.
Bệnh mạn tính: Bệnh lý tiến triển chậm, có thể kéo dài hàng tháng hoặc
hàng năm. Bệnh này thường ít khi gây chết nếu không bị bội nhiễm
thêm các tác nhân cơ hội khác.
NN và ĐK gây bệnh tác động trong thời gian dài,
Bệnh lý kéo dài, không mãnh liệt nhưng cũng không dễ tiêu diệt, có
thể ảnh hưởng rất lớn tới sinh trưởng của động vật bị bệnh.
VD: Bệnh MBV (Penaeus mondon Baculovirus) thường xảy ra ở dạng
mãn tính với tôm sú trong ao nuôi thương phẩm, bệnh này có thể gây
hiện tượng phân đàn lớn, còi cọc, chậm lớn, còn gọi là "bệnh tôm
kim", ở đàn tôm nhiễm bệnh trong suốt chu kỳ nuôi 3-4 tháng, làm
tôm yếu và dễ bị nhiễm các sinh vật khác.
Trong thực tế ranh giới giữa 3 loại bệnh nêu trên không rõ rệt vì giữa
chúng còn có thời kỳ quá độ và tuỳ ĐK thay đổi nó có thể chuyển từ
dạng này sang dạng khác.
3. Các thời kỳ phát triển của bệnh
Dưới tác động của các tác nhân và ĐK gây bệnh, cơ thể sinh vật
không phải lập tức bị bệnh mà nó phải trải qua một quá trình tiến triển
bệnh lý.
Căn cứ vào đặc trưng từng giai đoạn PT của bệnh mà chia các bệnh
thành một số thời kỳ khác nhau:
3.1. Thời kỳ ủ bệnh: Là thời kỳ từ khi nguyên nhân gây bệnh tác động
hoặc xâm nhập vào cơ thể động vật, đến khi xuất hiện triệu chứng
bệnh đầu tiên.
Ở thời kỳ này, khi các tác nhân xâm nhập vào cơ thể với số lượng ít,
độc lực yếu nên chưa thể gây bệnh, chúng cần một khoảng thời gian
để tác nhân gây bệnh cư trú, sinh sản tăng số lượng và độc lực để đánh
bại sức đề kháng của cơ thể ký chủ, điều này được thể hiện bên ngoài
là các hoạt động sinh lý bình thường của cá bắt đầu có sự thay đổi,
nhưng dấu hiêu chưa thể hiện ra bên ngoài.
Thời kỳ này dài hay ngắn tùy thuộc vào từng loại tác nhân và từng
loại ký chủ.
Có thể rất nhanh trong vài phút nếu tác nhân gây bệnh là các chất độc:
như khi ta dùng thuốc có tính độc cao phun xuống ao, chỉ trong vài
phút, triệu chứng nổi đầu hàng loạt sẽ xuất hiện.
Có thể trong vài ngày đến 1 tuần nếu tác nhân là virus, vi khuẩn, nấm
gây các bệnh truyền nhiễm cấp tính.
Có thể kéo dài trong mấy tháng tới hàng năm nếu tác nhân gây bệnh là
các bệnh ký sinh trùng như giun sán.
Thời ký ủ bệnh có thể dài hay ngắn còn phụ thuộc vào số lượng,
phương thức nhiễm của tác nhân gây bệnh, sức đề kháng của vật chủ
và ĐK của môi trường.
Chú ý: khi ĐVTS bị bệnh do tác dộng cơ học từ MT (bị thương) thì
không có thời kỳ ủ bệnh.
Trong thời kỳ ủ bệnh, sinh vật ký sinh lấy chất dinh dưỡng từ ký chủ
để sinh trưởng, sinh sản và hoạt động. Về vật chủ trong thời kỳ này cơ
thể sẽ tạo ra những yếu tố miễn dịch để phòng vệ.
Thời kỳ ủ bệnh ở ĐVTS nuôi dài hay ngắn còn phụ thuộc vào ĐK
chăm sóc, nuôi dưỡng và điều MT sống. Nếu động vật nuôi được
chăm sóc tốt, được sống trong MT thích hợp thì thời kỳ này kéo dài,
các thời kỳ sau sẽ nhẹ nhàng, tác hại đến động vật nuôi không đáng
kể.
Trong quá trình nuôi ĐVTS, cần theo dõi thường xuyên, để phát hiện
sớm các dấu hiệu bất thường và có biện pháp để phòng trị kịp thời
trong giai đoạn này là có hiệu quả nhất.
3.2.Thời kỳ tiền phát: Là thời kỳ chuyển tiếp từ lúc xuất hiện dấu hiệu
bệnh lý đầu tiên đến lúc bệnh lý rõ ràng.
Thời kỳ này tác nhân gây bệnh đã gây những tác hại nhất định đến tổ
chức cơ quan hoặc toàn bộ cơ thể của động vật bị bệnh, làm các dấu
hiệu bệnh lý đặc thù của bệnh xuất hiện.
Tác nhân gây bệnh sinh sản rất mạnh. Khi bệnh chuyển sang thời kỳ
này chứng tỏ sức đề kháng của cơ thể đã không có khả năng cô lập và
tiêu diệt được tác nhân gây bệnh.
3.3. Thời kỳ toàn phát: Là thời kỳ bệnh PT ở mức độ cao nhất, triệu
chứng điển hình của bệnh thể hiện rõ. Quá trình trao đổi chất cũng
như hình thái cấu tạo của tổ chức tế bào các cơ quan trong cơ thể động
vật bị bệnh có sự biến đổi.
Thời kỳ này nặng nhất và thường gây tác gại lớn cho động vật bị
bệnh, hiện tượng chết thường bắt đàu xảy ra ở thời kỳ này.
Trong thực tế. việc phân chia rành rọt 3 thời kỳ của bệnh như trên là chỉ
mang tính tương đối, bởi nó chịu tác động của nhiều yếu tố ảnh hưởng
và trong quá trình tiến triển của bệnh có những thay đổi phức tạp.
Sau thời kỳ toàn phát, bệnh tiến triển theo chiều hướng tốt hay xấu còn
chịu tác động của nhiều yếu tố như: NN và ĐK gây bệnh, sức đề
kháng của động vật bị bệnh và các biện pháp phòng trị do con người
áp dụng. Dưới tác động của các yếu tố này bệnh có thể diễn biến như
sau:
Bệnh được chữa khỏi, cơ thể hoàn toàn được khôi phục: ĐVTS bị
bệnh ở thời kỳ toàn phát, nhưng nếu được áp dụng các biện pháp trị
bệnh kịp thời và đúng hướng, thì tác nhân gây bệnh có thể bị tiêu diệt
hoàn toàn, sau một thời gian các dấu hiệu bệnh lý dần dần mất đi,
ĐVTS dần dần trở lại hoạt động bình thường, hiện tượng chết do bị
bệnh trong thuỷ vực chấm dứt. Trong thời kỳ này cần quan tâm cho
cá, tôm ăn đủ về số lượng và chất lượng để tăng cường sức khoẻ và
vật nuôi được phục hồi nhanh chóng, đảm bảo tiếp tục sinh trưởng
bình thường.
Chưa hoàn toàn hồi phục: Tác nhân gây bệnh cho cá, tôm đã bị tiêu
diệt nhưng chưa thật triệt để, một phần còn tồn tại tiềm sinh trong cơ
thể, trong MT nước hoặc ở đáy ao. Ở thời kỳ này hiện tượng chết đã
giảm đi rất nhiều, dấu hiệu bệnh lý trên những cá thể còn sống mất
dần, các hoạt động của cá, tôm trở lại gần như bình thường. Tuy vậy,
vật nuôi rất dễ dàng nhiễm bệnh trở lại nếu gặp điều kiện thuận lợi
như: MT xấu, biến động ngoài ngưỡng thích hợpvà sức đề kháng của
động vật nuôi suy giảm.
Không thể chữa khỏi bệnh: Dưới tác động cơ học, hóa học của tác
nhân gây bệnh, làm cho nhiều tổ chức cơ quan của ĐVTS bị bệnh bị
huỷ hoại, phá hủy nghiêm trọng, làm sức đề kháng của cơ thể vật nuôi
giảm dần, trong lúc đó tác nhân gây bệnh lại phát triển mạnh sau một
thời gian tăng nhanh mật độ và độc lực. Các biện pháp chữa trị đã áp
dụng nhưng không mang lại hiệu quả. Thời kỳ này, các hoạt động
sinh lý bình thường của vật nuôi không thể hồi phục, hiện tượng chết
xảy ra rải rác hoặc hàng loạt, có nhiều trường hợp tỷ lệ chết đạt
100%.
VD: khi ấp trứng cá chép, phôi phát triển đến giai đoạn hình thành bọc
mắt nhưng nếu nấm thuỷ my bám vào màng trứng, toàn bộ số trứng
sắp nở nhiễm nấm sẽ bị ung hết. Hoặc như bệnh đốm trắng do virus
(WSSV) xảy ra ở tôm sú nuôi thương phẩm, sau 5-7 ngày kể từ khi
xuất hiện dấu hiệu bệnh lý đầu tiên, hiện tượng chết có thể lên tới 90-
100% bất chấp mọi biện pháp chữa trị mà con người đã áp dụng.
4. Đặc điểm bệnh ở động vật thủy sản
Đặc điểm 1: Trên cơ thể ĐVTS thường xuyên mang mầm bệnh, nhưng
không phải lúc nào bệnh lý cũng xuất hiện. Khả năng bị bệnh của
ĐVTS cũng phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau như:
Sức đề kháng của cơ thể ĐVTS: ĐVTS thường là các động vật
không sương sống (Giáp xác, động vật thân mềm) và động vật có
xương sống bậc thấp (cá), nhưng cơ thể chúng vẫn tồn tại khả năng
đề kháng với tác nhân gây bệnh, thể hiện ở hệ thống miến dịch tự
nhiên ở tất cả các loại ĐVTS và hệ thống miễn dịch đặc hiệu ở cá.
Do vậy, tác nhân gây bệnh chỉ có thể gây bệnh khi nó chiến thắng
được khả năng tự bảo vệ của ĐVTS.
ĐKMT: Đa phần tác nhân gây bệnh ở ĐVTS là sinh vật, do vậy sự
tồn tại và PT của nó phụ thuộc rất lớn vào ĐKMT. Mặt khác, sức đề
kháng của động vật thủy sản cao hay thấp cũng bị chi phối bới
ĐKMT.
Do vậy, trong thực tế, để ngăn chặn sự bùng phát một bệnh nào đó ở
ĐVTS, không phải chỉ ngăn chặn sự xâm nhập của tác nhân gây
bệnh lên cơ thể ĐVTS là đủ, mà còn phải kìm hãm sự phát triển của
tác nhân và tăng sức khỏe vật nuôi thông qua giải pháp QLMT.
Đặc điểm 2: Khi ĐVTS bị bệnh thường là kết quả tác động của nhiều
loại tác nhân gây bệnh khác nhau, trong đó có các tác nhân chính,
tác nhân thứ cấp. Do vậy, hiệu quả của các biện pháp trị bệnh phụ
thuộc rất lớn vào việc chúng ta có xác định được đâu là tác nhân
chính
Khi cá bị bệnh lở loét (EUS), trên cơ thể cá bệnh, người ta có thể
phát hiện được nhiều chủng loại tác nhân gây bệnh khác nhau:
Virus, vi khuẩn, nấm và nhiều loại ký sinh trùng khác nhau. Nhưng
tác nhân chính của bệnh này lại do một loài nấm bậc thấp
(Aphanomyces invadans) xâm nhập và ký sinh trong cơ của cá và
tiết ra độc tố gây hoại tử nghiêm trọng các vùng mô bị nấm ký sinh.
ĐVTS biển bị bệnh, ngoài các tác nhân như KST, nấm, virus chúng
ta cũng thường xuyên phân lập được các loài khác nhau của giống vi
khuẩn Vibrrio spp. Nhưng vai trò của Vibrrio trong các bệnh này lại
rất khác nhau, có khi đóng vai trò là tác nhân chính (bệnh phát sáng
ở ấu trùng tôm he), hoặc là tác nhân thứ cấp trong rất nhiều bệnh
khác.
Đặc điểm 3
Khi ĐV bị bệnh thường rất khó phát hiện, ĐB khó phát hiện bệnh
sớm. Thường khi phát hiện được thì bệnh đã chuyển sang thời kỳ
nghiêm trọng và đây cũng là nguyên nhân làm cho các biện pháp
chữa trị mà người nuôi áp dụng ít mang lại hiệu qủa và rất tốn kém.
Việc chữa bệnh cho ĐVTS cũng rất khó khăn, nhiều khi vượt quá
sức của những người nông dân nuôi tôm cá vì: Không thể chữa bệnh
từng cá thể như động vật trên cạn, ĐVTS bị bệnh cần chữa bệnh
theo quần thể, do vậy lượng thuốc dùng thường lớn và đặc biệt ta
không thể biết chắc những cá thể bị bệnh có dùng thuốc hay không,
trong khi đó những cá thể còn khỏe lại có nguy cơ hấp thụ một
lượng thuốc lớn hơn yêu cầu cần thiết.
Việc chữa trị bệnh cho ĐVTS thường khó xác định chính xác liều sử
dụng ở mọi PP dùng thuốc. Do đó, trong thực tế có nhiều trường
hợp lượng thuốc dùng cho xuống ao hoặc cho ĐVTS ăn thấp hơn
hoặc cao hơn nồng độ cần thiết, ảnh hưởng tới hiệu quả và sức khỏe
của động vật dùng thuốc.
Đặc điểm 4: Bệnh ở ĐVTS có liên quan tới sức khỏe của con người và
động vật trên cạn. Nhiều KST, ở giai đoạn ấu trùng ký sinh ở cá,
giáp xác, động vật thân mềm, nhưng ở giai đoạn trưởng thành lại ký
sinh gây bệnh ở người và động vật có xương sống khác. Hay có thể
nói rằng, ĐVTS là ký chủ trung gian của nhiều ký sinh trùng ký sinh
ở người và động vật trên cạn.
VD: sán lá ruột nhỏ Haplorchis spp., sán lá gan nhỏ Clonorchis
sinensis hay Opisthorchis spp. trưởng thành sống ở ruột, gan, ống
mật của người và ĐV ănthịt trên cạn, giai đoạn ấu trùng Cecariae
(KS trong ốc), Metacercariae (KS ở cá)
Sán dây (Cestoidea), sán lá song chủ (Digenea), hoặc có nhiều loài
VK ký ĐK chúng có thể chuyển sang gây các bệnh nguy hiểm ở con
người, như bệnh đường ruột ở người do Vibrrio parahaemolyticus,
đây là loại VK có mặt ở rất nhiều loại ĐVTS bị bệnh hay còn khỏe
mạnh.
II. NHỮNG KHÁI NIỆM CƠ BẢN
VỀ BỆNH TRUYỀN NHIỄM
1. Khái niệm về hiện tượng truyền nhiễm.
Hiện tượng TN là quá trình tổng hợp xảy ra trong cơ thể sinh
vật khi có tác nhân gây bệnh là VSV xâm nhập, tác nhân gây
bệnh là có thể là virus, vi khuẩn, nấm, tảo đơn bào.
Hiện tượng TN thường bao hàm ý nghĩa hẹp, nó thể hiện sự
nhiễm trùng của cơ thể sinh vật, đôi khi chỉ là sự bắt đầu
nhiễm, tác nhân gây bệnh có các kích thích riêng biệt, gây ra
những biến đổi cục bộ bên trong, chưa có những ảnh hưởng rõ
ràng đến các hoạt động sống của cơ thể, nên thường chưa xuất
hiện dấu hiệu bệnh lý.
Trong trường hợp tác nhân xâm nhập vào cơ thể để gây bệnh
nhưng chưa có dấu hiệu bệnh lý, lúc này có thể gọi là cơ thể
sinh vật đang có hiện tượng TN, nhưng chưa thể gọi là bị bệnh
TN. Bệnh TN là phải kèm theo dấu hiệu bệnh lý.
II. NHỮNG KHÁI NIỆM CƠ BẢN
VỀ BỆNH TRUYỀN NHIỄM
VD: Những người bị nhiễm virus HIV nhưng chưa xuất hiện
các dấu hiệu của bệnh, trong khi virus này đang dần tấn công
hệ MD của người bị nhiễm, người ta gọi những người này là
bị nhiễm HIV dương tính, hay đang có hiện tượng TN virus
HIV.
Tôm sú bị nhiễm virus đốm trắng (WSBV) có thể ngay ở thời
kỳ tôm giống, nhưng giai đoạn này tôm không xuất hiện các
dấu hiệu bệnh lý của bệnh này, nó vấn sống và sinh trưởng
bình thường, trong khi tác nhân virus này đang tiềm ẩn trong
nhân tế bào trung bì và hạ bì của cơ thể. Lúc này đang có hiện
tượng TN ở đàn tôm này. Đến khi tôm đạt kích cở P50-P70,
bệnh mới bùng nổ với các dấu hiệu đặc thù của nó và gây chết
dữ dội.
2. Định nghĩa về bệnh truyền nhiễm
Khi một sinh vật đã có hiện tượng TN kết hợp với bộc phát các dấu
hiệu bệnh lý thì gọi sinh vật đó là đang bị bệnh TN.
Bệnh TN là kết quả quá trình xâm nhập của tác nhân gây bệnh là
VSV ( Virus, vi khuẩn, nấm...) và sự mẫn cảm của cơ thể vật chủ dưới
tác động của các ĐK ngoại cảnh.
Định nghĩa trên đã cho thấy 3 nhân tố cần thiết để phát sinh ra bệnh
TN ở động vật nói chung:
- Tác nhân gây ra bệnh truyền nhiễm: virus, vi khuẩn, nấm, tảo đơn
bào...
- Ký chủ mẫn cảm với tác nhân gây bệnh: tôm, cá, động vật thân
mềm.
- ĐKMT bên ngoài thuận lợi cho sự xâm nhập và PT của tác nhân gây
bệnh thúc đẩy quá trình TN.
3. Đặc điểm bệnh truyền nhiễm
KT của các tác nhân gây BTN thường nhỏ, thường có KT hiển vi (vk,
nấm) hoặc siêu hiển vi (virus), song khả năng gây bệnh của chúng rất
lớn, nó có thể làm cho vật chủ chết nhanh chóng trong một thời gian
ngắn. Rất nhiều BTN xuất hiện ở mức độ cấp tính nên thường gây hại
lớn cho các động vật nuôi, như ĐVTS
Tác nhân gây BTN có khả năng sinh sản rất nhanh khi gặp ĐK ngoại
cảnh thuận lợi và khi xâm nhập được vào cơ thể vật chủ có sức đề
kháng kém. VK với phương thức phân đôi đơn giản, nấm ký sinh ở
ĐVTS với phương thức sinh sản bằng các bào tử động và virus sinh
sản bằng phương thức nhân bản dựa vào cơ chế tổng hợp của chính tế
bào vật chủ làm cho tác nhân gây BTN sinh sôi, tăng nhanh về số
lượng và gây tác hại trong một thời gian ngắn.
3. Đặc điểm bệnh truyền nhiễm (tiếp)
Tác nhân gây BTN khi đạt được số lượng lớn, thường gây bệnh toàn
thân (nhiễm hệ thống), chúng có khả năng chiếm chỗ trong các tế bào,
mô của cơ thể vật chủ, tiết ra độc tố phá hoại tổ chức cơ thể của vật
chủ, làm cho các tổ chức, cơ quan hoạt động không bình thường, rối
loạn và ngừng trệ.
Tác nhân gây BTN thường có khả năng lây lan rất lớn, có thể theo
nguồn nước, theo con giống, theo các loại sinh vật mang mầm bệnh,
theo dụng cụ dùng trong trang trại...nên có thể tạo nên những trận dịch
lớn trên diện rộng.
Đa phần những BTN do vk và nấm đều có thuốc để chữa trị, nhưng
hiệu quả trị các bệnh này cũng rất hạn chế trong lĩnh vực NTTS, do
bệnh tiến triển nhanh, khó phát hiện các thời kỳ sớm của bệnh và hiện
tượng kháng thuốc đang rất phổ biến. Riêng các bệnh do virus đến
nay vẫn chưa tìm ra thuốc có tác dụng chữa trị.
4. Nguồn gốc và con đường lan truyền
của bệnh truyền nhiễm ở động vật thuỷ
sản.
4.1. Nguồn gốc của bệnh truyền nhiễm.
Trong các thuỷ vực tự nhiên: ao, hồ, sông và các đầm, vịnh ven biển thường quan
sát thấy ĐVTS bị mắc BTN, đây sẽ là các “ổ dịch tự nhiên”. Từ đó mầm bệnh
xâm nhập vào các nguồn nước.
ĐVTS bị BTN và những xác của chúng là nguồn gốc chính gây BTN đối với 1
vùng nuôi. Tại các “ổ dịch tự nhiên”, tác nhân gây BTN ở ĐVTS sinh sản rất
nhanh để tăng nhanh số lượng, chúng xâm nhập vào MT nước bằng nhiều con
đường tuỳ theo tác nhân gây bệnh như: theo các vết loét của cá, cơ quan tiêu hoá,
cơ quan sinh sản hoặc qua mang, xoang miệng, xoang mũi.
Ngoài ra, một số các tác nhân gây BTN (nấm, vk) ở ĐVTS có thể tồn tại ngay
trong MT nước bằng phương thức sống hoại sinh trên các vật chất hữu cơ có sẵn
được thải ra từ các hoạt động kinh tế và sinh hoạt của con người, khi gặp vật chủ
và đk ngoại cảnh cho phép thì sống ký sinh gây bệnh, nếu không gặp vật chủ,
chúng sống hoại sinh như các vi sinh vật khác. Như vậy, ngoài các "ổ dịch tự
nhiên" như đã nói ở trên, thì khu hệ vi sinh vật phân bố ngay trong môi trường
nước cũng được coi như nguồn gốc của BTN.
4.1. Nguồn gốc của bệnh truyền nhiễm (tiếp)
Một số tác nhân gây bệnh là virus còn tồn tại tiềm ẩn trong
cơ thể của một số sinh vật mang mầm bệnh, chúng có thể
không gây bệnh cho các sinh vật này nhưng lại là nguồn lưu
giữ mầm bệnh, để lây nhiễm cho vật nuôi thủy sản khi sinh
vật này chết hoặc là thức ăn cho vật nuôi như giáp xác
hoang dã được biết là sinh vật mang mầm bệnh của virus
đốm trắng (WSBV) .
Việc NC nguồn gốc của BTN có ý nghĩa trong công tác
phòng bệnh cho ĐVTS. Giảm ô nhiễm hữu cơ trong môi
trường, cô lập và diệt trừ triệt để các ổ dịch và các sinh vật
mang mầm bệnh là các biện pháp phòng bệnh hữu hiệu.
4.2 Con đường lan truyền của BTN ở ĐVTS
Bằng đường tiếp xúc trực tiếp: ĐVTS khoẻ mạnh sống chung trong
thuỷ vực cùng với ĐVTS mắc BTN, do tiếp xúc trực tiếp, tác nhân
gây bệnh truyền từ ĐVTS bị bệnh sang cho ĐVTS khoẻ.
Bằng dòng nước: Tác nhân gây BTN trong cơ thể ĐVTS bị bệnh rơi
vào MT nước bằng nhiều cách khác nhau và sống tự do trong nước
một thời gian, theo dòng nước, mầm bệnh có thể được đưa đi, xâm
nhập vào vùng nuôi thủy thuỷ sản khác và lây lan cho ĐVTS khoẻ
mạnh.
Do dụng cụ đánh bắt và vận chuyển ĐVTS: Khi vận chuyển hoặc
đánh bắt ĐVTS bị bệnh, tác nhân gây bệnh có thể bám vào dụng cụ,
nếu dùng dụng cụ này để đánh bắt hoặc vận chuyển ĐVTS khoẻ thì
không những nó làm lây lan bệnh cho ĐVTS khoẻ mà còn ra MT
nước.
Do ĐVTS di cư: ĐVTS bị bệnh hoặc mang mầm bệnh di cư từ vùng
nước này sang vùng nước khác một cách chủ động theo tập tính của
loài, hay bị động thông qua sự lưu thông con giống thủy sản và các
sản phẩm thủy sản tươi bởi con người, tác nhân gây BTN có thể xâm
nhập vào vùng nước mới, gặp lúc ĐKMT thay đổi không thuận lợi
cho đời sống ĐVTS, tác nhân gây bệnh xâm nhập vào cở thể ĐVTS
khoẻ làm cho ĐVTS mắc bệnh.
Do chim và các sinh vật ăn ĐVTS: Chim, cò, rái cá, chó, mèo,....bắt
ĐVTS bị BTN làm thức ăn, tác nhân gây BTN có thể bám vào chân,
mỏ, miệng, vào cơ thể của chúng. Những động vật này lại chuyển
sang bắt mồi ở vùng nước khác, tác nhân gây BTN từ chúng, có thể đi
vào MT nước, chờ cơ hội thuận lợi chúng xâm nhập vào cơ thể ĐVTS
khoẻ và gây BTN.
Một số tác nhân gây bệnh là virus, ngoài con đường lây truyền ngang
như đã nêu ở trên, chúng còn lây truyền dọc từ tôm cá bố mẹ bị bệnh
hay đã khỏi bệnh nhưng vấn còn mang mầm bệnh, sẽ truyền mầm
bệnh cho đàn ấu trùng do chúng đẻ ra. Cá biển bố mẹ nhiễm virus
viêm thần kinh (VNN) tham gia sinh sản sẽ lây truyền virus này cho
đàn con, và bệnh sẽ xảy ra rất nặng ở giai đoạn cá con < 20 ngày tuổi.
5. Con đường xâm nhập của tác nhân
gây bệnh truyền nhiễm
Xâm nhập qua đường tiêu hóa: Đây là con đường xâm nhập chủ yếu
của rất nhiều loại vk và virus khác nhau. Từ cơ quan tiêu hóa, các
tác nhân này lại xâm nhập tiếp tục vào các cơ quan khác trong cơ thể
thông qua hệ thống tuận hoàn và định cư ở các cơ quan đích khác
nhau với từng loại tác nhân. Tôm he khỏe mạnh có thể sử dụng xác
của những con tôm chết vì các BTN nguy hiểm như bệnh đầu vàng,
bệnh đốm trắng do virus làm thức ăn. Vào trong cơ thể vật chủ, virus
sẽ tấn công vào tế bào của các cơ quan đích như: mang, gan tụy và
máu (với virus đầu vàng) và mang, dạ dày, biểu mô dới vỏ (với virus
đốm trắng).
Xâm nhập theo đường hô hấp: Mang là cơ quan hô hấp chính của
ĐVTS, khác với động vật trên cạn, cơ quan hô hấp của ĐVTS tiếp
xúc trực tiếp với MT nước, do vậy rất nhiều tác nhân gây bệnh xâm
nhập vào cơ thể qua con đường này. Các bào tử động của nấm mang
tấn công vào mang và các vết thương tổn trên mang cá, theo các mao
mạch của mang đến cư trú ở một số cơ quan khác trong cơ thể cá bị
Xâm nhập qua da cá và qua vỏ kitin của giáp xác: Tác nhân gây
bệnh từ MT có thể xâm nhập vào cơ thể vật chủ tại các vị trí mà da
của cá bị thương tổn do tác động cơ học hoặc do KST sống ký sinh,
tại các vị trí mà vỏ kitin của giáp xác bị vỡ hoặc bị rách sau khi lột
xác, sau đó xâm nhập vào các mô cơ để ký sinh tại đó hay theo hệ
thống tuần hoàn đến cư trú ở các cơ quan khác nhau như các bệnh
nấm và vi khuẩn khác nhau ở cá và tôm.
Trong cách lây nhiễm từ mẹ sang con, virus xâm nhập vào trứng và
ấu trùng có thể theo đường máu, cũng có thể theo đường tiêu hóa,
khi ấu trùng sử dụng thức ăn bên ngoài, các vi thể virus do bố mẹ
thải ra môi trường bể đẻ, sẽ xâm nhập vào ấu trùng qua con đường
thức ăn. Ấu trùng tôm sú trong bể ấp có thể bị nhiễm virus MBV ở
giai đoạn Zoae, khi bắt đầu sử dụng thức ăn bên ngoài. Virus này
được tôm mẹ thải ra MT bể ấp cùng với thải phân trong quá trình đẻ
trứng.
6. Mối quan hệ giữa bệnh truyền nhiễm
ở ĐVTS và động vật trên cạn
Cá, giáp xác, nhuyễn thể bị bệnh hay mang mầm BTN, có thể
là nguồn gốc của một số BTN ở người và gia súc. Một số
nghiên cứu gần đây cho thấy, trong cơ thể một số ĐVTS có
mang các chủng vk gây bệnh dịch tả như: Clostridium
botulinum, Salmonella enteritidis, Proteus vulgaris, Vibrio
parahaemolyticus, Vibrio cholerae... Các loại vk này có thể rơi
vào nước và gây nhiễm bẩn nguồn nước. Người và động vật
trên cạn uống phải nguồn nước bị nhiễm bẩn này hay sử dụng
ĐVTS bị bệnh làm thức ăn mà không được nấu chín, có thể
nhiễm bệnh nguy hiểm.
Prodnhian và Guritr bằng thí nghiệm đã khẳng định:
Salmonella suipestifer, Salmonella enteritidis khi đưa vào ruột
của cá nó có thể tồn tại trong 60 ngày, ngoài ra nó có thể tồn
tại trong cá ướp muối.
Theo A-K Serbina, thí nghiệm của ông đã khẳng định khi cá mắc bệnh
đốm đỏ có 15-20% số cá có nhiễm Clostridium botulinum trong cơ
thể..
Tôm, hầu sống trong MT nước thải sinh hoạt, nước thải các chuồng
trại chăn nuôi gia cầm, gia súc, nước thải các nhà máy, xí nghiệp công
nghiệp được đưa vào nghiên cứu và người ta đã phát hiện phần lớn
chúng có mang vk gây bệnh lỵ, bệnh đường ruột, bệnh sốt phát ban...
Bằng con đường thực nghiệm người ta cũng đã xác định vk gây sốt
phát ban có thể sống trong cơ thể hầu đến 60 ngày. Từ đó người ta đã
chứng minh được rằng dịch sốt phát ban ở một số nước như: Pháp,
Mỹ có quan hệ chặt chẽ với việc dùng hầu, tôm làm thức ăn. Do đó,
cá tôm, hầu và một số hải đặc sản dùng để ăn sống cần có chế độ kiểm
dịch nghiêm khắc để tránh một số BTN lây lan và gây bệnh cho
người.
III. KHÁI NIỆM VỀ BỆNH KÝ SINH
TRÙNG
1. Hiện tượng ký sinh
Đa phần sinh vật có phương thức sống tự do, một số có các
phương thức sống khác như: sống cộng sinh, sống hội sinh và sống
ký sinh.
Nếu phương thức sống tự do là hoàn toàn tự do về cư trú và dinh
dưỡng, thì phương thức sống ký sinh lại ngược lại, hoàn toàn lệ
thuộc vào cơ thẻ vật chủ về dinh dưỡng và cư trú, trong quan hệ
này, vật ký sinh là sinh vật được lợi, còn vật chủ là sinh vật bị hại.
Hiện tượng ký sinh là mối quan hệ qua lại phức tạp giữa hai cơ thể
sinh vật, trong đó một sinh vật tạm thời hoặc thường xuyên, cư trú
ở bên trên, hay bên trong sinh vật kia, lấy chất dinh dưỡng cho
mình và gây những tác hại nhất định.
Hiện tượng ký sinh có thể xảy ra giữa 2 cơ thể động vật, 2 cơ thể
thực vật hoặc giữa động vật và thực vật.
2. Định nghĩa bệnh ký sinh trùng
Giữa 2 cơ thể sinh vật có hiện tượng ký sinh, trong đó vật
ký sinh là động vật (Protozoa, giun sán...) và tác hại của
vật ký sinh gây cho ký chủ thể hiện bằng các dấu hiệu
bệnh lý thì gọi đó là bệnh ký sinh trùng.
Bệnh ký sinh trùng là hiện tượng ký sinh + dấu hiệu bệnh
lý, trong đó sinh vật ký sinh thuộc giới động vật.
Ở ĐVTS, cũng tồn tại hàng loạt các bệnh ký sinh trùng
khác nhau: Bệnh do động vật đơn bào ký sinh, bệnh do
giun sán ký sinh, bệnh do giáp xác ký sinh.
Vật chủ (ký chủ- KC): Là sinh vật bị hại trong quan hệ
ký sinh. Vật chủ không những là nguồn cung cấp dinh
dưỡng cho ký sinh trùng mà còn là nơi cư trú tạm thời
hay vĩnh cửu của ký sinh trùng.
Vật ký sinh (KST): Là sinh vật được lợi trong quan hệ ký
sinh, dùng ký chủ làm nơi cư trú và nguồn cung cấp dinh
dưỡng cho chúng.
KST ngoại KS (Ectoparasite): Là KST ký sinh trên bề mặt cơ thể
trong từng giai đoạn hay suốt đời được gọi là ký KST ngoại KS. Ở
cá KST KS trên da, trên vây, trên mang, hốc mũi, xoang miệng; Ở
tôm KS trên vỏ, phần phụ, mang đều là KST ngoại KS. VD: như
Trichodina, Ichthyophthirius, Zoothamnium, Epistylis, Argulus,
Lernaea....
KST nội KS (Indoparasite): Là KST KS trong các cơ quan nội
tạng, trong tổ chức, trong xoang của vật chủ như: vi bào tử
(Microsporidia) KS trong cơ của tôm, sán lá Sanguinicola sp. KS
trong máu cá; sán dây Caryophyllaeus sp., giun đầu gai
Acanthocephala ký sinh trong ruột cá...
KC trung gian: Là KC mà ở đó KST tồn tại ở GĐ ấu trùng và tiến
hành S2 vô tính
KC cuối cùng: Là KC mà ở đó KST tồn tại ở GĐ trưởng thành và
tiến hành S2 hữu tính.
KC bắt buộc: Là KC có cấu trúc cơ thể và đặc điểm sinh lý, sinh
thái phù hợp với nhu cầu D2 và sinh thái của KST, nên KST này
xâm nhập dễ dàng và phát triển thuận lợi. Do vậy mức độ nhiễm
KST trên KC này thường cao, tác hại lớn. Nếu vì một lý do nào đó,
KST không tìm thấy những ký chủ bắt buộc, chúng khó duy trì
nòi giống và dễ bị diệt vong .
KC không bắt buộc: Là KC có cấu trúc cơ thể và Đ2 sinh lý, sinh
thái không phù hợp với nhu cầu D2 và sinh thái của KST, nên KST
này xâm nhập khó khăn và PT không thuận lợi. Do vậy mức độ
nhiễm của KST trên KC này thường thấp, tác hại không đáng kể.
Nếu vì một lý do nào đó, KST chỉ có thể tìm thấy những KC
không bắt buộc trong MT sống của nó, chúng khó duy trì nòi
giống và cũng dễ bị diệt vong .
- Loài KST Dactylogyrus minutus có thể KS trên một số loài cá
nước ngọt như: cá chép, cá mè, cá trắm cỏ...nhưng mức độ nhiễm
trên cá chép thường rất cao (tới 90%), trong khi cá mè và cá trắm
cỏ lại nhiễm thấp, mặc dù cả 3 loài cá này được nuôi ghép trong
cùng một ao. Từ hiện tượng này người ta cho rằng, cá chép là KC
bắt buộc của D. minutus và cá mè, cá trắm cỏ chỉ là những KC
không bắt buộc.
KC dự trữ: Là KC không thật sự cần thiết phải có trong vòng đời
PT của KST, nhưng khi đã có thì không thừa, vì nó có vai trò trong
việc lưu giữ và phát tán của KST để đảm bảo duy trì nòi giống.
Giun tròn Spirocerca lupi có ký chủ trung gian là bọ
hung, ký chủ cuối cùng là chó, nhưng người ta lại gặp ấu
trùng của giun tròn này trong cơ thể của một số động vật
khác như: chuột, thằn lằn...ở trạng thái "nghỉ" không
phát triển, chờ cơ hội xâm nhập vào ký chủ cuối cùng là
chó, để chuyển sang giai đoạn trưởng thành. Như vậy,
những động vật như chuột, thằn lằn được gọi là ký chủ dự
trữ.
Sán lá Clonorchis sinensis Cobbold, 1875 giai đoạn ấu
trùng ký sinh trong cơ thể vật chủ trung gian thứ nhất là
ốc (Bithynina longiornis) và vật chủ trung gian thứ 2 là
các loài cá nước ngọt, giai đoạn trưởng thành ký sinh
trong gan, mật vật chủ cuối cùng là người, mèo, chó và
một số động vật có vú. Đứng về quan điểm ký sinh trùng
học của người thì chó mèo là vật chủ dự trữ. Do đó muốn
tiêu diệt bệnh sán lá gan ở người thì không những diệt vật
chủ trung gian mà cần xử lý vật chủ dự trữ.
- KST Cryptobia branchialis ký sinh trên mang cá
trắm, gây bệnh mang nghiêm trọng nhưng cũng
loài này bám trên mang cá mè trắng, cá mè hoa
với số lượng nhiều hơn ở cá Trắm, nhưng cá Mè
vẫn không bị bệnh do cá mè có khả năng miễn
dịch tự nhiên. Trường hợp này cá Mè là vật chủ
dự trữ (vật chủ bảo trùng) của bệnh Cryptobia
branchialis.
KC thông qua: Là KC không bắt buộc của 1 loại
KST nào đó, nhưng trong cơ thể KC này, KST
không hoàn thành chu kỳ PT của mình và bị đào
thải ra ngoài MT. Như vậy, cơ thể ký chủ có thể
xuất hiện dấu hiệu bệnh lý nhưng không tìm thấy
tác nhân. Ký chủ này gọi là ký chủ thông qua.
Giun đũa (Ascaris spp) là KST có tính lựa chọn KC rất
cao, có chu kỳ PT trực tiếp, không qua KC trung
gian, nhưng đòi hỏi sự di chuyển chủ động trong cơ
thể KC. Mỗi loài giun đũa khác nhau thường có 1
loại KC bắt buộc riêng biệt, chúng thường KS ở
ruột nhiều động vật khác nhau, trong đó có con
người. Nếu trứng loài giun này ngẫu nhiên xâm
nhập vào ống tiêu hóa của một KC không bắt buộc,
chúng cũng trải qua quá trình PT và di chuyển chủ
động trong cơ thể KC theo chu trình: Ruột-gan-phổi-
ruột như khi xâm nhập vào KC bắt buộc, nhưng khi
rơi vào ruột lần thứ 2, chúng sẽ bị nhu động ruột đào
được
thải ra ngoài theo phân KC, không khép kín đượ
vòng đời của KST.
VD: người nhiễm giun đuã lợn
Vòng đời của ký sinh trùng: Vòng đời thường
được xác định trên sự liên quan giữa ký sinh
và ký chủ. Nó hoạt động trong tất cả các giai
đoạn phát triển trong cuộc sống của sinh vật.
Vòng đời trực tiếp: một ký chủ
hưởng đến KC trung gian và KC cuối cùng của các KST đó.
ĐVTS đều là những ĐV biến nhiệt, nên sự ảnh hưởng của To nước
đến sự sống của các vật nuôi này càng rõ ràng hơn, qua đó cho thấy
cả những KST nội KS ở ĐVTS cũng chịu ảnh hưởng trực tiếp bởi
To.
Mỗi giống loài KST có thể sống, phát triển ở To nước thích ứng. To
quá cao hay quá thấp so với ngưỡng thích hợp đều kìm hãm hoặc
tiêu diệt chúng.
Sán lá đơn chủ 16 móc Dactylogyrus vastator ở To 24-260C tỷ lệ nở
cao: 80-90%, nhưng nếu To >260C và < 240C thì tỷ lệ nở của trứng
giảm đi. Sán lá đơn chủ 16 móc loài Dactylogyrus extensus thích hợp
ở To 150c, nếu To cao tỷ lệ nở của trứng sẽ rất thấp.
KST Trichodina spp. PT mạnh và gây bệnh vào cuối xuân đầu mùa
hè, khi To nước ở trong khoảng 20-300C, To nước quá cao về mùa hè
và quá thấp về mùa đông đều kìm hãm sự phát triển của KST này,
mức độ nhiểm của Trichodina giảm hẳn.
Trùng mỏ neo (Lernaea) thường gặp KS trên cá vào mùa đông xuân
hoặc đầu mùa hè khi To còn thấp, nếu To tăng cao vào mùa hè, mức độ
nhiễm trên cá giảm.
Trùng quả dưa (Ichthyophthirius multifilis) PT thích hợp ở To nước
15-250C, nên rất thường xuyên gặp KS gây bệnh trên cá con vào mùa
đông xuân ở miền Bắc Việt nam và khu vực Đà Lạt. Trong khí đó,
hầu như không gặp bệnh này ở các tỉnh Nam Trung bộ ở Việt nam.
To cũng là yếu tố sinh thái ảnh hưởng đến mùa vụ của bệnh và phân
bố địa lý của KST.
Ngoài ra các yếu tố khác của MT cũng có thể ảnh hưởng đến thành
phần giống loài KST, như độ ô nhiễm hữu cơ của vùng nước càng cao
thì KST đơn bào và một số KST ngoại KS khác như sán lá đơn chủ,
giáp xác KS thường có mức độ nhiễm trên cá nuôi cao và ngược lại.
Mối liên quan giữa các khí độc (NH3, H2S) tới KST chưa được nghiên
ề
7.4. Quan hệ giữa ký sinh trùng với nhau
Trên cùng một vật chủ, đồng thời bị nhiễm nhiều giống loài KST khác
nhau, và giữa chúng cũng nảy sinh mối quan hệ tương hỗ hay đối
kháng. Có khi KST này tồn tại sẽ ức chế, hoặc kích thích mở đường
cho sự xâm nhập và phát triển KST kia, từ mối quan hệ này làm ảnh
hưởng đến khu hệ KST.
Quan hệ hợp đồng: Là quan hệ của các KST có cùng nhu cầu về KC
và ĐK sinh thái. Nên chúng thường xuyên cùng KS trên một cơ thể
KC trong cùng thời gian, và có thể hỗ trợ nhau khi xâm nhập và gây
bệnh: 1 cơ thể cá có thể đồng thời bị nhiễm các KST sau: Trichodina
với Chilodonella, Ichthyophthirius; Lernaea với Trichodina;
Acanthocephala với Azygia, Asymphylodora.
Quan hệ đối kháng: Đây là quan hệ giữa các KST có nhu cầu khác
nhau về KC hoặc ĐKMT ngoại cảnh. Nên trên cơ thể 1 loài cá, khi
gặp KST này sẽ không gặp KST kia, hoặc mùa này gặp KST này sẽ
không gặp KST kia.
Theo E.G.Skruptrenko 1967, khi cá bị nhiễm KST Apiosoma
(Glossatella) thì không nhiễm KST Chilodonella và ngược lại.
IV. MỘT SỐ QUÁ TRÌNH BỆNH LÝ CƠ
BẢN
Gan tụ máu
Thành ruột xuất huyết
Nguyên nhân gây chảy máu:
Do tác động cơ học,
Do KST KS
Do độc tố của virus, vi khuẩn làm thành mạch máu vỡ rải rác hay
hàng loạt
Rận cá (Argulus), trùng mỏ neo (Lernaea), đỉa cá (Piscicola) KS bám
trên mang và da hút máu và gây chảy máu. Một số KST KS trong
mạch máu, để hoàn thành chu kỳ phát triển, chúng dùng bộ phận
khoan lỗ để chui ra khỏi mạch máu, qua da cá ra ngoài MT và gây
chảy máu như sán máu (Sanguinicola).
Một số vi khuẩn như Aeromonas hydrrophila, Pseudomonas
fluorescens, Vibrrio anguilarum...khi nhiểm vào cơ thể cá đã tiết ra
độc tố, làm vỡ thành mạch máu gây xuất huyết dữ dội dưới da ở bề
mặt cơ thể và các nôi quan.
Một số virus như Reovirus ở cá trắm cỏ, Rhabdovirus ở họ cá chép
khi xâm nhập gây bệnh cũng tạo ra bệnh lý xuất huyết rất nặng do độc
tố của virus.
Trong quá trình đánh bắt, vận chuyển, các tác động cơ học có thể gây
hiện tượng xuất huyết ngoài hay trong ở cơ thể ĐVTS.
Hiện tượng chảy máu, ĐB là chảy máu cấp tính có
thể làm cơ thể mất một lượng máu lớn trong một
khoảng thời gian ngắn, gây rối loạn các hoạt động
trao đổi chất ở hầu hết các cơ quan trong cơ thể vật
nuôi bị bệnh và có thể gây chết vật nuôi ở tỷ lệ
cao.
Hiện tượng thiếu máu
Khi lượng máu của cơ thể giảm hoặc số lượng hồng huyết
cầu ít đi so với bình thường gây ra hiện tượng thiếu máu ở
cơ thể động vật.
Một cơ quan hay tổ chức nào đó của cơ thể bị thiếu máu
thì gọi là thiếu máu cục bộ, ở bộ phận thiếu máu, nhiệt độ
hạ thấp, màu sắc biến nhạt.
Tổ chức bị thiếu máu lúc đầu thể tích nhỏ lại nhưng về sau
do thiếu chất dinh dưỡng và oxy gây ra hiện tượng tổ chức
bị phù, thể tích tăng lên như cá bị bệnh nấm mang làm cho
mang thiếu máu, tổ chức mang màu trắng nhạt, một số bộ
phận sưng phồng lên gây hiện tượng phù nề.
Thiếu máu toàn thân là hiện tượng tổng lượng máu trong cơ thể giảm
sút, số lượng hồng cầu trong máu thấp hơn so với bình thường, gây ra
hiện tượng cường độ trao đổi chất trong cơ thể giảm sút, yếu, nhợt
nhạt, phù nề. Ở động vật ổn nhiệt cho thấy thân nhiệt giảm. Ở cá cho
thấy hiện tượng lờ đờ, mang nhợt nhạt, khả năng kháng bệnh giảm và
có thể gây chết hàng loạt.
Hiện tượng thiếu máu có thể do nhiều nguyên nhân: Do thiếu dinh
dưỡng lâu ngày, do bị các bệnh mãn tính về đường tiêu hóa, do hiện
tượng chảy máu trong và ngoài, do KST hút máu KS với cường độ
cao, do tắc mạch máu, do dị tật của bộ máy tuần hoàn hoặc thiếu các
thành phần tạo máu như: Fe, Ca, P...Tác hại của việc thiếu máu còn
tuỳ thuộc vào mức độ thiếu máu, thời gian, tính mẫn cảm của tổ chức
cơ thể. Nếu thiếu máu nghiêm trọng có thể làm cho tế bào tổ chức bị
chết dần dần, làm tê liệt toàn thân.
Hiện tượng đông máu
Đông máu là hiện tượng một lượng máu trong cơ thể
chuyển từ dạng lỏng (Fibrinogen) sang dạng sợi
(Fibrin), kết với nhau tạo thành một khối nhỏ gọi là
máu đông.
Hiện tượng đông máu của cơ thể sinh vật còn có thể
là hiện tượng sinh lý bình thường, nhằm chống lại
nguy cơ mất máu khi bị tổn thương và chống lại sự
xâm nhập của tác nhân gây bệnh theo đường máu.
Đông máu cũng có thể là hiện tượng bệnh lý khi nó
xảy ra ở một vị trí bất kỳ nào đó trong hệ thống tuần
hoàn nhưng không liên quan đến hiện tượng bị
thương tổn của tổ chức tế bào
Hiện tượng tắc mạch máu
Là hiện tượng máu không chảy đến được các tổ chức cơ quan, do một
tác động tổn thương, do giọt mỡ xâm nhập vào mạch máu, do KST di
chuyển trong các mao mạch, do hiện tượng đông máu...Đặc biệt ở
ĐVTS còn xảy ra hiện tượng tắc mạnh máu do bọt khí- gọi là bệnh
bọt khí.
Tắc mạch máu do bọt khí: Hàm lượng của 1 số khí hoà tan trong
nước quá cao, cao quá mức bão hòa, nó tồn tại dưới dạng bọt khí nhỏ
tạo ra sự chênh lệch về áp suất ở bên trong và ngoài mạch máu, bọt
khí sẽ được đẩy vào mạch máu gây tắc mạch máu.
VD: Hiện tượng cá chết hàng loạt do sự quá bão hòa của nồng độ oxy
hòa tan trong nước.
Nếu hàm lượng oxy hòa tan (DO) trong nước thích hợp, 99-100%
hemoglobin (Hb) trong máu được chuyển thành Hemoglobin-Oxy
(HbO2) tại mang ĐVTS, khi đó hệ thống tuần hoàn hoạt động bình
thường.
Khi DO thấp chỉ có < 90% Hb chuyển thành HbO2 ở mang của
ĐVTS, cơ thể thiếu oxy, có thể bị sốc hay bị chết.
Nếu DO quá lớn do hiện tượng nở hoa của tảo, hay cường độ sục khí
cao, không chỉ 100% Hb chuyển thành HbO2 mà 1 lượng oxy được
đẩy vào huyết tương máu cá dưới dạng bọt khí. Các bọt khí này vận
chuyển trong mạch máu sẽ làm tắc mạch. Khi bệnh bọt khí xảy ra,
hiện tượng tắc mạnh không phải chỉ xảy ra cục bộ ở một vị trí mà
thường xảy ra toàn thân nên gây chết cá nhanh, hàng loạt.
Máu gồm có huyết tương và các thành phần hữu hình trong huyết
tương là hồng cầu, bạch cầu, tiểu cầu
Hiện tượng hoại tử cục bộ
Hoại tử cục bộ là hiện tượng có một bộ phận nào đó của cơ thể, do
lượng máu cung cấp ít làm cho tổ chức ở đó bị teo nhỏ hoặc hoại tử.
Nguyên nhân thường gặp là do động mạch bị tắc, hoặc có thể do hậu
quả của sự đè nén bên ngoài động mạch.
Ngoài ra, do độc tố của tác nhân gây bệnh tiết ra, các độc tố này tham
gia vào quá trình phân giải tế bào và mô gây hoại tử.
VD: Hiện tượng hoại tử trong hội chứng lở loét (EUS), độc tố do nấm
Aphanomyces invadans KS trong cơ của cá gây hoại tử nghiêm
trọng.Hoặc một số loài vk Vibrio spp. khi KS trên cơ thể giáp xác có
thể gây ra bệnh hoại tử cục bộ các phần phụ do độc tố của vk này
3. Sự rối loạn xảy ra ở hệ thống tiêu hóa
Hoạt động tiêu hóa, hấp thụ bị ảnh hưởng
Hiện tượng tắc ruột và thủng ruột
- Do tác nhân gây bệnh
- Do MT: To, pH, chất độc
- Bệnh đường tiêu hóa
4. Sự rối loạn xảy ra ở cơ quan hô hấp
- Màu sắc, tổn thương mang ảnh hưởng đến trao đổi khí
- NN: tác nhân gây bệnh xâm nhiễm mang, MT (DO), bệnh hệ tuần
hoàn
5. Trao đổi chất bị rối loạn
- Làm teo nhỏ tổ chức
- Làm biến đổi số lượng và chất lượng tổ chức tế bào: sưng tấy, phù
nề, tăng mỡ, rỗi loạn trao đổi khoáng
- Tổ chức bị viêm (MD)
- Hình thành u bướu: u lành, u ác
Trường ĐHNN1 Khoa CN-TS
Chương II. Biện pháp phòng bệnh tổng
hợp trong NTTS
Môi
trường
1
Mầm
bệnh
2
BÊNH
1+2+3
Vật chủ
3
Công tác phòng bệnh tổng hợp ở động
vật thủy sản
• - Ngăn chặn sự xâm nhập, kìm hãm sự phát
triển và lây lan của tác nhân gây bệnh.
• - Nâng cao sức đề kháng của động vật nuôi với
tác nhân gây bệnh và khả năng chống chịu sốc
của vật nuôi với những nhân tố gây sốc bên
ngoài.
• - Quản lý môi trường nuôi thích hợp
(optimum) và ổn định.
Ngăn chặn sự xâm nhập của tác nhân
gây bệnh vào hệ thống nuôi
c
Th n ướ
n
hoặ eo bố n guồ ao
c co m eo ào
ng ẹ Th cấp v
iốn
g
Theo các sinh vật
Theo thức là KCTG hay sinh
ăn dùng để vật mang mầm
nuôi ĐVTS bệnh
Tá c n h
â
cá c
Theo ụ tồn tại n có thể
c ngay tr
dụng ng ong
ao , bể
tro
dùng S
N TT
Ngăn chặn sự xâm nhập của tác nhân
gây bệnh vào hệ thống nuôi
1.1. Xử lý nguồn nước trước khi đưa vào nuôi
• Dùng phương pháp cơ học
• Dùng phương pháp vật lý
• Dùng phương pháp hóa học:
• Dùng phương pháp sinh học:
• Phương pháp sinh thái:
1.2. Sử dụng đàn bố mẹ và đàn giống không nhiễm các mầm
bệnh nguy hiểm.
1.3. Sử dụng thức ăn không mang mầm bệnh
1.4. Ngăn chặn sự xâm nhập và tiêu diệt các sinh vật là ký chủ
trung gian, là các sinh vật mang tác nhân gây bệnh.
1.5. Tiêu diệt các tác nhân gây bệnh có sẵn ở
trong ao nuôi
1.6. Sát trùng các dụng cụ dùng trong nuôi
trồng thủy sản
1.7. Quản lý các yếu tố môi trường thích hợp và
ổn định
Kìm hãm sự phát triển của tác
nhân gây bênh
• Ngăn chặn sự ô nhiễm chất hữu cơ: thức
ăn thừa, các chất thải, chất bài tiết
• Dùng thuốc để diệt tác nhân gây bệnh
• Nâng cao sức đề kháng của ĐVTS nuôi
NÂNG CAO SỨC ĐỀ KHÁNG CỦA
ĐỘNG VẬT THỦY SẢN NUÔI
• Tạo con giống có sức đề kháng với bệnh
• Cần đảm bảo đầy đủ một số thành phần dinh dưỡng
trong khẩu phần thức ăn có liên quan tới sức đề kháng
của vật nuôi
• Cần xác định mật độ nuôi cho phù hợp
• Đẩy mạnh phát triển Vaccine trong NTTS
• Hạn chế dùng kháng sinh và hóa chất trong nuôi
trồng thủy sản
• Vùng nuôi trồng thủy sản, cần tránh dùng hay chịu
ảnh hưởng của các loại thuốc bảo vệ thực vật
(Pesticites).
QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG NUÔI
THÍCH HỢP VÀ ỔN ĐỊNH
1. Thiết kế xây dựng các trạm, trại nuôi động vật thuỷ
sản phải phù hợp với điều kiện phòng bệnh cho động
vật thuỷ sản
• Lựa chọn địa điểm xây dựng các trạm trại nuôi cá,
tôm
• Thiết kế trang trại nuôi sao cho đảm bảo vệ sinh,
tránh sự lây lan của tác nhân gây bệnh và thuận lợi
cho các thao tác quản lý sức khỏe động vật nuôi.
2. Chống ô nhiễm hữu cơ xảy ra trong ao nuôi.
Chống ô nhiễm hữu cơ xảy ra trong
ao nuôi
• Trong ao nuôi, nếu hoàn toàn không có chất hữu cơ cũng
không phải là môi trường sống tốt cho ĐVTS
• Nhưng nếu lượng chất thải hữu cơ tồn đọng trong ao đìa quá
cao gây ra hiện tượng ô nhiễm hữu cơ, cần có biện pháp
khắc phục
• Khi MT ao nuôi tồn tại một khối lượng lớn chất hữu cơ có
thể dẫn đến hiện tượng nở hoa của tảo, các chỉ số DO, pH
biến động theo ngày đêm lớn, có thể gây sốc và các VSV
là tác nhân gây bệnh có ĐK để sinh sôi, gây tác hại. Chât
hữu cơ trong các thủy vực NTTS có thể tồn tại ở 3 dạng
khác nhau: chất hữu cơ hòa tan, chất hữu cơ lơ lửng và chất
hữu cơ lắng tụ.
Hình 2.3: Nguồn gốc chất thải hữu cơ trong ao nuôi ĐVTS
Thay
Phân giải của nước
VSV
sói mòn
Tháo cạn ao thu
hoạch
z ĐVTS sống trong nước nên vấn đề phòng bệnh không giống gia súc trên cạn.
z Bệnh ĐVTS xảy ra phải xử lý quần đàn
z Thuốc dùng phải tính cho tổng số cá sống trong ao nên tốn kém nhiều,
z Các loại thuốc chữa bệnh ngoài da cho động vật thuỷ sản thường phun trực tiếp xuống
nước, nên chỉ áp dụng với các ao diện tích nhỏ, còn các thuỷ vực có diện tích mặt nước
lớn không sử dụng được phương pháp này.
z Các loại thuốc chữa bệnh bên trong cơ thể ĐVTS thường phải trộn vào thức ăn, nhưng
những con bị bệnh thường không ăn, những con khỏe lại ăn nhiều, nên dù có sử dụng
loại thuốc đúng, nhưng hiệu quả sẽ không cao và những con khoẻ mạnh cũng phải dùng
thuốc làm ảnh hưởng đến sinh trưởng của chúng.
z Có một số thuốc khi chữa bệnh cho động vật thuỷ sản có thể tiêu diệt được nguyên
nhân gây bệnh (vi khuẩn, nấm, ký sinh trùng) nhưng kèm theo phản ứng phụ nặng nề
với động vật nuôi và MT nuôi...Vì vậy các nhà nuôi trồng thuỷ sản luôn luôn đặt vấn đề
phòng bệnh cho động vật thuỷ sản lên hàng đầu và nguyên tắc là: "phòng bệnh là
chính, chữa bệnh khi cần thiết"
I. CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA CÔNG TÁC
PHÒNG BỆNH
1. Những căn cứ khoa học để đánh giá sức khỏe ở động vật thủy sản
z Căn cứ vào tập tính hoạt động của vật nuôi: loài, lứa tuổi.
z Căn cứ vào màu sắc của vật nuôi
z Căn cứ vào mang của tôm cá
z Căn cứ vào sự đầy đủ hay không đầy đủ của các bộ phận cơ thể, bình
thường hay không bình thường về hình dạng của cơ thể
z Căn cứ khả năng sử dụng thức ăn
z Một số căn cứ khác
z - Vỏ kitin của giáp xác cứng, sạch hay mềm, bẩn.
z - Phần cơ bên trong có chứa đầy trong lớp vỏ kit tin hay không,
z - Ở cá bệnh có thể xuất hiện các dấu hiệu như xuất huyết dưới da, xung
quang miệng, mắt, gốc vây; mắt, trong xoang cơ thể hay xuất hiện các vết
lở loét thương tổn trên bề mặt cơ thể cá.
I. CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA CÔNG TÁC
PHÒNG BỆNH
Các yếu tố MT
z - Các tác nhân gây bệnh phụ thuộc rất lớn vào ĐKMT: Nếu
MT thuận lợi chúng PT tốt và ngược lại
z To: ảnh hưởng đến KC, tác nhân gây bệnh và yếu tố MT
khác: To quá cao, quá thấp, và To thích hợp.
z DO
z pH
z Các yếu tố MT khác: độ kiềm, độ cứng (mềm vỏ tôm sú), khí
độc
z - Yếu tố MT ngoại cảnh là một ĐK cần thiết để một bệnh nào
đó ở ĐVTS xuất hiện
z - ĐKMT đã quyết định tính mùa vụ, khả năng xuất hiện, nặng
hay nhẹ của bệnh..
I. CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA CÔNG TÁC
PHÒNG BỆNH
z Khi ĐVTS bị bệnh đều do sự tác động qua lại giữa nguyên nhân và
các nhân tố ĐK.
z Trước hết, bệnh muốn xảy ra cần có sự tác động hay xâm nhập của
một hoặc nhiều loại tác nhân khác nhau, nhưng bệnh này chỉ xảy ra
trong các đk nhất định, khi sức đề kháng của ĐVTS suy yếu, và khi
MT biến động gây sốc cho ĐVTS, và kích thích sự PT của tác nhân.
z NN quyết định quá trình phát sinh và đặc tính cơ bản của bệnh, còn
đk lại có tác dụng làm tăng lên hay cản trở cho QT phát sinh PT của
bệnh, ĐK đã ảnh hưởng đến NN.
z Khái niệm NN hay ĐK chỉ mang tinh chất tương đối: Bệnh do
YTMT
Quan hệ giữa nguyên nhân và điều
kiện để phát sinh bệnh
Môi
trường Mầm
bệnh
Bệnh
Ký
chủ
3. Căn cứ khoa học cho công tác phòng bệnh
tổng hợp ở động vật thủy sản
z Bệnh sẽ bùng phát khi trong MT hay trên cơ thể vật nuôi đã bị tác nhân
gây bệnh xâm nhập, sức đề kháng của vật nuôi thấp hay PT của tác nhân
gây bệnh.
z Bệnh sẽ không xảy ra nếu trong ao nuôi hay trên cơ thể tôm cá không có
tác nhân gây bệnh, vật nuôi có sức đề kháng cao và MT sống thích hợp.
z Cơ sở khoa học để người ta đưa ra biện pháp tổng hợp để phòng bệnh cho
ĐVTS nuôi thông qua các định hướng chính như sau:
z - Ngăn chặn sự xâm nhập, kìm hãm sự PT và lây lan của tác nhân gây
bệnh.
z - Nâng cao sức đề kháng của động vật nuôi với tác nhân gây bệnh và khả
năng chống chịu sốc của vật nuôi với những nhân tố gây sốc bên ngoài.
z - Quản lý môi trường nuôi thịch hợp (optimum) và ổn định.
II. BIỆN PHÁP PHÒNG BỆNH TỔNG HỢP
TRONG NUÔI TRỒNG THỦY SẢN
Theo thức ăn
dùng để nuôi Theo các sinh vật là
ĐVTS KCTG hay sinh vật
mang mầm bệnh
z Một số quốc gia đã dùng khí ozon để sát trùng nước trong NTTS.
Ozon là chất có tính oxy hóa rất cao và có thể tạo ra oxygen cho vùng
nước.
z Khi dùng ozon để sát trùng nguồn nước trong nuôi tôm cá, không phải
chỉ có khả năng tiêu diệt nhiều loại tác nhân như virus, vk, nấm, động
vật đơn bào, mà còn có khả năng cải thiện chất lượng nước, có thể
oxy hóa các vật chất hữu cơ, các khí độc như NH3 trong nguồn nước.
z Dùng ozon cũng có những hạn chế như có khả năng ăn mòn rất mạnh
với các thiết bị làm bằng kim loại và bằng plastic.
z Tác dụng diệt trùng của ozon cũng chịu ảnh hưởng của một số yếu tố
như: nhu cầu oxy hóa học COD (chemical oxigen demand), độ mặn
và mật độ tảo phù du có trong nước.
1.1 Ngăn chặn sự xâm nhập của tác nhân
gây bệnh
z Từ đầu năm 2003, một số cấn bộ khoa học của phân viện vật lý,
thuộc viện Hải Dương Học Nha Trang đã sử dụng một loại dung dịch
điện giải (anolite) được tạo ra bằng cách cho dòng điện chạy qua dung
dịch muối loãng, sự điện phân các phân tử nước và muối tạo ra các
chất có khả năng diệt trùng rất cao như ozon (O3), nước oxy già
(H2O2), ion hypochloride (OCl-) và chất hypochlorơ (HOCl), các chất
này có khả năng oxy hóa cao nên có hiệu quả diệt trùng mạnh.
z ĐB, đặc tính không bền của các chất này giúp cho nước đã tiệt trùng
không tồn đọng dư lượng hóa chất như tiệt trùng bằng phương pháp
hóa học, sau 24-48 h các chất điện giải trên lại trở về các phân tử
nước và muối ban đầu.
1.1 Ngăn chặn sự xâm nhập của tác nhân
gây bệnh
1.1.2. Sử dụng đàn bố mẹ và đàn giống không nhiễm các mầm bệnh
nguy hiểm
z Tôm sú (Penaeus monodon) bố mẹ có thể mang virus đốm trắng
(WSBV), virus đầu vàng (YHV), virus MBV; tôm he chân trắng
(P.vannamei) có thể mang virus Taura
z Cá mú bố mẹ có thể mang virus viêm thần kinh (VNN); Cá trắm có bố mẹ
có thể mang virus xuất huyết (Reovirus)...
z Sử dụng tôm,cá bố mẹ không mang mầm bệnh nguy hiểm để tránh bệnh
lan truyền dọc
z Áp dụng các PP chẩn đoán bệnh nhanh, chính xác để sáng lọc tôm cá bố
mẹ (PP PCR)
z Áp dụng các PP vệ sinh trong các trại giống để tránh lan truyền bệnh vào
con giống (rửa trứng bằng thuốc sát trùng, dùng đèn tia cực tím chiếu..)
1.1 Ngăn chặn sự xâm nhập của tác nhân
gây bệnh
1.1.4. Ngăn chặn sự xâm nhập và tiêu diệt các sinh vật là ký chủ
trung gian, là các sinh vật mang tác nhân gây bệnh
z Nhờ các sinh vật mang mầm bệnh và các sinh vật là ký chủ trùng
gian, mà tác nhân gây bệnh có cơ hội để xâm nhập vào hệ thống nuôi
và nhiễm vào cơ thể động vật thủy sản. Do vậy, ngăn chặn và tiêu diệt
các sinh vật này có ý nghĩa phòng bệnh rất hiệu quả:
z Dùng vôi hay thuốc diệt địch hại để tiêu diệt các sinh vật là ký chủ
trung gian, hay là sinh vật mang mầm bệnh của các các tác nhân gây
bệnh ở ĐVTS: Dùng Neguvon, sulphát đồng (CuSO4) để tiêu diệt ốc
có trong ao ương cá con, để phòng bệnh sưng mang do hậu ấu trùng
sán lá (Metacercarria) và diệt giáp xác hoang dã mang virus đốm
trắng (WSBV); Dùng Saponin để diệt cá trong ao nuôi động vật giáp
xác có tác dụng tiêu diệt động vật đơn bào gây bệnh tôm bông, cua
sữa ở giáp xác...
1.1 Ngăn chặn sự xâm nhập của tác nhân
gây bệnh
z Xua đuổi các loài chim ăn ĐVTS xuất hiện ở khu vực
nuôi, vì chúng có thể mang mầm bệnh từ các ổ dịch xâm
nhập vào vùng nuôi mới. Trong nuôi tôm sú thâm canh,
dùng lưới chăng xung quanh ao, dùng bạt che phủ bờ ao
để tránh sự xâm nhập của giáp xác mạng virus đốm trắng
vào trong hệ thống nuôi tôm sú thương phẩm.
z Không nên dùng phân chuồng tươi cho NTTS. Các loại
phân chuồng cần được ủ với vôi bột 10% cho hoai, trước
khi dùng để tạo màu nước thích hợp cho ao nuôi.
1.1 Ngăn chặn sự xâm nhập của tác nhân
gây bệnh
1.1.5. Tiêu diệt các tác nhân gây bệnh có sẵn ở trong ao nuôi
z Ngay trong ao, bể dùng để nuôi ĐVTS vẫn có thể tồn tại nhiều loại
tác nhân gây bệnh khác nhau, ĐB các ao bể này vừa kết thúc một vụ
nuôi.
z Tẩy dọn ao đìa, bể trước mỗi vụ nuôi là những thao tác kỹ thuật quan
trọng, không phải chỉ để tiêu diệt hết những tác nhân gây bệnh, mà
còn có ý nghĩa trong việc tạo ra một MT thích hợp và ổn định.
z - Tháo cạn ao
z - Phơi đáy ao (chú ý các ao chua phèn)
z - Vét bớt (bùn đáy), vét sạch các chât thải từ lứa nuôi trước
z - Bón vôi để sat trùng, diệt tạp và nâng pH. Đối với các bể phải cọ rửa
sạch bằng xà bông, dùng các chất sát trùng ngâm, cọ rửa. Đối với lồng
bè.
1.1 Ngăn chặn sự xâm nhập của tác nhân
gây bệnh
z Trong ao, bể, lồng nuôi thường xuyên áp dụng hỗn hợp nhiều
PP để ngăn chặn hiện tượng ô nhiễm hữu cơ:
z - Kiểm soát lượng thức ăn dư thừa, không nuôi mật độ quá
cao, ổn định tảo trong ao nuôi, cần thiết phải thay nước tầng
đáy để loại bỏ bớt các chất hữu cơ.
z - Trong nuôi ao, bể có thể dùng chế phẩm vi sinh để chống ô
nhiễm hữu cơ.
z Trong hình thức nuôi lồng bè, cần vệ sinh thành lồng hàng
tuần để giảm rong rêu;
z - Vớt bỏ thức ăn dưa thừa và các chất hữu cơ lơ lửng bám
trên thành lồng để loại bỏ các tác nhân gây bệnh và tăng
cường sự trao đổi nước
1.2. Kìm hãm sự PT của tác nhân gây bênh
3.1. Thiết kế xây dựng các trạm, trại nuôi ĐVTS phải phù hợp với
ĐK phòng bệnh cho ĐVTS.
z Lựa chọn địa điểm xây dựng các trạm trại nuôi cá, tôm
z - Chất đất, chất nước, thuận lợi cung cấp con giống, thức ăn, nguồn
nước ngọt và đường điện, gần đường giao thông, xa các khu công
nghiệp và đô thị để tránh nước thải.
z - Phù hợp với quy hoạch của từng địa phương.
z Thiết kế trang trại nuôi sao cho đảm bảo vệ sinh, tránh sự lây lan
của tác nhân gây bệnh và thuận lợi cho các thao tác QLSKĐV
nuôi
z - Thuận lợi trong việc cấp, thoát, độ sâu nước đảm bảo vệ sinh
z - Cần thiết kế các phần nuôi cách ly
z - Trại SX giống gần ao nuôi vỗ
3. QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG NUÔI THÍCH
HỢP VÀ ỔN ĐỊNH
Thay
Phân giải của nước
VSV
sói mòn
Tháo cạn ao thu
hoạch
Thu hoạch
Vét chất
thải hữu cơ
3.2. Chống ô nhiễm chất hữu cơ xảy ra trong
ao nuôi (tiếp)
z XĐ chính xác khẩu phần thức ăn trong nuôi ĐVTS thâm canh và cho
ăn nhiều bữa trong ngày là biện pháp cần thiết để giảm chất thải hữu
cơ trong ao nuôi thông qua giảm lượng thức ăn dư thừa và thức ăn bị
phân giải ngoài MT nước ao.
z Thường xuyên kiểm tra để dự đoán tỷ lệ sống, tốc độ sinh trưởng của
đàn vật nuôi, trên cơ sở đó có thể điều chỉnh lượng thức ăn hợp lý, với
phương châm "thiếu một chút còn hơn thừa", hoặc cho ĐVTS ăn theo
phương châm "4 định"
z - Định chất lượng thức ăn
z - Định số lượng thức ăn
z - Định vị trí để cho ăn
z - Định thời gian cho ăn
3.2. Chống ô nhiễm chất hữu cơ xảy ra trong
ao nuôi (tiếp)
z Kìm hãm sự PT của tảo đáy và ổn định tảo phù du trong ao nuôi là giải pháp
cần thiết để hạn chế chất thải hữu cơ sản sinh ra trong ao nuôi.
z Thường xuyên dùng chế phẩm vi sinh có thể ổn định tảo và giảm chất hữu
cơ trong ao nuôi một cách từ từ nhưng lại rất có hiệu quả.
z Cần hạn chế dùng kháng sinh và hóa dược, bởi nếu dùng thường xuyên,
thuốc có thể tiêu diệt hệ vsv có lợi ở đáy ao, giảm quá trình chuyển hóa của
lượng chất hữu cơ lơ lửng và lắng tụ ở đáy ao.
z Chống sỏi lở bờ ao
z Trong nuôi tôm cá bằng lồng bè, nên chọn nơi có dòng chảy thích hợp,
không nên tập trung mật độ lồng bè quá cao tại một địa điểm, thường xuyên
vệ sinh lồng, để loại bỏ các chất hữu cơ và rong rêu, tăng cường sự lưu
thông nước trong lồng.
z Sử dụng hệ thống lọc sinh học trong các trại sản xuất giống thủy sản
3.3. Áp dụng các mô hình nuôi ghép, nuôi luân canh
và nuôi tổng hợp có thể giúp người nuôi quản lý môi
trường thích hợp và bền vững
z - Áp dụng các mô hình nuôi ghép: để tận dụng không gian mặt
nước, cơ sở thức ăn tự nhiên và ĐB có tác dụng trong chống ô nhiễm
MT.
z - Áp dụng mô hình nuôi luân canh: Các mô hình nuôi luân canh
tôm-lúa, cá -lúa, cá-tôm đã giúp chúng ta giải quyết một khối lượng
lớn chất thải hữu cơ tạo ra từ một vụ NTTS.
z - Áp dụng các hình thức nuôi tổng hợp: mô hình nuôi tổng hợp
VAC, mô hình nuôi tôm, động vật thân mềm và rong biển trong một
hệ thống nuôi tuần hoàn cũng giúp cho chúng ta ổn định MT ao nuôi,
giảm những tác động của NTTS với MT và tăng hiệu quả kinh tế.
3.4. Quản lý các yếu tố thủy lý, thủy hóa ổn
định và thích hợp
z Để giảm tác động gây độc của các hóa chất này tới sức khỏe và tăng
sức đề kháng của ĐVTS:
z - Hạn chế đến mức thấp nhất việc dùng các loại thuốc trừ sâu trong
NTTS.
z - Không xây dựng ao đìa nuôi thủy sản gần các nhà máy chế biến,
hóa chất...
z - Tránh nước từ các ruộng lúa chảy vào ao đìa nuôi thủy sản? Trong
mô hình nuôi ghép cá -lúa và tôm -lúa nếu phải dùng thuốc trừ sâu
cần tính toán lượng thuốc dùng và khả năng che chắn của lá lúa để ít
ảnh hưởng tới sức khỏe của ĐVTS.
z - Không nên lấy nước mới vào ao ngay sau khi có các trận mưa to để
giảm thiểu ảnh hưởng của dư lượng thuốc bảo vệ thực vật đến sức
khỏe ĐVTS
SỰ KHÁC NHAU GIỮA BỆNH ĐVTS VÀ
BỆNH ĐV TRÊN CẠN
z MT thủy sinh được biết có chứa 60-80 yếu tố hóa học được tìm thấy
trong đất và một số khí như O2, CO2, H2S, NH3...
z Trong không khí ôxy hòa tan chiếm khoảng 20%, nhưng trong nước
biển ôxy hòa tan chiếm khoảng 0,5-0,7% chỉ đủ cung cấp cho một số
sinh vật sống, nếu lượng ôxy hòa tan thấp dẫn đến các sinh vật bị
stress và dẫn đến bệnh.
z Một số nguyên tố dinh dưỡng như Nitơ, phốt pho là quan trọng với tất
cả các dạng sinh vật sống trong nước khi đó Silíc là quan trọng đối
với một số loại tảo.
z Một số nguyên tố vi lượng được tìm thấy trong nước biển ở mức thấp,
nếu lượng này cao không bình thường gây mất cân bằng sinh thái dẫn
đến bệnh.
YẾU TỐ CON NGƯỜI TRONG BỆNH
THỦY SẢN
Các phân tử thuốc sẽ được hấp thụ vào các mao mạch trên
thành miệng, ruột và thực quản bằng cơ chế khuếch tán đơm
giản, trong đó hấp thụ ở ruột non là chủ yếu.
Từ máu, các phân tử thuốc được chuyển đi khắp cơ thể nhờ hệ
thống tuần hòa và được đưa đến những nơi bị xâm nhập của tác
nhân gây bệnh và các cơ quan có nhiệm vụ phân giải và đào
thải.
Trong thực tế, những trường hợp bệnh xảy ra do sự nhiễm vk
toàn thân, thì chỉ có P2 dùng thuốc nào đưa được thuốc vào
trong cơ thể mới có khả năng chữa trị.
Nhược điểm của P2 trộn thuốc vào thức ăn: Khi cho thức ăn có
thuốc xuống ao, một phần thuốc sẽ bị phân tán ra ngoài MT
nước, những con bệnh nặng, yếu đã bỏ ăn thì không sử dụng
2. Phương pháp trộn thuốc vào thức
ăn
Vị trí tiêm
Các KT viên
50 46 46 46 37 37 29 20
100 93 93 76 61 50 43 23
VK Aeromonas hydrophyla
Vibrio gây bệnh ĐVTS
Cá song bị nhiễm khuẩn do Vibrio
Thu mẫu VK ếch
Ếch bệnh
Thử KS đồ
IV. Chẩn đoán bệnh do Nấm
Dựa vào triệu chứng lâm sàng: bệnh lở loét
Nuôi cấy, phân lập và quan sát nấm dưới KHV
(hình dạng bào tử, sợi nấm…)
Có thể chẩn đoán thông qua cảm nhiễm ĐV
mẫ n c ả m
Quan sát triệu chứng, bệnh tích
Xương cá diếc
bị shock điện
VII. Chẩn đoán bệnh do dinh
dưỡng
Bệnh chậm sinh trưởng do thiếu thức ăn, t. ăn
kém chất lượng
Ngộ độc do t. ăn: t. ăn nhiễm nấm mốc, độc tố:
Cá rô phi
Ktra số lượng, chất lượng và phương thức cho
ăn:
C¸ r« phi bÞ tróng ®éc thøc ¨n
Ảnh 5. Giải
phóng bào tử
sơ khai của
nấm
Aphanomyces.
Chú ý: Bào tử sơ khai được giải phóng thành một hàng đơn
và ngay lập tức chúng tụ tập thành đống ở ngọn của túi bào tử.
Một số bệnh Nấm thường gặp ở cá
Bệnh Saprolegnia
Ở cá nấm thường bám trên trứng và trên mang
Nấm là một nhóm VSV có thể gây bệnh cho cá và giáp xác.
Nấm là sinh vật tự dưỡng.
Nấm sinh trưởng bằng cách kéo dài, cơ thể của nấm có thể có
hoặc không có vách ngăn.
Nhiều sợi nấm tập hợp lại thành búi nấm.
Nấm sinh sản theo cả hình thức vô tính lẫn hữu tính..
Các bệnh nấm quan trọng gây bệnh ở cá và giáp xác như đã
trình bày về nguyên nhân gây bệnh, loài bị ảnh hưởng, ảnh
hưởng trên ký chủ, triệu chứng bệnh được nhận dạng trong
từng bệnh cụ thể.
P2 CĐ bệnh được cập nhật hàng năm, thuốc điều trị là không
sẵn, tuy nhiên phòng bệnh là P2 quan trọng.
Đề cương
1. Đâu là nấm nước ngọt, lợ trong các nấm gây bệnh sau:
Saprolegnia spp. (N), Achlya spp. (N), Aphanomyces invadans
(N), Ichthyophonus hoferi (N), Saprolegnia diclina (N),
Branchiomyces spp. (N)
Fusarium solani (L), Lagenidium spp. (L), Haliphthoros
spp.(L),
spp. Sirolpidium spp. Haliphthorox milfordensis,
Aspergillus flavus
2. Nấm nào thường gây bệnh cho tôm, nấm nào thường gây bệnh
cho cá
Ichthyophonus hoferi (cá)
Fusarium solani (tôm)
3. Tác nhân gây bệnh nào là nấm, tác nhân gây bệnh nào là KST
Ichthyophonus sp., Ichthyophthyrius multifiliis
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG NGHIỆP 1
KHOA CHĂN NUÔI - THỦY SẢN
Xử lý có kinh tế không?
Ngoại KST
I. Tác động của Ngoại KST trên cá
1. KS gây tổn hại bởi quá trình gắn bám
Móc: Gyroductylus, Dactylogyrus, Ergrasilus
Giác bám: Trichodina, Argulus
Xuyên sâu hoặc dùng vòi hút: Ichthyophthirium,
Lernaea,
Đĩa bám: Dactylogyrus, Scyphidia
2. KS gây thiệt hại do cạnh tranh thức ăn
KS lấy D2 trực tiếp từ các tế bào chứa Ichthyobodo
(Costia)
Cào xước: rận cá biển
Xuyên sâu
3. Ảnh hưởng của ngoại KST lên da và mang
Kích thích bởi gắn và hút D2
Tăng tiết mucus dẫn đến tăng lượng VK, nấm và ngoại
KS khác.
Tăng sinh tế bào làm giảm hiệu quả của trao đổi ô xy,
CO2
Hoại tử tế bào niêm mạc dẫn đến bong da làm thu hút
nấm, VK dẫn đến nhiễm kế phát.
Cá chết do mất cân bằng áp xuất thẩm thấu, mất khả
năng hô hấp.
Xuất huyết
Cá nhỏ rất dễ bị nhiễm ngoại KST và rất dễ bị tổn
thương da
II. Một số Ngoại KST trên cá
1. Sán lá đơn chủ (Monogenea):
Hầu hết các loài sán lá đơn chủ đẻ trứng
(Dactylogyrid) và chỉ riêng có 1 loài đẻ con
(Gyrodactylus).
Sán lá đơn chủ là loại ngoại KS thường KS trên da,
mang cá.
Chúng di truyển trên cơ thể cá và ăn trên biểu bì hoặc
cặn bá của mang.
Nó gắn vào ký chủ thông qua cơ quan bám làm tổn
thương da và mang và còn hút chất D2.
Sán lá đơn chủ có một cặp móc ở chính giữa. Sán
trưởng thành có cả cơ quan sinh dục đực và cái trên
cùng một cơ thể.
Sán Dactylogyrus KS trên mang
Gyrodactylus
Vòng đời của sán lá đơn chủ:
• Hầu hết sán lá đơn chủ có vòng đời trực tiếp.
• Sán trưởng thành KS trên da, mang đẻ trứng
vào trong nước sau đó trứng nở thành AT
(Onchomiracidium) AT bơi tự do trong nước
sau tìm KC để KS.
ẤT KS ở cá ẤT KS ở ốc
Vòng đời của sán Strigeoid
In the fish eye:
Diplostomum sp. Located in
the lens. In large numbers it
blinds the fish. The parasite is
at this stage called
metacercaria.
Tylodelphys sp.
Located in vitreous humour.
Same as above but with
different species of snail
SÁN TRƯỞNG THÀNH
Trứng
Ấu trùng Metacercaria
ký sinh ở ĐV có hoặc
không xương hoặc cây cỏ Ấu trùng Miracidium
thủy sinh bơi tự do
Trứng
Plerocercoid ký chủ
trung gian thứ 2
Coracidium
Plerocercoid
Plerocercoid Procercoid
ký chủ mang ký chủ trung gian thứ nhất
Số lượng giun
Cá rô phi bị xây
sát nhiễm trùng
Xương cá Diếc bị biến dạng do bị kích điện
Cá bị trúng độc thuốc trừ sâu
Cá bị trúng độc thuốc diệt tạp từ các ao nuôi tôm
Bệnh thiếu vitamin C của động vật
thủy sản
Khi giáp xác thiếu vitamin C thường thể hiện các vùng cơ màu
đen dưới lớp vỏ kitin ở mặt lưng của phần bụng, ở các chân bơi,
chân bò và các vệt đen trên mang tôm. Các vết đen có thể xuất
hiện ở dạ dày, ruột. Tôm bị bệnh thể hiện sự bỏ ăn, hay kém ăn,
khả năng chịu sốc giảm sút, mẫn cảm hơn với các loại mầm
bệnh thứ cấp khác nhau, khả năng tái tạo vết thương giảm nên
QT hồi phục chậm lại.
Khi cá nuôi bị thiếu vitamin C thường thể hiện một số dấu hiệu
như: các dạng dị tật xương sống, tật ưỡn lưng và hiện tượng xuất
huyết ở gốc vây, ở xung quanh miệng và mắt của cá, màu sắc cơ
thể chuyển sang màu đen tối. Cá bị bệnh cũng giảm sinh trưởng
và khả năng chống chịu sốc và sự xâm nhập của tác nhân gây
bệnh.
Bệnh thiếu vitamin C thường xảy ra trong các hệ thống nuôi tôm cá
thâm canh, đặc biệt nuôi trong đk có thành phần loài hoặc số lượng
nghèo nàn các loài tảo.
Trên cá nuôi, đã có rất nhiều các thông báo khác nhau về bệnh
thiếu vitamin ở cá: hiện bệnh ưỡn lưng của cá chép, cá bơn, cá rô
phi xanh; xuất huyết vây và mắt cá trắm cỏ; sự biến dạng của cột
sống của cá mú làm cá có dấu hiệu ưỡn lưng, bụng cá hóp lại.
Bệnh này có thể gây chết rải rác.
Để phòng bệnh, trong nuôi trồng thủy sản cần bổ sung một lượng
vitamin C thích hợp cho từng đối tượng nuôi, tùy theo loại thức ăn
dùng, đặc biệt trong trường hợp dùng thức ăn tổng hợp để nuôi tôm
cá. Mặc dù trong thành phần thức ăn tổng hợp đã có một lượng
vitamin tổng hợp, nhưng trong quá trình chế biến và bảo quản,
vitamin C đã bị thất thoát rất nhiều, do vậy nếu không bổ sung, có
thể vật nuôi sẽ xuất hiện bệnh lý đã nói ở trên. ĐB cần lưu ý khi
nuôi ĐVTS trong MT thiếu tảo.
Lượng vitamin C cần bổ sung cho ĐVTS rất khác nhau tùy theo
từng đối tượng nuôi và từng loại vitamin C.
Cá bị cong cột sống (hóp bụng, ưỡn lưng) có liên quan tới hiện tượng
thiếu vitamin C
Bệnh do thức ăn
Bệnh nhiễm độc tố nấm mốc Aflatoxin trong thức
ăn (Xem phần Bệnh do Nấm)