You are on page 1of 14

Sơ lược về cá hổ Datnioides

Cá hổ là loài cá săn mồi kích thước lớn. Những sọc đen nổi bật trên nền thân màu vàng nhạt
trông giống như da hổ là đặc điểm mang lại tên gọi cho loài cá này. Cá hổ là đối tượng sưu tầm
của những người nuôi cá lạ và nhất là những người nuôi cá rồng bởi việc sở hữu một hồ cá
"long hổ hội" uy nghi thực sự là mơ ước đối với nhiều người. Hình dáng ngắn và tròn của cá hổ
là bổ sung hoàn hảo cho hình dáng thon dài uyển chuyển của cá rồng.

Bài viết dưới đây không chỉ giới thiệu về các loài cá hổ trong tự nhiên hay cách nuôi dưỡng
chúng mà còn cung cấp một số thông tin giúp các bạn chơi cá phân biệt được cá thái hổ tức
Siamese tigerfish (Siamese= thái, tiger= hổ) với những loài cá hổ khác xuất xứ từ sông Mekong
hay Indonesia.

Giới thiệu
Một nghiên cứu của Roberts và Kottelat về chi cá hổ Datnioides vào năm 1994 đã liệt kê các loài
cá hổ campbelli, microlepis, quadrafasciatus, và phát hiện thêm một loài mới là
undecimradiatus. Loài Datnioides quadrifasciatus sau đó được đổi tên thành Datnioides polota.
Nghiên cứu cũng ghi nhận có một số khác biệt giữa nhóm "microlepis" phân bố ở Borneo và
Sumatra với nhóm cùng tên phân bố ở lưu vực sông Mekong và Chao Phraya nhưng họ không
khẳng định chúng là hai phân loài hay hai loài khác biệt. Tuy nhiên, trong tài liệu sau đó
(Kottelat, 1998), nhóm "microlepis" phân bố ở lưu vực sông Mekong và Chao Phraya được công
nhận là một loài mới Datnioides pulcher dựa trên hàng loạt dữ liệu thu thập từ nghiên cứu trước
đó vào năm 1994, và nâng tổng số các loài cá hổ lên thành 5 loài. Kottelat phát biểu rằng mặc dù
không có khác biệt bề ngoài đáng kể nào giữa hai nhóm cá nhưng bởi vì chúng là những "thực
thể đặc trưng" (dựa trên đặc điểm của các sọc) với nguồn gốc tiến hóa khác biệt, nên chúng được
xem như là những loài khác biệt.
Các loài cá hổ (nguồn http://www.youfish.com)
Hàng trên (từ trái qua phải): cá thái hổ (Datnioides pulcher), cá hổ Indonesia (Datnioides microlepis) và cá thái hổ bắc
(Datnioides undecimradiatus).
Hàng dưới (từ trái qua phải): cá hổ New Guinea (Datnioides campbelli) và cá hổ bạc (Datnioides polota).

Chi cá hổ Datnioides vốn thuộc họ Lobotidae. Năm 1994, tên chi được đổi thành Coius và tách
ra làm một họ riêng Coiidae. Năm 2000, Maurice Kottelat sử dụng lại tên chi cũ Datnioides và vì
họ cá hổ chỉ có một chi duy nhất nên họ cũng phải đổi theo thành Datnioididae. Bởi vì việc điều
chỉnh liên tục nên nên một số tài liệu hay trang web ngày nay không kịp cập nhật thông tin mới
và vẫn sử dụng:
- Tên chi cũ Coius (tên mới là Datnioides).
- Tên họ cũ Coiidae, Datnioidae, Lobotidae (tên mới là Datnioididae)
- Tên khoa học của cá thái hổ (siamese tiger fish) Datnioides microlepis (tên mới là Datnioides
pulcher).
- Tên khoa học của cá hổ bạc Datnioides quadrifasciatus (tên mới là Datnioides polota).
Thậm chí cách viết sai thiếu một chữ "i" ở tên chi (Datnoides) hay ở tên họ (Datnoididae) cũng
rất phổ biến trên mạng.

Đặc điểm
Hai loài cá hổ nước lợ Datnioides campbelli và Datnioides polota có thể được phân biệt một
cách dễ dàng. Datnioides campbelli hay còn gọi là cá hổ New Guinea (New Guinea tigerfish)
phân bố ở vịnh Papua, New Guinea; chúng thường có đầu rất đậm màu với những đốm đen lấm
tấm trên nền thân màu vàng, đôi chỗ hơi ánh xanh. Viền của các sọc trên mình cá không rõ ràng
như ở các loài cá hổ khác. Kích thước tối đa của loài này lên đến 45 cm hay hơn. Loài này ít khi
xuất hiện trên thị trường cá cảnh và giá bán cũng rất cao. Datnioides polota hay còn gọi là cá hổ
bạc (silver tigerfish) là loài cá phổ biến hơn (ít ra chúng cũng thường xuất hiện trong các tiệm
chuyên bán cá lạ). Loài này có màu bạc và đầu rất thuôn. Thân thường có các sọc không đầy đủ.
Kích thước tối đa của loài này nhỏ nhất trong số các loài cá hổ, khoảng 30 cm. Địa bàn phân bố
của chúng rộng hơn rất nhiều so với Datnioides campbelli, trải dài từ Ấn Độ qua Indonesia đến
New Guinea.
Hai loài cá hổ nước lợ: cá hổ New Guinea (các sọc bị lem) và cá hổ bạc (màu bạc, 4 sọc trên thân và chấm ở gốc đuôi).

Loài Datnioides microlepis vốn được gọi là cá hổ vảy nhỏ (fine-scale tigerfish). Tên này được sử
dụng để phân biệt với các loài cá hổ vảy to là cá hổ New Guinea và cá hổ bạc. Tuy nhiên, các
loài cá hổ mới được mô tả gần đây là pulcher và undecimradiatus cũng có vảy tương đối nhỏ vì
vậy đặc điểm vảy nhỏ không thể dùng để phân biệt ba loài cá hổ này. Datnioides microlepis từng
được biết là loài cá hổ có thân rộng nhất (khoảng cách từ bụng đến lưng) nhưng đó là khi các cá
thể thuộc loài pulcher ngày nay vẫn được coi là microlepis. Do đó, đặc điểm thân rộng không thể
sử dụng để phân biệt microlepis với pulcher. Tuy nhiên, cả hai có thân rộng hơn so với loài
undecimradiatus.

Một đặc điểm khác thường được sử dụng để phân biệt các loài cá hổ đó là các sọc trên thân. Gần
đây, các nhà ngư loại học quan tâm nhiều đến màu sắc và hoa văn trên mình các loài cá hổ.
Chẳng hạn, vị trí của các sọc so với các gai vây lưng có một ý nghĩa quan trọng vì vậy việc chụp
hình cá với các vây trương thẳng là rất cần thiết.

Khảo sát trên một số lượng lớn cá thể ở mỗi loài cho thấy hình dạng và số lượng các sọc có thể
thay đổi tùy từng cá thể. Tuy nhiên, dù cho điều này tồn tại, trong hầu hết trường hợp, người ta
có thể dựa vào các sọc để phân biệt các loài Datnioides microlepis, Datnioides pulcher và
Datnioides undecimradiatus với nhau.
Phân biệt các loài cá hổ dựa trên các sọc ở gốc đuôi (nguồn http://www.waterwolves.com)
1- Cá thái hổ (Datnioides pulcher) phân bố ở lưu vực sông Mekong: gốc đuôi có hai sọc, sọc trước lớn hơn nhiều so với sọc sau.
2- Cá thái hổ (Datnioides pulcher) phân bố ở lưu vực sông Chao Phraya: gốc đuôi có hai sọc nhỏ và khá đều (gốc đuôi cá thái hổ
bắc Datnioides undecimradiatus cũng tương tự nhưng các sọc trên thân nhỏ hơn nhiều).
3- Cá hổ Indonesia (Datnioides microlepis): gốc đuôi có ba sọc, hai sọc sau nhỏ và đều.
4- Cá hổ bạc (Datnioides polota): gốc đuôi có hai chấm.
Nếu kết hợp đặc điểm này với số lượng và độ rộng của các sọc, và màu sắc của cá thì chúng ta có thể phân biệt được các loài cá
hổ một cách chính xác. Loài cá hổ New Guinea không được nhắc đến bởi vì chúng rất dễ phân biệt dựa trên các sọc bị lem.

Datnioides undecimradiatus thường có ba sọc nhỏ trên thân và thường được gọi là cá hổ sọc nhỏ
(thin bar tigerfish) hay cá thái hổ bắc (Northern Thailand tigerfish). Địa bàn phân bố của chúng
là ở lưu vực sông Mekong và có kích thước tối đa 40 cm.

Datnioides pulcher là loài cá ấn tượng nhất với những sọc rất to nên còn được gọi là cá hổ sọc to
(wide bar tigerfish) hay cá thái hổ (Siamese tigerfish). Địa bàn phân bố của chúng là ở lưu vực
sông Mekong và Chao Phraya ở Thái Lan. Kích thước tối đa của loài này lên đến 60 cm.
Cá thái hổ (2 sọc gốc đuôi, 3 sọc to trên thân) và cá thái hổ bắc (2 sọc gốc đuôi, 3 sọc nhỏ trên thân).

Datnioides microlepis hay còn gọi là cá hổ Indonesia (Indonesian tigerfish) phân bố ở Borneo và
Sumatra. Các sọc ở loài này thay đổi tùy từng cá thể nhưng chúng thường nhiều hơn so với
Datnioides pulcher. Với những cá thể mà thân cũng có ba sọc như Datnioides pulcher thì phải
dựa trên các sọc nhỏ ở gốc đuôi để phân biệt. Datnioides microlepis có ba sọc ở gốc đuôi, hai sọc
phía sau bằng nhau trong khi Datnioides pulcher chỉ có hai sọc, sọc trước lớn hơn rất nhiều so
với sọc sau. Kích thước tối đa của loài này lên đến 60 cm.
Cá hổ Indonesia (3 sọc ở gốc đuôi): cá thể có 3 sọc to trên thân (rất giống với cá thái hổ) và cá thể có 4 sọc trên thân.
Địa bàn phân bố của các loài cá hổ theo hình vẽ đăng trên một tạp chí cá cảnh ở Nhật Bản (nguồn http://www.waterwolves.com)
- Cá hổ bạc (vòng xanh lá cây): phân bố trải dài từ Ấn Độ, qua Đông Nam Á đến tận New Guinea.
- Cá thái hổ bắc (vòng xanh dương): phân bố ở lưu vực sông Mekong.
- Cá thái hổ (vòng đỏ): phân bố ở lưu vực sông Mekong và Chao Phraya. Lưu ý rằng vòng đỏ được chia ra làm hai khu vực riêng
biệt. Bởi vì theo người Nhật, cá hổ ở lưu vực sông Chao Phraya mới là cá thái hổ chính hiệu và có thể lớn đến 60 cm còn cá hổ
ở lưu vực sông Mekong (gồm Việt Nam và Campuchia) được gọi là cá hổ Campuchia nhỏ con hơn. Dẫu sao đi nữa, cả hai đều
thuộc về một loài duy nhất Datnioides pulcher.
- Cá hổ Indonesia: phân bố ở lưu vực sông Musi, đảo Sumatra (vòng nâu) và lưu vực sông Kapuas, đảo Borneo (vòng tím).
- Cá hổ New Guinea (vòng hồng): phân bố ở vịnh Papua, New Guinea.
Có hai loài cá hổ nước lợ là cá hổ bạc và cá hổ New Guinea, chúng sống nơi các cửa sông, đầm lầy ven biển và các nhánh sông,
hồ bị ảnh hưởng bởi thủy triều. Trái với suy nghĩ của nhiều người, các loài cá thái hổ, cá thái hổ bắc và cá hổ Indonesia là những
loài cá thuần nước ngọt, chúng sống trong các nhánh sông nhỏ, đầm lầy và ao hồ nằm sâu trong nội địa, nơi nước tĩnh hay có
dòng chảy nhẹ.

Cá hổ ở Việt Nam?
Trong quyển Định loại cá nước ngọt vùng đồng bằng sông Cửu Long xuất bản năm 1993, các tác
giả Trương Thủ Khoa và Trần Thị Thu Hương liệt kê hai loài cá thuộc họ Lobotidae là cá hường
Datnioides quadrifasciatus và cá hường vện Datnioides microlepis. Địa điểm thu thập các mẫu
vật ở Cần Thơ. Các tác giả nhấn mạnh đây là những loài cá rất hiếm, màu sắc đẹp và có thể
thuần hóa làm cảnh.
Cá hường vện Datnioides microlepis (tên hiện nay Datnioides pulcher) (Định loại cá nước ngọt vùng đồng bằng sông Cửu Long,
1993).

Thông tin trong Sách Đỏ Việt Nam đăng ở trang http://www.vncreatures.net ghi nhận loài cá
hường sông Datnioides quadrifasciatus thuộc họ cá Lobotidae. Địa điểm thu thập các mẫu vật ở
Kon Tum, sông Sa Thầy (vùng huyện Sa Thầy), Đồng Nai (sông Đồng Nai) và Đồng Tháp (Cao
Lãnh, sông Tiền).

Thông tin trên http://www.fishbase.org liệt kê loài cá thái hổ bắc (Datnioides undecimradiatus)
như là loài cá nội địa của Việt Nam. Nguồn tài liệu tham khảo “Kottelat, M., 1998. Fishes of the
Nam Theun and Xe Bangfai basins, Laos. Ichthyol. Explor. Freshwat. 9(1):1-128”.

Căn cứ theo tên khoa học thì cá hường hay cá hường sông chính là cá hổ bạc, cá hường vện
chính là cá thái hổ. Thông tin trên http://www.fishbase.org về sự hiện diện của loài cá thái hổ bắc
ở Việt Nam dựa trên một nghiên cứu về cá ở Lào; cho nên, đây có lẽ chỉ là sự suy đoán của tác
giả mà thôi và cần được chứng minh bằng mẫu vật thu thập thực tế. Như vậy, có ít nhất hai loài
cá hổ trên tổng số ba loài cá hổ sông Mekong được phát hiện ở Việt Nam. Xin nói thêm rằng,
nếu cá hổ là tên thông dụng trong lãnh vực cá cảnh thì "cá hường" lại là tên gọi của nhiều loài cá
khác nhau; chẳng hạn, một loài cá biển cũng được gọi là cá hường hay loài Nandus nandus cũng
được gọi là cá hường vện.

Cá hổ là loài cá đẹp và hiếm. Hơn nữa, chúng sinh sản rất khó, đến nay chưa có trường hợp sinh
sản thành công nào của cá hổ trong môi trường nuôi dưỡng được ghi nhận. Bởi vậy mà giá cá hổ
khá cao từ vài chục đến vài trăm đô la tùy theo kích thước và loài. Cá thái hổ là loài đẹp và đắt
tiền nhất. Thông tin tổng hợp từ nhiều nguồn cho thấy cá thái hổ gần như tuyệt chủng ở Thái Lan
và đã bị chính quyền sở tại cấm xuất khẩu từ lâu, vì vậy cá thái hổ lưu hành trên thị trường cá
cảnh thế giới chủ yếu có xuất xứ từ Việt Nam và Campuchia. Một số cá được gọi là “thái hổ”
trên thị trường cá cảnh trong nước theo quan sát của chúng tôi chẳng qua là cá hổ Indonesia mà
thôi. Cá thái hổ vốn đã rất hiếm thì nay hầu như cạn kiệt vì nạn săn bắt quá mức để phục vụ cho
thị trường cá cảnh. Hy vọng rằng trong tương lai, các đơn vị nuôi trồng thủy sản trong nước quan
tâm đến giá trị xuất khẩu của loài cá này và nghiên cứu cách lai tạo để phục vụ thị trường cá
cảnh trong nước và xuất khẩu.

Chọn cá thái hổ
Theo Seiichi Hamada (http://www.waterwolves.com) thì không phải cá thể nào thuộc loài
Datnioides pulcher cũng là được coi là cá thái hổ! Đối với người Nhật chỉ có những cá thể phân
bố ở lưu vực sông Chao Phraya, Thái Lan mới là cá thái hổ đúng nghĩa bởi vì chúng có thể lớn
đến xấp xỉ 60 cm. Họ gọi những cá thể cùng loài phân bố ở lưu vực sông Mekong là cá hổ
Campuchia. Bởi vì cá thái hổ bị cấm xuất khẩu ở Thái Lan cho nên cá thái hổ mà chúng ta thấy
trên thị trường cá cảnh thế giới và trong nước hầu như có xuất xứ từ Việt Nam và Campuchia
(tức cá hổ Campuchia theo cách gọi của người Nhật). Như vậy, nếu xét theo tiêu chuẩn của
người Nhật thì chúng ta hầu như không thể mua được cá thái hổ đúng nghĩa. Tuy nhiên, bề
ngoài hai loại cá thái hổ này rất giống nhau (ngoại trừ các sọc ở gốc đuôi) và theo chúng tôi thì
kích thước tối đa của cá thái hổ phân bố ở Việt Nam và Camuchia cũng không thua sút bao
nhiêu.

Thân cá thái hổ có ba sọc đen lớn trên nền màu vàng cam. Cá thái hổ là loài đẹp nhất trong họ cá
hổ mặc dù một số cá thể xuất sắc thuộc loài cá hổ Indonesia cũng có ba sọc lớn và tăng trưởng
đến kích thước xấp xỉ 60 cm. Có hai điều rất quan trọng trong việc lựa chọn cá thái hổ:

- Xác định đúng cá thái hổ dựa trên các đặc điểm: 3 sọc lớn trên thân và 2 sọc trên gốc đuôi.
Phân biệt cá thái hổ với cá hổ Indonesia mà một số cá thể cũng có 3 sọc lớn trên thân nhưng gốc
đuôi lại có tới 3 sọc.

- Các sọc phải thẳng, không đứt khúc, không có sọc lem đứt quãng…

- Độ rộng của các sọc và khoảng cách giữa chúng tương đối đều.
Ví dụ về các đặc điểm không đạt ở cá thái hổ: cá có sọc không thẳng và cá bị lem các sọc nhỏ (nguồn
http://www.waterwolves.com).

Nuôi dưỡng
Không nuôi cá hổ với cá quá dữ, chẳng hạn như cichlid kích thước lớn. Mặt khác, cũng không
nên nuôi cá hổ với cá nhỏ vì chúng có thể bị cá hổ ăn thịt - nên nhớ rằng miệng cá hổ có thể há ra
rất to! Chúng thường được nuôi chung với cá hiền có kích thước lớn để không thể ăn được.
Những loài có thể nuôi chung với cá thái hổ gồm cá khủng long (bichir), cá thát lát, cá rồng, các
loài kích thước lớn thuộc họ cá chép như cá mập bạc (cá học trò) hay cá he đỏ, và cá nheo kích
thước trung bình.

Cá hổ là loài xác định lãnh thổ và khá hung dữ so với đồng loại. Tốt nhất nên nuôi một con đơn
lẻ hay nuôi một nhóm 5 con cá non trở lên. Nên nhớ rằng chúng cần hồ thật lớn. Loài cá hổ New
Guinea Datnioides campbelli tốt nhất nên được nuôi riêng từng con.
(Trái) Hồ nuôi cá thái hổ chung với ba ba - (Phải) Hồ nuôi cá hổ Indonesia với cá đuối nước ngọt.

Mặc dù lớn khá chậm nhưng tất cả các cá thể đều đạt kích thước xấp xỉ hoặc hơn 30 cm trong hồ
cảnh, với loài Datnioides microlepis, có ghi nhận chúng đạt đến 60 cm trong môi trường tự
nhiên. Nếu nuôi một con, hồ phải có kích thước tối thiểu 120 x 38 x 38 cm. Nếu nuôi một nhóm
cá trưởng thành, hồ càng lớn càng tốt và phải có kích thước tối thiểu là 180 x 60 x 60 cm. Nền
đáy nên trải một lớp cát mỏng hay sỏi để dễ làm vệ sinh. Cá trưởng thành có thể nuôi trong hồ
trống nhưng cá non cần nơi trú ẩn. Cá non rất giỏi tận dụng địa hình để ẩn náu. Chúng có thể
nằm nghiêng một bên trong khe hẹp hay treo thân hình thẳng đứng phía sau đầu nhiệt để ẩn náu.
Hãy chọn đá trơn nhẵn hay những gốc cây lớn để trang trí hồ. Cây thủy sinh mọc cao như rong
mái chèo Vallisneria hay cỏ lá nhọn Amazon sword đặc biệt thích hợp. Hay bạn cũng có thể thay
thế bằng rong nhân tạo.

Đèn mờ rất thích hợp còn nếu để đèn sáng thì phải trồng nhiều rong nổi để tạo bóng râm. Hồ
trồng nhiều rong không thích hợp đối với cá hổ trưởng thành.

Tầm nhiệt độ thích hợp 24-28 độ C. Nước từ mềm đến cứng, độ pH trung hòa hay hơi có tính
kiềm rất thích hợp với các loài cá hổ nước ngọt nhưng nước cứng và kiềm hay nước lợ lại thích
hợp đối với các loài Datnioides campbelli và polota. Độ mặn không thực sự bắt buộc nhưng nếu
tỷ trọng là 1.005 (sử dụng muối hột) thì tốt hơn. Thay nước thường xuyên để duy trì chất lượng
nước. Nồng độ nitrate và các chất thải khác cao sẽ làm cá kén ăn và suy giảm chất lượng nước.
Cá hổ rất nhạy cảm với ammonia và nitrite vì vậy đừng thả cá vaò hồ mới chưa qua quá trình
khởi động.

Cá hổ rất háu ăn, thức ăn và chất thải sẽ làm ô nhiễm nước rất nhanh nếu không sử dụng một bộ
lọc thích hợp. Không cần thiết phải tạo dòng nước mạnh nhưng xục khí nhiều cũng tốt. Hai điều
này có vẻ mâu thuẫn nhưng hướng đầu xả của bộ lọc gần mặt nước (hay xử dụng tấm lái dòng)
sẽ làm xáo động mặt nước và gia tăng sự trao đổi khí mà không cần phải tạo ra dòng nước quá
mạnh khiến cá phải luôn chống chọi. Đầu xục khí cũng là một lựa chọn khác. Chọn bộ lọc với
ngăn lọc sinh học lớn chẳng hạn như bộ lọc thùng hay (canister hay sump filter). Về việc cho cá
ăn, nên nhớ chúng là cá săn mồi. Chúng không thích thức ăn khô dù có thể ăn chút ít. Cá non có
thể ăn trùn đỏ đông lạnh hay tươi và artemia. Chúng cũng có thể ăn các loại thức ăn dành cho cá
lớn như coc-lết, sò, cá nhỏ, tép và trùn đất.

Một số cá bắt đầu ăn ít đi, đặc biệt là cá hoang được bắt khi đạt kích thước trung bình. Thông
thường, chúng cần vài ngày để làm quen với môi trường mới. Thức ăn tươi như trùn đỏ hay trùn
đất có kích thích cá ăn. Một cách khác là đặt một mẩu cá vụn hay sò ở đầu xả của bộ lọc và để
dòng nước cuốn đến chỗ cá. Sự di chuyển của mồi sẽ kích thích cá đớp. Cá có thể phun ra nếu
chúng chưa quen với thức ăn nhưng với một chút kiên nhẫn, bạn có thể tập cho chúng làm quen
với thức ăn.
Cá hổ không nhạy cảm với một loại bệnh đặc biệt nào và là loài cá giỏi chịu đựng. Chúng không
có đặc điểm phân biệt giới tính và cũng chưa có trường hợp lai tạo thành công trong hồ cảnh nào
được ghi nhận. Hy vọng rằng điều này sẽ thay đổi một khi những nhà nuôi cá tâm huyết nghiên
cứu thêm về chúng.

Hồ "long hổ hội" - giấc mơ của nhiều người nuôi cá rồng (thêm vài con cá đuối nước ngọt và sấu hỏa tiễn làm "hộ vệ").

You might also like