You are on page 1of 154

TUYỂN TẬP TRUYỆN

NGẮN HAY
NĂM 2007 - 2009

1.Kế sách cuối cùng


Sylvia Morrison mới được tuyển dụng vào làm tại Bệnh viện Cheynne Wyoming ít tuần nay. Ở tuổi 19,

với gương mặt khả ái và lối sống hồn nhiên, cô đặc biệt chiếm được tình cảm của mọi người, kể từ

các bác sĩ mới ra trường đến các bệnh nhân trẻ.


Hôm ấy, đến phiên trực của Sylvia. Sau khi cô nhận bàn giao của đồng nghiệp, bất thần từ phía hành
lang nhỏ hẹp, một người thanh niên chừng 25 tuổi, vận y phục bác sĩ, tiến lại phía cô. Mắt xanh, tóc
nâu, gương mặt điển trai cộng với dáng người cao ráo, anh ta nhanh chóng thu hút sự chú ý của cô y
tá trẻ. Kỳ thực, vì mới nhận việc nên Sylvia chưa thể biết hết các đồng sự trong bệnh viện rộng lớn
này. Cô giật mình khi thấy anh chàng bác sĩ điển trai nọ niềm nở với mình:

- Cô có thể cho tôi biết phòng của bệnh nhân Ruth Nichols được không?

Trước thái độ lịch thiệp của vị bác sĩ trẻ, Sylvia lúng túng mở sổ trực:

- Dạ, thưa bác sĩ, cô ấy ở phòng số 25...

Chàng bác sĩ cúi đầu nhã nhặn:

- Vâng, cảm ơn cô..

Chàng bác sĩ trẻ đi rồi, Sylvia cảm thấy chộn rộn một cảm xúc khó tả. Cô nhớ lại gương mặt bệnh
nhân Ruth Nichols mới nhập viện sáng nay, bất giác ghen thầm với nữ bệnh nhân vì được một chàng
trai lịch thiệp và điển trai như vậy đến theo dõi bệnh tình. Kể thì hoàn cảnh của cô ta cũng đáng
thương. Cô mới trải qua pha phẫu thuật căng thẳng. Theo lãnh đạo khoa cho biết, cô đã bị tên thủ ác
quyết tâm triệt hạ bằng ba phát đạn.

Đang mải theo đuổi dòng suy nghĩ của mình, bất chợt Sylvia nhảy dựng lên khi tại căn phòng gần
đấy, có tiếng nổ chát chúa. Lại một phát súng chói tai nữa. Sylvia hoảng sợ thét lên. Đồng thời với
phản ứng của cô, từ các phòng, mọi người không ngoại trừ bác sĩ hay bệnh nhân, đều túa ra hành
lang. Cả khu bệnh viện chìm trong không khí hoảng loạn.

Ngay lập tức, cảnh sát được gọi tới...

Tại phòng số 25, khi cảnh sát ập vào, họ chứng kiến một cảnh tượng hãi hùng và bi thương: Một thi
thể phụ nữ bê bết máu với những vết đạn sâu hoắm. Tên thủ ác đã nã tới ba phát đạn vào đầu chị ta.

- Người phụ nữ này là ai? - Trung úy Hoffmann hỏi Giám đốc bệnh viện.

- Maggy Bennett. Bà ta mới nhập viện trước đây ít giờ vì bị viêm ruột thừa.

- Vì lẽ gì mà hắn ta lại trút căm hờn vào bà ta như vậy?

- Không - Giám đốc bệnh viện nói nhỏ, vẻ như hối lỗi - Theo y tá trực của chúng tôi, cô Sylvia cho
biết, thoạt đầu hung thủ không có ý định sát hại bà ta. Người hắn cần tìm là một bệnh nhân tên là
Ruth Nichols cơ.

Trước sự ngạc nhiên của viên trung úy cảnh sát, Sylvia nghẹn ngào phân bua:

- Tôi đâu ngờ sự thể lại ra nông nỗi này. Hắn ta vận y phục bác sĩ, nói năng lịch thiệp... Hắn hỏi tôi số
phòng của Ruth...

Trung úy Hofmann cau mày:

- Sao cô lại chỉ cho hắn phòng này? Thế bệnh nhân Ruth đâu?

Sylvia sụt sùi:

- Tôi đọc số phòng cho hắn theo như những gì ghi trong sổ trực...

Đến đây, ông giám đốc bệnh viện đỡ lời:


- Chúng tôi đã chuyển Ruth sang phòng khác từ trước đó mấy giờ. Chẳng là, sau ca phẫu thuật, cô
ấy ở vào tình trạng rất nguy kịch.

Trung úy Hoffmann tiếp tục gặng hỏi Sylvia:

- Cô có thể mô tả cho chúng tôi biết một chút về nhân dạng của hắn?

Sylvia gật đầu. Chỉ nghe cô kể sơ qua mấy nét nhận biết về hung thủ, Trung úy Hoffmann đã ngắt lời:

- Thôi được rồi. Đó chính là kẻ chúng tôi đang ráo riết săn lùng từ nhiều ngày nay. Hắn là Gregor
Matthews, chồng chưa cưới của Ruth. Hắn chính là tác giả của ba phát đạn nhằm vào Ruth trước
đó, khiến cô phải nhập viện. Không ngờ hắn còn tiếp tục mò đến đây quyết tâm trả thù đến cùng
người đã cự tuyệt không kết hôn với hắn.

Quay sang giám đốc bệnh viện, Trung úy Hoffmann hỏi:

- Hắn đâu rồi?

- Hắn đang cố thủ trong phòng số 24 - Ông giám đốc nói với vẻ lo ngại - Hắn có súng và hiện một
người phụ nữ bị buộc làm con tin trong đó.

- Bắt làm con tin - Trung úy Hoffmann kinh ngạc kêu lên.

- Vâng, bên trong phòng 24 đang có tiếng kêu cứu của bệnh nhân...

Hoffmann cùng nhóm cảnh sát vây bủa xung quanh căn phòng số 24. Anh hét lên, dõng dạc;

- Matthews! Anh nghe rõ chữ...Tôi, Trung úy Hoffmann đây.

- Rõ, tôi nghe rất rõ, ông trung úy ạ - Bên trong có giọng mai mỉa - Vấn đề là đừng dại dột can thiệp
vào việc này. Nên nhớ, trong phòng không chỉ có mình tôi thôi đâu...

Như để chứng minh cho lời đe dọa của hắn, từ bên trong có tiếng rền rĩ kêu than:

- Trời ơi... các ông ơi... Hãy nghe lời hắn... Đừng để hắn giết tôi...

Trung úy Hoffmann nghe vậy, quát vọng vào:

- Matthews! Chẳng lẽ với mày như thế chưa đủ sao?

- Không! Tao cần gặp Ruth. Tao đến đây cũng là vì nó. Tiếc là vì con y tá ngu đần kia mà tao phải
giết nhầm người...

- Mày cần gặp Ruth làm gì?

- À để ôn lại tình xưa nghĩa cũ thôi mà - Matthews trả lời bằng một giọng đểu cáng.

- Nói chuyện hay để tiếp tục nã đạn vào đầu người ta như mày đã làm với người đàn bà lúc nãy...

- Thôi, không nhiều lời nữa, Hoffmann ạ - Tên sát nhân đổi giọng - Tao chỉ muốn nhắc cho mày biết
rằng, nội nhật trong 20 phút nữa, nếu mày không đáp ứng yêu cầu của tao, là đưa Ruth vào đây, thì
chỉ còn nước là mua sẵn cỗ quan tài để đón con mụ này sang thế giới bên kia...

Một phút im lặng. Ai nấy đều hiểu tình hình rất nguy cấp, nhất là khi giám đốc bệnh viện ghé tai
Hoffmann cho biết, bệnh nhân hiện đang bị bắt làm con tin bị chứng tiểu đường rất nặng. Nếu 15 phút
tới, bà ta không được hỗ trợ bởi một liều insuline thì coi như tính mạng đi tong.
Hoffmann áp tai vào cửa phòng 24, nói:

- Matthews, hãy nghe tao nói. Bệnh nhân mày đang giữ làm con tin hiện mắc bệnh tiểu đường rất
nặng, cần được tiêm thuốc tức thì. Mày hãy để chúng tao cho một nữ y tá vào tiêm cho bà ta...

Đáp lại lời viên trung úy là một tiếng cười gằn.

- Còn nếu mày không ưng thuận phương án ấy, đích thân tao sẽ vào phòng, với hay tay đặt sau gáy,
không chút vũ khí. Mày đồng ý chứ?

- Bỏ ngay cái trò ấy đi - Hung thủ quát to - Nên nhớ, chỉ cần cánh cửa động đậy một chút là tao bắn
vỡ sọ con mụ này ngay.

Đang lúc tình thế căng thẳng, bất chợt Giám đốc bệnh viện ghé tai Hoffmann, nói nhỏ:

- Chỉ còn cách này, trung úy ạ...

Rõ ràng là ông Giám đốc bệnh viện vừa cung cấp cho Hoffmann một tin rất nghiêm trọng. Mặt anh
trắng bệch. Phải một lúc anh mới trấn tĩnh. Cố lấy giọng bình tĩnh, Hoffmann nói to:

- Thôi được, Matthews, tao sẽ chấp thuận yêu cầu của mày. Nhưng phải nhớ là, Ruth đang trong tình
trạng mê man đấy...

Lại một phút im lặng trôi qua, cuối cùng thì hung thủ cũng lên tiếng:

- Thì mày cứ đưa cô ấy vào đây, nhưng nhớ là phải mở cửa từ từ trước khi đẩy giường vào. Và nhớ
là, nếu không phải Ruth thì khẩu súng này sẽ không quên làm nhiệm vụ của nó đâu nhé.

Cửa mở, chiếc giường bệnh được ẩn vào một cách từ từ. Tên sát nhân vẫn ghì chặt đầu con tin, dí
súng vào thái dương bà ta, trong khi mắt chăm chú nhìn vào gương mặt trắng bợt của Ruth trên
giường bệnh. Bất chợt hắn cất tiếng cười ngạo nghễ:

- A hà, xin chào Ruth. Thì ra cô em cũng biết điều đấy nhỉ. Cứ tưởng vuột khỏi tay anh mà dễ à? Lần
này thì...Vĩnh biệt Ruth...

Hung thủ nói rồi quay thẳng nòng súng vào mặt người bệnh, bóp cò. Ngay tức thì, một phát súng
khác vang lên. Trung úy Hoffmann đã rất nhanh lao vào phòng, nhằm thẳng hung thủ nã súng.

Sự việc xảy ra vượt ngoài tầm suy tính của nhiều người. Ai nấy đều sửng sốt. Riêng giám đốc bệnh
viện, sau khi nhìn một lượt xác của hung thủ, đã cất lời khen ngợi:

- Phát đạn của trung úy quả là hết chê.

Hoffmann khẽ đưa mắt nhìn thi thể của Ruth, nói nhỏ:

- Cả phát đạn của hắn ta cũng vậy.

Sau khi lấy tấm khăn vải trắng phủ lên mặt người phụ nữ xấu số, giám đốc bệnh viện buông lời cảm
thán:

- Biết làm thế nào được... Gia đình cô ấy cũng đã đồng ý như thế mà...

Chờ cho các nhân viên giám định đưa hai thi thể nạn nhân và hung thủ ra khỏi phòng, Trung úy
Hoffmann mới bắt tay cảm ơn Giám đốc bệnh viện:

- Dù sao cũng phải cảm ơn ngài, vì nếu không có cách ấy, chúng ta buộc phải hy sinh thêm một người
nữa...
nữa...

- Không! Người đáng phải cảm ơn ở đây chính là Ruth. Cô ấy đã tắt thở ngay từ lúc hung thủ ra tay
bắt cóc con tin ở phòng 24, song vẫn giúp nhiều cho chúng ta.

Trung úy Hoffmann ra về mà không sao thoát được nỗi ám ảnh của các tình tiết trong vụ án. Thật
hiếm có vụ giải cứu con tin nào lạ lùng như vụ này. Khi mọi sự còn trong thế bế tắc, vị giám đốc bệnh
viện đã đưa ra cho anh một thông tin rất kịp thời: Do vết thương quá nặng, Ruth đã không qua nổi
sau cơn phẫu thuật. Chính từ sự việc này, cảnh sát đã báo tin về gia đình cô và xin họ cho dùng xác
cô vào việc phá án, tiêu diệt hung thủ. Gia đình Ruth vì quá phẫn nộ với tội ác của hung thủ nên đã
đồng ý. Và thế là, Matthews, vì muốn trút căm thù vào Ruth (mà hắn không biết là đã chết) nên đã
nhanh chóng bị đốn gục.

Nghẹn ngào một nỗi niềm không sao nói hết, Hoffmann khẽ thầm thì trong bóng đêm: "Rất cảm ơn
em, Ruth"

2. Cha tôi

Nhà tôi có bốn người. Cha tôi thế hệ 5X, chớm già. Sinh năm Canh Dần, theo tuổi bà mụ, tính đến
nay cha vừa tròn năm mươi chín tuổi. Hơn nửa thế kỷ có mặt trên đời thì hơn bốn mươi năm cha mặc
áo nhà binh, cầm súng và xa nhà. Cha tôi lấy vợ muộn và lại muộn đường con cái bởi đi chinh chiến
hết miền Nam rồi lại sang Campuchia đến năm 1989 mới về nước; rồi ở lì ở Tây Nguyên, thỉnh thoảng
mới về nhà.

Mẹ thế hệ 6 X, sinh sau cha 1 giáp, luôn chịu cảnh xa chồng. Nay mẹ đang ở tuổi hồi xuân rực rỡ (đấy
là nhận xét của bạn cùng thời với mẹ, chứ tôi đâu biết thế nào là hồi xuân?). Có lúc mẹ mặc áo hai
dây trong suốt, để vai trần, đi xe máy @. Mẹ làm chủ cửa hàng mỹ phẩm Hàn Quốc, và rất thích ngâm
mình trong bồn tắm thả ngập cánh hoa hồng Đà Lạt.

Chị Mai tôi thế hệ 7X đã ba mươi năm nhìn thấy ánh sáng mặt trời; yêu ngầm thì nhiều, nhưng chưa
tìm được chàng trai nào đáng làm chồng. Chị tôi mắt đen buồn, tóc xõa ngang vai, sống nội tâm ẩn
mình khép kín, yêu thích phim Hàn Quốc. Tốt nghiệp đại học, chị đi làm cho một doanh nghiệp Nhật
Bản, suốt ngày ăn cơm tiệm.

Tôi, thế hệ 9X - mười chín tuổi, tốt nghiệp phổ thông hạng làng nhàng, thi vào đại học hai lần đều
trượt. Sống theo ý mình luôn là cảm hứng thường trực và tự do muôn năm. Mẹ tôi lúc nào cũng bận
tối mắt tối mũi với Cửa hàng mỹ phẩm Hàn Quốc, chẳng để ý gì đến chuyện học hành của con mà
khoán trắng cho gia sư. Sống tự do theo ý thích, tôi suốt ngày chơi bời, đàn đúm. Chỉ trong có mấy
năm phổ thông trung học, tôi đã kịp đánh mất ba xe cuốc, cắm quán hai con Dream, đầu tóc thì đổi
kiểu xoành xoạch; hết nhuộm hoe hoe vàng lại hấp màu lông chuột. Tôi với mẹ hợp tính ưa nết. Tôi
với cha như nước với lửa, như mặt trăng với mặt trời.

Cuộc sống nhà tôi bước sang trang mới kể từ khi cha có mặt ở nhà. Hình như mọi thứ đều đảo lộn.
Hình như mọi người không hiểu nhau.

Cái bếp nhà tôi quanh năm không đỏ lửa. Thay đổi đầu tiên là việc cha bắt mẹ tôi hàng ngày phải
đóng cửa hàng mỹ phẩm lúc 5 giờ chiều, về nhà sớm nhóm bếp nấu cơm.

- Căn nhà có cái bếp; cái bếp phải đỏ lửa mới ra cái bếp các con ạ. - Cha tôi lại bảo - Ngày xưa nấu
toàn nồi đất chứ đâu được bếp âm, nồi i nốc, chống dính như bây giờ...

Bếp không đỏ lửa. Cha tôi buồn. Cha phàn nàn đứa con gái gần ba mươi tuổi mà vụng về, lơ là bếp
núc. Bếp lạnh tanh. Nồi niêu xoong chảo để mốc, lăn lóc, toàn cứt dán. Cha mang vào phòng vệ sinh
cọ rửa sáng bong. Cha bảo chị Mai:
- Cha không hiểu sau này con về nhà chồng, con sẽ nấu nướng thế nào?

Chị tôi nhấm nhẳng:

- Cha đừng lo. Con không lấy chồng đâu. Chẳng có thằng đàn ông nào đáng làm chồng con.

Cha tôi buồn suội. Nếu là tôi, ông đã "ục" liền; nhưng với con gái, cha tôi lại nhẹ nhàng, không hề cáu
giận. Ngày xưa, bằng tuổi chị Mai bây giờ, bà nội đã đẻ ba bác và cha tôi rồi. Chị Mai gần ba mươi
tuổi mà chưa đứng đầu đứng số, cứ sống trơ trơ bên bố mẹ. Cha tôi tỏ ra sốt ruột và lo lắng. Con gái
nước Nhật lấy chồng muộn hơn; có khi còn không chịu xây dựng gia đình, ở một mình khi thích đàn
ông thì cặp, chán lại bỏ; lấy chồng như đeo gông. Nhưng đấy là nước Nhật, chứ không phải nước
Nam ta. Càng nghĩ, cha tôi càng buồn phiền. Giọng ông nghèn nghẹn, có phần đau xót:

- Con đừng nói thế, cha đau lòng.

Chị tôi chợt thấy ân hận:

- Lo gì cha ơi. Con có về nhà chồng thì bếp cũng không cần đỏ lửa. Con chọn chồng giàu, không phải
nấu nướng, đi ăn tiệm tiện hơn. Khỏi phải rửa bát.

Mẹ tôi hóng chuyện, nói chõ vào:

- Ấy là tôi chưa duyệt. Con rể tôi mà quanh năm xa nhà như ông, thì con gái tôi vò võ chờ đợi, thèm
chồng cũng héo hon gầy mòn như mẹ nó thôi.

Mặt cha tôi có vẻ rạng lên một chút và ngượng ngùng như người có lỗi, cha tôi đánh trống lảng:

- Con thấy mẹ trách bố khéo chưa - Cha quay sang nói với mẹ tôi - Em biết rồi còn gì nữa: Anh lúc
nào cũng là một người lính.

Rồi cha tôi căn dặn mẹ:

- Đồ ăn hàng ngày em đừng mua bán cầu kỳ. Ba cái đồ xúc xích, lạp sườn, thịt hun khói, ba tê... sang
thì sang thật; nhưng của người Tây, không hợp với nhà mình. Cứ canh cua, cà pháo, cá bống hay thịt
trâu xào rau cần tỏi, hoặc thịt lợn ba chỉ rim mắm tép như ngày xưa anh ăn ở quê là thú nhất.

Mẹ tôi cười rộn, đùa vui với cha:

- "Ông thộn" ơi! Đặc sản quý hiếm đấy. Nấu một bữa canh cua cho cả nhà ăn cũng hết đến hai mươi
ngàn đồng. Một đĩa thịt trâu như anh nói không dưới bảy mươi ngàn. Để tôi đưa "ông thộn" và cả nhà
đi quán "Hương quê" ăn cho tiện. Mắc quá hết hai triệu đồng là cùng.

Cha tôi chối đây đẩy, bảo ăn nhà vẫn hơn, bảo bão lụt miền Trung còn bao nhiêu người khổ hơn
mình. Cha lập lại trật tự: trừ bữa trưa tùy nghi di tản, còn lại "cả nhà sum họp". Hết tiệt những ngày
mẹ phát cho tôi ba chục nghìn, muốn gì tự mua nấy mà ăn. Hôm nào mải ùng oàng với thế giới
games, ăn qua quýt hoặc nhịn, mẹ cũng chẳng bao giờ biết cả. Ăn uống không điều độ, bữa đực bữa
cái nên tôi gầy như cái que củi.

Bây giờ đến bữa cơm, cha ngồi bên gắp thức ăn đầy bát bắt con ăn. Đứa lát chả, đứa khoanh giò,
song chị em tôi khảnh ăn lại gắp ra bỏ vào đĩa. Mặt tối sầm lại, cha bảo: "Nhìn các con ăn nhỏ nhẻ,
cha buồn quá. Cứ như lính tráng của cha đánh ục một cái là bốn bát cơm đầy có ngọn. Ăn được thì
mới chạy nhảy, hành quân rèn luyện được; chứ như các con, nhìn cớm nắng lắm. Ngày xưa, cha chỉ
có bo bo với cháo rau má. Xanh cả ruột. Năm hết tết đến mới có tí thịt mỡ bôi mép, nhìn miếng thịt
mà mắt sáng lên".
Lại ngày xưa, cái điệp khúc ấy tôi đã nghe nhiều lần đến phát chán rồi mà cha ngày nào cũng nhắc
lại. Ngày xưa cha sống kham khổ cả năm vào dịp tết mới có miếng thịt bạc nhạc... Ngày xưa cha vất
vả suốt ngày đi trâu tóc cháy nắng đỏ như râu ngô, phải đi tát múc kiếm con cua con cá cờ nấu dấm,
chứ không sung sướng như các con bây giờ đâu...

Những lúc ấy tôi thầm nghĩ: cha nói quá vậy thôi; làm gì đến nỗi khổ thế. Tôi chẳng tin. Cái ngày xưa
của cha đi vào đầu chúng tôi rồi biến mất ngay, chẳng hề lưu lại một chút gì gọi là hình ảnh hay ấn
tượng. Cha và tôi, đúng hơn là cha và cả nhà khác biệt quá nhiều thứ. Dường như bắt nguồn từ việc
cha đi bộ đội, xa gia đình quá lâu. Đời sống bộ đội nghiêm nghỉ, niêm luật nhà binh ngấm vào máu
cha rồi; và cha mang nguyên phong cách sống ấy về nhà.

Cha vẫn tự hào:

- Cha về nhà nghỉ hưu, nhưng cha vẫn có một tiểu đoàn quân trong thành phố. Cha ới một tiếng là
các bác, các chú ấy có mặt ngay.

Mẹ tôi bảo chồng:

- Anh đã cầm quân một sư đoàn. Bây giờ về còn cần gì nữa?

Cha bảo:

- Là anh nói: anh em cùng đơn vị phục viên, nghỉ hưu, chuyển ngành về thành phố này đông tới vài
trăm người. Ấy là chưa kể cán bộ chiến sĩ trưởng thành từ sư đoàn anh chuyển công tác về các cơ
quan Bộ, đương tại ngũ, đội mũ đeo sao. Lúc trái gió trở trời bằng ấy người xúm vào thì lo gì. Anh mà
chết thì có cả một tiểu đoàn quân đưa tiễn.

Mẹ tôi không nói, chỉ thở dài.

Đúng là bạn bè, cấp dưới của cha nghỉ hưu, phục viên, chuyển ngành về thành phố đông cỡ vài trăm.
Ông nào cưới con, đem danh sách đồng đội cùng sư đoàn X. trải ra trước mặt, bốc điện thoại lên vừa
xướng vừa mời là có mặt gần đủ. Khách đến dự mặc toàn sắc phục nhà binh; cũng là dịp để các ông
đương binh, cựu binh gặp nhau hàn huyên.

Cha trở về, cha mang theo nguyên hình vị đại tá tại ngũ. Sáng mới 5 giờ, cha đã gọi tôi dậy lên sân
thượng tập thể dục. Cha hô một hai, một hai; con cũng hô một hai... một hai..., đến mức sáng bảnh bà
hàng phố ngó đầu sang bảo: "Nhà mày đang huấn luyện tân binh a?". Mẹ tôi không giận, cứ cười
ngặt nghẽo.

Cha tôi đọc báo nghe đài, xem tivi. Ông càng lo cho tôi - đứa con trai độc nhất. Nó mà dây vào nghiện
hút thì không những đời nó tàn mà cả nhà khổ, ông sẽ mất con. Lúc nào, cha tôi cũng cảm thấy bất
ổn. Đi ra đường thì sợ tai nạn giao thông, về nhà thì chỉ sợ con hư hỏng, sợ vợ làm ăn đổ bể... Suốt
cả đời, cha tôi quen rèn luyện người khác, quen chăm lo người khác nên nó ngấm vào máu, thành
thuộc tính cố hữu rồi.

Tối, cha bắt cả nhà đi ngủ sớm. Riêng điểm này thì tôi khó chịu lắm, cứ mặt nặng mày nhẹ với cha.
Bấy lâu nay quen sống tự do, tôi học hành ấm ớ rồi vào mạng Internet chơi games hoặc chat với mấy
đứa "chíp con" cùng lớp đến một, hai giờ sáng. Một tuần, mẹ tôi sáu ngày đến vũ trường nhảy nhót,
hoặc đi uống cà phê đến khuya mới về. Chị Mai mải xem phim Hàn Quốc liên miên. Cái thứ phim toàn
khóc lóc, thất tình, ung thư, hoặc bệnh máu trắng rồi ân hận, sám hối...; có gì đáng đồng tiền bát gạo
mà lấy mất thời gian của chị tôi đến thế?

Cha về. Cha thiết quân luật. Đừng hòng ai thức khuya quá 11h đêm. Cha bảo: "Cứ như đơn vị bố thì
9h30 là kèn báo ngủ đã tèn teng... tèn teng... Anh nào có muốn đọc nốt bài báo cũng không được; vì
trực ban... tắt điện". Chị Mai tôi than thở: "Cứ thế này thì tao đến phải lấy chồng mất thôi; "chạy trốn"
vào nhà bà mẹ chồng có khi còn tự do hơn".

Tuy có ca thán về cha, nhưng chị Mai thương cha vô cùng. Cái dạo chị mới năm sáu tuổi, cha về
phép. Một cái khung xe đạp, một con búp bê tóc vàng, vài mảnh vải cho vợ con; vậy mà cả nhà vẫn
đầm ấm, hạnh phúc, vui vẻ. Cha rất quý con gái. Ngày ấy, gia đình tôi chưa chuyển lên Hà Nội ở.
Chiều chiều, cha tôi dẫn con gái đi dọc triền đê nhìn đồng quê sông nước. Hình ảnh cha vận sắc
phục nhà binh, đeo quân hàm đỏ chói, bàn tay to dầy thô dắt đứa con gái nhỏ bé lích chích đi tha
thẩn, nhàn hạ, thanh bình trên triền đê đầy hoa cỏ may cứ đi theo chị tôi suốt tuổi thơ đến bây giờ.

Nhưng, ám ảnh, sợ hãi nhất là khi cha khoác balô trả phép. Ngày ấy, bên chiến trường Cămpuchia
đánh bọn Pôn Pốt vẫn đang ác liệt. Cha phải đi, bên ấy có nhiều việc đang chờ. Con gái và cha vừa
ấm hơi, quen nhau thì cha đã ra đi. Cha không muốn mẹ đưa ra tận ga tàu, cha sợ những giọt nước
mắt sụt sùi. Mẹ và chị tôi tiễn chân cha ra đầu làng. Cha âu yếm nhìn vợ, rồi ôm hôn con gái. Cha bảo
mẹ tôi: "Em và con về đi".

Cha thả con gái xuống và quay lưng rảo bước; những bước chân dài đạp trên đá mạt rào rạo, vội vã,
thỉnh thoảng quay lại vẫy vẫy tay. Bỗng chị tôi khóc thét lên và cùn cụt chạy theo cha. Cha tôi quay lại
ôm choàng lấy con gái. Nước mắt chị tôi nhoen nhoét vào gương mặt dãi dầu từng trải của cha. Mẹ
tôi bảo: "Hay anh ở lại, mai hãy đi". Cha tôi bảo: "Em đừng buồn. Anh mà ở lại thì anh không đi được
nữa. Thôi nào con, cho bố đi nào". Cha chuyền tay trao con gái cho vợ; rồi quay gót. Lần này, bước
chân ông quả quyết, thật nhanh, không ngoái đầu nhìn lại. Mẹ và chị tôi thầm thũi khóc nhìn bóng cha
tôi cứ xa dần, mờ dần.

Hầu như tôi không có kỷ niệm ấu thơ với cha. Cha nhẹ nhàng với con gái bao nhiêu thì nghiêm khắc
với con trai bấy nhiêu. Hễ lần nào tôi đi học luyện thi về là cha hỏi han từng li từng tí: "Hôm nay con
học môn gì? Con có tiếp thu được không?...". Tất nhiên, tôi khó chịu ra mặt, trả lời qua loa đôi chút.
Lúc cha chưa về, mẹ chẳng bao giờ xét nét tôi như thế.

Mẹ tôi đi làm, buổi sáng nào nhanh cũng hết ba mươi phút trang điểm. Có hôm mẹ mặc váy ngắn trên
đầu gối; vai mẹ để trần, môi và móng tay tô màu trầm. Cha bảo mẹ, giọng buồn buồn, nhưng kiên
quyết lắm". Em còn trẻ trung gì nữa đâu. Để đôi vai trần cho đám đàn ông nhìn, chướng lắm." Mẹ
không nói gì. Chỉ thấy sau hôm đó, mẹ mặc đồ dài tay, cao cổ và không bao giờ đụng đến váy. Nhẫn
mặt đá, dây chuyền, vòng ngọc... mẹ không đeo bỏ tất cả vào hộp... niêm phong. Mẹ ngoan quá, biết
nghe lời chồng, biết hạ cơn nhiệt của người mình thương yêu. Nhưng tôi đã nhầm...

Một tuần sau ngày cha "thiết quân luật", tôi cố tình quên để chuông đồng hồ đánh báo ngủ 10 tiếng.
Tôi miệt mài rồi bị cuốn hút bởi mấy nhân vật trong trò chơi Võ lâm truyền kỳ với những Thiếu lâm, Võ
Đang, Đường môn... đầy máu lửa. Cha đến đằng sau mà tôi chẳng hề hay biết. Đang hào hứng, tôi
như lên đồng cùng Võ Đang thì cha tắt - bật ổ cắm dây điện ba lần, màn hình tắt ngúm. Tôi sửng sốt
ngước nhìn lên. Cha nghiêm nét mặt, buông lời lạnh tanh, kiên quyết: "Cha đã nói con bao nhiêu lần
rồi? Về phòng ngay. Đi ngủ". Nghẹn cổ. Chân bước nặng như đeo đá, tôi còn nghe được tiếng mẹ
khóc thút thít vọng ra qua cửa buồng ngủ. Tôi chui vào màn cứ tưởng đang ở tù.

Nhà tôi như trại lính, mà cha là vị tướng chỉ huy cao nhất. Cha bảo: "Đừng để cái thân lười nhác. Lao
động cho khỏe người con ạ". Cha bắt chị em tôi phải làm những việc vặt mà trước đó chẳng bao giờ
phải mó tay vào: quét nhà, lau bàn ghế, cọ rửa phòng vệ sinh... Ngày trước, mẹ thuê ôsin mỗi tuần
hai lần đến lau chùi toàn bộ căn nhà để anh em tôi có thời gian học. Nhưng mẹ nào có biết tôi đã lơ là
việc học từ lâu lắm rồi.

Về nhà tôi sống với thế giới Võ lâm truyền kỳ, bài tập cô giáo ra mười bài thì bỏ chín. Đến lớp lại ngồi
mơ màng nhìn mây nhìn lá cây ngoài cửa sổ, và thường ngủ gà gật vì thức khuya. Kiểm tra thì toàn
quay cóp đứa ngồi bên cạnh; lúc "quay phim" được thì điểm 9 điểm 10 đỏ tươi; lúc thầy cô coi thi gắt
quá thì điểm 2 điểm 3 xám ngắt. Lại một mùa thi đại học sắp đến gần mà trong đầu tôi kiến thức thực
chất gần như là số 0.

Thằng con lêu lổng dần dần hiện lên rõ nét trong đôi mắt cha quen nhìn lính tráng chỉnh tề răm rắp.
Cha giận lắm. Ông thở dài, trách mắng tôi mải chơi không biết thương mẹ. Cha giận cả mẹ vì không
để ý gì đến con cái, tối ngày chỉ ăn diện.

Mọi nếp sống tự do đều thay đổi, tôi có cảm giác bị gông cùm, lẽ dĩ nhiên tôi bực mình và khó chịu
lắm. Tự nhiên có một ông già xa xưa, cũ kĩ, khó tính như từ trong chuyện cổ tích đi ra làm đảo lộn cả
cuộc sống của mình thì bố ai chịu được. Quả thật, cha là "người âm lịch" hết nói và nhiều khi rất buồn
cười và đáng thương hơn giận. Cha như ông già Khốttabít đi vắng xa trái đất mấy trăm năm nay bỗng
dưng nhớ quê trở lại. Nhiều lúc cha làm mẹ con tôi phát cười đến rung rốn vì sự quê mùa của ông.

Lọ sữa tắm Flex đượm mùi nhân sâm mát da thơm thịt, giá tám trăm nghìn đồng của mẹ thì cha lấy ra
gội đầu. Nhanh hết quá, mẹ không biết cứ cằn nhằn cái Mai trẻ con sao dùng sữa tắm của người lớn.
Xoong chảo trong nhà, cha lấy búi giẻ sắt đánh làm bay cả lớp mạ chống dính. Cha thích nghe các
bài hát "Hành quân đêm", "Lá đỏ", "Hãy yên lòng mẹ ơi"... và các điệu chèo làng Côi Trì. Còn chúng
tôi thích nghe nhạc rốc thì cha bảo tắt đi chờ cha sang nhà bạn đánh cờ tướng thì hãy mở kẻo rác tai
cha...

Chiều muộn trên thành phố. Ánh nắng cuối ngày sắp tắt trên những khối nhà bê tông thì đứa bạn gái
cùng lớp tôi đến chơi. Cha tôi không thiện cảm với cái mặt lấc cấc và cái đầu cắt tóc ngắn dựng
đứng, nhuộm đỏ hồng như cầu thủ Gionmar người Thụy Điển. Của đáng tội, con bé cũng hơi bất nhã
vì áo lưới ngắn tũn hở cả cái rốn lồi đeo vòng khuyên bạc (nhưng cha không biết nó đang là mốt bây
giờ).

Vừa đến cổng nó tưởng như mọi khi bấm chuông inh ỏi. Cha tôi ra mở cổng - ông đại tá về hưu ra
đón khách; thấy nó, chưa gì ông đã phủ đầu, hỏi dồn dập như bắn súng liên thanh: "Cháu tìm ai?
Cháu con cái nhà ai? Cháu đã là Đoàn viên thanh niên cộng sản chưa?...". Sau một hồi tra lên hỏi
xuống, căn vặn kỹ càng ông mới cho nó vào nhà.

Cứ tưởng yên chuyện rồi, nhưng không ngờ ông chẳng để cho chúng tôi một không gian của riêng
mình. Ông bảo hai đứa tôi ngồi ở phòng khách nói chuyện đoàng hoàng. Ông xách phích nước ân
cần đưa cho tôi pha nước mời bạn uống. Ông mở toang cửa chính, cửa sổ cho ánh sáng tràn vào...
cứ như sợ chúng tôi làm gì mờ ám trong bóng tối. Hai đứa chúng tôi nói chuyện mà cứ mắt la mày lét
ngó trước nhìn sau. Thỉnh thoảng cha tôi lại đảo qua một tí, có ý như nhắc nhở "Sắp thi đại học đến
nơi rồi, cháu về đi cho con bác học bài". Ngày cha chưa về, tôi đưa bạn gái lên phòng riêng chơi cả
buổi có chuyện gì xảy ra đâu. Cha tôi phòng xa quá, ông đem cách đánh nhà binh về phòng bị ngay
cả trong nhà mình.

Đến tận lúc về, con bé bạn tôi còn chưa hết hãi:

- Khiếp! Ông già mày ghê quá. Hỏi tao mà cứ như mật thám hỏi cung các chiến sĩ cộng sản trong nhà
tù đế quốc thực dân ấy.

- Bố tao nghiêm thế. Nhưng mà thương vợ con và mọi người lắm.

- Tao đếch thích kiểu thương ấy. Bận sau nếu có chuyện gì tao với mày ra quán cà phê cho tiện.

Cánh cổng khép lại. Tôi mang theo nỗi ấm ức của thằng con trai mới lớn:

- Cha cứ như thế này thì con hết bạn, hết chỗ chơi. Từ bây giờ có giời bảo cũng chẵng đứa nào dám
đến nhà mình cả.
- Mẹ con con ăn uống, đi lại, ngủ nghỉ, chơi bời không ổn chút nào. Ma túy, tệ nạn xã hội đầy ra đấy.
Các con còn non nớt. Rất dễ sa ngã.

Tôi tức quá cãi lại:

- Bao nhiêu năm qua không có cha, mẹ con con vẫn sống tốt cơ mà. Cả cuộc đời cha ở trong quân
đội, ngoài việc sinh ra bọn con cha đã làm được cái gì cho cái nhà này chưa mà cha trách mắng mọi
người...

Nói chưa dứt, mắt tôi đã hoa cả lên. Một cái tát nổ đom đóm mắt từ bàn tay thô ráp quen cầm súng
nhà binh. Tôi ngã dúi. Cha quát to:

- Chả nhẽ cha đi bộ đội bao nhiêu năm là để mày nói với cha bằng cái giọng chợ giời ấy hả? Bà ấy
đâu rồi? Con hư tại mẹ.

Con hư tại mẹ, cháu hư tại bà. Bà tôi mất từ lâu lắm rồi, còn mẹ ở cửa hàng mỹ phẩm vẫn chưa về,
chị Mai ngoan ngoãn thì đi học thêm Anh văn. Dường như lòng tự trọng của đứa con trai mới lớn
chấm hết. Tất cả kìm hãm, dồn nén sự khó chịu của tôi từ lúc cha về đã quá đủ. Tôi cãi lại cha và tôi
lao khỏi nhà. Tôi bỏ đi lang thang trên phố.

Đêm tôi không về. Sau này, khi "trời yên biển lặng", tôi mới biết: Suốt đêm ấy, cha lo lắng sợ tôi dạt
vòm đi bụi đời. Ông điện thoại báo hung tin về thằng con quý tử bỏ nhà cho bạn bè, đồng đội đã phục
viên, xuất ngũ, nghỉ hưu biết. Người nọ vội vã gọi người kia lan truyền theo cấp số nhân; như thể ông
đã huy động gần hết một "tiểu đoàn quân" đi tìm... tôi

3. Chỉ tại con vịt chết

Người nọ có một đàn vịt lớn, thường vẫn chăn thả trong đầm. Sớm hôm ấy, khi tới bên bờ đầm, ông
ta phát hiện thấy một con vịt dập dềnh mãi một tư thế trên mặt nước. Sinh nghi, ông lội xuống vớt lên,
thì hóa vịt đã chết. Ông sờ tay thấy vịt còn mềm, thậm chí còn âm ấm. Người chăn vịt đảo mắt nhìn
quanh. Không có dấu hiệu gì cho thấy nó bị cắn bởi rắn, chồn, hoặc cáo.

Người chăn vịt ngồi thừ một lúc, trong lòng vô cùng xa xót. Một con vịt mấy chục đồng chứ đâu ít...

Nâng niu xác con vịt trên tay, thoạt đầu người đàn ông định quẳng nó đi, song nghĩ đi nghĩ lại càng
thấy tiếc. Không thể một lúc quẳng đi mấy chục đồng bạc thế được. Chợt nhớ tới việc mình đang thuê
thợ sửa nhà, không những chỉ phải trả tiền công mà phải lo ăn uống hàng ngày cho họ, ông ta bèn
nảy ra ý nghĩ: Tại sao không mang con vịt này về, chế biến cho họ ăn.

Nghĩ là làm. Về nhà, ông ta đun nước làm lông con vịt một cách sạch sẽ. Không tìm thấy dấu vết cho
thấy nó bị con vật nào cắn xé, ông ta yên tâm giao lại cho vợ con ở nhà lo chế biến để khoản đãi tốp
thợ.

Xong xuôi, người chăn vịt quay lại bờ đầm để tiếp tục công việc của mình. Vừa làm vừa nghĩ, chợt
trong ông nảy lên một mối lo không thể xem thường. Ông hộc tốc chạy về. Lúc này, tất cả đã muộn.
Vợ con ông cho biết, con vịt cùng với rượu ngon đã chui tuốt tuột vào bụng đám thợ nề cả rồi.

Thấy chồng ra dáng bần thần, ngỡ là ông tiếc của, bà vợ cố tìm cách an ủi...

Đến nước này người chăn vịt mới thổ lộ, không phải ông tiếc, một con vịt có nhằm nhò gì. Cái chính
là ông sợ mọi người ăn nó, ngộ nhỡ xảy chuyện gì.

- Vịt được nấu chín rồi, còn xảy chuyện gì được - Bà vợ thản nhiên đáp.

- Mấy bữa trước bà có xem tivi không đấy? Vụ ngộ độc thức ăn ở Liễu Châu chẳng làm bao người sợ
hãi đấy thôi...

- Biết lo thế, sao không vứt quách đi, lại đi tiếc cái con vịt chết - Bà vợ đay đả.

- Hừ! Thế mới thành chuyện! Cũng là do mình lẩm cẩm, cứ nghĩ hồi nhỏ thấy mèo chết, chó chết đều
tuốt tuột ăn được, nên nay cũng làm vậy...

- Xưa khác, bây giờ khác. Giờ có lắm thứ dịch lạ kỳ lắm chứ...

Ông chồng thở dài:

- Thì bởi chủ quan nên mới vậy. Mà này, tốp thợ đâu cả rồi? Tôi phải đi thăm họ một lượt mới được.

Lùa nhanh bát cơm bữa tối, người chăn vịt quáng quàng nhảy lên xe đạp, lóc cóc tới thăm từng người
thợ đang làm nhà cho ông. Dọc đường, hình ảnh vụ ngộ độc ở Liễu Châu cứ loang loáng trong đầu,
đè nặng tâm trí ông.

Trước tiên ông rẽ vào nhà lão Trương. Bấy giờ lão Trương đang xem tivi.

- Ôi trời, tối tăm thế này, có việc gì mà ông phải lặn lội tới tận đây thế?

- Không, không có việc gì. Chẳng qua tiện đây thì ghé thăm bác thôi.

- Không có việc gì thật à? Thế mà tôi cứ nghĩ việc sửa nhà có gì đó không ổn - Lão Trương thở phào.

- Đúng vậy! Không có việc gì cả. Thôi, thấy bác thế là mừng rồi, tôi về đây.

Rời nhà lão Trương, người chăn vịt tìm đến nhà Tiểu Lý. Thoạt đầu, nghe người nhà bảo Tiểu Lý
đang đi ngoài, người chăn vịt không khỏi giật mình lo lắng.

Một lát, Tiểu Lý xong việc trở vào. Vừa nhìn thấy ông chăn vịt, anh ta đã cất lời khen:

- Ông chủ xởi lởi quá! Hôm nay còn cho mổ vịt đãi bọn cháu một bữa thật... hoành tráng.

- Không! Không! Chẳng qua tại lão già này lẩm cẩm...

- Sao? Ông chủ tiếc của, thấy hối hận rồi à? Nhưng giờ thì tiếc cũng bằng thừa, chúng cháu chén
sạch cả rồi.

- Thì tôi còn biết làm gì được nữa? Hỏi thật, anh không thấy "khó chịu" chút nào à?

Anh ta phá lên cười:

- Ông chủ hỏi mới thật ngộ. Bọn cháu thì khó chịu cái nỗi gì? Ông chủ đã không khó chịu thì thôi, chứ
phận làm thuê như chúng cháu, được chủ nhà khoản đãi một bữa thịt vịt sao lại phải khó chịu? Nếu
ngày nào ông chủ cũng đối đãi như vậy, chúng cháu lại chẳng béo quay ra ấy chứ.

Ông chăn vịt nghe vậy, thấy nỗi lo giảm đi đến bảy phần.

Tuy nhiên, ông cũng chưa thật yên tâm. Để cho chắc chắn, ông quyết đến thăm một nhà nữa, là nhà
ông Năm Vương. Khi ông đến thì ông Năm Vương đã đi nằm. Nghe người nhà ông Năm Vương báo
lại, người chăn vịt giật thột: "Chết thật! Sao lại đi ngủ sớm như vậy nhỉ?".

- Nghe nói hôm nay được chủ nhà cho ăn bữa tươi, lại có thêm chén rượu, nên... mặt trời mới lặn
sớm thế - Người nhà ông Năm Vương giải thích.

- Trước khi đi nằm, ông ấy có nói... đau đớn, khó chịu gì không? - Người chăn vịt thăm dò.
- Không! Không thấy nói gì cả.

Người chăn vịt nghe vậy, vẫn cứ thắc thỏm. Vậy là, để chắc ăn, trong khi ông Năm Vương ngủ say
như chết, ông đành xin phép người nhà ông Năm Vương... ngồi chờ.

Và đến sáng ngày, ông mới chắc chắn rằng, mối lo ấy của mình là... thừa!

4. Không thể là ngộ sát

Nói cho chính xác thì Ronald không phải không có chút phân vân khi quyết định ra tay trừ khử bà dì
Frances của mình. Dẫu thế nào thì bà cũng từng thay cha mẹ hắn (đã mất trong một tai nạn máy bay)
nuôi dưỡng hắn. Vả chăng, trước sau bà không phải là người độc ác.

"Lỗi" lớn nhất của bà là đã kiểm soát ông cháu quá ư chặt chẽ, nhất là trong các mối quan hệ "tình
cảm" và trong việc tiêu pha. Điều này làm cho Ronald đang độ tuổi ham vui lắm lúc thực sự bi phẫn.
Ronald từng nghĩ đến giải pháp lấy vợ, những mong thoát khỏi bàn tay kềm kẹp của bà dì, song ngay
cả trong chuyện này, dì Frances cũng có những quyết định riêng.

Thay vì việc Ronald sẵn sàng cưới cô Honey Coam làm nghề thoát y vũ có bộ ngực đồ sộ, dì Frances
lại muốn cháu mình chọn cô Jane Colwel - một cô gái thẳng đuột như... ống khói - làm vợ.

- Cháu phải chọn hai con đường: Hoặc cưới cô ấy, hoặc thôi ngay khoản tiền trợ cấp của dì - Bà
nghiêm khắc cảnh cáo.

Ronald hiểu ngay rằng, bà dì muốn hắn nhất nhất phải làm theo chỉ đạo của bà, có nghĩa là, bà có
chủ ý giữ mãi hắn bên cạnh bà.

Vậy thì, chỉ còn một cách là làm sao để bà già lắm điều này nhanh chóng biến khỏi cuộc đời mình -
Trong đầu Ronald nảy nòi những ý nghĩ độc ác.

Ronald có sở thích đọc các tạp chí trinh thám và rất hay nghiền ngẫm về những vụ án phức tạp. Kể
ra, đa phần các vụ giết người cuối cùng đều bị bại lộ. Nhưng chính những sơ hở của hung thủ lại
giúp Ronald rút ra bài học về những điều không nên phạm phải.

Sau nhiều ngày nghiền ngẫm, Ronald đi đến một quyết định: Phải biến vụ giết người thành một vụ tai
nạn. Tất nhiên, có thể có người sẽ nghi ngờ. Vấn đề là họ không có bằng cớ để kết tội. Mà như vậy
thì hung thủ giỏi lắm cũng chỉ phải chịu án phạt với tội danh ngộ sát.

Nghĩ thì nghĩ vậy, để "khử" được bà dì Frances một cách êm gọn đâu dễ dàng gì. Suốt nhiều ngày
trời Ronald lao tâm khổ tứ tìm kiếm một giải pháp.

Chợt một hôm, Ronald đọc được mẩu tin ngắn: "Một chiếc máy bay quân sự - không rõ nguyên do tại
đâu - đã để rơi một bình dự trữ nhiên liệu xuống vùng Los Angeles. Chỉ thiếu chút nữa là nó cướp đi
sinh mệnh của hàng chục con người đang nấu bữa tối trong sân sau nhà họ". Từ thông tin tưởng như
vặt vãnh này, Ronald đã liên tưởng đến một cách thức giết người mà hắn sẽ áp dụng cho bà dì của
mình.

Kế hoạch kể cũng đơn giản thôi: Anh chàng Ferdie (bạn thân thời trung học của Ronald) như thường
lệ lái máy bay lượn trên nóc khu nhà. Và, như thể một anh chàng vụng về, anh ta để rơi một cái gì đó
- có thể là cái búa chẳng hạn - từ trên máy bay xuống. Và chiếc búa sẽ gặp đúng cái sọ của dì
Frances.

Lý thuyết thì như vậy, vấn đề là làm sao thuyết phục được Ferdie "thực hành" việc này. Ronald biết
thằng bạn hắn cũng chẳng ưa gì bà dì Frances vì bà luôn khinh miệt nó. Vả chăng, nếu hứa cho nó
một khoản hậu hĩnh sau khi bà dì chết, biết đâu nó sẽ nghe theo.
- Tao rất ngạc nhiên là - Ferdie lên tiếng sau khi nghe Ronald vắn tắt trình bày kế hoạch - một thằng
thông minh như mày lại có thể nghĩ rằng tao sẽ thả trúng vào ai đó khi đang bay ở độ cao như vậy.

- Đừng lo lắng - Ronald nói - Điều duy nhất mày phải làm chỉ là thừa nhận có việc mày đã mải mê trò
nhào lộn trên khoảng không của khu nhà. Người ta sẽ chỉ cho mày thấy cái dụng cụ đồ nghề ấy. Và
mày phải tỏ ra rất đỗi kinh hoàng khi người ta bảo với mày là dụng cụ đó đã giết chết một con người.

- Thế người ta sẽ làm gì tao?- Ferdie lo lắng hỏi.

- Làm cái quái gì được mày. Đó chỉ là một tai nạn. Tất nhiên là mày sẽ bị tịch thu giấy phép bay một
thời gian. Trường hợp tồi tệ nhất thì mày có thể lĩnh vài tháng tù. Mày yên tâm, tao sẽ cho mày mười
ngàn đôla ngay khi mà tao được hưởng thừa kế, chưa kể các khoản sau đó. Chỉ cần mày nhớ rằng
dụng cụ đó đã rơi từ máy bay xuống khi mày đang làm trò nhào lộn.

- Nghĩa là, như thường lệ, tao sẽ bay một vòng và biểu diễn vài trò nhào lộn. Sau đó khi người ta đến
gặp, tao sẽ nhận dụng cụ đó là của tao, đúng thế chứ?

- Tốt lắm. Bây giờ cả hai ta cùng kết hợp thực hiện. Một triệu đôla đang chờ chúng ta.

Ngay ngày hôm sau, tại nhà Ferdie, Ronald chúi đầu lục lọi trong hộp đồ nghề lổng cổng. Cuối cùng,
hắn cũng đã chọn được một cái búa có một đầu to và một cái cán nhỏ bằng thép.

- Vấn đề là tao sẽ phải đập bà ta đúng như cái búa rơi xuống bà ta - Ronald nói với vẻ băn khoăn -
Các chuyên gia y học ngày nay họ tinh lắm. Họ sẽ sử dụng tất cả những gì có thể có: kính hiển vi,
hóa chất và mọi sự rung động. Điều này sách báo đã nói nhiều. Cho nên cẩn thận hơn cả là tao buộc
búa vào một thanh gỗ. Như vậy tao có thể đập vào đỉnh đầu bà ấy cứ như là cái búa rơi từ trên máy
bay xuống...

Khuôn mặt u tối của Ferdie như sáng ra:

- Bây giờ thì tao hiểu, mày thật là một thằng kỹ càng trong mọi việc. Nếu là tao thì chắc chắn sẽ quên
một điều gì đó

Chiều thứ bảy hôm ấy, trong khi bà dì Frances đang thảnh thơi đọc tạp chí trong khu vườn của mình
thì một chiếc máy bay hạng nhẹ xuất hiện phía trên cao những cánh đồng, kêu vù vù như con bọ
khổng lồ. Dì Frances ngẩng đầu lên bực bội, bụng bảo dạ hôm nào đó sẽ đi báo các nhà chức trách
về việc thằng bạn trai của Ronald luôn gây phiền nhiễu cho mọi người.

Cùng lúc ấy, nhận thấy ám hiệu từ những trò nhào lộn trên không của Ferdie và để ý thấy không có
người giúp việc nào ở đó, hắn hiểu thời cơ hành động đã đến. Hắn luồn đến sau bà già lúc bấy giờ
đang đắm chìm trong quyển sách. Trong tay hắn là thanh gỗ có buộc cái búa. Hắn ước đoán khoảng
cách, lấy đà và đập mạnh cái búa xuống bằng đầu thép nặng chịch. Không một tiếng kêu, bà dì của
hắn đổ sụp xuống mặt bàn, máu vấy lên đầy quyển tạp chí.

Rất nhanh, Ronald cắt sợi dây buộc búa vào thanh gỗ, sau đó hắn vứt sợi dây vào cái lò đốt rác, vứt
thanh gỗ vào đống củi. Trong quá trình phi tang, hắn cố gắng không để mình chạm vào cái búa.

Sau đó, hắn làm bộ như "phát hiện" ra tai nạn và cấp tốc gọi điện cho cảnh sát. Khi sự việc đã rõ là
không có người nào lảng vảng xung quanh dì Frances trước khi bà ta gặp sự cố bất hạnh thì Ronald
nghĩ rằng đã đến lúc cần đề cập tới sự xuất hiện của chiếc máy bay.

- Không ai cẩu thả như anh bạn của anh -Viên cảnh sát nói gay gắt - Tôi đoán chắc rằng cái búa này
đã rơi từ trên máy bay của hắn xuống.
Ronald nghe nói vậy thì mừng không thể tả. Nhưng hắn nén lại, giả bộ há miệng thán phục.

- Ông nói rất có lý - Hắn thốt lên, phụ họa - Tôi đã không nghĩ ra điều đó. Nhưng tôi cam đoan với
ông rằng đó chỉ là một tai nạn thôi. Chẳng ai muốn làm hại đến dì Frances.

Viên sĩ quan cảnh sát tán thành ý kiến của hắn: Bà cô già đã thật sự gặp rủi ro, một trong muôn một
điều bất hạnh có thể xảy ra.

Nhưng hôm sau, vào lúc chập choạng tối có một cảnh sát khác tìm tới Ronald. Ông đại úy này có tên
là Swingle, thái độ có vẻ không được mềm mại với hắn.

- Chúng tôi đã cho thẩm vấn cậu bạn anh - Ông ta nói - Anh ta đã nhận cái búa là của anh ta. Anh ta
nói cái búa hẳn là đã phải rơi từ máy bay xuống trong khi anh ta đang làm trò nhào lộn.

Ronald vờ lắc đầu buồn bã:

- Thật tiếc cho thằng Ferdie đen đủi. Một tai nạn lạ lùng không thể tưởng tượng được. Ông biết đấy,
nếu như ai đó thật sự muốn "ném" vào một người nào đó từ độ cao này, người đó sẽ khó có thể thực
hiện được...

- Một đòn xếp đặt khá đấy - Viên cảnh sát nhếch mép cười khẩy.

- Ông nói thế là thế nào? - Ronald hỏi, giọng phẫn nộ.

- Câu chuyện cũ rích về cái quản bút đã khiến anh phạm phải sai lầm, Ronald ạ - Đại úy Swingle nói,
trong khi tên sát nhân há hốc mồm kinh hãi - Tất nhiên - Viên cảnh sát bình tĩnh nói tiếp - Nếu không
thì anh đã chẳng dám dựng nên cái âm mưu quái đản này. Nếu anh cầm một cái như cái búa đã giết
bà dì của anh, và thả nó rơi trong chân không, nó sẽ rơi xuống đúng như cách mà anh cầm nó ban
đầu... Đầu ở trên, ở bên dưới hoặc ngang ra.

Bộ óc của Ronald làm việc rất nhanh:

- Nếu như cái búa đó có thể rơi trong bất cứ tư thế nào, thì tại sao nó lại không rơi đầu xuống trước
được? Và tại sao bà dì tôi không bị chết theo cách đó, tất nhiên là thế - Hắn chợt dừng lại vì nhận
thấy mình nói hơi nhanh.

Đại úy Swingle mỉm cười, cái cười lạnh lùng:

- Tôi nói rằng nó sẽ rơi như vậy nếu như anh thả nó rơi trong chân không. Trong trường hợp này thì
một vật nặng 50 gram và một vật khác nặng một tấn cũng sẽ chạm đất cùng một lúc. Nhưng ở trong
không khí, vật nào có nhiều sức cản thì rơi càng chậm. Và trong trường hợp liên quan đến anh, đó sẽ
là cái đầu búa. Nếu dụng cụ đó thực sự rơi từ độ cao năm trăm mét, nó sẽ tự quay cán xuống phía
dưới, một hay hai giây sau khi rơi và sọ bà dì anh phải bị xuyên thủng bởi cái cán đó, thay vì bị đập
vỡ bởi đầu búa. Chúng tôi đã kiểm tra lại sự chính xác của điều đó bằng máy bay lên thẳng của cảnh
sát. Anh còn gì để nói về chủ đề này nữa không? - Viên sĩ quan hỏi và nhìn vào khuôn mặt tái xám
của thủ phạm.

Ronald lặng đi một lúc, không thốt lên được lời nào. Cuối cùng hắn mới lẩm bẩm bằng một giọng
nghẹn ngào:

- Ferdievô tội. Nó đã không nói và tỏ ra trung thành

5.Tình già

Hạ đã tưởng mình giữ được danh tiết đến trọn đời. Bà con hàng phố thường lấy Hạ làm tấm gương
răn dạy con cháu. Nào ngờ... Từ khi vướng vào anh ấy, Hạ không dám ngẩng mặt nhìn ai. Vợ chồng
nhà Toàn không khiến Hạ đưa, đón con nó nữa. Người hàng phố thường tránh Hạ. Hạ thấy ê chề
quá. Nhiều lần Hạ đuổi anh ấy về. Hạ van xin anh ấy đừng đến nhà Hạ nữa.

Hạ ập tới nhà tôi như con gió lốc. Mạnh mẽ và quyết liệt.

- Mình lấy chồng. Bạn ủng hộ nhé - Hạ thông báo

Tôi sững sờ. Hạ bảo:

- Bất ngờ lắm à?

Tôi gật đầu, xác nhận.

- Bất ngờ.

Hạ cười tít. Nụ cười của người đàn bà đang ngập tràn hạnh phúc. Mấy chục năm nay, tôi mới gặp nụ
cười tươi bưởi, rực rỡ trên gương mặt Hạ. Tuy vậy tôi vẫn hỏi:

- Hạ nói thật hay đùa?

Hạ cười tươi, da mặt dậy đỏ:

- Thật.

Tôi vẫn chưa hết nghi ngờ, hỏi:

- Hạ đi một mình à?

Hạ cười tít:

- Đi hai người.

- Thế bạn đâu? Xe đâu?

- Ở ngoài kia.

- Sao không mời anh ấy vào đây.

- Anh ấy ngượng.

- Ngượng gì. Để mình ra mời anh ấy vậy.

- Này, đừng.

- Sao vậy?

- Chẳng sao cả. Kệ anh ấy.

- Anh ấy bao tuổi rồi?

- Ngoài sáu mươi.

- Là sáu mấy?

- Sáu bảy sáu tám gì đấy.

- Hơn Hạ gần mười tuổi.


- Quãng ấy. Nhưng còn khỏe lắm.

- Thế cơ à? Quê anh ấy ở đâu.

- Bình Định.

- Võ Bình Định là khiếp lắm đấy.

Mặt hạ rực đỏ.

- Ừ, khiếp lắm

- Vợ con anh ấy thế nào?

- Chả thế nào cả. Chị ấy người thị xã. Con gái duy nhất nhà tư sản bên phố Ngô Quyền. Anh ấy
người miền Nam tập kết. Ở gửi rể. Mấy năm gần đây nhà nước mở cửa, chị ấy mới đổ vàng ra làm
nhà và chia cho các con. Chị ấy thật khổ. Cái số không được ở nhà cao, cửa rộng. Nhà làm xong
ngày nào, chị ấy lăn ra ốm ngày ấy. Khánh thành nhà buổi sáng, buổi chiều chị ấy bị cấp cứu. Sống
luôn trong bệnh viện, đến lúc cái chết đã gần kề, con cái vội đón về nhà được dăm hôm thì đi.

Hạ rơm rớm nước mắt.

- Thân phận người đàn bà khổ thế. Vàng một đống vẫn thắt lưng buộc bụng, chắt bóp từng xu, từng
đồng vì chồng vì con. Làm nhà gần xong thì chia đất, chia nhà, chia vàng cho các con phân minh,
sòng phẳng. Nhưng không để lại một chỉ nào cho chồng.

- Tại sao thế?

- Biết đâu được với nhà người ta. Anh ấy bảo, đó là tài sản thừa kế của chị ấy. Nếu chị ấy không phải
con nhà tư sản, chắc chắn chị ấy chả thèm lấy anh ấy. Lúc còn thanh nữ, nhà chị ấy luôn luôn có một
tiểu đội đàn ông sếp hàng.

Tôi tấm tắc:

- Ghê nhỉ? Chắc chị ấy đẹp lắm.

- Đẹp. Đẹp nhất thị xã.

Tôi đã ngờ ngợ nhận ra ai. Bởi tôi đã có ba năm học ở trường cấp III thị xã. Tháng tháng xách tương
vác gạo đi bộ hai mươi nhăm kilômét từ quê lên thị xã. Chẳng lẽ người đẹp nhất thị xã là Quế Hoa,
cũng trạc tuổi tôi và Hạ, cùng học lớp 8B với chúng tôi. Quế Hoa đẹp kiêu sa, lộng lẫy. Tính tình kín
đáo, tế nhị. Đi đứng ung dung. Nói năng nhỏ nhẹ. Bạn bè cùng khối 8, các anh ở khối 9, khối 10, rồi
cả các thầy giáo trẻ nữa, vo ve quanh Quế Hoa hàng đàn. Học hết năm lớp 8, Quế Hoa biến mất.
Không ai rõ Quế Hoa đi đâu. Những năm gần đây, họp trường, họp lớp hàng năm Quế Hoa cũng
không có mặt. Và cũng chẳng thấy ai nhắc đến Quế Hoa. Ở thời chúng tôi, con gái đẹp nổi tiếng thị xã
chỉ có Quế Hoa.

Tôi hỏi Hạ:

- Quế Hoa à?

Hạ gật đầu.

- Sao Hoa im hơi kín tiếng thế?

Hạ nói:
- Mình sống ở thị xã, sinh con đẻ cái, nuôi dạy các cháu khôn lớn, mấy chục năm trời ngay bên phố
Cửa Hậu mà có giáp mặt nó bao giờ đâu.

- Vậy sao biết Quế Hoa?

- Thế mới lạ. Quả đất quay vòng. Con người ta có duyên kỳ ngộ thì trước sau rồi vẫn gặp nhau. Chả
là khi thân với mình, anh ý cứ tha thiết mời đến nhà chơi. Hơn nữa, mình cũng muốn đến xem gia
cảnh anh ấy thế nào. Thường ngày anh ấy đưa đón đứa cháu ngoại đi lớp mẫu giáo. Còn mình đưa
đón thằng cu nhà hàng xóm. Vì bọn thằng Hiến, cái Hiền đem hết con cái chúng nó sang Séc rồi.
Trong khi đó mình ở nhà chơi mãi cũng buồn. Cô đơn lắm.

Vợ chồng con bé hàng xóm lại bận tối mắt. Chồng nó học cùng với cái Hiền. Nó thấy mình nhàn rỗi
nên sang vật nài mình đưa đón con hộ nó. Mình nhìn hoàn cảnh nó cũng thương. Bố mẹ đôi bên sớm
khuất núi cả. Chả nhờ cậy được ai. Nên mình nhận lời. Thằng cu con nhà nó lại học cùng lớp với đứa
cháu anh ấy. Duyên trời run rủi ông bà đưa đón cháu gặp nhau, trước chào hỏi, sau kiếm đôi ba câu
chuyện làm quà. Rồi mời nhau vào quán. Anh ấy tâm sự, vợ anh mất đã đoạn tang. Cải cát rồi.

Hạ bảo, đứng trước bàn thờ vợ anh ấy, Hạ sững người, lạnh toát cả chân tay. Bức ảnh chân dung
trên bàn thờ trông quen quá. Một chút khóe môi, một đôi mắt đẹp nhưng sao lạnh lùng, khinh bạc thế.
Ảnh chụp thời còn trẻ, chừng mười tám, đôi mươi. Hạ nhận ra ngay Quế Hoa. Hạ hỏi:

- Chị ấy không có bức ảnh nào chụp gần đây hở anh?

- Bức ảnh này là cuối cùng. Cô ấy rất ghét chụp ảnh

- Sao lại thế?

- Tính cô ấy thế. May mà bố mẹ cô ấy còn có gian nhà mặt phố, còn tích lũy, giấu giếm được tí ti
vàng, buôn bán lặt vặt thêm vại dưa, quả cà đắp đổi qua ngày...

- Anh biết gia đình chị ấy tư sản rồi, sao còn lấy?

Anh ấy kể:

- Anh đã có vợ con trong quê. Ra Bắc không chịu nổi cô quạnh, ăn cơm tập thể, nằm giường cá nhân
nên anh quyết tâm lấy vợ. Thấy cô ấy đẹp quá, đoan trang, hiền dịu quá mà anh nào cũng sợ, đến lại
đi, thì anh lao vào. Lấy được vợ thì mất chức vụ, chuyển ngành làm công nhân vệ sinh thị xã. Thỉnh
thoảng anh ức đời, uống rượu, về nhà dồn cả lời nói, cả cẳng chân, cẳng tay vào cô ấy. Bây giờ nghĩ
lại anh rất ân hận. Đời đã dồn đuổi cô ấy phải làm vợ một thằng như anh.

Hạ an ủi:

- Anh đừng tự giày vò mình nữa. Dẫu sao đã qua một thời, một kiếp người.

Hạ hỏi tiếp:

- Còn vợ con anh trong quê thế nào?

Giọng rầu rầu, anh ấy bảo:

- Vợ lấy sĩ quan ngụy. Con đi lính ngụy chết trận ở Đắk Lắc. Anh chỉ còn gia đình ở ngoài này.

Hạ ngậm ngùi thương anh. Anh vào cửa nhà này là trái cách. Dường như anh là chủ vừa không phải
là chủ.

Hạ đứng lặng trước bàn thờ nhìn Quế Hoa một lúc lâu. Ôi Quế Hoa, người bạn học, một thời ngồi
cùng bàn với Hạ. Nó kín như bưng. Chẳng bao giờ tâm sự, cười đùa với ai. Cái sự kín đáo, lạnh lùng
càng khiến Quế Hoa đẹp một cách đoan trang cao quý. Hạ rút ba nén hương ở thẻ khác. Châm tiếp.
Hạ nhắm mắt thầm thì: "Quế Hoa ơi, bạn biệt vô âm tín từ bấy đến nay suốt mấy chục năm trời. Nay
âm dương đôi ngả mới lại thấy nhau!". Khi Hạ mở mắt vái từ biệt Quế Hoa thì cả ba nén nhang đều
tắt tự lúc nào. Hạ bảo:

- Chắc cái Hoa không đồng ý cho mình lấy chồng nó, không muốn cho mình bước vào cửa nhà nó.

Tôi gật đầu:

- Có thể.

Hạ đỏ mặt bảo:

- Nó không muốn mình làm bạn với chồng nó còn có lý. Chứ không muốn cho mình bước vào cửa nhà
nó thì vô lý quá. Chắc gì mình đã đến nhà nó để phải hầu chồng, hầu con cháu nó. Rồi cả hương khói
thường ngày hầu nó nữa, còn lâu nhé.

Tôi hỏi:

- Thế Hạ có xin phép Quế Hoa để được làm vợ chồng nó không?

Gương mặt Hạ chợt đỏ gay gắt tới mang tai:

- Ơ hay. Việc gì mình phải xin nó chứ. Mình thương nó, kính trọng cốt cách nó chứ mình không phải
lụy nó, đúng không?

Tôi gật đầu. Một lát sau mới nói:

- Nhưng với thằng Hiến và cái Hiền, Hạ phải hỏi ý các con đấy.

Hạ bảo:

- Mình đang phân vân. Sợ chúng nó đi lại tốn kém, mất thời gian. Viết thư hoặc gọi điện cho chúng nó
có được không?

- Không được. Phải gọi chúng nó về. Việc lớn như thế, không thể qua loa được.

- Mình sẽ nghe bạn gọi chúng nó về. Còn bạn có ủng hộ mình không?

- Mình có ủng hộ một ngàn lần cũng chẳng có nghĩa lý gì. Phải có ý kiến của thằng Hiến.

- Được. Mình về đây. Bạn đừng tiễn nhé. Sợ anh ấy ngượng.

Tôi định bảo, lão vờ vịt đấy. Đã ngoại thất thập rồi còn ngượng cái gì. Sau chợt thấy mình thực sỗ
sàng. Tình yêu dù trẻ hay già đều giống nhau cả. Tôi lặng lẽ tiễn Hạ ra cổng ngõ.

Hạ đi rồi, tôi bâng khuâng ở mảnh sân nhỏ nhà mình một hồi lâu. Tôi vốn cảm phục Hạ. Bây giờ lại
thấy thương Hạ nhiều. Hạ không đẹp nhưng nền nã, thẳng thắn. Hạ yêu sớm. Yêu mỗi anh người
cùng làng, cao to đẹp trai như phi công. Anh học trên Hạ hai lớp. Hết lớp 10 Hạ cưới luôn. Cưới giữa
mùa hè nóng nực. Ở quê nhà chưa có điện, ai nấy nhễ nhại mồ hôi.

Bố Hạ bảo, con gái học thế là cao rồi. Lấy chồng đi để yên bề gia thất. Gia đình nhà chồng xin cho Hạ
vào làm kế toán ở cửa hàng bách hóa thị xã. Hạ cưới mùa hè năm trước, tháng giêng năm sau đã có
con đầu lòng. Một năm sau lại đẻ tiếp. Ngoài hai mươi tuổi đã con bế con bồng. Cực nhọc, vất vả,
nhưng vui. Hết mẹ chồng đến mẹ đẻ thay nhau trông cháu. Khi đi kèm theo nào gạo ngon, nào rau
dưa. Do vậy Hạ cũng đỡ phần vất vả.

Chồng Hạ học hết đại học về công tác ở Hải Phòng. Anh chàng léng phéng luôn với một cô cùng cơ
quan, con ông giám đốc. Cô ta xinh đẹp hơn Hạ nhiều. Nàng ta ở cữ Hạ mới biết tin. Hạ sôi sục căm
hờn. Tức giận, căm hờn đến lú lẫn, Hạ xách theo can xăng ba lít, bọc vào bao tải dứa. Hạ đi tàu suốt
đêm. Sáng bảnh mắt thì đến Hải Phòng.

Thành phố trong chiến tranh xơ xác những bụi là bụi. Hạ đưa địa chỉ cần đến cho bác xích lô già. Ông
lão xem xong, bảo, được được, tôi đưa cô đến tận nơi.

Thằng ngô đã nhanh chân trốn đi đâu mất, hoặc lúc ấy không có nhà. Cô ả nhanh trí, khôn ngoan đến
mức Hạ không tưởng tượng nổi. Dường như linh cảm thấy chuyện chẳng lành, ả đang nằm với con,
vội vùng dậy hỏi:

- Chị hỏi ai?

Nhìn thấy ả, Hạ uất tận cổ. Hạ muốn túm lấy tóc ả dầm đầu ả xuống mà đánh mà xé rồi đổ xăng đốt
cho hả cơn giận, cơn đau. Tiếc thay, vẫn thiếu mất thằng chồng phản bội. Mặt lạnh tanh, Hạ hỏi:

- Chồng cô đâu?

- Để tôi đi gọi.

Miệng nói chân bước, thoắt một cái, ả đã biến mất tăm. Hạ ngồi chờ. Chờ mãi. Con bé thức dậy tè
một bãi, khóc ngằn ngặt. Hạ ôm lấy nó, nhét vú vào mồm nó, nó không bú. Nó cứ uốn cong người
khóc tím tái da thịt.

Hạ núng thế, sợ con gái đất Cảng. Người ta bảo: "Hải Phòng là đất giang hồ/ Có sông thì lấp, có đồ
thì sơn" thật chẳng sai. Hạ bế con sang hàng xóm tìm mẹ nó. Đi liền cả mấy nhà không thấy. Hạ xấu
hổ muốn chui xuống đất. Một bà béo, thấp bằng ba cái phích, bảo:

- Cô đưa con bé đây cho tôi. Cô ngược Hà Nội đi kẻo lỡ tàu. Cô còn ở đây thì đến đêm nó cũng
chẳng dám về.

Hạ đưa con bé cho bà béo, xách can xăng ra đường đổ xuống rãnh. Rồi vứt luôn cả can, cả tải. Mỗi
lần nhớ lại Hạ vẫn buồn cười, thấy mình giận quá mất khôn. Thoắt cái đã hơn bốn mươi năm. Hơn
bốn mươi năm, Hạ ly dị chồng, ai can khuyên, Hạ đều không nghe.

Bốn mươi năm vò võ nuôi hai con khôn lớn, học hành đến nơi, đến chốn. Rồi dựng vợ, gả chồng cho
chúng. Rồi nuôi dạy các cháu. Chả hề có điều tiếng gì. Làm người phụ nữ không chồng đang thì sinh
nở thật khó, thật khổ.

Hạ đã tưởng mình giữ được danh tiết đến trọn đời. Bà con hàng phố thường lấy Hạ làm tấm gương
răn dạy con cháu. Nào ngờ...

Từ khi vướng vào anh ấy, Hạ không dám ngẩng mặt nhìn ai. Vợ chồng nhà Toàn không khiến Hạ
đưa, đón con nó nữa. Người hàng phố thường tránh Hạ. Hạ thấy ê chề quá. Nhiều lần Hạ đuổi anh
ấy về. Hạ van xin anh ấy đừng đến nhà Hạ nữa.

Anh ấy không nghe. Anh ấy quỳ xuống xin cầu hôn với Hạ. Anh ấy bảo, họ định kiến thôi. Chúng ta
chả có gì xấu. Chúng ta là người tự do, người cô đơn. Chúng ta có quyền được yêu nhau, lấy nhau.
Hạ cứ nhận lời lấy anh là xong hết. Là xóa hết tất cả cái đám khói hơi cay khiến Hạ sổ mũi hắt hơi, đỏ
mắt, bực mình. Hạ bảo, nói như anh. Sự đời đâu có đơn giản thế. Nhưng suy cho cùng việc đã đến
nước này, Hạ đành nhắm mắt đưa chân vậy...
Cuộc họp của ba mẹ con Hạ diễn ra ngay sau khi các con vừa ở sân bay Nội Bài về đến nhà.

Thằng Hiến hỏi luôn:

- Mẹ định lấy chồng à?

Con Hiền ôm lấy mẹ nức nở:

- Mẹ ơi, gần trọn kiếp người mẹ đã hy sinh vì chúng con. Bây giờ còn một chút cuối đời, ý mẹ muốn
thế nào anh em con đều theo ý mẹ.

Thằng Hiến ngồi chết lặng. Hai dòng nước mắt chảy trên gò má. Một lát sau mới nói:

- Suốt đời mẹ đói khổ, vất vả vì chúng con. Mẹ không phải làm ôsin cao cấp cho ai nữa. Mẹ muốn yêu
ai, kết bạn với ai chúng con cũng đồng ý. Mẹ có thể mời họ về nhà mình ở cho vui, cho đỡ cô đơn.

Hạ nghẹn ngào:

- Mẹ cảm ơn các con đã cảm thông với mẹ. Sống như Hiến nói, mẹ sợ người ta dị nghị, khinh bỉ

Hiến đứng phắt dạy, lấy tay áo quệt khô hai dòng nước mắt. Giọng Hiến đanh lại:

- Mẹ đừng tưởng mẹ lấy chồng thì không còn bị dị nghị nữa. Mẹ lầm rồi. Mẹ không phải lo nghĩ nhiều.
Mẹ không phải sợ ai, vì ai nữa. Mẹ hãy sống vì mẹ, cho mẹ.

Đột ngột cái Hiền òa lên, nói trong tiếng nấc

- Mẹ hãy sống vì mẹ đi.

6.Nhan sắc đàn bà

Thì ra, bong bóng bay, bong bóng vỡ, ta thành người cao tuổi rồi đó, nhưng đàn ông cuối cùng cũng
vẫn là đàn ông. Họ cũng chải chuốt, tơ tuốt trước Khanh. Nhìn Khanh, cái nhìn xuyên thấu, họ chỉ
thấy cái cơ thể đàn bà tuyệt mỹ của nàng. Họ chỉ thấy cái đẹp lồ lộ tính sinh học mấp mé bên bờ cơn
bùng nổ của nàng!

Nếu nói phụ nữ đẹp trước hết ở vóc hình thì về mặt này, Khanh vượt trội hơn người vì sự cân đối và
những đường nét ở vai, sườn, eo hông bập bùng, uốn lượn vô cùng gợi cảm. Khuôn ngực nàng nở
nang vừa độ. Gương mặt nàng tràn đầy ánh thần quang nhờ vầng trán sáng láng và đường nét sống
mũi cong ở phần trên. Đôi môi nhỏ của nàng gây ấn tượng vì nét cười dịu dàng, vì chấm nốt ruồi nâu
ở khoé miệng bên trái. Và nhất là đôi mắt lớn, đuôi nhọn, hơi xếch chéo như chiếc lá đào, với cặp
nhãn cầu phảng phất một sắc lam xanh, màu của núi rừng.

Khanh đẹp theo chuẩn mực giới tính, nhưng nàng vẫn là lạ trong con mắt đàn ông. Nhan sắc nàng
thấp thoáng vẻ sơn lâm hoang dã. "Em, đóa hoa rừng tự nở, tự tỏa hương". Đó là câu thơ của một
anh giáo tặng nàng hồi nàng mười sáu tuổi, học lớp mười. Nhìn nàng, ta nghĩ đến nơi sinh ra nàng ắt
phải là miền sơn cước, nước non cẩm tú.

Thì quả nhiên, nếu đất nước Vênêduyêla có nhiệm vụ sinh ra những hoa hậu cỡ thế giới, thì Tuyên
Quang tỉnh miền rừng, chính là quê nàng, vùng đất phong thủy hữu tình mỹ lệ vốn từ lâu đã được
mệnh danh là miền gái đẹp. Nàng là con của một người đàn ông dân tộc Kinh buôn bè trên sông Lô
và một người phụ nữ Tày làm thợ rừng.

Hai mươi tuổi, rời quê hương, sau khi tốt nghiệp trường trung cấp kế toán, Khanh đến làm việc trong
một xí nghiệp cơ khí ở một tỉnh trung du. Miền đất bán sơn địa với đồi chè, đồi cọ trập trùng và giếng
nước đá ong trong suốt, và cái đơn vị sản xuất công nghiệp già nua này đón Khanh niềm nở, như để
bổ sung cho vẻ đẹp không nhiều nhặn gì cho lắm của mình.

Thì ra cái Xí nghiệp cơ khí tiếng là chuyên sản xuất các công cụ tinh xảo này, đặc biệt là con heo dầu,
một chi tiết quan trọng trong động cơ máy nổ, chỉ là một tổ hợp những máy móc lâu đời, cổ lỗ sĩ và
thành viên của nó thì gồm toàn các bác thợ bậc cao, những bàn tay vàng, đã yên bề gia thất, vợ con
đề huề, Khanh gọi họ là chú, là bác, kể cả ông Khoản lùn, quản đốc, trẻ nhất, mới bốn mươi. Con
người cao một mét rưỡi này hóa ra là kẻ si tình; trong vòng chưa đầy tuần lễ ông đã bị sắc đẹp của
Khanh hút hồn. "Khanh à, em là niềm vui và cũng là nỗi buồn của tôi". Câu nói hàm súc này được viết
nắn nót trong một lá thư nhỏ ông bỏ trộm vào túi áo bảo hộ của Khanh khi nàng tắm.

Trong khi đó, không văn hoa như ông quản đốc, bộc trực và thô mãng, các bác thợ cao tuổi gặp
Khanh, bất cứ lúc nào cũng có thể nửa đùa nửa thật, toang toang: "Khanh à, cháu là con heo dầu quý
giá đó. Chú mà có vợ như cháu, chú bắt nó ở nhà để ngắm nghía suốt ngày".Nghe là lạ, Khanh cười,
hỏi lại thì được đáp rằng: "Ngắm cũng no rồi, việc gì phải ăn nữa!". Chà! Thì ra, bong bóng bay, bong
bóng vỡ, ta thành người cao tuổi rồi đó, nhưng đàn ông cuối cùng cũng vẫn là đàn ông. Họ cũng chải
chuốt, tơ tuốt trước Khanh. Nhìn Khanh, cái nhìn xuyên thấu, họ chỉ thấy cái cơ thể đàn bà tuyệt mỹ
của nàng. Họ chỉ thấy cái đẹp lồ lộ tính sinh học mấp mé bên bờ cơn bùng nổ của nàng!

Mà nàng "bùng nổ" thật. Sau cái ôm choàng riết róng và bàn tay sờ soạng khám phá, ráo riết của
Khuân, nàng đã không còn là nàng. Nàng lên cơn sốt, nàng biến thành lửa, thành than ngàn độ trong
lò. Khuân ở đội bóng chuyền của Xí nghiệp May mặc trong vùng sang đấu giao hữu với đội bóng Xí
nghiệp Cơ khí của Khanh. Tặng hoa là tặng chung cho các cầu thủ, chứ Khanh đâu có tặng riêng cho
y, mà y đã nhấp nháy đầu mày cuối mắt với Khanh và ngay sau khi tan cuộc, đã phát sinh ra một cuộc
hẹn hò. Ôi, những cuộc hẹn hò trai gái phấp phỏng nỗi e ngại bị dẫn dụ và dạt dào cảm hứng tò mò
hồi hộp, chen lẫn lo âu... Khuân trong chốc lát đã tỏa nhiệt nóng rẫy, y phát hỏa như cỗ máy vận hành
càng lúc càng rộn rực mưu mô rắp tâm chiếm hữu nàng.

Y hít hà đánh hơi cơ thể nàng, mùi vị ở môi nàng, gáy nàng, cổ nàng, nách nàng. Bàn tay y sục sạo
eo sườn, ngực nàng, đùi vế nàng. "Cho anh đi!" - Y nôn nóng giục giã. Y kêu khan khan rằng y đang
rất thèm nàng và nàng thì ngay lập tức đã rùng mình sợ hãi khi nghe hắn thì thào nôn nả bên tai mình
rằng, hắn nhất quyết sẽ "ăn thịt" nàng ngay trong đêm nay, mà không phải chỉ "ăn thịt" nàng có một
lần!

Chao ôi! Quan hệ đàn ông đàn bà là thế đấy. Lần đầu tiên Khanh nhận ra thân thể mình là đối tượng
để đàn ông mê say, thèm muốn. Nhận ra đang bị kẻ rắp ranh chiếm đoạt bóc tách dần ra khỏi lớp áo
quần, Khanh thấy mệt lả, mềm nhũn. Tiếp đó nàng có cảm giác được thức tỉnh, khắp người rực lên
niềm ham muốn được đồng lõa với kẻ đang ôm ấp mình.

Rất may, lúc đó cảm xúc đã không đi hết tầm. Vì tính xấu hổ cố hữu của nữ giới. Vì chút thánh thiện
của con gái miền sơn cước. Và cũng vì bài học đầu tiên về quan hệ tình dục giữa nam và nữ tuy vô
cùng hấp dẫn đấy nhưng cũng còn quá mới lạ và chứa đầy nguy biến. Nhập môn bao giờ cũng là bài
học khó. Thêm nữa, Khuân quá ham hố và thô lỗ. Y khiến nàng nhớ đến những tấm gương về sự lỡ
làng của đàn bà. Vả lại, lúc ấy ở các lối đi trong công viên, vẫn lảng vảng mấy bóng công an đi tuần.
Họ mà bắt được, tư giấy về xí nghiệp thì Khanh còn mặt mũi nào mà nhìn mọi người!

Tuy vậy, ngọn lửa đã khơi. Đất hoang đã được khai phá. Huống hồ đam mê được đánh thức này
mang bản chất mãnh liệt hơn hẳn các đam mê khác. Ngày của nàng trôi đi trong mong mỏi đêm buông
để nàng được gặp gỡ với cơn hám dục nồng nã vừa đáng sợ vừa ham thích của Khuân. May cho
nàng bản năng hoang hóa nào thì cũng chứa đựng ở bên trong nó một sức chế ngự khôn ngoan.
"Không được đâu! Đợi đến đêm tân hôn, em cho anh tất. Của anh tất cả mà!". Mặc cho Khuân nồng
nã đòi hỏi, bầy đủ trò dụ dỗ và ngấu nghiến vầy vò, kích động, cặp mắt đuôi nhọn của nàng vẫn cứ
xếch chéo dữ dằn, nàng kiên quyết không nhân nhượng ở bước lui cuối cùng.
Buồn thay, như đường đi trên mặt đất, cuộc sống luôn có những khúc ngoặt bất ngờ. Chiều ấy, môi
Khanh đang tung tăng câu hát mừng hạnh phúc lứa đôi, tay đang hý hoáy trên xấp thiếp mời đám
cưới để gửi đi thì có hai người đại úy công an đến tìm nàng.

- Cô có quan hệ thế nào với ông Khuân?

- Dạ, tôi và anh ấy sắp thành vợ chồng với nhau.

Khanh đáp ngập ngừng, run rẩy. Lần đầu tiên nàng nhận ra ái tình ngọt ngào, mê đắm vậy mà cũng
vẫn có thể chập chờn sự phiêu lưu mạo hiểm.

- Cô quen ông Khuân lâu chưa?

- Dạ, đã hai tháng rồi ạ.

- Cô có biết là ông Khuân đã có vợ rồi không?

Trời! Xấp thiếp mời chất cao trên bàn đổ nghiêng, rơi lả tả xuống đất. Khanh run đến từng chân tóc.
Giọng nói của người công an nhiễm vẻ trách cứ. Khanh đã nhẹ dạ, cả tin. Không, còn hơn nữa.
Khanh đã u mê, dại dột. Không, còn hơn nữa. Nàng đã phạm tội. Nàng là kẻ đồng lõa với tên sát
nhân. Khuân, vị hôn phu của Khanh, đã bị bắt. Rắp tâm lấy nàng làm vợ, đắm đuối vì nàng, trước đó,
y đã nổi dã tâm, đã giết hại người vợ bằng độc dược thạch tín!

Khuân bị kết án tử hình!

Khi nghe ông chánh án đọc lời tuyên phạt, y vãi đái ra quần.

Khanh vô can, nhưng dự phiên tòa trong tư cách một nhân chứng, nàng suýt ngất vì kinh sợ. Khai
trước Tòa, Khuân thừa nhận Khanh không biết y đã có vợ; Khanh không xui y giết vợ, nhưng đã có
lần Khanh nói: Nàng quyết giữ ái tình độc quyền với y. Và đó là lý do gián tiếp thúc đẩy y nhẫn tâm
giết vợ? Về tình tiết này, khi tòa hỏi nàng đáp rằng, nàng không thể nhớ là nàng có nói câu đó hay
không. Vì mỗi lần gặp Khuân, nàng đều sống trong mê dại, lú lẫn.

Ghê gớm quá cạm bẫy của đàn ông háo sắc! Kết luận của tòa thật công bằng. Khanh không phải chia
sẻ trách nhiệm với tội sát nhân này. Chỉ tiếc, kết luận của tòa án chỉ là kết luận của các vị quan tòa
trên giấy trắng mực đen. Còn trong dư luận, thì ngay ở phiên tòa, đã có người lên tiếng hô hoán phản
đối. Họ gọi nàng là con điếm, là đồ đĩ thõa, là con yêu nữ giết người. Họ bảo: Nàng là một sắc đẹp
đàn bà nguy hiểm. Cứ nhìn mắt nàng sắc như mũi dao thì biết. Xem ra, nàng bị căm ghét và khinh bỉ
chẳng kém gì tên đàn ông đã gây ra cái chết cho vợ y. Thậm chí, có người còn lột guốc dép, từ chỗ
cử tọa phiên tòa, nhảy lên, định bổ vào mặt nàng, đòi xử tội nàng, may mà có công an ra tay ngăn cản

Ba năm hay ba mươi năm đã trôi qua, kể từ vụ án kinh động nhân gian? Không rõ. Khanh chỉ nhớ đó
là những ngày nối ngày triền miên trong giằng xé đau buồn. Đó là những đêm nối đêm trương căng
tinh thần và thể xác. Cú đòn đầu đời chưa gây tử vong nhưng đủ làm xiêu lệch cả đời người rồi còn
gì!

Có một bà cụ không quen biết, dự phiên tòa xong, lẽo đẽo đi theo nàng, rồi từ đó thi thoảng lại như
Bụt, như Tiên hiện ra, gặp nàng nhắc nhở nàng rằng, nàng hãy bảo trọng sức khỏe, hãy phòng bị cẩn
thận bản thân; thấy ai đến gần thì lánh ra; đang đi, nghe tiếng người gọi, chớ quay lại; phần nữa,
cũng cần năng lên chùa thắp hương cầu xin đức Phật độ trì; vì nàng có nhiều kẻ thù đấy.

Mẹ nàng nghe tin dữ, tức tốc về gặp nàng. Bà đem đến cho nàng một con gà trống choai. Bà nuôi nó
chín ngày chín đêm dưới gậm giường nàng rồi đem cúng giải oan cho nàng. Oan hồn người xấu số
sẽ còn theo đuổi nàng, cản trở nàng, không cho nàng sống hạnh phúc đâu. Mẹ nàng nói vậy. Rồi bà
khóc: "Con ơi, nếu con cứ ở nơi rừng núi bản quê mình thì đâu có chuyện đau thương hãi hùng này!".

Kinh sợ quá là tai bay vạ gió đầu đời con gái và nỗi bẽ bàng sợ hãi đeo đẳng của con chim đã đậu
phải cành cây cong. Thời gian đi bên nàng lúc này chậm lê thê và rỗng từng giây từng phút, nó chẳng
chứa đựng gì hết, ngoại trừ tâm trạng nàng, cả vẻ ngơ ngác lẫn nỗi hoang mang. Chao ôi! Chả lẽ
nhan sắc trời cho của nàng lại làm nên tội lỗi và cái đẹp nào cũng chứa bên trong nó thói hư thân.
Đàn bà đẹp là đàn bà hư thân. Cái nhìn của những người chung quanh Khanh ác nghiệt quá, nó
muốn nói vậy đấy.

Giờ thì Khanh đã vào tuổi bốn mươi. Vẻ đẹp ở vóc hình, ở gương mặt phảng phất hương sắc sơn nữ
chốn lâm tuyền của nàng đã đến lúc tạo hóa lại như muốn rắp ranh lấy đi rồi. Không cưỡng lại được
thời gian là làn da cổ xưa nuột nà như cái cọng hoa giờ đã bắt đầu nhăn nheo và mu bàn tay ngọc
ngà của nàng giờ đã mất hẳn đi vẻ mịn màng. Trên trán nàng những chớp lửa của cơn giông bão trái
tim đã để lại đường nét những tĩnh mạch xanh mờ. Tai ác, đời người con gái ngắn ngủi không đủ cho
một lần vấp váp. Giờ, nàng như một đống lửa đã bị dội nước hoang tàn, nguội lạnh. Nàng là sản
phẩm của một cơn chấn thương não nề!

Xung quanh Khanh giờ đây là một vùng trống trải. Trước mặt Khanh, các bậc cha chú cũng chẳng
cần giữ gìn ý tứ nữa. Họ thoải mái bàn chuyện quan hệ sinh lý đàn ông đàn bà. Khoe khoang với
nhau đã từng sờ mó ả này, làm tình đủ kiểu với cô kia, toàn những gái đẹp nõn nường xứ này, xứ nọ,
chẳng ông nào chịu tỏ ra mình là tay chơi gái kém sành điệu cả. Tệ khẩu dâm của họ tha hồ phát
triển, cơ hồ như để bổ sung cho khoảng trống hụt tuổi tác và theo ý nghĩ của Khanh, cũng lại là cách
họ biểu lộ thái độ trêu trọc và khinh nhờn với Khanh.

Chẳng còn nâng niu trân trọng nữa, tất nhiên, cả xa xôi bóng gió nữa cũng không nốt, giờ các ông
sẵn sàng đóng vai gã đàn ông hư thân mất nết, suồng sã, trắng trợn trong mỗi cử chỉ và trong mọi lúc
hành ngôn với Khanh: "Ơ, con này vú ví xổng xểnh cũng còn khá nhỉ!". "Khanh ơi, hay là mày làm vợ
hai chú cho xong chuyện đời đi!". Khanh vừa làm việc vừa nghe các chú các bác đùa cợt sàm sỡ mà
dửng dưng. Nàng như một thực thể đã ở ngoài vòng sinh tỏa của đời sống. Không một hành vi trần
tục nào gây được xao động trong cõi lòng nàng nữa rồi!

Nhưng, một ngày kia, một hãn hữu trần tục bất ngờ tới và Khanh thấy không còn có thể dửng dưng.
Ông Khoản lùn, quản đốc phân xưởng, kẻ cách đây hơn hai mươi năm đã bỏ trộm lá thư bộc lộ tấm
tình si của mình vào áo Khanh lúc nàng tắm, ngỏ lời cầu hôn với nàng. Ông run từng ngón tay, như
người mắc chứng parkinson, khi phải chuyển đổi ngôi thứ xưng hô từ "chú" - "cháu" "sang tôi" "cô".
Vợ ông mất đã mười năm. Ông bị xuất huyết não thể nhẹ, sau sáu tháng nằm liệt, giờ đã đi lại được,
nói được, tuy còn hơi ngọng.

Khanh kể cho tôi nghe sự việc này. Tim đập dồn, mặt lấm tấm đỏ, tôi cảm thấy bị xúc phạm. Sao ông
Khoản lùn lại có thể nghĩ ra một cuộc hôn nhân kỳ quặc như thế! Tuy nhiên, tôi còn bị bất ngờ hơn. Vì
khi tôi hỏi lại Khanh, xem ý nàng thế nào trước lời cầu hôn của ông quản đốc nọ, thì nàng tặc lưỡi,
quay đi, mắt ầng ậng nước: "Mẹ em nói: Nam đại bất hạnh nhi phú, nữ đại bất hạnh nhi sắc, anh à".

Ông quản đốc lùn ốm yếu làm mâm cơm xin phép vong linh bà cả, kính cáo với tổ tiên, mời các bạn
cùng xí nghiệp đến mừng cuộc ghép đôi của ông với Khanh. Tình yêu không có, tình dục cũng không,
ông quản đốc thú nhận vậy. Ông không còn đủ sức để khám phá ra sự trinh thuần của Khanh, để làm
chứng cho sự trong sạch tuyệt đối của nàng; ông nói, văn bản chứng nhận cuộc hôn nhân ghép đôi
này ghi rõ: Hai người chỉ là bạn và không có quan hệ gì về tài sản, con cái!

Bữa tiệc vui không khí bạn bè!


Mọi người nâng cốc chúc mừng ông Khoản, cầu được ước thấy, chỉ tiếc là đã quá muộn màng. Cũng
có người ghé tai ông, nửa đùa nửa thật nói rằng: "Đêm đêm ôm cô vợ trẻ, đẹp thế, khác chi ôm cái
quan tài". Ông cười xua xua tay: "Đến đi còn chưa vững đây. Khoản này không có khoản mục ấy
đâu!".

Ba người con trai con gái lớn lộc ngộc, không rõ thừa kế gien di truyền nào mà cao gấp rưỡi bố, đón
nhận người vợ kế của cha chúng chẳng mặn mà gì, mặc dầu chúng hiểu rất rõ chân lý dân gian: Con
nuôi cha không bằng bà nuôi ông. Chúng ngấm ngầm ghen tức với người dì ghẻ về mọi phương diện.
Riêng Khanh, nàng mừng ít, lo nhiều.

Cuối cùng, điều Khanh lo lắng đã tới. Hơn một năm sau nàng đứng chủ trì đám tang ông Khoản. Lần
xuất huyết não thứ hai do một cú ngã bất ngờ từ trên giường xuống đất đã đánh dấu chấm hết cuộc
đời hơn sáu mươi năm của ông. Ba đứa con ông quản đốc vốn đã không ưa gì Khanh, giờ cùng chỉ
mặt Khanh, đồng thanh: "Bà là kẻ sát phu có truyền thống. Vì bà mà bố tôi chết sớm vậy!". Và yêu cầu
Khanh ra khỏi nhà họ như văn bản đã giao kèo.

Cái nét thiên tài của truyện ngắn là sức chứa của nó tương đương với dung lượng của cả một cuốn
tiểu thuyết. Thế đó, cái không thể ngờ là trong một nhan sắc đàn bà lại chứa đựng cả một kiếp người
với đầy đủ các cung bậc, thời đoạn ái tình. Vì hoá ra, đời Khanh không chỉ có thời kỳ yêu đương trần
tục và tình ái ghép đôi. Nàng đã sống trọn vẹn một cuộc đời. Nàng còn có một thời kỳ yêu đương trẻ
trung thơ dại và bay bổng kéo dài từ lúc nàng mười sáu tuổi là nữ sinh lớp mười ở trường trung học
huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang, rồi nung nấu âm thầm cho đến khi đột ngột rơi vào cơn đắm
đuối muộn mằn, lúc nàng vừa mãn tang ông Khoản chồng nàng.

Người đàn ông yêu si mê nàng, một tình yêu không tháng ngày, không tuổi tác, thuần khiết, bây giờ
mới có được cơ hội để bộc lộ. Đó là anh giáo đã dạy nàng, một nhà thơ, người đã tặng nàng câu thơ
vừa dẫn ở đầu câu chuyện. Ông là tác giả không ít bài thơ tình lặng lẽ viết cho Khanh mà bây giờ đọc
nó Khanh mới hiểu được nguồn cơn. Bài thơ cuối cùng gần đây tặng Khanh là bài thơ ông dịch của
Béctôn Brếch:

Bàn tay mùa thu êm dịu quá.


Miệng em cười ấm áp tháng ngày đông.
Đôi mắt em trời tháng chín gương trong
Soi thấu lòng anh, mang hình em lặng lẽ.

Anh luôn luôn khám phá ở nơi em


Những cái mới như buổi đầu chớm hé
Mắt em, môi em, bàn tay em nhỏ bé
Và cái chấm màu nâu phía bên trái miệng cười.
Em là nơi không ngủ của hồn anh

7. Gã chồng hờ

Nắng nổ đom đóm. Con đường trong chung cư tịnh không một bóng người, bóng chim, không một
tiếng rao quà trưa. Lũ ve say nắng lịm đi trong những lùm cây im phắc. Lá xanh lả xuống trong nắng
trưa ngột ngạt.

Nàng vừa ra khỏi căn phòng mát lạnh, thơm mùi son phấn. Còn đang bàng hoàng bởi những lời ca
thất tình váng vất bên tai, bởi mấy tờ giấy bạc mới tinh vừa kiếm được cài dưới lần coóc-xê màu cánh
sen, thì bỗng xoẹt một cái - giống như tiếng sét oái oăm giữa vòm trời xanh biếc, không một gợn mây -
Một chiếc Môkích đỏ, sơn tróc loang lổ, lao lên hè, đỗ xịch ngay trước ngực nàng.
- Tiên sư con đĩ, tao biết ngay là mày lại đi mà. Mày còn đứng đực ra đấy à? Nâng đít xe lên cho bố
mày!

Không nói một lời, nàng lẳng lặng và thành thạo nâng đít chiếc xe xù xì, nóng rẫy, đuôi xe buộc mấy
bao tải gai cao vượt mặt, mà nàng biết bên trong toàn cua đồng.

Phựt - chiếc xe được chống lên và liền sau đó, nhanh như cắt, một cú đấm phóng thẳng vào bụng
nàng, kèm theo những tiếng chửi tục tĩu:

- Con mẹ mày, tao đã bảo rồi. Nếu mày định làm đĩ nữa thì để tao ở nhà, giờ này tao đi đánh tá lả.
Tao đi mấy chục cây số mua cua về cho mày bán, về đến nhà mày đã khóa cửa đi làm đĩ mất rồi. Tao
biết ngay là mày lại mò đến đây mà!

Liền ngay sau những câu chửi là hai cú ra đòn nữa, đều vào bụng. Hai cú đánh mạnh đến nỗi, nàng
cúi gập người xuống, tay ôm chặt lấy bụng. Lạ lùng thay, giữa cao xanh trưa hè im lìm ấy, chỉ có lời
độc thoại của gã đàn ông, còn nàng lẳng lặng chịu đòn, lẳng lặng làm theo mệnh lệnh khô khốc của
gã mà không hề mảy may cất lên một tiếng kêu rên nào.

- Mẹ mày! Đứng thẳng dậy, nâng xe lên, tao chở cua cho mày ra chợ. Mà mày phải bán bằng hết số
cua này rồi mang tiền về cho bố mày!

Sau bao nhiêu cú đạp chồn chân mà chiếc xe cà khổ vẫn không nổ được máy.

- Mày còn đứng đực mãi đấy à? Đẩy xe cho bố mày!

Lẳng lặng, nhẫn nhục và ngoan ngoãn như một con chó mắc lỗi vừa bị ăn đòn, nàng rướn người đẩy
xe, cho đến khi nó phụt ra làn khói đen xì, lăn bánh về cuối chợ cóc trong chung cư, chỉ cách đấy vài
trăm bước chân...

Chứng kiến một cách ngạc nhiên, kinh hoàng và nín lặng màn thảm kịch khốc liệt ấy chỉ có một bà
giáo đã về hưu. Bà đang hái nắm lá bưởi trong mảnh vườn nhỏ của người quen để đến tối hơ nóng
chườm cho ông lão nhà bà...

Ấn tượng của ai khi gặp nàng, dù thoáng một lần, đều sửng sốt: Nàng đẹp - một vẻ đẹp vừa nhu mì,
dịu dàng, vừa mơn man ve vuốt, vừa mơn mởn lồ lộ, khiến những người đàn ông thực khó ai cầm
lòng.

Mười chín tuổi, bứt ra khỏi cái thị xã ven biển buồn tẻ, quanh năm chói chang những ruộng muối và
sóng biển lóa mắt, bước ra khỏi những giọt mồ hôi, những giọt nước mắt khốn khó như muôn ngàn
hạt muối biển lao xao dưới chân; bứt khỏi sự yêu thương, hy vọng đến ngẩn ngơ của mấy ông thầy
giáo trẻ trong trường; bứt khỏi ngôi nhà xây bằng bao viên gạch xỉ than, vôi trộn lẫn mồ hôi của cha
mẹ, của các em và của chính nàng nữa, nàng ra đi. Hành trang nàng mang đi chỉ vỏn vẹn là một chiếc
túi du lịch đỏ cạch, in nhãn quảng cáo của hãng Coca-cola. Trong túi duy nhất chỉ một bộ quần áo
lành lặn để thay đổi, một bộ sách lớp 12, một quyển sổ tay dày cộp, chan chứa những lời yêu thương
của bao chàng trai mới lớn, cùng trường, cùng lớp, của mấy ông thầy giáo vừa khụng khiệng, vừa
kiêu ngạo, vừa bất lực rụt rè trước những biến đổi và đòi hỏi ngày càng dữ dằn, khốc liệt, không
khoan nhượng của đời sống đang được thị trường hóa...

Và, cất sâu trong túi trước của chiếc quần bò thoáng vệt sờn mỏng, bó chặt hông, chặt đùi nàng, là
nguyên liệu chính để vận hành chuyến đi đầy định mệnh, thấp thỏm và gập ghềnh bao nỗi đoạn
trường: Số tiền hơn một triệu nàng vừa dành dụm, vừa vay mượn được. Nàng ra thành phố với cái lý
do theo đuổi cuộc thi vào giảng đường đại học.
*

Mong ngóng mấy buổi liền không thấy nàng bán hàng, bà giáo bỗng gặp nàng tay xách vài cân gạo,
tay xách vài bìa đậu mớ rau, dáng vẻ tong teo thiếu thốn. Bà vồn vã ân cần:

- Này con gái, dạo này sao không thấy bán cua bán cá gì cả. Gớm, cua đắt như tôm tươi thế, sao lại
bỏ chợ, bỏ khách?

- Họ đuổi ghê quá bà ạ. Mà cháu đang ốm, không thể chạy được từ đầu chợ đến cuối chợ để tránh
như mọi khi. Hôm nọ cháu bị họ thu cả một tải cua với cái cân, không lại được đâu bác ạ.

- Khó gì đâu cơ chứ, cứ chạy chợ đi, không thì lấy gì mà sống. Lúc nào họ đuổi gắt quá cứ đến cổng
nhà tôi mà ngồi, tôi mở một bên cổng, cho cô ngồi ké vào đấy, nửa trong nửa ngoài, chẳng ảnh
hưởng gì đến tôi mà cũng không lấn chiếm vỉa hè của ai cả. Thôi cứ thế nhé, cô đi chợ đi cho chúng
tôi được ăn cá sông với cua đồng. Mấy hôm liền, ai cũng tìm hàng cô đấy.

Đáp lại tấm lòng của bà giáo, nàng chỉ biết vâng dạ, cảm ơn rồi xách thức ăn đi về phía khu nhà trọ
bình dân gần đấy.

Nhìn theo cô, bà giáo bỗng thảng thốt xót xa: "Hình như con bé này có mang rồi thì phải. Kiểu này có
khi cơm cũng chẳng đủ mà ăn!".

...Rồi nàng cũng phải nhờ đến lòng tốt của bà giáo. Bụng đói đầu gối phải bò. Gã chồng hờ chẳng có
tác dụng gì ngoài việc lúc tỉnh lúc say, lúc được hay thua bạc, về đến nhà, sau những cơn căn vặn,
ghen tuông cuồng dại, lại vồ lấy nàng, ngấu nghiến hưởng lạc - cái cách hưởng lạc mà tình nghĩa thì
ít, ghen tuông, gỡ gạc, hằn học thì nhiều. Càng ghen tuông, càng cay bạc bao nhiêu gã càng bỏ lỡ
công việc và giày vò nàng tàn nhẫn bấy nhiêu. Không ít đêm khuya, không ít lúc tảng sáng, vừa đẩy
cửa căn phòng trọ tồi tàn, vào nhà, gã đã vồ lấy nàng, xé toạc cả váy áo, rên rỉ và giãy giụa hành lạc,
cắn cấu vào bất kỳ nơi nào mà hắn thấy là thơm tho gợi sự thèm khát...

Nàng lần ra chợ, vừa để kiếm miếng ăn nhưng cũng vừa để xoa dịu nỗi ghen tuông của gã chồng.
Bởi nàng hiểu, cứ khi nào nàng đi chợ bán hàng đều đều thì gã cũng chịu khó chạy xe, chịu khó lặn
lội chạy hàng về cho nàng bán đều đều và thói ghen tuông điên cuồng, thói lao vào cờ bạc, rượu chè
như một kẻ mất trí cũng bớt hơn...

Sáng sáng, sau lúc tập thể dục, bà giáo bao giờ cũng ý tứ nới rộng vòng xích giữa hai cánh cổng sắt
nho nhỏ tạo ra một đường vòng cung đủ cho nàng đặt mấy tải cua và chiếc cân. Sau hai cánh cổng
ấy còn một khoảng vườn nho nhỏ trồng cây cảnh nữa rồi mới đến căn buồng của hai vợ chồng già.

Giúp được nàng như vậy, bà giáo thấy an tâm, thấy vui vẻ phấn chấn trong lòng, đồng thời vẫn giữ
được sự yên tĩnh, sự an toàn cho căn nhà nhỏ. Bất quá, nàng cũng chỉ giống như một người qua
đường, chạy vào đứng tạm trú mưa hay tránh nắng những lúc nhỡ nhàng mà thôi...

Mọi việc đang tạm ổn thì bẵng đi vài ba ngày, bà giáo không thấy nàng đi bán hàng. Gã chồng hờ
cũng bặt tăm. Bà sốt ruột:

- Ông này, hay con bé nó ốm. Hay là vợ chồng nó đánh nhau rồi. Cái thai còn trứng nước thế, thằng
chồng lại vũ phu.

Đến ngày hôm sau nữa, bà giáo bồn chồn ra mặt.

- Này ông, ông hay đi họp với mấy ông cựu chiến binh, mấy ông công an phường, ông thử hỏi hộ tôi
xem con bé nó trọ ở đâu. Hay là tại hôm nọ, tôi vô tình nói câu gì làm nó tự ái, bỏ hàng bỏ chợ.
- Hỏi thì hỏi được thôi, nhưng bà toàn "lo bò trắng răng". Nó cần thì nó khắc đến, mà nó không cần thì
bà mong hay là bà thương cũng chẳng được. Mà bà này, tôi thì tôi cũng không phản đối gì bà cả, bà
muốn giúp nó thế nào thì giúp, muốn làm gì cho nó thì làm, nhưng bà hãy nghe một câu của tôi nhé:
Những cái việc tốt mà bà đang làm ấy, cùng lắm chỉ có thể cảm hóa giáo dục được mấy đứa học sinh
cá biệt trong mấy cái lớp. Còn với những đối tượng như thế này, làm thế chẳng khác nào lấy thuốc đỏ
bôi lên để chữa một vết đạn bắn, vết dao chém. Vô ích, vô ích thôi, đấy rồi bà xem. Khác nào bà đem
bắt cóc bỏ đĩa...

Vậy là bà giáo cũng lần tìm hỏi thăm đến nhà trọ gặp nàng bằng được. Căn phòng trọ trống hoác
không một vật gì đáng giá. Khi bà bước vào, nàng đang nằm bẹp trên giường, mặt mũi tóc tai bơ phờ.
Rồi nàng khóc với bà:

- Anh ấy bị bắt rồi bác ạ. Mấy hôm trước lúc đang đêm lên cơn ghen bóng ghen gió, đánh đập cháu
rồi bắt cháu tháo cái nhẫn vẫn đeo ở ngón tay để dành đến lúc sinh con, đem đi đánh bạc, đánh ở
gần đây này. Công an họ phát hiện, xông vào bắt. Anh ấy cầm một bọc tiền, trèo tường định trốn,
nhưng bị phát hiện rồi đánh lại một công an định thoát thân.

- Thế hiện nay đang bị giam ở đâu?

- Họ đang tạm giam ở Quận, hôm kia cháu lên thăm tiếp tế thấy bảo đánh trọng thương người thi
hành công vụ là tội nặng lắm, ít nhất cũng năm, bảy năm tù giam... Bây giờ cháu biết làm sao đây bác
ơi...

...Đêm ấy, bà giáo trằn trọc mãi. Làm thế nào đây? Hình như cô ta cũng chẳng còn nơi nào nương
tựa được nữa, giữa nơi đất khách quê người với nườm nượp những con người dửng dưng xa lạ.

Và bà chính là người đã đến hỏi nàng trước:

- Thế bây giờ cháu định thế nào?

Nàng chỉ khóc, khóc thống thiết như khóc trước cha mẹ, anh em ruột thịt của nàng vậy. Rồi nàng do
dự hỏi ý kiến bà:

- Cháu đi nạo thai trước đã bác ạ! Có sinh ra đứa trẻ thì nó cũng chẳng có bố, lại cầu bơ cầu bất mà
thôi... thà rằng...

- Cháu có mang tháng thứ mấy rồi?

- Gần sáu tháng rồi bà ạ. Mà... mà...

- Mà sao?

- Hôm cuối tháng trước cháu đi siêu âm người ta bảo là con trai.

Nàng ôm mặt rồi bật khóc thành tiếng:

- Ới cha mẹ ơi, sao con khổ thế này!

Bà giáo giật mình:

- Trời đất, trông thế mà đã gần sáu tháng rồi! Cháu ơi là cháu, thế thì không thể được đâu, nó đã
thành người rồi, nó biết nghe, biết suy nghĩ, biết buồn vui rồi. Không thể bỏ đi được đâu, không ai làm
cái việc thất đức ấy cả, phải tội, phải tội lắm, rồi trời phật không thể tha thứ cho cháu đâu!... Mà còn
thằng chồng cháu nữa chứ, tù chán thì nó lại về chứ. Cái ngữ si tình ghen tuông điên khùng ấy, nó sẽ
vạch đất, vạch trời tìm bằng được cháu, cho dù lúc đó cháu có ở quê hay ở nhà một người chồng
khác thì cũng khó mà yên với nó...

- Giải quyết xong cái thai cháu sẽ về quê!

- Về quê à! Cháu bỏ đi biền biệt như thế, bây giờ về quê với cái bộ dạng nửa sống, nửa chết, thân
tàn ma dại thế này sao? Rồi bố mẹ cháu có chịu đựng được bao nỗi ê chề tai tiếng khi làng nước
người ta chê cười, khinh bỉ cháu không? Phận cháu, cháu chịu lấy một mình, đừng có bắt cha già mẹ
héo chịu thay, bất hiếu lắm cháu ơi...!

Hôm sau, bà giáo ân cần đưa cho nàng chiếc phong bì đựng mấy trăm nghìn đồng, trích từ tiền lương
hưu còm cõi của một bà giáo già. Bà chân thành, thương xót:

- Thôi, con gái ạ! Cố gượng dậy đi, gượng dậy mà sống, mà đi bán hàng, nuôi thân, nuôi đứa con.
Trời đất rồi cũng có mắt...

Dặt dẹo, khi ốm khi khỏe, nàng đi bán hàng. Giờ đây không còn gã chồng đi chở cua, chở cá từ xa về
nữa. Sáng sáng, từ lúc tinh mơ nàng đã ra chợ đầu cầu cất hàng, gặp gì buôn nấy, khi thì vài mớ vừa
rau thơm vừa mướp, vừa dưa chuột, khi thì một mẹt vừa chanh vừa hành tỏi ớt, có hôm vài chục bó
vải thiều, vài chục quả dứa hay rước túm nhãn, cân xoài. Cất hàng xong, nàng ngồi nhờ ở cửa nhà bà
giáo, quá trưa thường là hết hàng.

Lặn lội ngày ngày nuôi thân, thỉnh thoảng còn để dành dụm ít tiền đi ôtô vượt hàng chục cây số đến
một trại giam ở phía Tây thành phố tiếp tế cho một gã chồng hờ. Ngày nàng sắp sinh, bà giáo dúi vào
tay nàng một bọc vừa quần áo, vừa mũ, tất, tã lót của trẻ sơ sinh. Có mươi cái bà tự tay may lấy, còn
phần lớn bà đi xin mấy đứa cháu trong họ hàng, bè bạn thân thiết, toàn đồ đẹp đồ tốt. Bà thủ thỉ với
nàng:

- Có mấy cái bác may mới tặng cháu, còn toàn thừa hưởng lộc, hưởng phúc của mấy đứa cháu gọi
bác bằng bà cả đấy. Đứa nào cũng mũm mĩm khỏe mạnh, mặc để lấy khước cho thằng bé cháu ạ.

Thằng cu Tấn, con nàng ra đời vào một đêm đầu đông. Đầu đông mà rét đến cắt da cắt thịt, gió lồng
lên như gió bão mùa nước tháng bảy. Gió vật vã xô gãy cây cối, hoa cỏ, lật tung bao mái nhà nghèo
che tạm bằng những tấm tôn, mái lá đơn sơ. Căn nhà trọ của nàng cũng vậy, một góc mái bị xô bật
lên, vặn vẹo, cong queo.

Đứa trẻ khôi ngô tuấn tú, vuông vức rộng dài giống như thằng bố nó. Ai nhìn thằng bé cũng phải yêu,
có điều nàng gần như mất sữa hoàn toàn.

Bà giáo cùng mấy người vừa là hàng xóm, vừa là bạn già đồng nghiệp cũ đã về hưu, chẳng giàu có gì
nhưng cũng đủ bát ăn, đủ xông xênh đôi chút, rủ nhau đến thăm nom mẹ con đứa trẻ. Kẻ ít người
nhiều gom góp được non triệu bạc và một bọc cho hai mẹ con. Ai cũng thơm mãi vào cái miệng lúc
nào cũng toe toét cười của nó, và từ đáy lòng ai cũng cầu chúc cho hai mẹ con có cuộc sống an bình.

Sau đó vài ngày, ông bà giáo nhận được tin vui từ Nguyệt Em: Vợ chồng cô về thăm gia đình, hành
trình của họ đầy tình mẫu tử, chị em thiêng liêng: Ông bà giáo sẽ quay vào Sài Gòn, nơi gia đình
Nguyệt Chị đang sinh sống. Vợ chồng Nguyệt Em sẽ tập kết ở đó rồi toàn thể gia đình sẽ có một hành
trình tuyệt vời: Vũng Tàu, Phú Quốc, Đà Lạt, Nha Trang, Huế... nơi tụ hội cuối cùng sẽ là thủ đô ngàn
năm văn vật, nơi có ngôi nhà của ông bà giáo. Lúc cả nhà lên máy bay rời thành phố Huế êm đềm và
diễm lệ bay ra Hà Nội, bà giáo cũng chợt nhớ ra và tự nhủ: Thằng cu Tấn cũng được hơn hai tháng
tuổi rồi. Bà định lúc về sẽ mang cho mẹ con nó chút quà từ một đất nước châu Âu xa xôi.

Nguyệt Em ở lại với bố mẹ hơn một tuần, rồi ra Nội Bài, bay thẳng về châu Âu...
Thấm thoắt thế mà tết cũng sắp đến nơi rồi còn gì. Bà giáo mang một túi quà cho hai mẹ con thằng cu
Tấn. Cánh cửa căn phòng trọ chỉ khép hờ. Bà gõ cửa mãi không thấy tiếng ai liền đẩy nhẹ cánh cửa.
Căn phòng trọ vắng ngắt vắng ngơ, gió bấc cuối năm lạnh lẽo run rẩy trên tấm ri đô cũ kỹ bạc phếch.
Gió lật đi lật lại mãi tờ họa báo cũ vứt lăn lóc trên giường. Bà cất tiếng gọi:

- Mẹ con thằng cu Tấn ơi! Cô Hương ơi, hai mẹ con đi đâu cả rồi!

Lặng ngắt không một tiếng người. Gió lạnh vẫn khua lao xao, lao xao mãi trong từng góc nhà, từng
tấm cót ép đã bắt đầu tơi tả tũa ra.

- Cô Hương ơi! Cu Tấn ơi, hai mẹ con đi đâu cả rồi!

Từ một căn phòng trọ cuối sân, cánh cửa bật mở.

- Ối giời, bà đấy ạ! Tôi cứ định đi tìm bà mấy lần nhưng nào có biết chính xác là bà ở đâu mà tìm cơ
chứ? Đến tên của bà tôi còn chưa biết nữa là, khổ thân tôi quá bà ạ.

Trên tay người đàn bà khoảng năm mươi tuổi ấy là thằng cu Tấn. Nó đang ngậm chiếc vú cao su
trong miệng, tay hua hua đùa với mấy chùm hoa nắng cuối đông đang lung linh trên cửa...

- Sốt ruột sốt gan quá bà ơi! Con mẹ nó bỏ vạ cho tôi đi suốt hơn chục ngày rồi. Tôi biết làm sao
được với thằng bé này đây, biết làm sao được bây giờ bà ơi!

... Vậy là mười ngày trước đây, Hương đã nói với bà chủ trọ nhờ trông hộ cu Tấn một buổi sáng để về
chợ Bằng tìm mẹ chồng xem có giúp gì được hai mẹ con nàng trong lúc khó khăn này không. Nhưng
hết buổi sáng, hết một ngày, hết hai ngày rồi hơn mười ngày phấp phổng trông chờ, mà mẹ thằng cu
Tấn vẫn mất tăm. Bà chủ trọ than thở:

- Tôi đợi hết ngày đầu thì đã thấy hơi ngờ ngợ rồi bà ạ, lúc lấy sữa pha cho thằng bé, thấy trong ngăn
tủ xếp ngay ngắn hơn hai chục hộp sữa bò. Quần áo, tã lót được gấp gọn gàng, tất cả để trong một
cái túi du lịch, cứ như là đã có chủ định sẵn để bỏ đi thì phải. Cô ta còn thiếu tôi hai tháng tiền nhà, tôi
có nỡ đòi đâu. Vậy mà dám bỏ đứa con lại thế này. Nếu cô ấy bỏ trốn đi thật thì tôi biết làm thế nào
với thằng bé này đây!

Bà giáo đón lấy thằng cu Tấn ôm nó vào lòng. Những giọt nước mắt bà lã chã ứa ra, rơi vào vai thằng
bé mới chưa đầy ba tháng tuổi. Nó đã nhổ cái núm vú cao su ra, nhìn bà toe toét cười...

Ngồi một lúc, bà giáo đặt thằng bé vào tay bà chủ trọ, đưa bọc quà, vài trăm nghìn đồng còn lại trong
túi và khẩn khoản:

- Bà ơi, tôi cũng như bà thôi, chỉ như người qua đường, thấy cảnh khổ thì giúp. Nhưng tôi vẫn tin là
cô ta không thể bỏ đứa con như thế này mà đi biệt tăm đâu...

Trước lúc về, bà giáo còn cẩn thận ghi lại số điện thoại và địa chỉ của mình cho bà chủ trọ.

Ra khỏi khu nhà trọ, chẳng hiểu thế nào bà giáo lại không quen chân như mọi khi về nhà mình. Như
người bị mê lú, bà cứ đi, đi mãi ra tận ngã ba, sát với con đường cao tốc rộng thênh thang. Ngã ba,
trong con mắt của một người già yếu thật mênh mông: Bên phải là dòng đường chạy mãi về các làng
quê, bến bãi, các chòm xóm nơi núi cao thăm thẳm...

Bà giáo cứ thẫn thờ từng bước chân, thẫn thờ kiếm tìm về phía cây cầu xi măng bắc qua dòng sông
nhỏ nối liền đường cao tốc với đường vào chung cư. Bà cứ đứng giữa ngã ba đầy cát bụi, như vô
vọng tìm kiếm cái bóng dáng hối hả của nàng đang quay về khu nhà trọ để được ôm chặt thằng cu
Tấn của nàng mà hôn hít, mà nức nở...
8. Vai diễn bất đắc dĩ

Trong đời người, tôi đoan chắc rằng, ai cũng có những kỷ niệm khó quên. Và rất có thể, tôi cũng như
ai đó hẳn đã có không dưới một lần hành động bất thường vì tâm trạng xúc động bất ngờ, hay đắn đo
trong một quyết định có phần day dứt lương tâm. Đúng vậy, đã có chuyện đến với tôi thật ngoài sức
tưởng tượng. Dễ đã hơn mười năm...

Ngày ấy, không hiểu sao tôi lại dễ mủi lòng đến vậy và đã nhận đóng vai chú rể để cùng Loan về quê.
Hay nói cho đúng hơn Loan "mượn" tôi một ngày về trình diện với bố mẹ để cốt tránh cái tiếng không
chồng mà lại có con. Cái chính là để an ủi ông bố bị bệnh nặng sắp về cõi. Loan nghĩ chắc đận này
bố mình khó qua khỏi.

Cả làng biết Loan đã cưới hơn một năm rồi mà chàng rể vẫn chưa có dịp về quê thăm bố mẹ vợ. Hơn
nữa, để dẹp những lời đồn thổi không hay ở làng xóm, lần này Loan muốn đi cùng chồng về thăm bố
mẹ.

Ngày ấy, Loan phải giải thích rất chi tiết với mọi người, nào là muốn giản tiện nên chỉ đăng ký thôi,
nào là chú rể cũng nghèo mà sống ở trên thành phố cao nguyên nhiều thứ phải lo lắng nên để dành
tiền làm việc khác. Xong xuôi mọi việc hai vợ chồng thu xếp về quê trình mặt sau cũng được.

Đọc thư Loan gửi về, ai cũng cho là phải. Đường sá xa xôi, đi lại tốn kém, ngay ông cô bà chú cũng
ngại. "Ừ thế thôi! - Họ tặc lưỡi - Thế lại hay. Cái chính là hai đứa hạnh phúc, chứ còn theo cái lệ làng
xưa thì kích rích khó khăn mọi bề".

Thực tình năm trước, Loan bị người chồng sắp cưới bỏ rơi. Trót có thai với nhau đã bốn tháng, mà
Loan thì lại thề sống thề chết đòi giữ con lại. Thằng cha Sở Khanh thấy mọi việc trở nên rắc rối, thế là
chuồn thẳng, đem theo những lời hứa dối trá đã gây tai họa cho Loan.

Hồi đầu năm gặp tôi, Loan còn giấu nỗi bất hạnh của mình, vẫn tươi tỉnh kể chuyện về những dự định
trong tương lai của hai vợ chồng. Tôi rất vui, vì Loan là em gái của Bản, một đồng đội của tôi thời kỳ
tham gia chiến trường phía Nam. Bản bị sức ép của bom nên... điếc, sau đó trở về quê sinh sống.
Nghe Loan nói, vài năm sau Bản còn bị trầm uất, chẳng nói chẳng rằng, nghe chừng bị lẩn thẩn và
mất trí nhớ. Suốt ngày Bản hùng hục làm mọi việc từ trong nhà ra ngoài đồng, chẳng cần ai sai bảo.

Khi anh trai về làng thì cũng là lúc Loan lên thành phố học nghề, rồi trở thành công nhân dệt. Hoàn
cảnh gia đình Loan như vậy nên khi biết chuyện, tôi càng căm ghét thằng cha Sở Khanh kia. Bỗng
nhiên nghĩ tới Bản, tôi thấy áy náy vì chẳng khi nào có dịp về thăm gia đình anh.

Mãi mấy năm gần đây có dịp gặp Loan tôi mới hay mọi chuyện về Bản. Và giờ đây Loan trở thành nạn
nhân đã phải nhờ cậy tôi giúp đỡ. Chợt nghĩ nhân dịp này về thăm Bản cũng hay và biết đâu tôi có
thể giúp đỡ được điều gì chăng. Trong lòng tôi xáo trộn bao điều về cuộc sống, về đời người...

Tất nhiên, tôi suy nghĩ đến vài đêm, rồi mới quyết định nhận lời làm cái việc gọi là "rửa mặt" cho Loan
với làng xóm, gia đình. Sau đó Loan sẽ sống thế nào nữa. Tất cả chỉ còn nhờ trời. Loan vừa khóc
vừa van xin tôi nhận lời. Cô chỉ còn biết trông cậy và rất tin tôi nên mới nhờ việc này. Cứ ngẫm nghĩ
tình cảnh của Loan mà thấy thương. Còn thương hơn nữa là tình cảm của bố mẹ Loan và Bản ở nhà,
nên tôi đành nhận lời vì biết đây chỉ là việc cực chẳng đã mà Loan cần phải làm.

Ngay sau hôm tôi đồng ý, Loan viết thư về trước cho gia đình, rồi chúng tôi đi mua quà sắm lễ. Bởi lẽ
lần này chàng rể ấy là tôi, mang tên của gã Sở Khanh kia, sẽ đi gặp gỡ những người ruột thịt ở quê
Loan. Phòng trường hợp mọi người sẽ hỏi han về hoàn cảnh gia đình nhà trai, tôi đã phải tìm hiểu sơ
lược những trích ngang lý lịch cơ bản nhất của Đắc (tên gã Sở Khanh nọ), nhưng Loan không đồng ý
và bảo rằng tôi cứ nói về gia đình của mình là đơn giản nhất và không muốn nhắc đến tên Đắc khốn
nạn kia nữa. Mặc dù trong lòng còn có những lấn cấn, nhưng để làm cho đẹp mặt của Loan và gia
đình Bản nên tôi vui vẻ lên đường.

Dọc đường làng về nhà Loan, tôi vui vẻ chào hỏi tất cả mọi người, còn Loan bế thằng cu cùng đon đả
cười nói với bất cứ ai gật đầu chào. Nhiều người săn đón nựng đứa bé. Ai cũng vui vẻ hỏi thăm:

- Ôi! Vợ chồng Loan về đấy, hả con?

- Hạnh phúc quá nhỉ.

- Chà! Thằng cu bụ ghê.

- Cháu tên là gì? Ra bà bế tí nào.

- Nhớ sang nhà em chơi, chị Loan nhé…

Mọi người tíu tít chào hỏi làm Loan rất vui. Thỉnh thoảng Loan lại nhìn tôi sung sướng cười. Tôi chợt
nghĩ thấy mình thật hạnh phúc, như đang sống trở lại những ngày vui sướng nhất trong đời. Đám trẻ
con họ hàng láu táu chạy theo tôi nhận kẹo. Chúng cười nói đi theo về đến tận nhà Loan.

Ngay tối hôm đó, cả thôn truyền tin cho nhau nên nhiều người kéo đến. Tôi cùng Loan đi từng bàn
mời bà con cô bác uống nước ăn trầu và hút thuốc. Vui nhất là các bạn gái của Loan thuở ấu thơ đã
đến từ sớm để giúp việc. Mấy cô cứ xì xào cấu chí nhau. Họ vừa cười vừa trêu chọc nhau:

- Người yêu cái Thoa còn đẹp trai hơn.

- Không, anh Đắc đẹp trai hơn.

- Sao ngày trước thư cái Loan gửi về bảo anh Đắc xấu trai lắm cơ mà?

- Thế còn mày, con chết tiệt ạ, thằng Khuê của mày hẳn đẹp lắm đấy mà còn chê.

- Thấy anh Đắc đẹp trai, con nỡm này ghen với cái Loan đấy mà…

Thế là các cô cứ đấm nhau thùm thụp, rồi cười nói rúc rích ở dưới bếp. Tôi vừa tiếp khách vừa nghe
lõm bõm câu được câu chăng, nhưng rất vui. Mấy cô mang ấm nước từ dưới bếp lên, mặt cô nào cô
ấy đỏ hồng vì lửa. Dưới ánh đèn sáng trưng, nụ cười xinh đẹp của các cô như tranh vẽ vậy. Tôi chủ
động cầm tay Loan đi khắp các bàn cảm ơn bà con. Nhưng thật bất ngờ, có ai đó lên tiếng:

- Còn anh Bản đâu nhẩy, không thấy anh ra mừng cho em gái à?

- Từ chiều còn thấy nó vừa ở đây mà.

- Chắc lại ra đồng rồi. Tối thế này có khi lại đi bắt ếch không biết chừng.

Tôi đứng lặng người một lúc vì nhớ đến Bản, Loan kéo khẽ tay tôi nhắc nhở chớ có sao nhãng việc
cảm ơn mọi người. Cũng may tất cả lục đục đứng dậy vì đã đến giờ bà con gọi nhau về nhà để xem
phim. Tôi thấy nhẹ nhõm trong người vì từ lúc về đến giờ mọi chuyện đều suôn sẻ

Trò chuyện với ông bố, bà mẹ của Loan không khó như tôi tưởng. Ông bố thì nằm liệt giường, chỉ
thỉnh thoảng bắt mọi người bế thằng cu vào cho ông xem mặt. Bà mẹ vui ra mặt, hể hả cười nói với
mọi người trong gia tộc. Bà thấy khỏe hẳn ra, đi lại tất tả. Loan luôn luôn đi bên cạnh để nói đỡ lời
cho tôi mỗi khi có ai hỏi chuyện. Lúc bà con ra về hết, tôi mới trấn tĩnh lại vì dù sao tôi vẫn phải gắng
gỏi bày tỏ niềm vui sướng trong mọi tình huống, mặc dù đã xác định đây là một việc làm rất cần thiết
cho gia đình Loan.
Nửa đêm. Tôi và Loan thu xếp rất nhanh mọi việc để sáng mai đi sớm. Hai mẹ con Loan vào buồng
ngủ với bà mẹ. Còn tôi nằm ghé cùng giường với Bản. Không biết Bản về nhà lúc nào mà đã lên
giường ngủ. Đã nghe Loan kể về anh trai của mình, nhưng tôi không thể tưởng tượng được Bản lại ở
tình trạng tâm thần như vậy.

Bản hầu như không có cảm giác gì về sự trở về của Loan với tôi. Lúc đầu gặp mặt, Bản chỉ ngước
mắt nhìn Loan và tôi rồi loe miệng cười hề hề rồi đi thẳng. Suốt ngày đi đâu không rõ. Khi ghé lưng
nằm xuống tôi mới thấy Bản trở mình và nằm lui vào phía trong. Tôi nhẹ nhàng kéo chăn chiên đắp
lên người.

Phải nói là một ngày căng thẳng, tuy vậy thấy vui, nên tôi tưởng mình sẽ ngủ ngon giấc ngay sau đó.
Nhưng không hiểu sao trong lúc đang chập chờn trôi vào giấc ngủ... thì thấy Bản thở dài, rồi nhìn
thẳng lên trần nhà. Nghĩ bụng, tôi đánh liều khẽ gọi:

- Bản ơi!

Ngọn đèn dầu trên bàn thờ nhẹ nhàng lay động. Không gian im lặng đến mức làm tôi hồi hộp sau khi
gọi tên Bản. Lát sau, tôi trấn tĩnh, lay vai Bản:

- Bản ơi!

Bất ngờ Bản ngoái nhanh lại, mở to mắt nhìn tôi. Cả hai không ai bảo ai đều ngồi bật dậy. Bản chăm
chú nhìn tôi với ánh mắt thân quen ngày nào ở chiến trường. Cũng trong đêm hôm ấy, khi Bản bị
thương ngất đi bên chiến hào, tôi lay gọi mãi tên Bản. Thấy đồng đội vừa chớp chớp mắt, tôi vội hỏi:

- Mày có nhận ra tao không, Bản ơi!

Và lúc này, trong ánh sáng mờ ảo của đêm thanh vắng, tôi thấy trái tim mình rạo rực những kỷ niệm
chiến đấu bên hơi thở mạnh mẽ của Bản. Tôi đặt hai tay lên vai Bản hỏi:

- Mày có nhận ra tao không?

Bản chau mày rồi chăm chú nhìn tôi. Hắn nghiêng đầu rồi nói to:

- Dũng hả?

Tôi vội "xuỵt" bảo hắn nói khẽ thôi. Hắn trố mắt hỏi:

- Mày về đây làm gì? Tưởng mày hy sinh ngày ấy rồi cơ mà.

Tôi đánh mạnh vào cánh tay hắn:

- Chết làm sao được, chính ngày ấy mày chả ôm tao lăn xuống hào để tránh đạn à?

Bản đột ngột tươi tỉnh. Đôi mắt sáng lên như hồi nào. Hắn cũng cười nói:

- Thế mà tao cũng không chết, hay thật đấy. Bọn giặc chó má tưởng giết chúng tao dễ lắm đấy. Nhỉ ờ,
ờ…

Tự nhiên đâm phấn khích, hắn vung tay làm khẩu súng giơ cao, mồm la lên:

- Pằng, Pằng! Pằng!...

Tôi vội lấy tay che miệng hắn lại:

- Khẽ chứ!
- Sao lại khẽ? Mày bênh bọn giặc xâm lược à?

- Không!

Tôi ghé tai Bản nói khẽ:

- Mày biết tao đang làm gì không?

- Làm gì?

Tôi ngó chung quanh thấy vẫn yên tĩnh bèn nói khẽ:

- Làm em rể mày.

- Thế à? Cái Loan không báo cáo tao…

Tôi cười khì khì:

- Rõ khỉ. Thì bây giờ tao báo cáo.

Nhưng chợt hắn nghiêm mặt nhìn tôi:

- Không được! Không được.

- Sao thế?

Hắn quay lại nhìn như xoáy vào mặt tôi:

- Mày có vợ con rồi cơ mà?

Lần này thì tôi phải ôm ghì lấy Bản nói ghé vào tai hắn:

- Mày không hiểu gì à? Loan nó bị lừa…

Bất ngờ Bản đẩy tôi ngã ngửa, rồi hét lên:

- Không để kẻ địch lừa. Đồng chí Dũng hãy can đảm lên theo tôi truy kích kẻ địch. Xung phong.

Tôi hoảng quá ôm lấy đầu. Mồ hôi đầm đìa trên trán. Tôi cố vùng khỏi tay Bản, nhưng không được…
Bỗng có tiếng Loan gọi:

- Anh Dũng ơi! Anh Dũng ơi…

Tôi cố vùng dậy, mồ hôi vã ra như tắm. Tỉnh ra, tôi mới biết mình vừa trải qua một giấc mơ. Tôi vội
vàng ngoái lại nhìn thấy Bản vẫn còn nằm co mình im lặng như khúc gỗ. Loan đứng ở gần đó, ghé tai
tôi nói khẽ:

- Anh nói mê to quá. Sáng rồi, anh dậy chuẩn bị cùng mẹ con em để ra thành phố chứ. Phải đi sớm
mới kịp ôtô, anh ạ.

Nhưng không hiểu sao, tôi vừa đứng lên thì Bản cũng ngồi phắt dậy. Tôi bất ngờ kéo tay Bản lại.
Những ký ức bên chiến hào ngày nào dội về làm lòng tôi xốn xang. Tôi nhìn vào mắt Bản rồi ôm chầm
lấy thân hình thân quen ấy. Bản ngước mắt nhìn tôi chằm chằm, như muốn nói điều gì đó mà không
cất lời được. Đôi môi Bản mím lại và đôi vai run lên. Đột nhiên Bản gỡ tay tôi rồi đi thẳng xuống bếp.
Nắng ban mai vừa loé lên, Loan đã sắp sẵn mọi thứ. Tôi cúi đầu chào bố Loan, rồi dắt tay bà mẹ ra
ngoài sân. Bà chậm chạp đi theo, dặn dò tôi:

- Thỉnh thoảng hai vợ chồng về thăm gia đình, bố mày cũng chẳng còn sống được bao lâu.

Loan níu lấy mẹ rồi nựng thằng con trai dậy, cười với bà:

- Cún con, dậy chào bà đi nào! Chào bà…

Bỗng nhiên tôi thấy như có người đang nhìn tôi. Ngoái lại thấy Bản đang đứng tựa cửa. Tôi chậm
chạp bước tới, nhìn thẳng vào đôi mắt lờ đờ của Bản như thầm hỏi:

- Mày có nhận ra thằng Dũng này không, hả Bản?

Bản chỉ im lặng nhìn tôi với đôi mắt trầm đục như đang ẩn ức một điều gì. Tôi chợt nhớ đến giấc mơ
đêm qua và hơi ấm của Bản đã truyền sang tôi như thuở nào cùng nằm chung trong chiếc vải dù trên
cánh rừng Trường Sơn. Tôi bồi hồi chào:

- Chào anh Bản nhé, bọn em đi đây!

Bản giật mình động đậy, thẳng người nhìn tôi như muốn đặt ra muôn ngàn câu nói mà không nói
được. Tôi thần người vì thấy từ khóe mắt buồn vời vợi ấy, những giọt nước mắt ứa ra chảy dài xuống
gò má. Bản cứ đứng như thế nhìn theo tôi. Loan cũng ôm con đi nhanh ra cửa, vừa đi, vừa nén tiếng
khóc đang nghẹn trong lồng ngực.

Tôi vội bế lấy thằng bé để đỡ cho Loan. Đi mải miết lên bến ôtô trên huyện, lòng tôi thầm mong mỏi
mẹ con Loan một ngày sẽ gặp được người đàn ông tốt bụng. Mẹ con Loan xứng đáng được như vậy.
Hừng đông chói chang. Dọc cánh đồng lúa vàng rộm ngào ngạt hương thơm, tôi hít một hơi thật dài
và bất chợt ngỡ như thấy ánh mắt của Bản hiện ra ở đâu đó làm bước chân tôi chậm lại.

Tôi ngoái nhìn về phía làng và cảm thấy như có dấu vết bàn chân của Bản đi theo. ánh mắt ấy ẩn
chứa bao điều làm day dứt lòng tôi. Chắc có thể một ngày nào đó, ngôi làng nhỏ bé này sẽ nhắc nhở
tôi những điều tự sâu thẳm trong tâm trí về một thân phận người bạn đang cô đơn ở một phương trời
xa.

Và tôi nghĩ có ngày mình sẽ quay lại chốn này. Để làm gì? Chẳng để làm gì cả mà chỉ cần ngồi cùng
Bản trên bậu cửa và nhìn về cuối đường làng ngồn ngộn rơm vàng...

9. Giấu đầu hở đuôi

Nhận được công văn của trưởng khối thi đua, giám đốc Vũ như ngồi trên đống lửa. Ông đi đi lại lại
trong phòng, tay bóp trán, miệng lẩm bẩm một mình: "Làm sao bây giờ cơ chứ? Làm sao bây giờ cơ
chứ?". Trán ông toát mồ hôi mặc dù trong phòng đang bật máy lạnh.

Đi lại chán, ông buông mình ngồi phịch xuống ghế. Chiếc xích đu bị tải trọng bất ngờ xoay tròn một
cái, suýt nữa thì hất ngã ngài giám đốc. Ông Vũ càng điên tiết.

Vớ chiếc máy điện thoại trên bàn, ngón tay ông bổ vào các phím. Áp tổ hợp vào tai, ông bặm môi chờ
đợi. Chỉ có tiếng tút tút kéo dài trong máy. Thế này có tức không cơ chứ? Quân với chả cán! Đi đâu
hết tiệt mà không đứa nào nghe máy? Dằn chiếc tổ hợp đánh quạch một cái, ông Vũ vằn mắt trân trân
nhìn vào khoảng không.

Bỗng có tiếng nói cất lên từ phía sau lưng: "Dạ! Báo cáo thủ trưởng, thủ trưởng cho hướng viết báo
cáo sơ kết thi đua sáu tháng đầu năm để em viết dần ạ?". Ông Vũ xoay cái ghế quay lại. Quých,
chánh văn phòng đã mở cửa bước vào đứng cạnh ông tự lúc nào.
Dồn cái bực dọc lên đầu Quých, ông Vũ gắt: "Trực triếc thế nào để tôi gọi điện mãi không được thế?
Báo cáo với chả báo cầy!". "Dạ! Anh vừa điện cho em ạ?". "Phải! Gọi hết chánh, phó, cấm có đứa nào
nghe máy. Lạ thật!". Ông Vũ dài giọng và nhìn xăm xoi vào Quých.

Quých xun xoe: "Em vừa chạy xuống phòng anh Hoàng trao đổi tí việc, chắc lúc anh gọi, em đang ở
dưới đó". "Cậu Hoàng có ở phòng không?" - Ông Vũ cắt ngang. "Có ạ". "Gọi cậu ấy lên đây trao đổi
công việc… À, không! Báo cả cậu Phán, mời thêm cô Hoa công đoàn nữa lên đây hội ý nhé". "Thế
còn cái báo cáo thi đua, thưa anh?". "Thì đấy! Chính nó đấy! Gọi cả lên đây bàn luôn thể. Rõ chưa?".

Chánh văn phòng Quých líu tíu chạy đi. Anh hậm hực trong bụng. Quái, cái ông này! Chỉ thấy họp là
họp. Hội ý, giao ban, họp, họp… Cả tuần toàn những họp là họp. Họp bàn là vậy song khi triển khai
thực hiện thì ông ấy toàn tuỳ hứng làm theo ý của mình. Thế thì họp làm cái quái gì cơ chứ! Biết thế
song chẳng ai dám phản đối. Thôi thì mặc kệ, sếp muốn làm thế nào thì làm. Bảo hội ý thì hội ý. Bảo
họp thì họp. Trò đời, khi đã hội ý liên tục thì công việc lại càng rối. Thì đấy, xem các đội bóng chuyền
thi đấu thì biết.

Hai thủ phó đang chơi điện tử vi tính được lệnh triệu tập của thủ trưởng vội vã theo chánh văn phòng
Quých lên phòng giám đốc. Lát sau, bà chủ tịch công đoàn cũng có mặt. Đợi cho mọi người yên vị,
giám đốc Vũ dòm một lượt các gương mặt rồi e hèm: "Thưa các quý vị! Sở dĩ tôi triệu tập các vị gấp
vì cái công văn này".

Vừa nói, ông Vũ vừa cầm một tờ giấy giơ ra trước mặt mọi người. Tất cả ngơ ngác. Giấy gì thế nhỉ?
Giải thể công ty ư? Điều động ai ư? Hay là thanh tra? Thanh tra thì… liên quan gì đến tôi? Ông quyết
thì giờ ông phải chịu chứ! Định lôi chúng tôi vào cuộc à? Còn lâu nhé! Mấy cặp mắt ngơ ngác chờ
đợi. Duy chỉ có Quých là lơ mơ hiểu được vấn đề. Ông Vũ nói tiếp: "Trên tổng bắt ta báo cáo sơ kết
phong trào thi đua sáu tháng đầu năm".

Ông Vũ chưa dứt lời thì mọi người cùng ồ lên. Ôi giời! Tưởng gì! Báo cáo thì báo cáo, việc gì mà
giám đốc phải cuống cà kê lên thế? Ông Vũ xua tay: "Các vị nhầm rồi đấy! Việc hệ trọng chứ không
phải đùa đâu. Sáu tháng nay công ty ta có gì mà báo cáo? Doanh số ư? Sản lượng ư? Lãi ư? Lấy
đâu ra? Được mấy cái hợp đồng thì toàn là cò con, chả bõ khởi động máy. Công nhân thay nhau nghỉ
không lương. Thiếu việc làm thì lấy đâu phong trào mà thi đua? Không có phong trào thì lấy cái gì mà
báo cáo?".

Ông Vũ đưa ra một loạt các câu hỏi dồn dập khiến mọi người ngộ dần ra vấn đề. Chiêu một ngụm
nước, ông Vũ tiếp tục: "Không có thành tích thi đua thử hỏi công ty ta có tồn tại không? Trong khi đó
cấp trên liên tục yêu cầu cổ phần hóa. Nếu cổ phần hóa liệu tôi và các vị có còn ngồi ở cái ghế này
không? Gì chứ tay Quảng kỹ sư, tay Sơn kỹ thuật nó chả canh ty góp vốn chiếm cổ phần áp đảo thì
tôi cứ bé. Khi đó, ta lại xuống làm công nhân cho chúng nó chắc?".

Mấy cái đầu cùng gật gật và những tiếng suýt xoa rộ lên. Công nhận giám đốc nhìn xa trông rộng thật.
Hơn một năm nay, công ty lần khân mãi việc cổ phần hóa. Ban giám đốc phải lo đối phó đủ đường với
cấp trên để trì hoãn việc này. Cứ ngỡ cái anh thi đua khối, thi đua cụm bình thường thế mà cũng liên
quan đến việc sắp xếp xí nghiệp, công ty. Phong trào hạng bét, thành tích chẳng có, chả chuyển
hướng mô hình tổ chức sản xuất kinh doanh thì còn để làm gì? Nếu cổ phần chắc chắn tay Quảng và
tay Sơn thế nào chẳng lên nắm quyền. Chúng nó vừa có vốn, có kiến thức kỹ thuật lại vừa có đầu óc
quản lý, điều hành công ty này là quá đúng. Thì mấy năm làm quản đốc phân xưởng, chúng chẳng đề
xuất bao nhiêu sáng kiến đấy là gì!

"Tôi hỏi các vị, thế mạnh của công ty ta là gì?" - Giám đốc Vũ đột ngột đưa ra câu hỏi. Cả hai thủ phó
và bà chủ tịch công đoàn đều nhìn nhau. "Vấn đề là ở chỗ ấy đấy. Tôi triệu tập các vị để các vị hiến
công, hiến kế vực dậy phong trào, chứ cứ như thế này cả thì chết đầu nước". Ông Vũ thở dài đánh
thượt rồi ôm đầu.
Chợt chánh văn phòng Quých lên tiếng: "Thưa các anh! Em thấy công ty ta thời gian này tạm thời
chưa có thế mạnh gì cả. Dây chuyền máy móc cũ kỹ. Trình độ đội ngũ công nhân lạc hậu. Vị trí địa lý
càng không thuận lợi. Dưng mà… có thể khai thác lợi thế từ mảng khác may ra vực dậy được phong
trào". "Mảng gì? Cậu nói ngay đi nào?" - Giám đốc Vũ gần như nhổm hẳn người dậy nhao về phía
Quých. Ba vị kia cũng sáng mắt lên giục: "Nói đi! Cậu có cao kiến gì chăng?".

Quých thủng thẳng: "Phong trào thi đua tức là cần nhiều bằng, giấy khen, huân huy chương phải
không?". "Phải! Phải đấy! Đúng đấy! Cậu có cách gì để công ty ta có những thứ đó không?". Bốn sếp
cùng nhao nhao. Quých được đà dềnh dang: "Thi đua sản xuất thì ta tụt hậu rồi, vì không có khách
hàng. Thi đua đoàn thể thì chệch choạc vì thiếu nội dung hoạt động. Duy chỉ có…". "Có cái gì? Nói
mẹ nó ra ngay đi! Sốt cả ruột!" - Giám đốc Vũ bắt đầu bực.

"Dạ. Em nói ngay đây ạ. Ngày trước, công ty ta có đội văn nghệ, đội bóng chuyền, bóng đá mạnh của
tổng. Tại sao ta không khôi phục lại phong trào này để kiếm bằng khen, huy chương? Bề nổi đấy các
thủ trưởng ạ!". Bộ ba ban giám đốc và bà chủ tịch công đoàn cùng à lên một tiếng.

Thủ phó Hoàng vỗ đùi đánh đét một cái: "Giỏi! Cậu Quých này giỏi. Mình yếu phong trào kinh tế thì
phải mạnh phong trào xây dựng đời sống văn hóa. Văn nghệ, thể thao là văn hóa đấy. Văn hóa là nền
tảng tinh thần đấy các anh ạ".

Gãi đúng chỗ ngứa, không khí cuộc họp có vẻ tưng bừng hẳn. Chả gì thì trước kia, thủ phó Hoàng
cũng là đội trưởng đội bóng đá, bà chủ tịch công đoàn cũng là đội phó đội văn nghệ. Họ đều trưởng
thành từ phong trào đó lên cả đấy. Ngay như giám đốc Vũ cũng thế, có tí chất giọng nên khi làm thủ
phó, sau mỗi cuộc trà dư, tửu hậu, nhất là khi đón các đoàn cấp trên, ông lại khới lên việc ca hát.
Rượu vào hát ra vui đáo để. Người ta đánh giá ông có tác phong quần chúng, có năng lực quy tụ.
Thế là khi vị giám đốc cũ nghỉ hưu, nghiễm nhiên ông ngồi ghế giám đốc. Đấy, cán bộ phong trào nó
phải thế. Chỉ tiếc là bước sang cơ chế thị trường, họ đều lúng túng như gà mắc tóc.

"Ý kiến cậu Quých khá hay. Có điều, văn nghệ thể thao bây giờ cũng rất cần tiền mà công ty ta thì lại
đang thiếu vốn" - Ông Vũ thận trọng. Phó Hoàng hào hứng: "Thì ta lập dự án vay ngân hàng. Phục
hồi sản xuất. Nhà nước đang có chủ trương kích cầu đầu tư, ưu đãi lãi suất đấy anh ạ". "Phải đấy. Em
nghĩ chẳng cách nào kiếm nhanh huy chương, bằng khen bằng mảng này đâu anh ạ. Ta quyết đi,
triển khai nhanh mới kịp. Tổng đang tổ chức hội thao, hội diễn đấy" - Bà công đoàn tham gia

Họ bàn luận thêm một lúc nữa rồi cuối cùng ra một nghị quyết là đẩy mạnh phong trào văn nghệ thể
thao, xây dựng đời sống văn hóa cơ sở công ty. Phó Hoàng nhận chân phụ trách thể thao. Bà chủ
tịch công đoàn đảm đương khoản văn nghệ. Phó Phán lo kinh phí cho hai "sự nghiệp" này. Chánh
văn phòng Quých liên hệ địa phương tuyển thêm một số cầu thủ, diễn viên xuất sắc bổ sung cho đội
hình. Giám đốc Vũ liên hệ với Hội Văn nghệ tỉnh, Trung tâm Huấn luyện Thể thao thành phố thuê thầy
thợ sáng tác, dàn dựng các tiết mục văn nghệ và huấn luyện các bộ môn thể thao.

Công ty chỉ để lại ít người duy trì dây truyền sản xuất đảm bảo nốt cái hợp đồng nhỏ của khách hàng,
còn lại huy động tất cho phong trào văn nghệ, thể thao. Ai không hát, không bóng thì làm chân cổ
động viên. Mục tiêu giật giải trong kỳ hội diễn, hội thao của Tổng Công ty được phổ biến quán triệt tới
tất cả mọi người. Số tiền vay được chi bồi dưỡng cho đội hình chính thức và trích ra một ít vui vẻ cho
các cổ động viên.

Bên văn nghệ thì khỏi nói, vui lắm. Mấy ông tóc rậm râu dài "nghệ sĩ nhớn" của tỉnh đi đi về về như
mắc cửi. Có vị ăn nghỉ ngay tại công ty. Ai cũng muốn "cống hiến", trổ tài. Thì lâu lắm rồi giờ họ mới
có đất để "dụng võ". Nhạc công trống kèn, đàn sáo inh ỏi. Diễn viên quần áo, phấn son lòe loẹt. Trẻ
con xúm đen, xúm đỏ xem "văn công" tập.

Bên thể thao cũng ầm ĩ không kém. Sân bãi chật ních người. Tiếng reo hò cổ vũ không dứt suốt từ
sáng tới trưa, từ trưa tới tối. Cái kho rỗng của công ty trước đây bỏ toang hoang nay bỗng thấy đóng
cửa im ỉm. Từ nơi này vọng ra tiếng "hự chạ", "bụp chạt" nghe đến tức ngực. Chỉ có bộ tứ biết là ở đó
có chuyện gì. Phải, đấy là đội cầu thủ "mũi nhọn" đang tập riêng do các võ sĩ của tỉnh trực tiếp huấn
luyện, đặc biệt là các ngón "chém đinh", "chặt sắt". Đá bóng chỉ là phụ, hạ thủ đối phương mới là
chính. Chính lực lượng này sẽ bẻ gãy và làm tan nát đội hình đối phương.

Chiều chiều, giám đốc Vũ cùng chánh văn phòng Quých lướt một vòng các khu tập luyện và rất lấy
làm hài lòng trước không khí và tiến độ đang diễn ra. Nhân dịp này, mình phải đề nghị cấp trên "xin"
thêm hai cái kỷ niệm chương văn nghệ và thể thao nữa bổ sung cho bộ huân huy chương, kỷ niệm
chương của mình. Ông Vũ mỉm cười một mình và vui vui nghĩ vậy. Tính ông thế, nghiện khen thưởng
mất rồi. Giữa cái nắng nóng tháng sáu, trời không tí gió nào mà ông vẫn có cảm giác man mát mới lạ.

Đúng như dự kiến của ông Vũ và ban giám đốc, tin thắng lợi từ hội thao, hội diễn trên tổng dồn dập
báo về. Bóng đá vô địch, bóng chuyền, bóng bàn thứ hai. Hàng chục cầu thủ, vận động viên được
huy chương các loại. Bên văn nghệ cũng thế, huy chương vàng, bạc, bằng khen, tặng thưởng như
mưa. Ngày đầu ông Vũ còn ở nhà nghe ngóng, sau rồi thấy thắng to quá, ông liền oánh xe lên với
đoàn và ăn ở cùng các cầu thủ, diễn viên, trực tiếp động viên họ. Chưa bao giờ thấy giám đốc lại sâu
sát và quan tâm tới phong trào như bây giờ.

Hôm tổng kết, ông Vũ mở mày mở mặt vì bao nhiêu bằng khen, giấy khen, huy chương các loại, bao
nhiêu là hoa và những lời chúc tụng. Trưởng khối thi đua đến bắt chặt tay ông: "Chúc mừng công ty.
Chúc mừng ông!". Rồi lão ta nháy mắt ý nhị: "Đoàn kiểm tra thi đua sẽ đến công ty ông đầu tiên để
mục sở thị phong trào". Ông Vũ nghe vậy bỗng sởn da gà. Hội diễn, hội thao tan rồi, cầu thủ diễn viên
ai về nhà ấy, còn đếch cái gì mà kiểm tra với chả kiểm bố. Được, ông sẽ có cách.

Theo sự chỉ đạo của ông Vũ, chánh văn phòng Quých thỏa sức sáng tạo báo cáo thi đua trên cơ sở
thành tích hội thao hội diễn. Nhấn mạnh văn hóa, lướt qua các mặt khác là được. Hai thủ phó sẽ lo
kinh phí tiếp đoàn, phong bì kha khá, trang trí phòng truyền thống chăng hết bằng khen, giấy khen,
huy chương nọ kia lên, cờ hoa tưng bừng vào, văn nghệ chào mừng hoành tráng kéo dài giữ rịt đoàn
ở đó là ổn. Phải lấy cái bề nổi, cái tưng bừng át đi cái cốt lõi, cái thâm trầm lại.

Đích thân trưởng khối thi đua và Tổng giám đốc Công ty cùng đoàn kiểm tra về công ty ông Vũ. Các
thành viên trong đoàn trầm trồ trước sự đón tiếp và không khí như ngày hội của công ty. Cờ hoa đỏ
thắm. Huân, huy chương, bằng, giấy khen chăng kín ba bề, bốn bên hội trường. Đàn hát nổi lên.
Phong bì dày cộp chuyển cùng báo cáo tới tận tay từng đại biểu. Các đại biểu nhẹ nhàng đút phong
bì vào túi, lướt qua báo cáo và thả hồn theo lời ca tiếng hát của đội văn nghệ chào mừng.

Đang vui như thế, khí thế hừng hực như thế thì ngoài cổng có tiếng ồn ào nhốn nháo. Chưa kịp xem
sự thể thế nào đã có một toán người đi thẳng tới bàn đại biểu. Người thì đề nghị công ty bồi thường
hợp đồng vì sản phẩm đặt hàng không đúng yêu cầu của họ. Người khác lại đòi thanh toán tiền lương
mà công ty nợ mấy tháng chưa trả được. Số khác thì đề nghị cho họ được đi làm vì họ nghỉ không
lương lâu quá rồi.

Đang rối ren như thế thì lại có mấy thanh niên lạ hoắc kéo đến: "Đề nghị công ty cho anh em chúng
cháu xin tiền công tham gia hội thao, hội diễn vừa rồi!". Trưởng khối thi đua buột miệng: "Các cậu đây
là…?". "Dạ, chúng cháu là thanh niên làng Cổ Cò có chút ít năng khiếu thể thao, văn nghệ được các
bác công ty mời tham gia đoàn thi đấu vừa rồi bác ạ!". Các thành viên đoàn kiểm tra tròn mắt.

Vị nào đó lên tiếng: "Thế ngỡ tưởng anh em công nhân công ty cả chứ?". "Dạ, không ạ - Người thanh
niên kia thật thà - Có mấy bác, mấy cô thôi ạ! Cả mấy cô văn nghệ trên sân khấu kia cũng là người
làng cháu cả đấy". Vị đó chỉ tay lên mấy cái bằng khen: "Thế còn những cái kia?". Vẫn cậu thanh niên
đó nói: "Dạ, của chúng cháu cả ạ. Các bác công ty mượn treo hôm nay đấy!".
Mặt giám đốc Vũ tái nhợt. Khỉ gió thế cơ chứ. Biết có đoàn kiểm tra lại kéo đến nhiễu sự đây mà. Hai
thủ phó cùng "cụ chánh" Quých biến mất tự lúc nào. Bà chủ tịch công đoàn thì hai tay xun xoe xoa vào
nhau, ấp a ấp úng định đỡ lời cho ông Vũ, nhưng chưa biết mở miệng thế nào. Các thành viên trong
đoàn ngơ ngác nhìn nhau. Tổng giám đốc và trưởng khối thi đua lắc đầu ngao ngán.

"Chưa có bao giờ đẹp như hôm nay…" - Trên sân khấu, giọng hát khá ngọt ngào của cô "diễn viên
mượn" vẫn vang lên đằm thắm nồng nàn. Chỉ có giám đốc Vũ là mụ đi không còn biết trời đất là gì
nữa. Lúc này ông chỉ muốn thăng thiên, độn thổ được thì tốt

10.Qua mùa giông gió

Hai người phụ nữ lại cười. Vườn trưa nắng lấp lóa… Gã nằm trong nhà, cửa sổ thấp, có thể nhìn ra
gốc sung và hai người phụ nữ. Mọi khi gã đã có một giấc trưa say nồng, nhưng sự xuất hiện của cô
gái khiến gã không ngủ được… Gã càng cố nhắm mắt để ru mình ngủ, thì những ký ức cứ dội về, ào
ào như thác đổ… Gã cảm tưởng như ví von thế vẫn chưa đủ diễn tả nỗi dạt dào ăm ắp trong lòng gã.

Vườn nhà gã rộng, có một cái ao thả cá. Bờ ao được kè đá hộc, sạch sẽ, mát mẻ, lại còn có cả một
cây sung to, xòa bóng che mát cả một góc ao. Vợ gã là người ưa sạch sẽ, khá lãng mạn, nên trong
vườn, nhất là dưới mặt đất chỉ có xác lá rụng chứ không có rác rưởi hay phân động vật bao giờ.

Bên gốc sung, nàng còn kê một bộ bàn ghế chế từ xi măng cát, đã được trang trí giả vân gỗ. Bộ bàn
ghế đó chủ yếu là dành cho khách của gã. Họ là những kẻ nghiện số đề. Gã không nghiện số đề,
nhưng dung túng những người đàn ông kia, để thi thoảng lại bâng quơ "Đêm qua tôi mơ…" khiến
những ông bạn lại một phen sôi lên như nước trong nồi đang đun.

Vợ gã giỏi tiếng Trung. Nàng đi dạy ở những công ty cung ứng nhân lực quốc tế đang ngày một rộ
như nấm sau mưa. Vì thế, đôi khi khách của nàng là những người vì lý do nào đó muốn đi Trung
Quốc hay các nước nói tiếng Trung, và vì lí do nào đó đã thân thiết với nàng. Họ tìm đến, ngồi dưới
gốc sung để dốc bầu tâm sự. Tuy nhiên, những trường hợp như thế là rất hiếm.

…Trưa hè, nắng vàng vọt cố lọt qua những kẽ lá sung đang đan nhau chi chít để đậu xuống rung rinh
trên hai đôi vai trần tròn trịa của hai người phụ nữ đang ngồi hóng mát. Cô gái lần đầu đến nhà gã,
nhưng tên tuổi và tính cách của cô thì gã đã được vợ giới thiệu từ lâu… Một cô gái trẻ, không đẹp
lắm, nhưng đầy quến rũ… đang học tiếng để làm dâu xứ người.

Gặp cô, gã bỗng chợn lòng, như thể gặp người về từ dĩ vãng.

"Đêm qua em nằm mơ buồn cười lắm chị ạ. Em mơ là em… bị lấy chồng. Đầu tiên, em thấy mình ở
trong một đám cưới và là một... cô dâu. Em cứ tự hỏi: Tại sao lại có đám cưới này? Tại sao mình lại
lấy một người mà mình không hề biết mặt? Thế là em đào tẩu.

Em cứ chạy hoài, chạy mãi, chạy cho đến khi thấy trước mặt mình là một cánh đồng mênh mông.
Đang hoang mang không biết làm gì trong khi mọi người vẫn đang huỳnh huỵch đuổi sau lưng… thì
một tiếng hét vang lên: "Các người để cô ấy yên!". Đó là một người tình trước đây của em. Anh ấy
sau khi quát lên như thế, đến bên em, nhẹ nhàng cầm tay em dắt về nhà. Kết thúc giấc mơ. Phù! Em
tỉnh dậy và thấy mình… vẫn chưa lấy chồng".

Cô gái và vợ gã cười nắc nẻ. Rồi cô cầm bàn tay của vợ gã, vuốt nhẹ:

"Trời! Tay chị đẹp như tay Phật bà, quý tướng đó chị ơi. Chẳng bù cho tay em, đường tâm huyết bị
cắt ngang cắt dọc thế này, hèn chi đời em nó bạc…".
Vợ gã cười mỉm. Nàng đã quá quen với những lời khen tương tự thế, nên để trả công cho lời khen ấy,
nàng cũng cầm tay cô gái khẽ vuốt vuốt:

"Đúng là em có lận đận đường tình duyên, nhưng những người đã yêu em, sẽ không bao giờ quên
em được".

Hai người phụ nữ lại cười. Vườn trưa nắng lấp lóa… Gã nằm trong nhà, cửa sổ thấp, có thể nhìn ra
gốc sung và hai người phụ nữ. Mọi khi gã đã có một giấc trưa say nồng, nhưng sự xuất hiện của cô
gái khiến gã không ngủ được… Gã càng cố nhắm mắt để ru mình ngủ, thì những ký ức cứ dội về, ào
ào như thác đổ… Gã cảm tưởng như ví von thế vẫn chưa đủ diễn tả nỗi dạt dào ăm ắp trong lòng gã.

…Ký túc dành cho công nhân thực ra là một cái nhà kho cũ. Kinh khủng hơn cả, là hai phòng nam nữ
chỉ bị ngăn cách bởi một tấm bạt dày. Bức tường linh động đó cho phép cư dân hai bên có thể bất
thình lình thò cổ sang nhau trêu chọc, trò chuyện hay mượn đổi đồ dùng gì đó…

Lần đầu tiên nhìn thấy cảnh ấy, gã đã không khỏi không có ý nghĩ hãi hùng, rằng chỉ có trời mới biết
điều gì sẽ xảy ra với hai nhà khi bức tường ngăn cách quá mỏng manh, hớ hênh, mời gọi? Như đọc
thấu những điều gã nghĩ, ông chủ xưởng người Việt sang Thái Lan định cư lâu năm, vỗ vai gã cười:

- Yên tâm. Mấy tháng nữa sẽ có khu nhà cho các vị ở đàng hoàng.

Gã trề môi. Đợi được mấy tháng nữa thì điều gì sẽ tiếp tục xảy ra?... Nhưng mà gã cũng chẳng thể
làm gì được ngoài mấy cái trề môi, đành uể oải lê bước đến góc nhà, nơi có một cậu tre trẻ đen gầy
đã có nhã ý thu xếp cho gã. Gã gật đầu cảm ơn cậu tre trẻ rồi nằm vật ra "giường", cảm giác trong gã
đầy ứ nỗi hoang mang, buồn bực. Gã không ngừng nguyền rủa thằng bạn thân đã mấy năm làm ăn ở
Thái Lan khi hắn cứ ngon ngọt dụ:

- Mày sang đây đi. Tao sẽ cho mày thấy thế nào là thiên đường và gái đẹp…

Rồi thì gã mới thấm thía: Thiên đường là gì còn phụ thuộc vào việc người ta định nghĩa về nó như thế
nào…

…Phu Khet vào mùa mưa… những cơn mưa dài lê thê, ảm đạm. Đám đàn ông trong xưởng cứ tối
đến là chẳng biết làm gì khác ngoài việc sát phạt nhau cờ bạc. Những ván bài liên miên giúp họ phần
nào quên đi ánh đèn màu và mỹ nữ phía Băng Cốc mời gọi. Vì nói cách khác: Băng Cốc quá xa xôi,
cả về địa lý lẫn trong tâm tưởng. Gã không tham gia vào những ván bạc đó, nhưng nỗi cô đơn thì gã
không sao chịu nổi. Chính trong tâm trạng đó, gã đã đồng ý làm theo lời cậu "tre trẻ" - Cậu ta người
Inđônêxia.

Hai người vạch tấm bạt và chui sang "nhà bên kia", nơi có rất nhiều người phụ nữ về đêm với rất
nhiều tâm trạng…

…"Anh nhà chị đã bao giờ sang Tiệp chưa hả chị?".

"Chưa. Lão ý mới chỉ sang đến Thái Lan thôi. Sao em?".

"Không sao chị ạ. Em tưởng anh ấy đã từng sang Tiệp. Hồi em ở bên Tiệp, em gặp một người giống
anh ý lắm".

Vợ gã phá lên cười:

"Trời ơi! Người ta trên đời này giống nhau nhiều lắm em ơi!".

" Em biết chứ chị. Đầu tiên tưởng là anh ý, nhìn kỹ lại không phải".
Câu chuyện của hai người phụ nữ tạm thời dứt gã ra khỏi miền ký ức, để ngay sau đó nó lại cuồn
cuộn đổ về. Gã nhìn thấy ngày hôm qua như một cuộn phim không lời.

Thế giới nhà bên kia cũng chẳng mấy khác nhà bên này. Cũng người nằm, kẻ ngồi, vừa ăn uống vừa
trò chuyện và cả thay đồ trước mặt khách hồn nhiên như thủy tổ loài người… Những người phụ nữ ly
hương ngày ngày mải miết với những cái máy may, nét mặt đăm đăm, trơ lì cảm xúc. Vì cảm xúc duy
nhất của họ chính là sản phẩm…

Gã không xa lạ với những nét mặt ấy, những nét mặt trong những xưởng may ở quê nhà Việt Nam
hay ở một đất nước khác như Thái Lan, Hàn Quốc, Trung Quốc… liệu có khác gì nhau? Chỉ khi dời
khỏi xưởng máy, họ mới sống cuộc đời thực của họ…

Và… giữa những người phụ nữ lam lũ xa lạ ấy, gã đã trông thấy nàng.

Nàng hiện hữu như thể chưa bao giờ ẩn trốn những con mắt kiếm tìm của những gã đàn ông bên kia
vách ngăn. Nàng hiển hiện giữa những người phụ nữ khác không phải vì nàng đẹp hơn họ, trẻ trung
hơn họ… mà vì vẻ thinh lặng thờ ơ trước tất cả.

Nàng ngồi lặng im, hai tay bó gối, ánh mắt vô định, và dường như cả trái tim, cả tâm hồn nàng đang
lắng nghe tiếng mưa rơi ngoài trời như thác đổ. Nàng là ai? Nàng từ đâu đến? Từ một miền quê xa
nào đó ở Thái Lan, Việt Nam hay Inđônêxia? Gã đã có thể hỏi những người phụ nữ khác về nàng.
Nhưng… cái đêm mưa dài Phu Khet ấy, gã đã không hỏi.

"Này chị hỏi thật nhé! Em đã từng có một mối tình đau đớn lắm phải không?".

Ngoài gốc sung, vợ gã và cô gái vẫn mải mê câu chuyện.

"Chị khẳng định hay chị đoán thế?".

"Đoán thôi. Vì trông mắt em… lạ lắm…".

Cô gái cười: "Chị đoán mà đúng đấy. Chuyện tình của em buồn lắm chị ơi".

…Bạn gã xuất hiện sau nửa tháng trời gã ở trên đất bạn. Hắn sởi lởi:

- Mày thông cảm đi. Tao buộc phải để mày tạm thời làm ăn ở chỗ anh Kính đây. Mấy tháng nữa chỗ
tao ôkê, tao đón mày qua"

- Thiên đường và gái đẹp của mày đây à? - Gã gầm gừ. Bạn gã vẫn cười hê hê:

- Mày đừng giận nữa. Tin đi. Tao nhất định sẽ không để mày thiệt thòi…

Ngoài trời Phu Khet vẫn mưa.

Trong xưởng máy, gã vẫn chăm chú với những đường may quen thuộc, đến nỗi, có nhắm mắt lại máy
thì đường mí vẫn đều đẹp, chính xác. Tai gã vẫn chờ đợi tiếp những lời hứa hẹn của thằng bạn,
nhưng hắn nín thinh… Cảm thấy có cái gì đó khác thường, gã ngước nhìn thằng bạn. Bạn gã, đang
trơ như phỗng, mắt dõi thẳng về một hướng. Gã nhìn theo ánh mắt bạn: Nàng.

Bạn gã nhìn nàng, và nàng nhìn bạn gã.

- My! Em ở đây à?

Bạn gã rảo bước lại. Nàng (tên My?) thôi không nhìn bạn gã nữa, vẫn bình thản với công việc…
Những cái cổ áo lần lượt tuôn về phía đầu máy, hoàn hảo… như là người đàn ông đang đứng bên
nàng kia nàng không quen không biết.
Nàng không tiếp chuyện bạn gã, khiến hắn đến với cái cười phớ lớ và trở về với vẻ im lặng, đăm
chiêu.

Gã đã rõ, giữa nàng và bạn gã đã từng xảy ra một mối tình…

"Em yêu anh ấy bằng tất cả, yêu như điên như dại chị ơi…".

"Đàn bà mình vẫn vậy mà em".

"Nhưng ngang trái lắm, anh ấy đã có vợ rồi. Lúc nào nhớ anh, em cũng khóc. Sao anh không tránh xa
em ra… Sao anh lại va vào đời em…?".

"Sao lại thế?"

"Anh ý bảo anh ý đã cố tránh những mối tình ngoài vợ mà chị".

Hai người phụ nữ lại cười. Lần này là cái cười lạnh hơn… Gã nghe lỏm, cũng thấy đau, hụt hẫng,
hoang mang như thể vừa tuột tay đánh rơi một vật gì, làm tan vỡ một thứ gì đó…

Gã đã yêu nàng… Thực sự đã yêu nàng. Nó không đơn thuần chỉ là sự phải lòng mặt, không nhìn
thấy là không chịu nổi. Nó cũng không phải là sự xót thương, thông cảm cho thân phận một cô gái đã
xa xứ thì chớ, lại còn bị chính người tình đồng hương bỏ rơi… Gã không hỏi bạn gã về nàng, dù bạn
gã đã mở lời nhờ gã để tâm chăm sóc nàng… Mà đó là một thứ tình cảm không bình thường. Nó
giống như một vết thương.

Nhưng gã không thể tiếp cận nàng… Nàng tránh xa gã, như đã tránh xa bạn gã.

Gã rơi vào trạng thái bị mất ngủ thường xuyên. Chính tình trạng đó lại càng làm hại gã khi gã không
thể dứt hình bóng nàng ra khỏi ý nghĩ. Gã nghe thấy con tim mình rên xiết, quặn đau khi bên kia vách
ngăn là những âm thanh của thể xác hoan lạc…

Khi đêm đêm, những gã đàn ông như những bóng ma lặng lẽ vượt qua "tường" sang "nhà bên" tìm
kiếm những người đàn bà: Gã không thể không hình dung một hay vài người đàn ông xa xứ và buồn
tẻ trong "căn nhà" của gã, đã đặt những bàn tay, đã đặt những đôi môi lên thân thể nàng. Và nàng và
họ, lại trao nhau thân xác, lại dấy lên những tiếng động của niềm hoan lạc. Đó nhất định không phải
tiếng của tình yêu. Và vì thế, tim gã cứ quặn lên từng đợt khi những bóng đen bất kỳ từ "nhà" gã
vượt "tường" sang bên kia và trở về…

Gã nguyền rủa bức tường ngăn cách, không phải vì nó kiên cố để cản trở, mà nó quá linh động.

Sáng hôm sau, gã nhìn những "bóng ma" đêm qua vươn vai trở dậy sau một đêm dài của mùa mưa
Phu Khet. Gã nhìn những người đàn bà của bên kia vách ngăn với những gương mặt nhiều tâm trạng
sắp trở nên trơ lì khi ngồi vào bàn máy… Gã nhìn những người đàn ông và những người đàn bà đi
qua nhau bình thản, vô tư như khi đi qua dòng người trên đường phố vậy… Gã rùng mình tưởng
tượng những cuộc trao đổi thân xác diễn ra từng đêm mà người ta không biết ai đã đến với mình.

Ý nghĩ về cuộc sống như bầy ngựa hoang trên thảo nguyên làm gã ớn lạnh. Gã muốn đưa nàng đi. Đi
thật xa khỏi chốn ấy mà không cần đến những lời hứa của thằng bạn gã.

"Em gặp Du Wen Liang khi đang tuyệt vọng, lang thang trên con đường ở ngoại ô Praha. Đó là lúc em
quyết định sẽ dứt bỏ mối tình tê tái đó. Wen Liang rất tốt với em, dù em và anh ấy chẳng ai hiểu ai nói
gì… Nhưng chúng em có thể hiểu được những suy nghĩ của nhau…Yêu nhau… Khó tin chị nhỉ?
Nhưng mà thật…".

"Chẳng có gì phải băn khoăn. Nước mình rất nhiều phụ nữ làm dâu xứ người, người ta còn mất tiền
môi giới. Đằng này em và Wen Liang không hẹn mà gặp, lại nên duyên. Nhất định là ý trời rồi…".

Hai người phụ nữ dưới gốc sung lại cười. Trưa nắng sắp chuyển sang chiều, những bóng cây đã hơi
chênh chếch. Gã trở dậy, lấy nước lạnh trong tủ tu một hơi. Gã có cảm giác thứ nước lạnh đó làm dịu
cơn gió nóng trong lòng gã.

Gã không nằm lại nữa, mà ngồi nhìn hai người phụ nữ qua rèm cửa được làm bởi những chuỗi hạt
lấp lánh. Cô gái hướng nửa gương mặt về phía gã. Một gương mặt đẹp, phảng phất chút liêu trai. Cô
đang say sưa kể cho vợ gã nghe về cuộc tình thứ hai là cứu cánh của cuộc tình thứ nhất. Cô gái gặp
một chàng trai Trung Quốc, họ hò hẹn để kết hôn và bây giờ cô đang học tiếng để nói chuyện với
chồng mình..

"Em mạo hiểm quá phải không chị".

"Cũng khá mạo hiểm đấy. Nhưng hôn nhân là trò chơi may hơn khôn em ạ. Chẳng biết đâu mà lần..
Như chị đây cũng thế thôi em…".

Vợ gã vừa nói vừa ngoái lại phía gã, vẻ cảnh giác như sắp kể một chuyện bí mật, ly kỳ. Nắng có thể
khiến hai người đó không nhận ra gã đang ngồi nhìn họ qua tấm rèm cửa. Họ đinh ninh gã đang say
giấc trưa nồng…

…Nàng nổi bật giữa những người bạn đồng nghiệp từ vài quốc gia khác đến, cùng cả những người
phụ nữ, thiếu nữ địa phương. Vì cũng giống như lần đầu tiên gã nhìn thấy nàng: Nàng trẻ hơn bọn
họ. Đẹp hơn bọn họ và thờ ơ hơn bọn họ. Trông nàng giống một cái máy đang làm việc và đang ăn
uống. Nhưng trông nàng lặng lẽ giữa đám đàn bà đó, trong lòng gã mỗi ngày thêm thúc giục… Gã
muốn đưa nàng đi. Mà đi đâu? Trên đất khách, nàng cô đơn, gã cũng cô đơn. Vả lại gã vẫn còn gia
đình phía sau. Gã đưa nàng đi rồi lại bỏ rơi nàng hay sao?

…Rồi mùa mưa Phu Khet cũng đi qua. Trong xưởng may của ông chủ Kính, rất nhiều khuôn mặt quen
đã không xuất hiện nữa, lại xuất hiện những gương mặt mới. Gã vẫn ở đó. Nàng vẫn ở đó… Đêm
đêm, những "bóng ma" nhà bên này lại vượt tường sang nhà bên kia. Những âm thanh thân xác lại
vọng vào đêm tối. Có nhiều kẻ không ngủ được, có kẻ phải ngủ để lờ đi… Chính trong những đêm
không ngủ được đó đã như một liều thuốc giục giã gã làm như những "bóng ma" kia: Lẳng lặng vượt
"tường".

Gã làm điều đó vào một đêm chưa xa mùa mưa. Thực sự, cái ý nghĩ ghê sợ những cuộc tình duyên
như bầy ngựa hoang trong gã những ngày đầu đã xẹp dần. Có thể tình yêu đối với nàng đã trở thành
nỗi cảm thông. Có thể vì những con người khốn khổ trong cái xưởng may đó đã có một thông điệp
ngầm đơn giản:

"Chúng ta đều cô đơn. Hãy đến với nhau nhé!".

Gã nhắm mắt lại và tưởng tượng về nàng. Gã cầu xin một sự may mắn đưa đường để gã đến với
nàng. Nhưng nàng ở đâu giữa hơn chục người đàn bà đang ngủ trong bóng tối kia? Và gã cảm thấy
những giọt mồ hôi chảy thành những dòng nhỏ, lạnh trên sống lưng… Gã nhắm mắt lại…

"Phải quên đi thôi em ạ. Khi mình lấy chồng rồi thì nên toàn tâm toàn ý với chồng, hạnh phúc mới bền
em ạ".

"Em biết. Em cũng không muốn làm gì để có lỗi với Wen Liang. Nhưng em yêu người cũ, thương
chồng em và nhớ người ấy nữa. Em thật khốn khổ, đáng thương phải không chị?".

Vợ gã đứng dậy, ánh nắng đã xiên chéo vào chỗ hai người… Gã lại chìm trong mộng mị…

Gã chạm tay lên vai một người đàn bà mà gã đinh ninh là sự may mắn của tình yêu vẫy gọi. Người
đàn bà có đôi vai nhỏ và tròn trịa. Người đàn bà không động đậy khi gã chạm tay lên vai mình. Nàng
đó. Chính nàng. Gã đinh ninh… Chỉ có nàng mới có bờ vai tròn trịa, nhỏ nhắn thế. Chỉ có nàng mới
có mái tóc suôn mượt và mát lạnh khi chạm tay vào. Gã cúi xuống gần sát nàng, đôi môi gã lướt trên
gương mặt, tìm kiếm đôi môi nàng. Rồi khi môi gã đã chạm vào đôi môi ấm mềm của nàng. Một giọt
nước mắt của gã cũng vừa trôi tuột xuống…

Hai người phụ nữ dời khỏi gốc sung trở vào nhà. Họ sững lại khi thấy gã ngồi nhìn thẳng ra trước
cửa. Hẳn họ hiểu ra: Gã đã nghe câu chuyện của hai người. Vợ gã vẫn ngạc nhiên:

- Anh không đi làm à anh? Gần ba rưỡi rồi….

Gã lắc đầu, tránh đôi mắt cô gái - đôi mắt đầy mộng mị.

- Anh nghỉ.

- Thế chiều nay nhà mình ăn lẩu nhé. Em gái sẽ ăn ở đây.

- Tốt quá! Hai chị em cứ đi chợ đi - Gã buông lời vẻ thân thiện. Vợ gã cười sung sướng như thể lần
đầu tiên có một quyết định tự do.

- Mình ra chợ em nhé!

- Vâng - Cô gái đáp, rồi ngồi xuống bên cạnh gã trong khi vợ gã đi thay quần áo….

Gã thức dậy buổi sáng hôm sau trong tâm trạng phiêu bồng cứ như gã vừa bước ra khỏi một đêm tân
hôn kỳ diệu. Nhưng khi những người đàn bà nhà bên kia kéo nhau vào xưởng, nét mặt ai cũng bình
thản, vô tư. Nàng cũng bình thản, vô tư đi qua gã, nàng còn không nhìn gã thì một lâu đài cát trong gã
sụp đổ. Gã hụt hẫng, chới với… Gã hoang mang hình dung đêm qua gã và người đàn bà nào đó
trong số những người đàn bà kia đã ôm ấp và than khóc. Một người đàn bà nồng nàn, nhưng không
phải nàng. Nhất định không phải nàng….

Gã bỏ lên Băng Cốc tìm bạn. Bạn gã e dè đón gã. Hắn cho gã tiền và gái đẹp. Không hỏi gì, chỉ hỏi:
"My đâu?".

Bạn gã trở lại tìm nàng. Hắn đi một mình và trở về cũng một mình. Hắn nói nàng cũng không còn ở đó
nữa.

Gã không tin nàng đã bỏ đi. Bỏ đi sau khi gã đã bỏ đi. Gã quay lại Phu Khet. Nhưng bạn gã không nói
đùa. Nàng quả nhiên đã không còn ở đó.

…Cô gái im lặng ngồi bên gã. Gã cũng không định hỏi cô điều gì, mà gã cũng chẳng biết hỏi điều gì…

Gã trở về Băng Cốc với bạn. Bạn gã cho gã một cô người tình rất đẹp. Về sau gã mới biết cô ấy từng
là... một người đàn ông.

Gã bỏ về Việt Nam đúng lúc công việc của bạn gã đang phất trở lại. Hắn ngạc nhiên. Gã chỉ cười
khẩy. Trước khi về nước, gã lại một lần nữa lặng lẽ trở lại Phu Khet tìm nàng.

Phu Khet lại vào mùa mưa.

Vợ gã từ nhà trong bước ra với trang phục lịch sự hơn. Gã lẳng lặng dắt xe ra sân cho vợ. Cầm tay
lái, vợ gã ngoái lại gọi cô gái từ bấy vẫn ngồi nguyên chỗ cũ:

- My! Chị em mình đi chợ thôi!

Từ trong nhà, cô gái vạch rèm cửa bước ra. Gã tê dại nhìn gương mặt cô gái. Gương mặt phảng phất
chút liêu trai. Đôi mắt long lanh như có nước mắt vừa mới vuột qua.

- Bọn em đi chợ anh ạ.

Cô gái nói khi lướt qua gã. Một luồng gió mát nhẹ dịu dàng theo cô gái đi qua.

Gã nhận ra: Đó là mùi của tóc

11.Một lần trong đời

Dẫu chỉ một lần thì anh cũng không bao giờ còn là chồng của tôi như trước. Vì chỉ một lần hư hỏng ấy
mà anh đã làm đổ vỡ cả một lâu đài hạnh phúc mà chúng ta có được qua sự vun đắp, nâng niu của
mỗi người trong suốt bấy nhiêu năm. Anh chẳng đã luôn dặn vợ phải giữ gìn sự chung thủy, sao anh
lại tự cho phép mình lăng nhăng với người khác khi xa vợ?

Gần hai tháng nay, Hoàng cứ ốm đứng ốm ngồi, người gầy dộc phải nghỉ việc ở cơ quan để đi chữa
thuốc. Những cơn ho kéo dài, những nốt mẩn ngứa trên da thịt cứ tái đi, tái lại đã ám ảnh Hoàng.
Trước đây Hoàng cũng thường bị chứng viêm họng ho, sốt, nhưng chỉ vài viên "te tra" là khỏi dứt.
Còn nay, hàng chục ống Strep tiêm vào cũng chỉ như nước đổ xuống ao.

Đáng sợ là cơ thể Hoàng sút dần, màu da nhợt nhạt, nổi gân xanh. Những bộ quần áo may cắt công
phu, din là thế mà nay lỏng lẻo, Hoàng mặc vào như đồ mượn. Những lần đến bệnh viện cơ sở khám,
các bác sĩ thường hỏi Hoàng những câu: "Anh có tiêm chích lần nào không? Ngoài vợ ra, anh có
quan hệ với người đàn bà nào khác không?" v.v... Tiêm chích thì không bao giờ, vì Hoàng có nghiện
ngập gì đâu. Còn quan hệ thì... Hoàng trả lời "Không".

Biết mình nói dối nên giọng anh ngập ngừng. Sau đó, Hoàng lõm bõm nghe được những câu họ trao
đổi với nhau: "Tám mươi phần trăm là nhiễm... Nhưng dù sao thì cũng cứ phải qua xét nghiệm...". Rồi
Hoàng bắt gặp những cái nhìn ái ngại sau những cái lắc đầu của họ, càng khiến cho tinh thần anh
thêm hoang mang, rệu rã.

Một hôm, Văn, bác sĩ trưởng khoa, người mà Hoàng quen thân từ hồi còn học phổ thông ở trường
huyện, thân mật đặt nhẹ tay lên vai anh:

- Trước thể trạng không tốt của cậu như hiện nay, nhất là hiện tượng sút cân, ho sốt kéo dài, lại cả
mấy ổ nhiễm trùng trên da, khiến mình nghĩ đến cơ thể cậu bị suy giảm khả năng đề kháng. Để kết
luận cho chính xác thì cậu phải đi xét nghiệm. Mặt khác, còn phải dựa vào những nguyên nhân gây
bệnh. Nếu cậu không tiêm chích thì nguyên nhân thứ hai là quan hệ vợ chồng. Vợ cậu thì khỏe mạnh,
không có gì đáng nghi ngờ. Vậy thì ngoài vợ ra, cậu có còn đến với em nào không?

Hoàng cúi đầu, quay mặt vào tường, không trả lời câu hỏi của Văn.

- Kìa, cậu trả lời đi, đừng ngại. Trong lúc này, chỉ có hai chúng ta, cậu phải nói thật. Mình sẽ là người
giúp cậu. Chẳng gì chúng mình cũng từng ba năm học tập cùng nhau. Mình đi học y khoa, còn cậu thì
có năng khiếu về đàn hát nên vào nhạc viện. Cái nghề của cậu cũng dễ cuốn hút chị em, nhiều khi
không có ý định, nhưng hoàn cảnh đưa đến... Có gì cứ nói thật. Chẳng may mắc phải, mình sẽ làm
mọi việc để giúp cậu... Dẫu không khỏi hẳn thì cuộc sống cũng không đến nỗi bi đát như mọi người lo
sợ.

Nghe những lời Văn nói, Hoàng thấy như tay bác sĩ này đã hiểu hết mọi việc, muốn giấu cũng không
được. Hoàng nắm lấy cánh tay bạn:

- Chuyện hơi dài. Cậu có thì giờ nghe không?

Văn vui vẻ:


- Được. Cậu cứ kể đi, mình nghe.

...Hồi cuối năm, đoàn nghệ thuật của chúng tôi vào biểu diễn phục vụ nhân dân các tỉnh đồng bằng
sông Cửu Long. Chuyến đi dài ngày này đã đem đến cho tôi những tình cảm mới mẻ. Trước hết là
cảnh mênh mông của đất trời sông nước vùng châu thổ với những cánh đồng tít tắp, những kênh
rạch chằng chịt.

Xe chúng tôi bon bon trên những tuyến lộ phẳng lỳ như mặt gương, không một vết lõm ổ gà, một mô
đất gồ sống trâu. Xe tôi bay trên cầu Mỹ Thuận, cây cầu mới vừa dài, vừa rộng, duyên dáng, dịu dàng
như một dải lụa vắt qua sông Tiền để đến với vùng tứ giác Long Xuyên trù phú.

Cảnh vật nơi xứ sở của những câu hò, điệu lý, những nhịp chèo sông nước ở vùng đất phương Nam
đầy quyến rũ, khác hẳn miền Trung Du quê tôi. Nhưng cái cuốn hút tôi hơn cả là những cô gái đồng
bằng với giọng nói dịu ngọt và êm ái, với những nụ cười hồn nhiên và ánh mắt ngây thơ, chân tình.
Các em lạ lắm, kỳ ảo lắm, khiến lòng tôi xao động và bất giác nảy ra lòng ham muốn một sự khám
phá...

Từ trước, vợ chồng tôi được coi là tấm gương mẫu mực về sự chung thủy. Lúc nào tôi cũng coi
Hương là người mà tôi yêu thương nhất. Hương tuy không đẹp một cách lộng lẫy nhưng gương mặt
hiền hậu và e ấp duyên thầm. Hương đảm đang, lo cho chồng mọi việc trong cuộc sống từ nhỏ đến
lớn để tôi rảnh tay vào công việc sáng tác và biểu diễn.

Đối với tôi, Hương là người vợ thảo hiền, vừa hiến dâng trọn vẹn, vừa gánh vác việc nhà, nuôi dạy
con cái một cách chu toàn. Hôm tiễn tôi lên xe, Hương còn cẩn thận xếp vào vali cho chồng nào là
thuốc bổ, thuốc phòng, lại cả tấm hình chụp hai vợ chồng và bé Lan.

Hương ngập ngừng nói, hai mắt đỏ hoe gần như muốn khóc: "Anh phải nhớ uống thuốc đều. Ở trong
ấy lạ người, lạ nước chứ không như ở ngoài này. Nhỡ khi thời tiết thay đổi, chứng viêm họng của anh
lại tái phát thì khổ, lấy ai chăm sóc. Lúc nào nhớ nhà, nhớ con thì anh nhìn ảnh...". "Còn nhớ em thì
sao?" - Tôi đùa. Hương cười, tay dụi mắt, đáp: "Thì lấy đàn ra mà gẩy, như mọi khi ấy. Có thế mà
cũng hỏi".

Suốt hai tháng trời ở trong đó, tôi lúc nào cũng canh cánh lời Hương dặn. Buổi tối tôi uống thuốc đều.
Buổi sáng, khi mọi người còn chưa dậy, tôi đã ra sân vận động thân thể cho máu huyết lưu thông. Và,
đêm nào trước khi đi ngủ, tôi cũng lấy ảnh vợ con ra ngắm...

Ôi, Hương của tôi với vẻ đẹp kín đáo và khắc khổ đang ôm con Lan bụ bẫm, tươi cười. Nhưng, lạ
quá! Cứ chợp mắt đi là hình ảnh những cô gái đồng bằng lại hiện ra trong tâm trí tôi với vồng ngực
căng đầy, với đôi mắt ngây thơ đen huyền và mái tóc tung bay trước gió, líu ríu quanh tôi...

Nơi chúng tôi nghỉ là một khách sạn vào loại bình dân nằm ngay cạnh bờ sông, náu mình dưới những
lùm cây cổ thụ, vừa kín đáo lại vừa thơ mộng. Đêm ấy, một cậu trong đoàn cùng phòng với tôi xin
phép đi đến nhà quen, chỉ còn lại tôi một mình. Trằn trọc mãi không ngủ được, tôi liền lấy cây ghita ra
ngồi ở ban công chơi vài điệu nhạc.

Ngoài đường đã bớt đi tiếng ì ầm của xe cộ. Vài giọt mưa đêm gõ nhẹ trên mái nhà càng làm tôn lên
cái êm ả, gợi chút buồn của đêm thu. Dưới kia dòng sông đang êm trôi, chở theo nhịp chèo mệt mỏi
và những vệt sáng xanh đỏ lấp loáng của những con thuyền ngư phủ...

Trong lúc tôi đang thả hồn theo giai điệu bài "Giọt mưa thu" của Đặng Thế Phong thì vô tình, một cô
gái đến bên cạnh. Chờ cho tôi ngừng tay lướt trên phím đàn, cô mới đặt trước mặt tôi ly cà phê nóng.
- Em mời anh hai dùng.

- Cám ơn. Em đến khi nào mà tôi không biết?

Cô gái hơi bẽn lẽn:

- Vừa mới thôi, nhưng cũng đủ cho em mê quá rồi.

- Về cái gì thế?

- Tiếng đờn của anh.

Tôi chăm chú nhìn người con gái, tuổi chưa quá đôi mươi, có mái tóc buông quá vai còn rối, đôi mắt
vẻ mệt mỏi, hơi quầng, đôi môi mềm mại, không tô điểm. Em có dáng người thon thả trong bộ bà ba
màu gụ mỏng, giống như phiên bản một bức tranh về một cô gái đồng bằng sông Cửu Long đã định
hình trong tôi qua những lần chiêm ngưỡng. Nhưng sao em lại xuất hiện ở đây như một gái "cave"
vốn nhan nhản trong các khách sạn, nhà hàng?

Nghe nói họ vốn "mắt xanh mỏ đỏ", diêm dúa lắm kia mà. Hay là các cô đã chuyển hóa theo tinh thần
"đậm đà bản sắc dân tộc"? Rõ ràng ở các nơi khác, các cô thường phấn son lòe loẹt, ăn mặc hở
hang, nói năng nhõng nhẹo để gợi tình, câu khách. Nhưng cô này thì không. Cô ta rụt dè, kín đáo.

- Anh hai tên chi?

- Em cứ gọi tôi là Hoàng.

- Anh Hoàng sao không chơi đàn nữa đi?

- Tôi chỉ dạo một vài khúc cho đỡ nhớ nhà thôi.

- Một con người có tâm hồn phiêu lãng như anh mà cũng nhớ nhà vậy sao?

- Nhớ chứ. Đối với mỗi con người, đó là cái tổ ấm mà em.

Cô gái yên lặng, thoáng một nét buồn trên mặt. Tôi hỏi:

- Em làm ở đây đã lâu chưa?

- Em ở dưới quê lên đây mới được mươi ngày, chỉ là người thay ga chải đệm cho các anh.

Tôi không giấu nỗi lòng trắc ẩn, nhìn thẳng vào mặt cô gái, hỏi:

- Sao em không kiếm việc khác mà làm? Công việc ở đây, tôi thấy không hợp với em.

Hai mắt cô gái chớp chớp, tay vê vạt áo:

- Má em nợ bà chủ một khoản tiền, vay để chữa bệnh cho ba em, không trả được nên em phải đến
đây làm để trừ nợ. Mà chắc anh Hoàng nhớ chị ngoài ấy lắm nên chi tiếng đờn nghe thiệt da diết?

- Tất nhiên là thế... Thì sao nào?

Cô gái đứng sát vào phía sau ghế tựa, hai tay đặt nhẹ lên vai tôi, cúi xuống ghé sát vào tai tôi, nói
trong hơi thở:

- Thì, thì... đêm nay em xin được ở lại đây với anh để anh đỡ nhớ. Anh bằng lòng chứ?

Một thứ cảm giảm rạo rực như từng lớp sóng xô tới trong lòng tôi. Tuy vậy, tôi vẫn lắc đầu:
- Tôi làm gì có tiền cho em.

- Em đâu có cần tiền. Em chỉ cần tình thương của anh dành cho em thôi, một người con gái tội nghiệp
đó anh! Em biết là kiểu gì rồi cuộc đời em sẽ bước vào những ngày đen tối, nhớp nhơ. Nhìn bọn đàn
ông béo ị, mặt đỏ gay, miệng nồng nặc bia rượu vừa bước chân vào đây là họ đã vội vã đi tìm lạc thú
trên thân thể những người con gái, khiến em kinh sợ. Em đã phải nhiều lần trốn chạy. Gặp anh, nghe
anh đờn em biết anh là người cao thượng, khác hẳn bọn kia. Thôi thì... em xin tặng anh đêm nay, rồi
sau đó, cuộc đời em dù trôi dạt đến nơi chân trời, góc biển nào cũng được...

Một bông hoa vừa hé nở, trước khi bị vò nát, nó khao khát một cánh bướm vỗ về, ấp iu. Là một thằng
đàn ông lại đang xa vợ, trước những lời nói chân tình và tha thiết ấy của cô gái, phải nói là hấp dẫn,
tôi... Vậy là đêm ấy, dẫu không có "phách ngọt đàn say", tôi vẫn hoàn toàn là một khách tình si từ nơi
Cung Quảng đã lén bước xuống thuyền mây để trở về cõi trần tục...

Sáng hôm sau, tỉnh dậy, tôi không thấy cô gái nằm bên cạnh nữa. Nàng đã ra khỏi phòng từ lúc nào
và cẩn thận gài vào dây đàn ghi ta tôi đặt trên bàn một mảnh giấy: "Em phải có mặt đúng giờ ở phòng
trực, không kịp chờ anh Hoàng dậy để chia tay anh và cảm ơn anh đã thương em. Ví tiền anh để
trong túi áo, em chỉ xin anh vừa đủ số nộp cho chủ. Sau này nếu còn nhớ đến em thì anh viết thư cho
em. Tên em là Lệ. Chào anh!".

Đọc xong mấy dòng chữ nguệch ngoạc ấy, tôi thấy lòng mình se lại. Sao Lệ không đánh thức tôi dậy?
Tôi có thể đưa cho em số tiền gấp nhiều lần như thế, dù cho chưa phải đã xứng với giây phút em đã
dâng hiến cho tôi.

Quả thực, tôi không phải là một kẻ sa đọa mà chỉ là một con người đa cảm, dễ mềm yếu trước một
hoàn cảnh đáng thương. Tôi định, nếu sau này khá giả, tôi sẽ gửi tiền cho Lệ để Lệ có thể trở về với
cuộc sống trong sạch. Nào ngờ...

Nghe Hoàng kể xong câu chuyện lầm lỗi của mình, Văn hỏi:

- Chuyện đó, Hương đã biết chưa?

- Trước đây tôi vẫn giấu Hương. Nhưng từ khi nghĩ rằng mình có thể bị nhiễm thứ bệnh quái ác ấy, tôi
đã thành thật nói với Hương và xin cô ấy tha thứ.

- Thái độ Hương ra sao?

- Vợ tôi không hề có một lời ghen tuông và hắt hủi nào, mà ngược lại, tỏ ra rất thông cảm. Hương còn
tận tâm chăm sóc tôi một cách thật là chu đáo, hơn cả trước đây khi tôi chưa thổ lộ những điều bí mật
trên. Cô ấy còn khuyên tôi phải biết lạc quan, tin vào cuộc sống. "Ai chẳng có một lần sa ngã", và giục
tôi phải đi xét nghiệm cho rõ ràng để khỏi bán tín, bán nghi, giày vò về tư tưởng. Biết đâu lại chỉ là
triệu trứng của một bệnh khác.

- Chúng tôi cũng nghĩ như vậy - Văn nói - Y học là một khoa học chính xác, không thể mập mờ được.
Cậu chuẩn bị ngày mai đến Trung tâm phòng chống HIV để xét nghiệm. Chỉ có kết luận từ nơi ấy mới
có thể khẳng dịnh là cô Lệ của cậu có "tặng" cậu thứ "của quý" chết người đó không.

Hoàng nghe lời Văn.

Việc Hoàng đi xét nghiệm do vợ anh lo liệu tất cả, từ xe đò đi lại đến việc ăn ở. Thì còn ai làm việc ấy
nữa. Hoàng nghĩ: Nếu không phải là Hương, người vợ đảm đang trung hậu, mà là một phụ nữ khác
thì đời Hoàng sẽ khốn nạn biết chừng nào.

Trong những giây phút chờ đợi kết quả căng thẳng nhất, tưởng chừng như bóp nghẹt con tim chàng
nghệ sĩ đa tình, Hương vẫn động viên chồng:
- Anh cứ bình tĩnh, dù cho chín mươi chín phần trăm dương tính thì vẫn còn một phần trăm để chúng
mình hy vọng kia mà. Mà dẫu cho một trăm phần trăm đi nữa thì em cũng không bao giờ xa anh. Còn
sống ngày nào, anh vẫn là chỗ dựa cho mẹ con em.

Hoàng mếu máo nói với vợ:

- Em tốt quá! Nhưng dẫu có tồn tại trên đời này thì cái "án tử hình" vẫn cứ treo lơ lửng trước mắt anh.
Cuộc sống có còn ý nghĩa gì nữa đâu em.

- Thôi, không nói nhiều thêm rối. Đã đến giờ hẹn rồi, anh nằm đây để em đi lấy kết quả. Chỉ một lát
nữa thôi, phúc họa thế nào ta sẽ biết.

Vừa nói, Hương vừa đắp lại tấm chăn cho chồng rồi sau đó mới bước ra. Hoàng chờ đợi cái giây phút
nghiệt ngã của đời anh. Đó là lúc mà lưỡi hái tử thần vung lên trước mặt anh cùng với lời tuyên bố:
"Ta báo cho mi biết, cái chết đang từng ngày đến với mi!". Ôi, ta đã một lần dại dột để bây giờ hối lại
thì đã muộn! Người con gái tên Lệ ấy, nàng ngây thơ và trong trắng như một thiên thần. Nào ngờ...

Ý nghĩ về cái chết cứ miên man, xiên xéo, làm cho đầu óc Hoàng tưởng như muốn vỡ tung ra. Hoàng
kéo chăn phủ kín đầu rồi co gập người lại như một con tôm luộc chín, hai tay ôm quặp lấy đầu.

Tiếng chân Hương bước vào. Không vội vã. Hoàng nín thở. Hình như Hương đang đứng cạnh
chồng. Hương không gọi mà với tay giật mạnh cái chăn khỏi người Hoàng và chìa ra trước mặt chồng
mảnh giấy:

- Kết quả đây!

Hoàng giằng lấy mảnh giấy, căng mắt nhìn:

- "Âm tính"! Nghĩa là anh không bị nhiễm! Trời ơi! Mà sao em không vui lên?

Giọng Hương lạnh như tiền, giọng nói như dao cứa:

- Đúng, anh không bị nhiễm HIV, nhưng anh đã nhiễm một thứ bệnh khác còn nguy hiểm hơn cả bệnh
"ết, si đa".

- Sao thế em? Lại còn bệnh gì nữa? Bác sĩ bảo thế hả?

- Không phải bác sĩ bảo mà là tôi bảo. Anh đã mắc bệnh ngoại tình, lang chạ một cách hư đốn, không
thể chấp nhận được.

- Kìa, anh cứ nghĩ là em đã tha thứ cho anh?

- Phải. Tôi có thể tha thứ cho anh, nếu anh mắc "ết", vì "nghĩa tử là nghĩa tận". Tôi tận tụy chăm sóc
anh là chăm sóc một bệnh nhân "ết" để người đó không bị gạt ra khỏi cuộc sống cộng đồng, trước khi
từ biệt cõi đời. Nhưng tôi không thể tha thứ cho chứng lừa dối vợ con, sa ngã trước sự cám dỗ của
xác thịt. Từ nay, anh không còn là người để tôi kính trọng yêu thương nữa.

Hoàng đớ người ra, nói trong tuyệt vọng:

- Kìa em! Anh đã nói rồi. Đó là lần duy nhất anh sa ngã, trong một hoàn cảnh đặc biệt như thế. Từ nay
anh xin thề, sẽ không bao giờ còn mắc nữa.

Người vợ vẫn cương quyết, đưa ra những lời sắt đá:

- Dẫu chỉ một lần thì anh cũng không bao giờ còn là chồng của tôi như trước. Vì chỉ một lần hư hỏng
ấy mà anh đã làm đổ vỡ cả một lâu đài hạnh phúc mà chúng ta có được qua sự vun đắp, nâng niu
của mỗi người trong suốt bấy nhiêu năm. Anh chẳng đã luôn dặn vợ phải giữ gìn sự chung thủy, sao
anh lại tự cho phép mình lăng nhăng với người khác khi xa vợ?

Nói xong, Hương lẳng lặng bước đi, mặc cho Hoàng gióng diết gọi: "Hương ơi! Hãy tha thứ cho anh.
Anh chỉ có một lần ấy thôi, Hương ơi!...".

12.Lão xìn và khỉ con

Một buổi sáng lão Sìn mang khỉ con vào rừng, đuổi nó lên cây nhưng nó không đi, cứ bám chặt cổ
lão. Lão đành mang về. "Trời sinh voi, trời sinh cỏ". Thực phẩm, hoa trái mỗi phiên chợ kiếm được dư
thừa. Khỉ con dễ sai như đứa trẻ ngoan: Kiếm củi thổi lửa, dọn thức ăn, nhảy nhót như đang sống với
bầy đàn. Thỉnh thoảng nó còn gãi lưng cho lão.

Nắng nhạt dần sau rặng núi. Lão chưa kiếm được thứ gì cho tối nay, cho ngày mai. Những bước
chân lò dò, mắt ngơ ngác dán vào các xó lều, gốc cây tìm kiếm vô vọng. Chợt lão nhớ ra khu đỗ xe. Ở
đó người ta hay vứt nhiều thứ tồn thừa trước khi lên xe hơn chỗ bán hàng.

Lão căng mắt tìm kiếm. Có tiếng "èn ẹt" lạ tai? Tiếng gì ở đâu đây? Bản năng săn tìm của thính giác,
khứu giác, thị giác được phát huy tối đa. Lão nín thở tiến dần tới chỗ có tiếng rên, hy vọng vớ được
con gà nhíp què hay con vịt còn lông tơ ngắc ngoải người ta vứt đi. Lão chợt nhận ra chiếc lồng. Một
chiếc lồng tre xấu xí bẹp rúm. Lão mừng nhấc lên, chợt sững sờ bởi hai con mắt tròn to nhìn lão trừng
trừng. Lão chưa kịp nhận ra con gì đã vứt đi ngay. Lão thường dị ứng về những con mắt nhìn mình.
Đôi mắt kia đã làm lão sợ, bỏ đi một đoạn rồi tự nhận ra điều vô lý: Sợ cái gì? Một con gì sắp chết
chứ đâu phải người đời nhìn khinh bỉ, thương hại đuổi đi.

Lão quyết định quay lại xem con gì? Làm sao phải sợ? Lão nhặt chiếc lồng lên nhìn sát vào nan tre.
Một bào thai? Không! Một con chó? Con mèo? Không! Mãi sau lão mới nhận ra đó là con khỉ con gầy
đét nằm dính sát đáy lồng. Chắc nó sắp chết. Nó động đậy cái chân, ngoe nguẩy cái đuôi, mắt nhoè
ướt chớp chớp thầm cầu xin người cứu giúp. Nếu không, chỉ đêm nay nó sẽ chết đói vì mấy ngày
không có sữa mẹ, hoa trái ăn.

Mẹ nó bị tên thợ săn bắn chết, bắt nó nhốt lồng. Nhớ mẹ, nó gầy yếu run rẩy không còn sức. Hôm
nay tên thợ săn mang nó ra chợ, hy vọng kiếm thêm đồng nào hay đồng ấy, nhưng không ai mua.
Nhìn nó sắp tắt thở, tên thợ săn vứt ra bãi cho nhẹ gánh rồi bỏ ra về.

Nó nằm đây, may chết còn toàn thây chứ mẹ nó chết không có xác. Mới cách đây mấy ngày: Trên
cành cây cao không lá, mẹ con đang ngồi phơi nắng. Nó rúc vú mẹ. Một mũi tên găm "phập" sau lưng,
khỉ mẹ rùng mình loạng choạng giữ con bám chặt cành. Máu chảy nhuộm màu lông vàng tía, nhỏ giọt
xuống lá rừng tí tách. Khỉ mẹ dồn hơi sức cuối cùng tìm cho con một chỗ nương thân, nước mắt nhỏ
theo giọt máu. Nén đau cố ôm chặt con trong lòng, tay chuyền cành xuống thấp tìm hết gốc cây này
đến gốc cây khác đặt con, hy vọng bầy đàn tìm đến mang đi...

Lão Sìn khác với tên thợ săn. Lão nhận ra khỉ con thoi thóp, thương cảm quên cả đói, vội bẻ lồng tre
đưa bàn tay nhẹ nhàng nâng khỉ con ra khỏi lồng, áp vào bụng đi thẳng về nhà.

Lão Sìn ở một mình dưới chân núi Văn. Trong ngôi nhà lá, vách đất lụp xụp chỉ có một cửa ra vào che
bởi tấm liếp đan bằng nứa. Một cái giường tre mọt kêu cọt kẹt suốt ngày, mấy cái nồi con méo mó bên
cạnh sáu viên gạch kê làm bếp.

Lão mang hộp sữa rỉ vàng hết vỏ để dành từ lâu ra đút cho khỉ con: "Ăn đi, ăn đi!". Khỉ con ngửi thấy
mùi sữa mút móp má như một đứa trẻ ôm bầu sữa mẹ. Lão hỉ hả: "Ăn đi, ăn đi". Hôm nay lão thay đổi
tính, lẩm bẩm nói nhiều, không biết với mình hay với khỉ con niềm vui sướng? Vì lâu quá lão không
được nói, không ai nói với lão.
Cho khỉ ăn xong, lão Sìn cởi cái áo ngoài rách bả vai trải trên giường, đặt khỉ con nằm, thủ thỉ: "Mày
phải sống, khỏe tao thả về rừng". Lão hỉ hả đưa tay xoa mặt, xoa mấy dẻ xương sườn nổi cộm trước
ngực. Một cảm giác man mát làn da nhăn nheo trên bụng.

Khỉ con được cứu sống, khôn lớn thông minh nhanh nhẹn. Một buổi sáng lão Sìn mang khỉ con vào
rừng, đuổi nó lên cây nhưng nó không đi, cứ bám chặt cổ lão. Lão đành mang về. "Trời sinh voi, trời
sinh cỏ". Thực phẩm, hoa trái mỗi phiên chợ kiếm được dư thừa. Khỉ con dễ sai như đứa trẻ ngoan:
Kiếm củi thổi lửa, dọn thức ăn, nhảy nhót như đang sống với bầy đàn. Thỉnh thoảng nó còn gãi lưng
cho lão.

May trời phú cho lão không ốm nên mới sống đến ngày nay. Nếu lão ốm chắc chỉ nằm chờ chết, bởi
xung quanh lão không có ai... Những người lão gặp không ai để ý đến lão, hỏi lão một câu. Lão thích
được nói nhưng không ai nghe thì nói với ai? Đành lủi thủi một mình...

Từ ngày có khỉ con, lão Sìn thay đổi lối sống, thường sai khiến khỉ con bằng những ngôn ngữ chỉ có
lão biết. Còn khỉ con hiểu lão qua thái độ buồn vui, trên nét mặt hay động tác giơ chân múa tay nhăn
nhở giống khỉ hơn giống những người xung quanh. Lão làm như vậy vui hơn, thích hơn. Lại muốn
sống, muốn làm một cái gì đó, nhưng không biết bắt đầu từ đâu? Làm gì? Mà hoàn cảnh trình độ của
lão thì làm được gì? Thì lão cứ nghĩ vậy, muốn vậy.

Rồi một hôm thầy trò khỉ con đang lang thang kiếm ăn bên gốc cây sung, một đoàn học sinh đi tới.
Chúng thấy khỉ con đang hái quả ném cho lão già khèo liền xúm lại trêu. Khỉ con trêu lại, ném bùm
bụp quả sung xuống tốp học sinh. Chúng cười. Khỉ con cũng nhe răng cười ngặt nghẹo. Chúng giơ
chân múa tay. Khỉ con làm hay hơn chúng. Đoàn học sinh tranh nhau đùa trêu. Đứa cho tờ giấy, đứa
đưa quyển sách, cây bút bảo vẽ, nó làm theo ngộ nghĩnh. Tiếng cười, tiếng nói, tiếng vỗ tay vui như
xem xiếc. Trước khi chia tay, thầy giáo cho khỉ tiền. Các em vui vẻ làm theo như đền đáp buổi vui chơi
thú vị.

Sau buổi gặp đoàn học sinh, lão Sìn có bao nhiêu thứ mà lão chưa bao giờ có, dù chẳng để làm gì?
Nhưng tiền thì tiêu được, cả đời lão mơ có tiền. Muốn có lão phải xin, nhưng lão có chịu xin ai bao
giờ? Lão dẫn khỉ con đi kiếm ăn qua những đám đông hay gặp những người hiếu kỳ. Khỉ con đều
được cho tiền, cho hoa trái thơm ngon, không thiu thối như lão đi bới, đi nhặt. Lão nhận ra những con
người bao lâu lão chạy trốn, họ không thù oán, ghét lão. Mà chính lão không giúp gì được họ. Giá
như lão làm trò như khỉ mua vui, chắc họ cũng không nhìn lão như lão nhìn họ. Bây giờ nhờ khỉ con
mà lão không sợ những con mắt người đời xung quanh.

Lão đổi đời. Không đi tìm bới thức ăn ở xó chợ chiều chân núi Văn.

Tiếng đồn lão già khèo và con khỉ thông minh đến tai lão Voòng, chủ nhà hàng Đặc sản du lịch Rừng
ở thị trấn Cổng Trời. Một hôm lão Voòng cho tay chân gọi lão Sìn mang khỉ con đến biểu diễn tại nhà
hàng cho lão xem.

Lão Voòng đứng giữa sân, hai tay chắp sau lưng, bệ vệ trong bộ đồ chàm dân tộc, miệng ngậm chiếc
tẩu ngà voi vàng óng, thỉnh thoảng nhả làn khói xanh mờ thơm ngai ngái. Lão liên tục gật gù giữa đám
đàn em túc trực hai tay xoa vào nhau xu nịnh.

Khỉ con đâu có biết làm xiếc. Nó chỉ làm theo con người. Ai làm sao nó làm vậy, nhưng khéo hơn,
mềm dẻo hơn. Người ta cười nó cười, khóc nó khóc, nhảy múa nó nhảy múa đủ trò. Giống khỉ là vậy.
Bắt chước, thông minh nhanh nhẹn hơn loài thú khác là bản chất của tổ tiên truyền cho nó từ khi mới
ra đời...

Thầy trò lão Sìn vừa làm được vài trò, lão Voòng đã giơ tay vẫy lão Sìn lại: "Mày để con khỉ lại, tao trả
tiền. Nó ở với mày vừa khổ vừa vô tác dụng. ở đây nó sung sướng, còn hái ra tiền cho tao?". Lão Sìn
chắp hai tay quỳ lạy lão Voòng: "Ông tha cho con. Đời con chỉ có con khỉ này, con không bán được.
Không có nó con sẽ chết mất".

Lão Voòng xếch ngược đôi lông mày rậm như hai chiếc chổi lông, mắt trợn như thần ác: "Mày chết là
việc của mày. Tao thích con khỉ, tiền đây! Cầm lấy". Lão Voòng móc túi lấy ra mấy tờ giấy bạc, vứt vào
mặt lão Sìn. Vài tờ mười ngàn bay lung tung dưới chân như tiền bố thí cho kẻ lang thang.

Lão Sìn đứng bật dậy, nhìn thẳng vào mặt lão Voòng nhếch mép. Nụ cười trên khuôn mặt nhăn nhúm
méo mó, dị dạng của lão Sìn khiến các thớ thịt trên mặt lão Voòng nổi lên giần giật. Tiếng lạo xạo
nghiến vào nhau của hai hàm răng như máy giải khát nghiền đá lạnh. Lão Sìn rùng mình nhớ bụi tre
già đêm khuya thanh vắng xiết vào nhau ken két như tiếng võng đưa của ma quỷ mà lão đã nghe
chuyện mẹ kể ngày xưa.

Lão Voòng chưa từng thấy ai cười mình như thế. Một nụ cười chua chát. Một nụ cười làm lão điên tiết
túm cổ áo lão Sìn nhấc lên như nhấc con rối hề: "Mày có bán không?". Lão Sìn không còn gì để mất,
không còn gì để sợ. Lão đu đưa cánh tay vô dụng như que củi trước ngực, nói rắn: "Tao không bán".
Mắt lão Voòng lại trợn ngược chỉ còn lòng trắng, thần khí con ngươi biến mất: "Thằng này láo, ném
xác nó ra ngoài kia".

Lão Sìn bị đẩy lăn quay ra nền đất, người rúm lại. Bọn đàn em xúm lại lôi xềnh xệch lão ra ngoài cổng.

Khỉ con rít "èn ẹt", gãi bẹn nhảy chồm chồm muốn cứu chủ. Nó làm gì được? Một con khỉ con chỉ có
giá trị làm trò hề. Khỉ con bị nhốt trong lồng sắt khổng lồ ngay giữa sân thay thế con "khỉ già" không
biết làm trò mua vui cho khách.

Nhà hàng đặc sản rừng của lão Voòng từ ngày có khỉ con càng nổi tiếng. Bởi khỉ con không làm trò
vui mà luôn tức giận. Mỗi lần như vậy lại là một trò cười thú vị cho quan khách. Phần đông họ đến
đây để ngắm khỉ con trước khi đặt món đặc sản "óc khỉ trường sinh".

Những con khỉ mặt đỏ được bẫy hàng lồng nhốt trong nhà hàng phục vụ đại gia thích bổ dương khí.
Nhà hàng có một phòng riêng gọi là "Phòng Khỉ". Trong phòng kê một chiếc bàn tròn bằng đá xanh
cẩm thạch, ở giữa khoét một cái lỗ khoảng 10 cm, xung quanh là những chiếc ghế gỗ nguyên sơ, rất
"đặc sản" rừng.

Mỗi khi khách có nhu cầu ăn óc khỉ, chủ nhân sẽ bắt một con trong số những con bị nhốt buộc chặt
vào chiếc cọc dưới gầm bàn như trói một tên tử tội trước pháp trường. Đầu khỉ đặt nhô cao giữa lỗ
bàn chừng 3 cm, được cạo sạch lông trắng hếu, rửa rượu hai, ba lần. Tất cả các vị khách ngồi xung
quanh: bát đĩa, môi thìa sắp sẵn.

Trước khi khai tiệc, rượu được rót đầy chén. "Đao phủ" nhà bếp mặc áo đỏ đầu đội khăn trắng cầm
một con dao bản to sáng loáng sắc như dao chém nước. Sau lời đề nghị, mọi người nín thở nhìn lưỡi
dao phạt sát mặt bàn. Chỉ trong nháy mắt, con khỉ chưa kịp đau chóp đầu đã được cắt rời thành hai
mảnh, xung quanh rớm máu đỏ hồng. "Đao phủ" dùng chiếc chụp nhấc mảnh đầu lên. Bộ óc còn
nguyên lớp màng trắng hồng chằng chịt những đường máu li ti phập phồng. Màn biểu diễn tuyệt hảo!
Những chiếc thìa đụng nhau "canh cách", tiếng hô "dô dô" hòa chung tiếng hét rên xiết giãy đạp ùng
ục dưới gầm bàn.

Nhà hàng có một đại gia chuyên đưa khách đến chiêu đãi óc khỉ. Đại gia nghiện món đặc sản ngầy
ngậy, tanh tanh, phập phồng này nên mỗi khi có hàng mới về là có mặt đại gia ngay. Một hôm, tay đàn
em của đại gia thì thầm: "Lão Voòng mới mua được con vọc con khôn lắm. Nó thông minh như người,
lại là loài quý hiếm. Nếu anh mà dùng óc nó chắc sẽ trường sinh bất tử". Nghe lời tấu, mắt đại gia
sáng lên: "Cậu đến thu xếp với lão". Tay đàn em giọng quan trọng: "Em đã đặt rồi nhưng lão không
chịu. Con vọc ấy lão dùng để làm trò câu khách, không làm thịt được. Trừ phi anh trực tiếp đặt vấn
đề, may ra lão mới chịu!".
đề, may ra lão mới chịu!".

Chiều chủ nhật, đại gia mời mấy bạn nhậu đến nhà hàng. Lão Voòng phải trực tiếp đón khách. Vừa
xuống xe, đại gia đặt vấn đề ngay: "Nghe đâu chú mới kiếm được con khỉ lạ lắm phải không?". Lão
Voòng: "Dạ. Báo cáo anh có! Em mới mua được mấy bữa nay, đang nhốt ở đây". Đại gia nhìn con khỉ
có tướng mạo khác hẳn các loài khỉ thông dụng đã ăn, bụng bảo dạ: "Loài này mới quý, óc nó mới
tuyệt vời. Ăn con này khác nào Bạch Cốt Tinh được ăn thịt Đường Tăng". Đại gia quay lại nhìn lão
Voòng đang chực sẵn phía sau, ánh mắt như một mệnh lệnh. Lão Voòng: "Dạ, dạ! Riêng anh em
không thể từ chối…".

Hôm nay đại gia muốn trực tiếp xem lão Voòng biểu diễn món đặc sản sở trường của nhà hàng.

"Phòng Khỉ" đã chuẩn bị sẵn sàng nhưng mọi người đều ra ngoài sân xem lão Voòng chui vào chuồng
bắt khỉ. Lạ thay, khỉ con không chạy trốn làm trò la rít như mọi ngày mà rất ngoan ngoãn như đứa trẻ
được bế ru. Lão Voòng không ngờ bắt khỉ con dễ đến thế? Lão đã thu phục được chăng? Tự dưng
lão thấy tiếc, muốn từ chối đại gia để khỉ con làm trò câu khách cho nhà hàng. Nếu giết đi thì cái danh
"Nhà Khỉ" nổi tiếng sẽ bị ảnh hưởng. Lão đang tính toán bế khỉ con ra. Khỉ con không động đậy, nằm
im trong tay lão.

Bởi khỉ con đã tính kỹ. Từ hôm bị bắt vào đây, nó rất buồn, luôn tìm cách chui ra khỏi lồng. Nó biết tất
cả mọi chuyện và rất nhớ lão Sìn. Lão đã cứu, nuôi dạy nó trong sự đói khổ nghèo hèn. Nó nhớ lão,
nhớ lúc mẹ bị bắn, nhớ lúc sắp chết trong lồng tre… Nhớ ân nhân của nó bị hành hạ ở chính chỗ này.
Hôm nay nó tìm cách trả thù, tìm cách trốn khỏi đây về đền đáp ân nhân tội nghiệp.

Lão Voòng hớn hở đưa khỉ con cho đại gia xem để đại gia được sờ bộ lông mát rượi của khỉ con.
Thời cơ đúng lúc, chỉ trong tích tắc, khỉ con cong người "tè" vào mặt, vào mắt lão Voòng, rồi nhảy bổ
vào mặt đại gia. Hai bàn tay trước cào hai vệt từ trên má xuống mép đại gia rồi biến mất trong sự ngỡ
ngàng của mọi người. Đại gia đau đớn rú lên. Tám vệt máu chảy dài vào miệng đại gia. Lão Voòng
rống lên như bò bị chọc tiết, đưa hai tay ôm lấy mắt. Lão chợt nhớ lời ai đó nói về loài khỉ: "Nước đái
khỉ như liều thuốc độc, là vũ khí lợi hại tiêu diệt kẻ thù...".

Từ hôm mất khỉ con, lão Sìn không ăn, không uống, nằm liệt giường, thoi thóp nhìn lên xà tre trên trần
nhà, chỗ khỉ con hàng đêm vẫn nằm ngủ. Lão cố nhớ tất cả những mất được của cuộc đời như lời
xưng tội với thánh thần, thượng đế trước lúc đi về thế giới bên kia...

Lão Sìn sống độc thân ở chân núi Văn từ ngày còn bé. Bản tính lão không thích nhờ cậy, phiền ai, lấy
của ai. Liệu kiếp sau của lão có thay đổi? Lão giật mình mở mắt. Có bàn tay nhỏ bé đang sờ lên trán
lão, đang truyền cho lão sức mạnh diệu kỳ. Lão thấy mình phải sống, phải làm một cái gì đó. Phải
sống để che chở cho khỉ con của lão

13.Phố có 3 cô gái

Quang có thói quen ngồi vắt vẻo trên lan can tầng hai nhâm nhi ly cà phê đen khi đã khuya và ngắm
nhìn con phố nhỏ. Dường như vào đêm, mọi hoạt động đều trở nên bí ẩn và kỳ dị như ba cô gái sống
gần căn gác anh thuê.

Quang mới dọn đến căn gác này được 2 tháng. Căn phòng cũ, bẩn và giá thì cũng chẳng rẻ, nhưng
bù lại, nó gần trung tâm và có hành lang thoáng mát nhìn thẳng ra ngã ba của con phố dài hun hút
nhiều cây. Do công việc phải đi cả ngày nên dù đã ở được hai tháng nhưng Quang vẫn chưa nắm
được gì về cư dân ở đây, ngoại trừ ba cô gái mà anh có thể nhìn thấy vào mỗi tối.

Cô gái sống trong căn biệt thự ở cuối phố có cửa sổ nhìn thẳng với hành lang của Quang được anh
đặt tên là số 1. Số 1 thức rất khuya và thường chăm chú làm gì đó như là công việc của một nhà thiết
kế. Cô ta không bao giờ nhìn ra cửa sổ và đặc biệt là cũng không bao giờ kéo rèm cửa lại. Khuôn mặt
số 1 ít khi bộc lộ cảm xúc, nhưng sự bí ẩn của cô lại làm Quang tò mò hơn, nhất là khi số 1 chưa bao
giờ "để mắt" đến anh.

Số 2 ở đối diện với căn gác anh thuê. Cô này có vẻ là sinh viên vì thường đọc sách rất khuya. Thỉnh
thoảng số 2 cũng về muộn và thường hay nhìn trộm anh trước khi vào nhà. Số 2 có khuôn mặt sống
động nhưng lại pha chút gì đó ranh mãnh và gai góc. Điều làm Quang chú ý là cô gái có giọng hát rất
hay và có thể hát bằng nhiều thứ tiếng.

Số 3 ở ngay bên cạnh nhà Quang, rất cởi mở và vui tính. Cô thường ra tưới cây ở ban công mỗi tối
và ngồi hàng giờ thẫn thờ nhìn những chậu cây xung quanh. Chỉ có số 3 là hay hỏi thăm anh nhưng
mỗi khi Quang hỏi về vấn đề riêng tư là cô thường tránh đi nên Quang cũng chẳng biết gì thêm ngoại
trừ việc cô ta mới tốt nghiệp cấp 3 và chuẩn bị đi du học. Tuy nhiên nói chuyện với số 3 thật thú vị vì
cô ta rất hài hước và thường có những nhận xét dí dỏm về nhiều vấn đề làm Quang cười ngặt nghẽo.

Hôm nay cũng như mọi khi, Quang ra ngồi ở hành lang cùng cốc cà phê quen thuộc. Số 2 vẫn chưa
về vì đèn phòng cô không bật. Số 1 thì đang tỉ mẩn với những mảnh vải xanh đỏ và bút vẽ. Quang
nhìn cô chằm chằm, hy vọng cô có thể ngẩng lên để nhìn anh. Quang tự nhủ và giật mình vì ngay lúc
đó số 1 nhìn thẳng ra cửa sổ. Quang chỉnh lại tư thế, nhìn lại cô với bộ mặt chuẩn bị một nụ cười.
Nhưng hình như cô ta không nhìn Quang, cô ta nhìn vào một cái gì đó. Quang ngẩn người nhìn kỹ lại,
có vẻ như cô ta đang nhìn chính Quang, nhưng không một chút cảm xúc. Một lát sau số 1 cúi xuống
và tiếp tục công việc của mình một cách say sưa. Quang đưa tay lên trán tự hỏi mình có đang mắc
bệnh không? Mắc mớ gì mà số 1 phải nhìn lại anh và cười thật tươi để đáp trả bao nhiêu đêm anh
nhìn cô, dù cô chưa biết anh là ai? Chỉ có Quang tưởng bở thì mới nghĩ cô ta chú ý đến mình…

Đang miên man với dòng suy nghĩ, bỗng Quang nghe thấy tiếng gọi nhỏ ở phía dưới. Thì ra là số 2,
cô ta muốn xin ít nước sôi. Sau lần xin nước ấy Quang và số 2 thỉnh thoảng có nói chuyện với nhau.
Quang được biết số 2 tên là Minh và lại còn Hải Minh, tên thì nam tính nhưng càng tiếp xúc Quang
thấy số 2 rất nữ tính và dễ thương. Số 2 hóa ra không phải là sinh viên mà đang đi làm cho một nhà
sách với công việc biên tập. Thảo nào mà Quang thấy cô suốt ngày vùi đầu vào sách.

Càng ngày mối quan hệ giữa số 2 và Quang càng trở nên thân thiết. Một tình cảm gì đó lớn dần trong
họ nhưng hai người vẫn muốn duy trì đơn thuần chỉ là tình hàng xóm. Số 2 có một kiến thức rộng về
lịch sử và văn hóa. Quang thích được đi bảo tàng, chùa chiền hay các di tích lịch sử với cô vào mỗi
buổi chiều thứ bảy vì sẽ được số 2 kể rất nhiều điển tích hay về những nơi này. Bên cạnh số 2 thật
bình yên và thoải mái. Quang có thể kể đủ thứ chuyện về công việc hay những ý tưởng mà người
khác có thể coi là viển vông. Số 2 sẵn sàng chia sẻ với anh bằng một tấm lòng thực sự, khi thì như
một người bạn, khi thì như một người… yêu.

Lấy cớ là trả ơn vì những kiến thức số 2 cung cấp, Quang xin một cái hẹn đi xem phim và ăn tối chỉ có
hai người. Số 2 chọn một bộ phim hài và thực sự là chưa bao giờ Quang thấy một cô gái nào cười
thoải mái hồn nhiên đến thế, cũng chưa bao giờ Quang được thấy một cô gái ăn uống tự nhiên đến
vậy. Mới đầu Quang còn ngạc nhiên nhưng sau đó cũng bị cuốn theo cô. Lần đầu tiên Quang biết ăn
kem vào mùa lạnh mới thấy được hết vị ngon và mát của kem và hóa ra khi mình có thể hét thật to thì
những căng thẳng và mệt mỏi đều tan biến.

- Không biết anh có đang nghĩ những gì mà em đang nghĩ không nhỉ? - Số 2 đột ngột hỏi lúc anh đưa
cô về nhà, khiến Quang không khỏi bối rối.

- Anh lại mong em cũng nghĩ những gì mà anh đang nghĩ - Quang đỏ mặt trả lời.

- Vậy thì chúng ta chơi trò này đi. Vừa nói số 2 vừa lấy ra hai cái bút huơ huơ trước mặt và mỉm cười.

- Trò gì thế? - Quang tò mò.

- Em một cái anh một cái, chúng ta sẽ viết những gì chúng ta đang nghĩ lên tường kia và xem chúng
ta có nghĩ giống nhau không? - Số 2 nói xong nháy mắt với Quang và chạy về phía bức tường đối diệ
n

Quang nghĩ cô ấy thật thú vị, nhưng Quang lại lo lắng không biết có nên nói thật những gì mình đang
nghĩ không? Vì có thể số 2 không nghĩ giống Quang thì thật xấu hổ. Nghĩ vậy Quang xóa đi dòng chữ
" Anh rất có cảm tình với em" mà thay bằng chữ "Đi chơi với em thật vui".

- Anh xong chưa? - Số 2 mỉm cười nhìn Quang.

- Xong rồi, còn em - Quang vừa dứt lời thì số 2 đã chạy ngay đến và đòi xem trước.

- Ui, khác nhau rùi, em đang nghĩ xấu về anh. Mà thôi không cho anh xem nữa - Số 2 nháy mắt nói.

Quang không đồng ý nên cố gắng tìm xem số 2 viết gì nhưng do trời quá tối nên không thể nhìn thấy
gì. Trước khi vào nhà, đột nhiên số 2 ôm chầm lấy Quang và đặt một nụ hôn thật sâu rồi chạy vội vào
nhà trước khi Quang kịp hiểu điều gì đang xảy ra.

- Hôm nay hai người đi chơi có vui không? - Số 3 hỏi khi thấy Quang vừa xuất hiện ở hành lang.

- À, vui, rất vui. Em chưa ngủ à? - Quang xấu hổ đáp.

- Trông mặt anh là biết rồi, Minh là một cô gái thú vị, chắc chắn anh sẽ có nhiều bất ngờ.

- Nhưng anh... mà thôi... Hôm nay anh đi ngủ sớm đây, chúc em và mấy chậu cây ngủ ngon.

- Anh Quang! Chờ em chút - Nói xong số 3 nâng lên một chậu cây và đưa cho Quang.

- Phòng anh thiếu ôxy quá, như vậy không tốt cho sức khỏe, anh cần mang thiên nhiên vào nhà. Em
tặng anh chậu cây này - Số 3 mỉm cười nói.

- Ồ tuyệt quá! Anh cảm ơn em, anh sẽ chăm sóc nó cẩn thận. Hy vọng sẽ có dịp để trả ơn cô chủ của
nó.

- Không cần trả ơn đâu.

Sáng nay Quang dậy muộn hơn mọi ngày vì cả tối qua thao thức nghĩ về số 2. Anh vùng chạy xuống
nhà để kịp chào số 2 nhưng đã thấy cửa đóng im ỉm. Có lẽ số 2 đi làm rồi.

- Hi, chúc anh một buổi sáng tốt lành, chậu cây có giúp anh một giấc ngủ ngon không? - Là số 3. Hôm
nay cô mặc áo dài trắng trông rất dễ thương - Quang ngạc nhiên hỏi.

- Vì hôm nay em đi họp lớp nên em muốn trở lại thời cấp 3 một chút. Trông em thế nào?

- Liệu bây giờ anh có được vinh hạnh đưa em đến trường không nhỉ? - Quang đùa.

- Rất tiếc là em có bạn đưa rồi. Em sẽ bù cho anh vào một dịp khác - Số 3 liến thoắng nói rồi đi nhanh
ra cửa.

- Một cô bé thật dễ thương - Quang thầm nghĩ.

Tối nay công ty Quang có tiệc nên Quang không có thời gian để về gặp số 2, nhất định lần này mà về
Quang sẽ nói cho số 2 tình cảm mình đã ấp ủ bấy lâu nay.

- Này, sao chú hôm nay không uống rượu vậy, hay tại "mồi" không ngon? - Trưởng phòng vỗ vai hỏi
Quang.

- Dạ, lát nữa em còn phải đi đón mẹ chuyến tàu đêm nên em xin khất lần này vậy - Quang nói dối để
từ chối.

- Lý do này không được chấp nhận vì tôi biết mẹ cậu… Nhưng thôi, tha cho cậu tội nói dối, nhưng
không thể tha tội trốn rượu được. Nào! Mang "mồi" ra đây cho cậu Quang thưởng thức đi

Quang chưa kịp phản ứng thì cửa mở. Một tốp cô gái ăn mặc mát mẻ chạy ùa vào. Quang chưa uống
giọt rượu nào nhưng đầu óc choáng váng khi nhìn thấy một trong những cô gái kia là số 2. Số 2 cũng
bất ngờ khi gặp Quang, cô vụt chạy ra ngoài. Phải một lúc sau Quang mới chạy theo số 2 nhưng khi
ra đến cửa, không hiểu nghĩ ngợi gì Quang dừng lại và quay vào phòng.

Khi về nhà thì Quang đã say mềm, anh không biết đã uống bao nhiêu rượu nữa.

Sau đêm ấy Quang sốt cao. Mỗi lần lờ mờ tỉnh giấc anh thấy số 3 đang chăm sóc mình...

Khi Quang đã hạ sốt và ăn được thì cũng là lúc số 3 thông báo cô sẽ đi du học. Quang rất buồn khi
phải chia tay cô bạn nhỏ đáng mến này và còn buồn hơn khi bây giờ anh không còn ai tâm sự.

- Anh nhớ phải chăm sóc chậu cây nhé - Số 3 dặn dò anh với đôi mắt long lanh và anh thấy dường
như có rất nhiều nước ở trong ấy.

Anh không gặp số 2 nữa và số 2 cũng tránh mặt anh. Anh không biết nói với số 2 điều gì bây giờ. Cô
ấy đã nói dối anh, đóng kịch với anh để biến anh thành một chú cừu Dolly. Cảm giác bị lừa dối đã
khiến Quang không muốn gặp số 2 nữa. Có đôi lần anh thấy số 2 chạy vội vào nhà và đóng cửa im
ỉm. Cô cũng không còn đọc sách và hát nữa. Quang phải thừa nhận nhiều lúc anh nhớ cô da diết,
nhớ nụ cười và điệu bộ của cô, nhưng khi nghĩ lại buổi tối hôm đó, anh lại quyết tâm không gặp cô
nữa.

Một tháng sau thì số 2 chuyển nhà. Quang không biết gì về việc này cho đến khi chủ nhà treo biển
cho thuê. Quang cảm thấy xốn xang trong lòng. Dẫu vậy, anh vẫn ngại không muốn tìm gặp cô.

Bây giờ mỗi buổi tối chỉ còn anh và số 1, cũng là một "bóng hồng" của Quang lúc mới chuyển đến
đây. Đã lâu không để tâm lắm đến số 1 nhưng anh có cảm giác cô vẫn chẳng hề thay đổi, vẫn phong
cách làm việc chăm chú và không bao giờ nhìn ra cửa sổ. Quang thực sự muốn tìm hiểu về cô bé này
vì ở số 1 có cái gì đó gần như là... bí hiểm.

Công ty Quang chuyển cơ sở và vì vậy Quang cũng phải tìm chỗ ở mới cho thuận tiện. Trong ngày
chuyển nhà bận bịu, Quang đã quên mang đi chậu cây của số 3, cô bạn dễ thương của anh. "Rồi cô
ấy sẽ trở về thôi", Quang tự nhủ để xoa dịu cảm giác hơi có lỗi khi đã hứa như đinh đóng cột với cô
bé là chăm sóc chậu cây.

Khi qua nhà số 1, lần đầu tiên Quang được dịp quan sát cô bé cận cảnh. Số 1 thực sự là đẹp, một vẻ
đẹp kiêu sa xen lẫn bí hiểm càng làm người khác bị thu hút. Số 1 bước lên ôtô với phong cách của
một tiểu thư và không thèm liếc nhìn Quang lấy một cái.

Quang không phủ nhận là mình ao ước có một điều gì đó nhiều hơn với số 1 nhưng tự nhủ là quá xa
vời với mình nên Quang đành quay trở về với hiện thực.

Có lẽ phải gần một năm. Bây giờ Quang đang đứng trước con phố nhỏ, đứng trước bức tường một
năm trước Quang và số 2 đã chơi trò viết chữ ở đây.

- “Bây giờ em đang ở đâu?" - Quang vẩn vơ hồi nhớ. Quang đưa tay rò rẫm từng milimét trên bức
tường cũ nát. Quang dừng lại ở dòng chữ nhỏ, đã mờ nhưng thật may vì số 2 có cách viết luôn cho
hình mặt cười vào bên cạnh. "Em yêu Anh". Đó là những gì anh đọc được.

Nhớ lại ngày ấy, Quang cũng đã định viết như vậy. Nhưng Quang đã phủ nhận nó. Một năm qua, đủ
để Quang hiểu, mọi thứ diễn ra xung quanh Quang dường như đều in đậm dấu ấn của cô gái số 2.
Anh ân hận vì đã không để cô giải thích. Anh thật là một thằng tồi.

- Cậu Quang đấy à? - Bà lão bán hàng nước vừa đi chợ về lên tiếng chào Quang.

- Dạ chào bà, cháu đến hỏi thăm xem Quỳnh Anh đã đi du học về chưa ạ, vì cô ấy chẳng để lại địa chỉ
cho cháu.

- Tội nghiệp, cháu không biết gì à? Nó nói dối đấy chứ nó bị suy thận, thỉnh thoảng lại đi chạy thận.
Lần này nặng quá và bố mẹ cũng chẳng còn tiền nên đưa nó vào Sài Gòn vừa chữa chạy vừa làm ăn
để có tiền chữa bệnh cho con. Nhưng nó đi rồi, mới có một tháng. Rõ khổ, con bé đến là ngoan và
yêu đời lắm.

Giọng bà lão đều đều nhưng Quang nghe như là bà đang nói về một thế giới xa lơ xa lắc nào đó chứ
không phải nói đến cô bé ngoan hiền dễ mến mà Quang từng biết. Quang có cảm giác mỗi bước chân
của mình như đang bập bềnh đi trên mây.

Trước khi tạm biệt anh, cô bé có thể biết bệnh tình của mình sẽ không qua được nên đã dặn anh
chăm sóc chậu cây và cố giấu đi những giọt nước mắt.

"Anh xin lỗi vì đã thất hứa với em, anh đã không chăm sóc chậu cây cẩn thận nên em giận anh lắm
phải không".

Quang chào bà hàng nước định quay về thì lại nghe bà chép miệng, giọng rầu rầu.

- Chả hiểu phố này có điềm gì mà cả ba cô gái đẹp và ngoan sống ở đây đều gặp hết hạn này đến
hạn nọ.

- Bà nói gì cơ ạ? - Thực sự Quang không muốn nghe thêm một tin sét đánh nào nữa. Quang thầm
mong đấy không phải là tin về số 2.

- Cậu biết cô Linh Chi sống ở biệt thự 65A kia không? Rõ khổ, người đẹp là thế mà bị tâm thần, suốt
ngày lẩn thẩn cắt vải chơi với búp bê. Giờ bệnh nặng rồi nên không thể ở nhà được nữa phải vào
trại. Con bé Minh thì cũng khổ, làm cảnh sát hình sự, suốt ngày phải tiếp xúc với bọn đầu trộm đuôi
cướp nên ế chồng cũng chả hiểu đi đâu rồi.

Bà lão vẫn giữ nhịp kể chuyện đều đặn nhưng trong lòng Quang không biết là bao nhiêu con sóng
đang cuộn lên.

"Quang ơi! Mày thực sự là một thằng tồi. Mày đã trách nhầm Minh rồi" - Quang thầm kêu lên. Tại sao
Quang lại để mất Minh dễ dàng đến như vậy? Minh - bây giờ anh biết tìm em ở đâu? Liệu em có còn
nhớ đến anh không?

14.Người không gõ cửa

Vụ việc xảy ra đã năm năm, nghe đâu cô Thùy Trang vẫn chưa lấy chồng. Vậy là trước khi ra bến tàu
đêm, tớ đi bộ ghé qua ngôi nhà ấy, gọi là chào nhau một câu, cảm thông với nhau một câu cũng được
chứ gì. Nhưng rồi tớ đứng ở cổng rất lâu. Bây giờ tớ còn nhớ rõ cảm giác cứ mỗi lần đưa tay lên bấm
chuông, tớ đều rụt lại. Hình như lúc ấy có một nỗi buồn ở đâu xâm xỏa vào người tớ, khiến tớ thẫn
thờ và buồn khủng khiếp.

Hội Chùa Hương năm nay không hiểu vì sao khách thập phương đổ về đông đến thế. Bãi đất rộng
được làm chỗ gửi xe của thôn Nhất Khê trở nên chật ních, xe tiến, xe lùi chạm vào nhau kêu ken két.
Nhìn nước da hay biển số của hàng loạt xe ôtô kia, cánh bảo vệ đeo băng đỏ cũng có thể đoán được
khách trẩy hội ấy sang hèn thế nào. Khách xuống xe, ai nấy trông ngơ ngác, háo hức. Còn lúc trở ra
thì thần bí và vội vã lắm, phải đi ngay như sợ sự đắc đạo vừa thẩm sâu bay vợi đi.

Chiều nay cũng vậy, khi đoàn khách của xe 51B loại 15 chỗ quay ra, vẻ mãn nguyện pha chút thần an
mơ màng lăn tăn hiện lên trên từng khuôn mặt, bỗng anh lái xe thoắt sững người, la lên:

- Trời ơi! Vỡ… gương rồi!

Phản ứng bất thần ấy kéo 13 người đi cùng xe ùa tới. Họ đều trố mắt trước chiếc gương chiếu hậu
bên tay lái của chiếc xe mới xuất xưởng rạn nứt nham nhở như ruộng nẻ ngày nắng hạn. Hơn chục
khuôn mặt cười đau khổ khi nhìn vào chiếc gương. Bà Thùy Trang, Tổng giám đốc công ty nói nhỏ,
giọng rất đanh: "Gọi bảo vệ. Không thể tắc trách như thế này được". Người lái xe trẻ ríu rít vâng vâng,
dạ dạ đi ra phía cổng bãi.

Phải nói là cánh bảo vệ làm việc nhanh nhẹn và trách nhiệm thật. Chỉ mấy phút sau, hai anh đeo băng
đỏ đã te tái chạy tới. Một anh rờ rẫm chiếc gương, chép chép miệng: "Lạ thật, lạ thật" rồi nhìn quanh.
Hai bảo vệ cũng không ra tiếc, cũng không ra vẻ nhận lỗi, không dám nhìn thẳng vào khách như sợ bị
bắt quả tang vậy, một vẻ cư xử hoàn toàn thụ động, khác hẳn lúc réo còi chỉ dẫn. Có lẽ phát hiện ra
vẻ yếm thế của hai bảo vệ có khuôn mặt cũ kỹ trái ngược với vẻ hào hoa của con xe mới coong,
người lái xe được thể, chống nạnh:

- Các bác tính thế nào? Có đền không thì bảo.

- Đền! - Hai bảo vệ đồng thanh kêu to - Đền là đến thế nào? Đền bao nhiêu?

Hình như họ chưa thoát ra được sự đuối lý. Một khách đàn ông trong đoàn xe tiến lại, nói rất nhanh
như muốn sớm kết thúc câu chuyện:

- Một chiếc gương mới. Tương xứng với giá trị chiếc xe gần 3 tỉ đồng mới mua. Phải chục triệu chứ
không ít đâu. Các bác giải quyết nhanh, đừng để chúng tôi báo công an. Rách việc.

- Chục triệu! Khiếp! Lấy đâu ra.

- Thế thì ra đồn công an. Đi. Mời các anh đi cùng!

Kể ra, đòi chục triệu bạc là hơi quá, điều đó ra vẻ nịnh bà Tổng giám đốc nhiều hơn là mặc cả. Thế
nhưng, cách nói từ "bác" mà chuyển sang "anh" là căng thẳng rồi đây. Âm thanh của số tiền lớn bắn
vào tai đã buộc cánh bảo vệ phải tính toán nhanh lắm. Một bảo vệ liến thoắng:

- Ra thì ra. Sợ gì. Công an là công an ở đây, chứ đâu xa. Nhưng mà này. Đây nói cho mà biết nhé,
phải đi giám định, ai biết nó vỡ lúc nào nào. Từ Sài Gòn ra, gương vỡ ở đâu gửi vào đây bắt đền
chúng tôi thì sao. Đấy, như thế đấy.

- Đúng, đúng rồi! - Anh bảo vệ thứ hai bám vào lý lẽ mới.

- Không được. Không đúng. Phải đền cho chúng tôi - Cả đoàn nhao nhao. Riêng bà Thùy Trang,
khuôn mặt hiện rõ sự buồn bực, đỏ lựng lên. Nhưng lúc bà nói, mặt như tươi tắn hơn, đượm sự dịu
dàng của người có học thức:

- Chúng tôi ra đây đi lễ Phật. Sao các bác lại nghi ngờ chuyện cái gương nhỏ? Các bác là quê hương
của Phật, nói thế là phải tội lắm. Cho tôi gặp lãnh đạo của các bác.

Đúng là giọng lãnh đạo có khác. Hai bảo vệ nhà xe im như thóc. Cũng có thể nhắc đến Phật làm họ
sợ hơn, buộc quay về vởi bản thiện thì phải. Người quê đây chỉ hung hăng với người dương, chứ với
người âm, có các tiền cũng không dám.
Mấy phút sau, ông trưởng thôn xuất hiện. "Kia, bác Tịnh, sếp chúng tôi ra kia". Một anh bảo vệ chỉ
người đàn ông đang đi từ cổng vào.

Dáng đi tập tễnh, bước dài bước ngắn của một người đàn ông tóc ngắn lớm chớm bạc khiến ai cũng
phải ngay ngắn nhìn ra. Khuôn mặt ông chằng chịt những vết sẹo cứ vá víu vào nhau, đỏ tấy lên.
Người từng trải đoán ngay đó là khuôn mặt của một người lính bị bỏng do bom napan thời chiến
tranh. Nhìn gần ai cũng thấy sờ sợ khuôn mặt có phần kỳ dị ấy. Nếu không có nét cười hiền khô phơi
ra bộ răng trắng bong, có lẽ đến trộm cướp còn phải lảng, huống gì là đám khách lạ vỡ chiếc gương
bé tẻo teo.

Bà Tổng giám đốc chăm chắm nhìn, có lẽ do phát hiện ở ông Tịnh điều gì đấy như là bất chấp, bặm
trợn, hay trong bà đang nảy ra ý nghĩ, gặp kiểu người này tốt nhất là chuồn đi cho sớm, nhất là còn
nghe rõ tiếng anh bảo vệ rỉ tai ông Tịnh, ông ta gật gật cái đầu ra chiều quyết đoán lắm. Lại đáng sợ
hơn khi ông ta dường như đoán ra ngay bà là lãnh đạo nên đã tập tễnh chầm chậm bước tới. Chao ôi
lại còn nhìn thẳng vào đôi mắt chớp chớp của bà mà nói giọng lễ phép đến không ngờ:

- Dạ thưa chị. Tôi là Tịnh, Trưởng thôn, chịu trách nhiệm bảo vệ ở đây. Hai chú bảo vệ của tôi có lỡ
lời, xin chị và đoàn bỏ qua cho. Anh em nó sợ tôi quở trách, trừ lương nên nói vậy. Chú này vừa báo
cáo tôi phải đền chiếc gương mười triệu đồng. Thưa chị, tôi thấy như thế là phải - Rồi ông quay sang
hai người bảo vệ - chạy về bảo bà nhà tôi mở rương cho tôi vay mười triệu. Tính sau. Nhanh lên.

Anh bảo vệ ngần ngừ một chút rồi cắm cổ chạy, như thể được giải thoát khỏi tình huống không đủ trí
khôn để đối đáp. Không hiểu sao lúc này bà Thùy Trang lại lúng túng trước tiếng thở phào của cả
đoàn. Mãi rồi bà mới khẽ khàng:

- Dạ thưa, tuy bực quá đi mất, nhưng bác nói vậy… Xin lỗi bác, bác là, à không, giống một người em
rất quen, có thể em nhầm…

Có thể hiểu câu nói của bà Trang là một thông điệp giảng hòa cũng nên. Chứ làm sao có chuyện tít
trong Nam ngoài Bắc lại quen nhau. Ông Tịnh dường như cũng ngớ ra một chút xíu, rồi khuôn mặt lại
quay về tâm trạng của một kẻ hối lỗi. Ông nhìn lướt cả đoàn một lượt, nói một cách thật lòng:

- Thế này các anh, các chị ạ. Tôi sẽ xin hoàn lại đúng số tiền mà đoàn yêu cầu. Có điều này xin với
chị trưởng đoàn, là đừng trách chú lái xe. Chú ấy không có lỗi gì. Quân của tôi mới có lỗi vì đã trông
nom không cẩn thận. Tôi nghĩ việc tiền bạc này có thêm bớt triệu này triệu kia chỉ là chuyện nhỏ, có
thể đền bù được. Nhưng có một chuyện lớn hơn rất nhiều mà chúng tôi thành thật xin lỗi các anh, các
chị, đó là để các anh, các chị đi lễ Phật mà còn thấy không vui, không thanh thản khi rời làng Nhất
Khê chúng tôi. Xin lỗi đến bao nhiêu cũng không "đền bù" được khoảnh khắc thiện tâm của đoàn ta.
Mong chị trưởng đoàn cảm thông với anh em giúp tôi…

Cả một bãi xe lúc ấy dường như im phắc. Cả mười mấy con người chẳng hiểu ra làm sao, miệng há
ra vẻ kinh ngạc, chăm chắm nhìn ông Tịnh như vừa chui dưới đất sâu lên. Họ không còn nghe tiếng
gầm rú, tiếng còi xe ồn ã, cũng không ai nhìn thấy anh bảo vệ chạy toát mồ hôi cầm ra một bọc tiền.

Bà Trang cũng vậy, bà hiểu rất nhanh rằng, ở vùng quê thời làm ăn chụp giật lại có một người đàn
ông hiểu đời đến thông tuệ, sâu sắc đến vậy, không phải là chuyện vừa nữa? Bà hiểu, người này
không phải bình thường, cái vẻ bề ngoài đáng sợ, lam lũ kia đánh lừa người ta. Khẩu khí này của ông
Tịnh càng khiến bà mơ hồ nhớ về câu chuyện ba mươi năm trước. Hình như nắng chiều ở vùng quê
lúc này dịu hơn, hay cơn gió nhẹ xua hoàng hôn đang về mát mẻ khiến miệng bà nở một nụ cười tươi
nhẹ. Bà tiến đến chủ động đưa tay ra bắt tay ông Tịnh:

- Thôi bác. Bác nói vậy là chúng tôi cảm ơn bác lắm rồi. Quả là chúng tôi cũng chỉ cần có vậy - Bà
quay về phía đoàn mình nói - Thôi anh chị em nhỉ? Cũng không phải "gì" nữa nhỉ? Được chứ hả?
Cả đoàn "dạ" một tiếng răm rắp như quân lệnh. Bà Trang cố ý không dùng tiếng "đền" nặng nề kia
khiến tất cả như được trút bỏ sự căng thẳng. Mấy bảo vệ kia thì rõ rồi, mặt tươi tỉnh hẳn lên, cố gìm
một tiếng cười to để tỏ ra mình cũng là phận cao đạo chứ không phải kẻ vừa thoát nợ. Quả là có
những thời khắc hiếm hoi khiến ai cũng thấy mình như lớn hơn một chút.

Cả đoàn vội vã giục nhau lên xe như đến lượt họ muốn thoát nhanh ra khỏi tình huống khó xử mà ông
Tịnh vừa mang đến. Còn ông Tịnh thì cầm bọc tiền, cũng không vật nài nữa, chỉ đưa hai tay lên
ngang ngực thay cho một lời chào, thay cho một lời tạ nhận theo cách của ông thì phải.

Rồi ông tập tễnh ra cuối chiếc xe 51B, đi lùi ra hiệu xi nhan cho chú lái xe đang ngoái đầu qua cửa
kính để nhìn đường. Tay này ông Tịnh khoát bên phải, tay kia ông khoát bên trái, cả bọc tiền cứ chao
đi chao lại sau kính xe mù bụi khói, trông thương quá.

Ra đến cổng, chiếc xe vù đi trong tiếng chào to nhất loạt. Riêng bà Trang thì lặng im trên ghế, mắt xa
xăm, đỏ lựng như người xấu hổ vì bị bắt quả tang điều gì. Khi đã xa cái bến xe tội nghiệp ấy, bà mới
quay lại nhìn rất lâu, chỉ thấy thấp thoáng những dòng người nhòa vào nhau trong nắng chiều da diết

Bà Trang sẽ không bao giờ biết lúc ấy, ông Tịnh cũng buồn bã, cúi đầu tập tễnh lê những bước nặng
nề quay về phòng bảo vệ. Dáng đi ấy lâu lâu cánh bảo vệ chỉ thấy những lúc ông mang vác một vật
rất nặng hay vừa giải quyết một việc gì quá sức, thế nên họ đang chờ một sự quở trách từ ông để
được sẻ chia với người trưởng thôn đáng kính. Hai "người lính" vẻ biết điều lặng lẽ đi sau, một anh
nói nhỏ: "Bái phục. Bái phục. Suýt thì mất hơn 5 tấn thóc. Bái phục sư huynh. Bái phục!". Đáp lại, ông
Tịnh nói nhỏ:

- Cử tốp tối đến trông bến. Hai chú vào đây.

Cả ba ngồi xuống tấm phản. Động tác ngồi kiểu ấy nghĩa là chén rượu phải được rót ra. Một tiếng
"cạch" nhỏ, ông Tịnh nhìn thẳng vào hai chú bảo vệ, mệt mỏi nói:

- Tớ không chịu được. Phải nói với các cậu. Bà Trang là người quen tớ.

- Quen. Thật hả anh. Sao không nhận. Trời ơi. Yêu anh à?

- Ngày xưa bà ấy bị tớ bắt tạm giữ trong một chuyên án.

Hai cậu bảo vệ há hốc mồm, để nguyên chén rượu trên tay. Khuôn mặt ông Tịnh đỏ dần lên, có lẽ do
ký ức ùa về dập duềnh trên khoé mắt nhiều hơn là chút men rượu vừa nhấp khỏi môi. Chao ôi, mấy
chục năm chỉ làm việc ở Công an phường cho đến lúc về hưu, biết bao nhiêu những cảnh ngộ buồn
vui sẽ tái sinh khi bất ngờ có những khoảnh khắc như buổi chiều nay gặp lại Thùy Trang.

- Các chú biết không? - Ông Tịnh bắt đầu trải lòng - Bà ấy đã tìm tớ bao nhiêu năm. Nhưng run rủi thế
nào mà "đếch" gặp được. Xin lỗi, tớ nói tục một câu. Chuyện cũng đơn giản thế này.

Tớ được lệnh của Trưởng Công an phường tạm giữ công dân Lê Thùy Trang, nữ sinh viên Y khoa
hơn 2 tiếng đồng hồ ban đêm vì một lý do rất vớ vẩn là cô ta để quên chứng minh thư. Năm 1975,
thành phố vừa mới giải phóng, quản lý hành chính chặt lắm. Ở cấp thấp như tớ, nhiều khi chỉ thực
hiện lệnh của trên mà không dám hỏi lý do. Chứ người như tớ, thấy một cô gái xinh, mình lại chưa vợ
chả muốn làm quen quá đi chứ, rồi có thể xác minh địa chỉ rất nhanh để cho cô ta về.

Đằng này, giữ một người con gái nhà lành tới nửa đêm, để cô ta khóc lóc, nước mắt giàn giụa, không
có điện thoại để liên lạc với gia đình thì chính tớ cũng phản đối cấp trên. Hình như là mình trái luật.
Nghe tớ nói vậy, Trưởng Công an phường quát toáng lên: "Cậu thì biết cái gì. Mới chân ướt chân ráo
từ rừng ra. Luật, luật cái gì". Nói thế thì chịu rồi.
Thế là tớ và cô ta ngồi nói chuyện. Cô gái miễn cưỡng nghe tớ kể chuyện đời lính, chuyện miền Bắc.
Thứ đó không bí mật nên kể thoải mái. Chết một cái là cô ta không nói bố mình là ai. Sau mới biết bố
cô là "cốp" ở thành phố thì mọi việc đã muộn. Khoảng 12h đêm, trưởng phường ra lệnh cho cô ta về.
Lúc bố cô cho xe ôtô đến đón, Trưởng Công an phường trốn ngay. Mình tớ ở lại chịu trận. Lúc ra về,
cô ta nhìn tớ nói: "Các anh sẽ phải chịu trách nhiệm", nhưng không có vẻ thách thức.

- Thế rồi sao? Sao trước đó không cử người xác minh địa chỉ, cho cô ta về sớm đi? Đỡ rách việc.

- Cậu hỏi thế là có thể làm công an phường được rồi. Thực ra tớ được lệnh giữ Thùy Trang vì cô ta
liên quan đến một đường dây trốn đi nước ngoài. Đêm đó, nếu cô ta có mặt ở nơi hẹn, sẽ bị mắc mưu
một nhóm tội phạm bắt cóc lên thuyền vượt biên để bán làm vợ của một tên cướp biển.

- Ly kỳ quá. Như tiểu thuyết. Sao không nói rõ cho cô ta.

- Hơn một năm sau, khi phiên tòa xét xử công khai vụ án, bác sĩ Thùy Trang được mời làm nhân
chứng. Lúc này cô ta mới biết sự thật thì tớ đã bị kỷ luật chuyển đi phường khác rồi. Sau phiên tòa,
cô ta đến phường cũ tìm tớ và xin rút lại đơn kiện. Nhưng mọi chuyện đều đã xong. Tớ biết nhiều lần
Thùy Trang tìm tớ ở phường mới, có lần để lại thư. Trong thư có cảm thông, coi tớ là ân nhân, tha
thiết mời tớ đến nhà để gia đình được nói lời cảm ơn.

- "Sư huynh" không tới chứ?

- Không. Tớ đã tới. Nhà người ta ở phố lớn. Nhiều lần tớ đã đi qua, đã tò mò nhìn vào ngôi nhà xây
theo kiểu biệt thự có giàn hoa gì thơm lắm. Tại sao tớ tìm đến? Lần này tớ được chuyển công tác ra
Bắc. Vụ việc xảy ra đã năm năm, nghe đâu cô Thùy Trang vẫn chưa lấy chồng. Vậy là trước khi ra
bến tàu đêm, tớ đi bộ ghé qua ngôi nhà ấy, gọi là chào nhau một câu, cảm thông với nhau một câu
cũng được chứ gì. Nhưng rồi tớ đứng ở cổng rất lâu. Bây giờ tớ còn nhớ rõ cảm giác cứ mỗi lần đưa
tay lên bấm chuông, tớ đều rụt lại. Hình như lúc ấy có một nỗi buồn ở đâu xâm xỏa vào người tớ,
khiến tớ thẫn thờ và buồn khủng khiếp.

Tớ tự hỏi rằng, nếu Thùy Trang và cả nhà cô nữa không nhận ra mình, không còn nhớ câu chuyện
ngày xưa để đón mình, thì lúc ấy mình sẽ ra sao giữa ngôi nhà sang trọng đầy ánh sáng ấy? Nhưng
nếu Thùy Trang nhận ra mình, có lẽ nàng sẽ cám ơn ta một cách trọng thị, biết đâu tưởng ta đến cầu
xin một điều gì lại biếu ta một chút tiền, một chút quà nữa thì lúc ấy tư thế của một trung úy công an
sẽ ra sao. Các cậu hãy nhớ là tớ đứng rất lâu, đứng dưới giàn hoa giấy leo tận ra ngoài cổng, đứng
bằng thời gian để đợi một cơn mưa bất chợt đầu hạ đi qua. Chỉ cần tớ bấm chuông, tớ sẽ mất đi một
kỷ niệm đẹp không dễ có giữa đời. Vậy là tớ vội đi khi cơn mưa chưa ngớt, vội đi như trốn chạy khỏi ý
nghĩ gặp lại người con gái mà tớ đã tạm giữ vì sự an lành của cô ta. Giờ nghĩ lại, các cậu hiểu không,
tớ vẫn thấy mình đã đúng…

Bữa rượu dốc bầu giữa ông trưởng thôn Nhất Khê với hai lính bảo vệ kéo dài đến tận khuya. Trước
khi bước thấp, bước cao về nhà, ông nói như rút ruột:

- Tớ biết bà Trang đã nhận ra tớ chiều nay. Nhưng bà ấy chưa hẳn biết là tớ cũng nhận ra bà ấy.
Chúng tôi đã vờ không nhận ra nhau. Mỗi người có một lý do. Đúng không? Ở đời các cậu ạ, có ít
thôi những kỷ niệm đẹp, hãy giữ cho nó trong trẻo để mà tin, mà sống cho lương thiện. Các cậu có
hiểu không?

Làm sao những người bảo vệ hiểu hết được, nhưng cả hai đều nhất loạt nói to: "Dạ hiểu. Dạ hiểu

15.3 con chèo bẻo

Chèo bẻo một tất nhiên là sếp của chèo bẻo hai và chèo bẻo ba trong một cơ quan vài chục con
người mà đàn ông chiếm hầu hết. Như thế gọi là mất cân bằng giới tính. Thường ít đi đôi với quý
hiếm. Do vậy trừ sếp Nhất ra còn lại các đấng nam nhi chả là cái đinh gỉ gì với ba con chèo bẻo. Ai
cũng hiểu, để được mệnh danh là chèo bẻo, các nàng phải có cái mỏ như thế nào?

Sếp có khuôn mặt dài như cái bơm, ngự trị trên một cái cổ cũng dài. Vắng mặt sếp, ba con chèo bẻo
đặt cho sếp một cái nick của loài vật tận miền sa mạc: hươu cao cổ.

Để ngắn gọn, sếp chỉ được gọi bằng một cái tên: Hươu. Không ai hiểu ba nàng nói chuyện gì với
nhau. Chỉ biết có một loài hươu xấu cả người lẫn nết, và cả tham lam nữa.

Hươu có khuôn mặt dài nhưng đôi mắt nhỏ tí. Từ xa nhìn lại, Hươu như không có mắt, một miếng da
kéo liền từ trán xuống. Cửa sổ tâm hồn nhỏ thế thì khó có thể là con người phóng khoáng.

Chỉ không phóng khoáng thôi chứ phóng đãng thì Hươu có thừa. Có quyền, có tiền Hươu muốn
hưởng thụ cho thỏa cái khao khát chết người của một đấng trượng phu không thể giải quyết với
người vợ "lép" của mình (Hươu vẫn nói trộm bà vợ ở nhà như "hạt thóc lép").

Là người đứng đầu cơ quan có tầm nhìn chiến lược nên Hươu họp hành triền miên. Ngồi họp suốt
ngày lại phải nghe, phải trình bày toàn những điều cao siêu khiến Hươu mệt nhoài, stress là cái chắc.

Vì thế họp xong, Hươu phải về cơ quan để nghe ba con chèo bẻo nó véo von. Thực ra với hình thức
như thế, Hươu không phải là đối tượng để ba con chèo bẻo phải phục vụ, vì thân thế của chúng
không đến nỗi. Các em đến cơ quan chủ yếu để thả dáng và để có chỗ mà thể hiện những bộ cánh
mới thửa.

Ngày nào cũng thấy cái mới. Không biết thời gian đâu mà các em để mắt đến gia đình con cái. Hỏi ra
mới biết nhà em nào không có ôsin thì cũng có mẹ chồng hiền lành như đất, chịu khó phục dịch con
cái để nó yên tâm công tác.

- Hôm qua mình rẽ vào chỗ New Fashion. Hàng nó mới về trông choáng luôn. Chọn mãi mới được cái
áo đằng trước cổ cao còn đằng sau đan dây. Nhưng đau nhất là ông xã và bọn trẻ chê mẹ chơi trống
bỏi. Kệ nó chứ, việc gì phải làm cho mình già đi. Đúng không?

Con chèo bẻo một vừa vứt toẹt cái túi da xuống bàn đã cất tiếng. Buổi sáng vẫn còn những giọt
sương đậu lơi lả trên cành quỳnh xanh mướt ngoài cửa sổ.

- Sáng nay em đang đi thì có tiếng xe máy vèo qua. Sợ quá, định quát cho đứa nào đi ẩu một trận
nhưng tự nhiên lưỡi em cứng đơ. Các chị biết không, con bé xinh quên trời luôn. Mình là phụ nữ nhìn
còn thích.

Nó mặc cái áo như Britney, hở hết cả vai và lưng. Da không trắng mà ngà ngà màu ôliu, tay chân nuột
nà như bắp chuối non. Thế là em quên cả mắng mỏ. Cũng may nó lại phóng vèo đi, chứ không tai nạn
như chơi - Chèo bẻo hai lên tiếng.

- Sáng nay thấy chị Hươu xách làn đi chợ. Đằng sau tưởng con bé nào nhưng dáng dấp thì thấy quen
quen. Hóa ra chị Hươu. Ông anh mình cũng khổ thật. Động vật cấp cao giao phối với động vật cấp
thấp không biết có hứng không?

- Khiếp! Ăn với nói! Chuyện nhà người ta cứ châm chỉa vào.

Những chuyện trên trời dưới bể được ba con chèo bẻo đem ra buôn hàng giờ, hết ngày này qua
tháng khác không biết chán. Không thể ra oai bằng năng lực chuyên môn thì cách tốt nhất là phô diễn
những lợi thế của bản thân.

Vừa nhìn thấy sếp chui ra khỏi cái ôtô bóng lộn, chèo bẻo ba cất tiếng vóng vót. Lập tức hai con chèo
bẻo chạy ra. Đứa cầm tay, đứa lấy ghế. Khi Hươu yên vị trên cái ghế bành có ngai thì một cốc sinh tố
được đưa tới.

Các em cố gắng làm hài lòng Hươu từ những cử chỉ nhỏ nhất, mặc dù lúc trước con Chèo bẻo Ba
càu nhàu là động vật cao cổ có giá. Con chèo bẻo một mở màn:

- Hôm nay họp có vấn đề gì không anh? Họp nhiều làm gì cho già người. Đây này, lại một cái tóc
trắng nữa đây này! Anh ngồi yên để em nhổ cho.

Mắt sếp lim dim tận hưởng hương thơm từ da thịt mỡ màng của đàn bà toát ra và cái mát lạnh của
nước sinh tố từ ngoài ngấm dần vào cơ thể. Một cái giật là một tiếng động nhẹ. Sếp khẽ nhướn đôi
lông mày thủng thẳng:

- Vẫn là chuyện đền bù giải phóng mặt bằng. Vẫn là mấy cái chuyện đất cát tranh chấp. Họp mãi mà
chẳng ra vấn đề. Chuyện lình sình này còn khuya mới giải quyết được. Mệt quá!

- Anh dại gì phải ngồi từ đầu đến cuối. Lần họp sau anh bảo ông Hùng đi cùng là xong. Ông ấy nghe
thủng chuyện rồi về báo cáo với anh có phải hơn không?

Đáng lẽ cấp dưới không được nói cái giọng ấy với lãnh đạo nhưng ba con chèo bẻo quá quen đâm
suồng sã, nhất là lời nói ấy lại được phát ra từ cái miệng tươi như hoa của con chèo bẻo ba. Cái răng
khểnh lấp ló duyên đến lạ. Hươu tủm tỉm cười. Các em suy nghĩ nông lắm, đi họp mệt thật đấy nhưng
bù lại có thêm thu nhập và đặc biệt là mối quan hệ. Thời này không có quan hệ thì chỉ ăn mắm mút
dòi.

- Dạo này anh đừng làm việc quá sức nữa. Mới qua ngày chủ nhật mà thêm mấy sợi tóc trắng đây
này. Hay là tuần tới cơ quan mình đi nghỉ mát mấy ngày cho khuây khỏa đi anh. Lâu rồi anh em mình
chưa được thư giãn. Nhàm chán quá! Cứ đi làm lại về nhà. Nhìn mãi bà mẹ chồng già cũng chán.

Con chèo bẻo hai dài miệng ra

Hươu ngả hẳn đầu ra sau cho ba con chèo bẻo vạch từng cái tóc. Lời mật ngọt làm đầu lưỡi Hươu
mềm ra. Lúc ấy con chèo bẻo một mới đưa ra tập chứng từ. Hươu tin tưởng các nàng hoàn toàn. Có
gì đâu, mấy cái chuyện chi tiêu hành chính cũng thoang thoáng thôi. Vạch lá tìm sâu làm gì. Không
cần nhìn, Hươu rút cái bút trong túi ký xoẹt một cái rồi lại ngả người ra sau.

Thực ra không chỉ mấy anh học hành tông mà cả mấy con chèo bẻo cũng biết thừa là chuyên môn
của Hươu chẳng ra gì. Từ quê ra với hành trang là một anh thanh niên tốt nghiệp lớp bảy trường làng
không nghề nghiệp, Hươu được thâu nạp vào đội quân xây dựng. Làm phu hồ được mấy năm, Hươu
nhìn rõ quan hệ chủ thợ nó khác biệt như thế nào.

Nếu cứ mãi chịu thân phận thế này thì cuộc đời Hươu chẳng thể đổi được. Những cô gái hơ hớ trên
đường nào có để ý đến một anh phu hồ đang xách xô vữa nặng trịch? Đến bao giờ Hươu mới có một
gia đình riêng như cha mẹ Hươu mong ước?

Trong đầu Hươu giương cao sự quyết tâm (tại sao người ta hay nói là hạ quyết tâm nhỉ? - Hươu
không hiểu). Thế là ngày đi làm, tối Hươu đến lớp học bổ túc văn hóa. Hai năm ba lớp, học cấp tốc
mà, bốn năm trời Hươu đã có hai tấm bằng đầu tiên trong đời.

Bằng tốt nghiệp cấp III bổ túc văn hóa và bằng trung cấp xây dựng. Học mải thế nên kiến thức thu
lượm được chẳng là bao, song bù lại Hươu có được thâm niên mấy năm phu hồ nên cũng cứng cáp
tay nghề. Công ty của Hươu liên tục nhận được những dự án béo bở.

Ngày ấy chất lượng công trình không khắt khe như bây giờ. Thất thoát vài chục phần trăm nhưng
không nhìn thấy ngay sẽ chẳng chết ai. Hươu được tí đỉnh trong đống lợi lộc đó. Hươu không hám
tiền ngay mà mục đích Hươu hướng tới cao hơn nhiều. Hươu muốn mình thực hiện được ước mơ đổi
đời.

Sếp của Hươu có cô con gái rượu mới ngoài hai mươi. Cô sinh đúng thời loạn lạc thiếu đói đủ đường
nên người đẹn như con chim di. Người như thế có đắp vàng cũng không nâng hình thức lên được.

Thử hỏi một con quạ đen được đeo đầy ngọc ngà châu báu sẽ như thế nào? Vợ chồng sếp âm thầm
đau khổ và bàn tính chỉ nhờ tiền mới có thể kiếm cho con được một tấm chồng. May sao, Hươu xuất
hiện và được sếp cho vào tầm ngắm. Một anh nhà quê chân chất, bản tính thật thà có nằm mơ giữa
ban ngày cũng không bao giờ gặp.

Thế mà với con gái mình nó lại chịu nhịn thế. Hai đứa quấn nhau như đôi sam. Hươu chịu được tất
thói đỏng đảnh của một tiểu thư đài các. Có điều, khi đặt lên môi nàng nụ hôn nào, Hươu cũng phải
nhắm tịt mắt lại. Những lúc như thế, trong đầu Hươu lại hiện lên hình ảnh mình đang đội mấy chục
thúng cát leo mấy tầng nhà. Quyết tâm là chịu được hết. Hươu đã giương cao quyết tâm rồi mà!

- Anh này! - Con chèo bẻo ba thủ thỉ - Cơ quan mình sắp tới trang bị lại nội thất. Anh để bọn em thanh
lí hết đồ cũ nhé. Anh giúp đỡ bọn em tí chút.

Hai con chèo bẻo còn lại cùng hòa theo giọng hót ấy. Nào là nhà em còn thiếu mấy thứ chưa có tiền
mua, nào là tủ lạnh nhà em hết ga rồi, nào là bình nước nóng nhà em ngốn điện khiếp quá, cần
thay....

Hươu đưa hai tay lên xua xua, ý là "lâu vấn đề" (thỉnh thoảng Hươu cũng nhớ được vài ba từ tiếng
Anh song khổ nỗi, nước ăn làng Hươu nặng quá nên cái không cần cong thì lưỡi nó cứ cong), các em
cứ yên tâm. Hươu biết các em chỉ làm trò thế thôi chứ nhà các em cần gì những đồ này.

Chẳng qua ra ngoài chênh lệch được tí chút, thỉnh thoảng đi vui vẻ không phải móc tiền túi. Hươu
không muốn các em phải kèo nhèo thêm cho tình cảm anh em sứt mẻ. Mấy cái đồ vặt ấy đáng gì, toàn
loại đồ rẻ tiền mau hỏng ấy mà. Mọi việc coi như đã xong, các em cứ thế mà làm.

Ba con chèo bẻo được toàn quyền quyết định số tài sản cơ quan thanh lý. Toàn đồ mới sắm được vài
năm, của công nên trông thế thôi. Chẳng ai bảo ai, mọi người đứng hết ra hành lang dõi theo ba cái
mặt hỉ hả đang tung tăng bên chiếc ôtô chuyên chở đồ thuê. Lời ra tiếng vào mỗi lúc một to:

- Các ông tưởng đồ hỏng hả? Tôi đố nhà ông nào sắm được đấy. Ra hàng secondhand chỉ cần xì tút
tí chút trông lại long lanh ngay.

- Đây là của công. Thay đi dùng đồ mới có chết ai. Cuối năm công đoàn lại có nguồn cho anh em đi
du lịch Lạng Sơn.

- Ối giời! Mua về toàn đồ đểu. Các ông có biết đồ Tầu ảnh hưởng đến sức khỏe thế nào không? Toàn
chất hóa học có hại.

- Ai cũng biết thế nhưng dùng không chết ngay vẫn vô tư. Ngay các nước phát triển người ta cũng
dùng đầy hàng Tầu.

- Nhưng người ta dùng đồ cao cấp. Đồ Bắc Kinh, Thượng Hải có nơi nào bì được không? Đồ nhập
khẩu người ta kiểm duyệt kĩ lắm. Vào được nước họ đâu có dễ.

Chuyện trò cứ thế lan man hết Hải Phòng, Hà Nội đến Bắc Kinh, Thượng Hải; hết ta sang Tây.
Chuyện cứ thế tuôn. Cuối cùng lại quay về mấy nàng chèo bẻo đang tất bật dưới sân:

- Này! Việc cơ quan mà các em cũng mau mắn thế này thì hay biết mấy. Các em chỉ được cái mắt tinh
nhổ tóc sâu giỏi thôi. Việc cơ quan thì ưỡn ẹo ta đây vất vả lắm.
- Thì cũng phải đẻ ra từng ấy người để làm từng ấy việc chứ! Toàn người làm chuyên môn như các
anh thì lấy đâu ra các em làm cảnh trông cho vui mắt được. Vì biết làm đẹp cho đời nên các em cảnh
vẻ là đúng thôi.

- Chả thế thì sao! Nếu vào hoàn cảnh của ông, ông xử lý thế nào? Ông có muốn người đẹp nhổ tóc
sâu cho không?

- Có mà nhũn người ra!

Tiếng cười rộ lên. Mấy con chèo bẻo nghe câu được câu mất, ghé vào nhau lầm bầm:

- Chỉ được cái ghen ăn tức ở. Miệng thơn thớt còn trong lòng thì sôi lên sùng sục cho mà xem.

Chiếc xe bóng lộn của Hươu xoay một vòng điệu nghệ trong sân. Hươu lủn củn từ chiếc cửa thấp tè
chui ra. Không ai bảo ai lảng vào phòng làm việc. Trong phút chốc cảnh tượng ồn ào biến mất, còn
trơ lại chiếc ô tô chở đầy đồ cũ. Ba con chèo bẻo đồng thanh:

- Anh vào trong nhà xơi nước.

Con chèo bẻo ba một tay đỡ cái cặp da, một tay nắm nhẹ tay Hươu kéo vào phòng. Các cặp mắt
trong phòng nhìn Hươu tay trong tay với nhân viên mà buồn cười. Hòa thân trong cơ quan lại là ba
con chèo bẻo cái. Hươu sẽ được nghe đủ những lời bình phẩm của anh em ở hành lang. Ai cũng biết
thế nhưng không mấy bận lòng.

Con chèo bẻo một ỏn thót:

- Thằng Hùng còn bảo anh cởi quần áo để em mátxa hôm thứ Năm tuần trước. Nó định vào phòng
anh xin chữ ký nhìn thấy cảnh ấy phải quay ra.

- Thằng Minh còn bảo anh vào Vũng Tàu với em không phải để ký hợp đồng. Anh bảo thế có chết
không chứ! Em còn chồng con em nữa chứ, nói thế có khi hại cả đời em thì sao?- Con chèo bẻo hai
vóng vót.

- Thằng Thắng đi rêu rao bảo anh vào hùa với chúng em mua đồ đểu thanh toán đồ xịn. Đấy anh xem,
đồ dưới sân kia là đồ đểu hay đồ xịn? Hỏi nhà nó có sắm được không? - Con chèo bẻo ba hót theo.

Chuyện này Hươu đã được nghe qua miệng của bà vợ. Mọi chuyện ở cơ quan đều đến tai bà. "Con
nhà tông không giống lông cũng giống cánh", bà nhìn mọi việc thấu trời thấu đất luôn.

Lắm lúc Hươu giật mình vì những lời bóng gió về việc Hươu đã làm. Hươu bảo đáng lẽ cho bà làm
chủ tịch thành phố mới đúng, nói năng như lãnh đạo. Bà đốp luôn, chẳng phải bàn, có sức khỏe và
nhan sắc thì bà chả kém ai. Bà bị cái cơ chế xếp hàng nó bóp nghẹt không lớn được đành chịu. Đến
lúc nhà bà phát thì đã hết tuổi lớn.

Đêm qua Hươu đã bị một mẻ trầy da vì những cái véo. Bị hành ghê quá Hươu không ngủ được. Bà
ấy còn dọa không tu nhân tích đức bà sẽ cho một mẻ, mấy con chèo bẻo kia cũng tan đời. Hươu
hoảng. Bà ấy không nói chơi.

Mặc dù được bao bọc và tạo chứng cứ giả không để sai sót đến từng chi tiết, bà vẫn biết Hươu cùng
một vài đối tác vào một khách sạn năm sao tận miền Trung cách đây vài ngày. Lúc ăn uống cả bọn
ông đã làm gì? Nghe bà rít, Hươu ấm ớ rằng uống rượu suông ngắm trăng thôi mà. Tức thì bà rít to
hơn. Ngắm trăng hay là ngắm một đứa con gái chỉ bằng tuổi con mình trần truồng rót rượu hầu?

Các ông uống rượu hay uống sữa? Thật không biết tởm! Lúc ở phòng riêng có con nào nó phục hồi
chức năng cho ông không? Cố làm gì cho khổ. Ông có thích một ngày nào đó ông về nhà bằng cáng
không? Hươu sởn gai ốc khi nghe những lời đay nghiến từ cái miệng có đôi môi thâm sì phát ra.

Hươu ngả người ra ghế nghe từng bài tấu mà trong lòng nhão ra. Chắc lại là vấn đề tuổi tác. Không
chịu được áp lực làm việc thì về quách cho xong, mấy người bạn khuyên Hươu như thế. Hươu đã
suy nghĩ rất nhiều. Về thì làm gì, đi đâu, nhất là khoản được chăm bẵm vuốt ve có phải cứ thích là
được đâu.

Về thì anh em bằng hữu cũng mất, suốt ngày luẩn quẩn với "hạt thóc lép" à? Như thế có khác nào
mang cái án tù chung thân. Hươu chẳng dại. Nhưng huyết áp lâu nay lên xuống bất thường quá. Biết
đâu có lúc mình không thể làm chủ được chính mình nữa thì sao? Dạo này Hươu hay suy nghĩ lẩn
thẩn như thế.

Hươu muốn nhướng đôi mắt ti hí lên nhìn từng khuôn mặt thân quen bấy lâu nhưng khó quá. Mấy em
hôm nay mờ nhòa như màn hình tivi bị nhiễu. Những cái mặt son phấn chăm chút kỹ đến từng chi tiết
mà Hươu cảm thấy nó dữ tợn và độc ác thế nào ấy.

Sao người Hươu lại nguột đi thế này? Tự nhiên Hươu thấy người nhẹ bẫng, cố níu thành ghế mà
không được. Hươu thấy các em cười giơ ra những cái răng nhọn hoắt, những đôi mắt lồi ra toàn lòng
trắng đang dần gí sát vào người Hươu. Hươu ú ớ, toàn thân mồ hôi toát dã như người thoát dương.
Không thể chịu được, Hươu thở thật mạnh và bốc cả chiếc ghế lên cao.

Hươu thấy mình đang bay trên cánh đồng lúa đang thì con gái. Gió mùa hè lướt trên thảm lúa xanh
mướt rồi vờn vào mặt Hươu thơm phức. Cánh đồng này đã bao lần Hươu lặn lội sớm hôm bắt cua cá
và thả sức cưỡi con trâu mộng đen nhánh phi trên những bờ ruộng thẳng tắp.

Hươu cứ bay mãi, bay mãi. Làm sao Hươu lại gặp được mẹ Hươu, người đàn bà chuyên mặc chiếc
quần ống chân què vá chằng vá đụp. Sau này có miếng ăn miếng để Hươu mang về bà cũng không
thay đổi. Bà nắm tay Hươu khóc thút thít. Bàn tay của bà lạnh như đá mùa đông. Bà bảo Hươu
thương mẹ thì hãy sống cho yên ổn, một lòng một dạ với vợ con.

Bà mệt lắm rồi. Bao nhiêu lần ở nhà hàng khách sạn nếu không có bà chắc chắn Hươu chết ngáp. Bà
phải theo Hươu để tránh cho con những bất trắc trong dòng đời. Mà những bất trắc của Hươu thì
nhiều vô kể, càng có tuổi càng gặp nhiều. Hươu đừng tham nữa.

Vợ con nó được đấy, nó một lòng một dạ với con. Đừng để già néo đứt dây. Một khi Hươu cố tình để
nó vứt ra ngoài đường thì dưới suối vàng mẹ làm sao yên được. Làm lại mọi thứ bây giờ đã quá
muộn...

Hươu không muốn bay nữa mà người cứ lơ lửng. Hươu thấy tiếng các em như chim nhưng không
nhớ ra loài chim nào. Ngày xưa đã nhiều lần Hươu nghe được tiếng chim này vào những đêm khuya
thanh vắng. Âm thanh vang lên dường như dìm đêm tối đen kịt xuống sâu hơn. Sau tiếng kêu ấy thế
nào trong làng cũng có người chết

16.Nhà dột

Huy đưa tay tắt vô tuyến cái cạch rồi chép miệng: - Suốt ngày động đất với chẳng núi lửa, sóng thần.
Khiếp quá! Nhà mấy chục tầng, khách sạn ba năm sao... Thế mà ra tro, ra gạch vụn cả. Cái nhà này
mà dính một vụ như thế thì ra cám… Trái đất sắp đến ngày tận thế đến nơi.

Cô em bĩu môi:

- Thế mà cũng đòi… Các nhà khoa học đã dự báo cả rồi, ít nhất phải mấy chục, mấy tỉ năm nữa trái
đất mới bị diệt vong cơ. Anh cứ sống hết đời anh rồi đời con, đời cháu đời chút chít chụt chịt nhà anh
đi cũng còn thoải mái nhé. Còn bao giờ cái thứ quả to nhất hành tinh này mà có hỏng thì người sống
kiếp ấy khắc lo, chứ vướng gì mà anh cứ lo bò trắng răng thế?

- Biết thế nào được. Tao thử hỏi mày nhỡ bây giờ có mảnh thiên thạch nào va vào trái đất, hay mấy
cái nguyên tử nó nổ xem... Lại chẳng trong nháy mắt thì ra cát bụi cả chứ cần đợi mấy nghìn năm
nữa?

Tú không thèm góp chuyện đặt đôi đũa ngay ngắn rồi phủi quần đứng lên:

- Rỗi hơi!

Hai người còn lại chưng hửng nhìn theo liếc xéo. Thằng út đang cố gặm nốt mấy miếng xương trong
bát.

- Mày còn để phần cho chó nữa với chứ.

Thằng út dỗi đứng lên phụng phịu. "Lớn rồi tưởng bé lắm đấy”.

Mẹ gắt lên:

- Chúng mày cút cả đi cho tao còn dọn. Bữa nào cũng ngâm cả tiếng, ai đợi.

Thằng út như chưa hết tức bực:

- Mẹ bảo anh Huy đừng có uống rượu nữa. Đêm ngáy khò khò con không ngủ được

- Mày thích thì ra hành lang nhá - Huy vặc lại

- Thằng mất dạy vô công dồi nghề... Tao bảo bao nhiêu lần mà mày vẫn đi nhậu nhẹt với lũ bạn mất
dạy ấy à?

Huy dứ nắm đấm về phía thằng út rồi hầm hầm đi lên cầu thang. Ông bố nhìn theo những bước chân
như muốn xem có cái bậc nào rụng ra không. Ông không nói. Không phải bởi ông hiền. Phải trước kia
ông đã cho mấy thằng con mỗi đứa cái đá đít hay bài giáo huấn. Nhưng từ ngày bị cảm cấm khẩu,
sức khỏe ông cũng sút đi nhiều. Bác sĩ bảo: "Còn sống là may". Ông có một ý chí sống mạnh mẽ và
quyết liệt. Ông là người không thể thiếu trong gia đình này. Cho dù ông câm, ông bất động nằm đấy
nhưng mấy đứa còn sợ ông. Ông còn cái nhà. Còn khoản tiền trong ngân hàng. Đứa nào mất dạy,
sau này chia tài sản ông mà cắt đi, chớ có trách ông ác. Khi ông còn khỏe chúng nó đã bàn sau này
bố chết có cái nhà chia chác kiểu gì.

- Trừ con Thu còn lại chia ba.

- Đừng hòng. Con gái cũng là con bố.

- Con gái là con người ta! - Thằng út cãi.

Anh cả nhếch mép bí hiểm:

- Chúng mày thích lấy gì, tùy. Tao chỉ xin căn bếp với cái phòng khách.

Ba đứa em ngạc nhiên nhìn ông anh cả - người tham lam nhất mà lại... Căn nhà tuy mặt tiền nhưng
bé tí xiu. Chiều ngang vừa được bốn mét mốt. Nhà đông con, ông bà đành phải xây cao lên bốn tầng.
Tầng trệt là phòng khách với nhà bếp. Còn lại mỗi tầng cắt đôi cho hai đứa. Gọi là ngăn buồng nhưng
hẹp banh banh chỉ đủ kê duy nhất cái giường với cái tủ cá nhân. May mà nhà ông bà để lại, chứ
không chắc cả mấy người phải chui rúc trong những xó rọ nào cũng chưa biết. Nhưng Huy và Tú
thường lang bạt vạ vật ít về nhà. Chúng chỉ ăn cơm rồi lại đi rông.
Nhà cửa chẳng phải chung cư mà cứ rúc vào nhau, không còn chỗ mà thở nổi. Nhà bên này hắt hơi
to nhà bên kia cũng nghe được, huống gì là cãi nhau đập cái chén cái bát. Hôm nay chúng nó còn
hòa bình, chứ như thông lệ mà ngồi ăn với nhau bữa cơm thì cuối bữa thể nào cũng vài cái bát tan
tành. Bà Thuận chẳng ngăn được chúng nó, chỉ bảo: "Đứa nào đập vỡ cái nào thì tự đi mua về đền
vào, biết chưa?". Từ hôm ấy chẳng thêm cái bát nào vỡ.

Ngày trước chúng còn sợ ông đôi chút chứ bây giờ thì... Lắm lúc nghĩ rớt nước mắt vì con cái nhưng
chúng đã lớn, không còn là con bà nữa. Mỗi đứa mỗi tính, chẳng đứa nào chịu kiếm một cái nghề
ngỗng nên hồn. Nhà bà Thuận có ngày nào lại không đánh cãi chửi bới nhau? Huy lang thang chợ xe
máy. Tú làm cò mồi nay chạy chỗ này, mai chỗ nọ. Tiền kiếm được nó cất riêng như của báu, không
bao giờ chịu chi ra một xu. Nó để dành tiền sau này mua nhà. Cô Thu bán hàng "siđa" ngoài chợ cho
người ta. Bà Thuận trước kia từng làm giáo viên cấp một nhưng rồi bỏ nghề quay sang buôn bán
hàng khô ngoài chợ. Nhưng cái tiền sử giáo viên của bà là niềm hành diện để cô Thu ngẩng cao đầu
khoe với bàn dân thiên hạ rằng ta con nhà gia giáo chứ đâu phải lũ thất học lang thang đầu đường xó
chợ. Hôm trước bà hàng xóm đang thao thao:

- Cái nhà ấy... một lũ con như đầu trộm đuôi cướp. Có đứa con gái như Thị Nở mà mặt lúc nào cũng
vênh như bị tát ..

Giữa lúc ấy thì cô đến. Cô nghe thấy, và cô "hát hay" cho bà ta nghe. Hai người mà ầm ĩ như cả chợ
chửi nhau. Chỉ đến khi bà Thuận ra kéo cô vào dằn từng tiếng:

- Thôi, tôi xin chị. Thế vẫn còn chưa đủ sao?

- Cứ kệ tôi!

- Chị như thế này rồi đứa nào nó dám rước.

- Mẹ muốn đuổi tôi nữa phỏng...

Bà Thuận chỉ biết im lặng. Hai mươi tám cái xuân xanh. Thì đã làm sao nào? Ai chứ cô Thu thì thế
vẫn còn trẻ, còn thong thả lắm. Không biết tại cái gương cô đang dùng nó quá nịnh mặt hay vì ngắm
nghía nhiều nên thành ra quen mắt, nên cô thấy mình cũng đẹp. Vì nghĩ mình đẹp nên cô kiêu. Cô cứ
độc thân cho bọn con trai nó phải thèm. Bốn đứa tổng ngổng có đứa sắp sang tuổi băm mà chẳng
đứa nào chịu xây dựng gia đình cho. Nhiều lúc bà Thuận cứ nghĩ, chẳng biết kiếp trước mình có tội
có nợ gì không biết.

Một hôm thằng Huy về bảo:

- Bố mẹ đổi phòng cho tôi lấy vợ.

- Sao phải đổi phòng?

- Phòng của bố mẹ tầng thấp lại rộng rãi. Để vợ con nó khỏi phải lên xuống nhiều động thai.

Thì ra lũ mất dạy đi lại với nhau bao nhiêu năm mà bà không biết. Đàn bà con gái thì đầy mà nó đâm
đầu vào con hàng thịt góa chồng. "Mặc xác mày. Mày muốn rước đứa nào về thì mặc". Mà những
đứa con gái tử tế ai lại đi lấy con trai bà cơ chứ. Bà biết thế. Thằng út bảo: "Anh thuê nhà mà nuôi vợ.
Bao giờ có tiền mua nhà mới, chứ còn rúc vào đây làm gì".

Huy trầm ngâm một lúc bảo:

- Tao nghĩ bố mẹ ra ở riêng thì hợp hơn.

- Nhà này của tao. Chúng mày cút hết - Bà Thuận hét lên. Chúng nó còn định cho ông bà ra ở riêng
nữa cơ đấy. Xưa nay chỉ có bố mẹ cho con cái ra ở riêng, thế mà bây giờ chúng nó định đẩy ông bà
ra ở riêng để cho làm loạn cái nhà này. Chưa biết chừng chúng nó bán quách đi để chia trác. Lũ mất
dạy. Đã thế bây giờ đứa nào nộp tiền thì tao nấu cơm cho mà ăn. Còn không chúng mày muốn hốc ở
đâu thì hốc. Đừng có về ăn bám tao nữa.

Cô Thu chặn trước

- Bố mẹ đừng bắt trả tiền nhà là được. Con thì có mấy khi ăn cơm nhà.

Ông Thuận chết khi còn chưa kịp ra "ở riêng". Lũ con không đau lòng vì đã mấy năm nay ông lù lù ở
đây, chiếm một phần không gian căn nhà. Ông chết rồi, bớt đi một người sẽ rộng lên. Tú bàn mang
luôn bố ra nhà hỏa táng rồi mang tro rắc xuống sông cho sạch. Chứ mang đi chôn vài ba năm moi lên
mất vệ sinh lắm. Phương Tây họ văn minh hơn ta mà cũng toàn làm thế cả.

- Mày tưởng rẻ lắm ư?

- Còn hơn mấy năm nữa mất tiền bốc mả. Lại còn mua đất mà chôn. Mà đặt mả không cẩn thận bị
phạm thì con cháu làm ăn muôn đời chẳng ngóc đầu lên được.

- Thế cũng được! Ý mẹ thế nào?

Bà Thuận thong thả:

- Tao chẳng thế nào cả, nhưng phải hỏi thêm ý người ta. Bố mày còn vợ nữa dưới quê. Tao đã thông
báo cho bà ấy. Chắc tầm chiều, bà ấy với thằng cu sẽ lên đây.

Cả bốn đứa mắt tròn mắt dẹt nhìn nhau:

- Ô hay, vợ mẹ rồi lại còn vợ nào nữa?

- Thì bà hai của bố mày.

- Bố có vợ hai á? Từ bao giờ cơ?

- Cách đây mấy tháng bố mày mới cho tao biết. Từ hồi bố mày về làng ấy khảo cổ khảo sát gì đó.

- Ông già chết rồi còn để nợ cho con cháu.

- Mẹ còn cắn rắn cõng gà nhà.

Huy sa sầm mặt:

- Cứ để cho mẹ con họ lên tang lễ xong lại tống cổ họ về cái xứ nhà quê mù khơi ấy.

Mãi xẩm tối mới thấy một người đàn bà chừng ngoài bốn mươi với một thằng bé mặt mũi cũng sáng
sủa lắm chứ không nhếch nhác như mấy anh em tưởng tượng. Chỉ có bà Thuận nói với người ta dăm
ba câu, còn lũ con chỉ nhìn khinh khỉnh như một thứ lạ từ trên trời rơi xuống. Hai mẹ con bà lẽ chỉ làm
cho họ thấy thêm ngứa mắt.

Nhưng đáng ghét nhất là lúc hỏa táng. Hai mẹ con nhà kia khóc thảm, không cần thuê phường hát.
Mấy đứa con thấy mình là con chính thức, máu mủ ruột già mà không khóc bằng thứ con hoang kia
thì thật vô lý. Nhưng làm sao khóc được. Đang buồn cười mà bắt phải khóc thì cũng thật là khổ lắm.
Nước mắt không thể tự nhiên mà chảy được. Mà họ không phải là diễn viên mà khóc ngon lành. Vừa
may có ngọn gió cuốn lên bụi mù. Thế là cô út nước mắt giàn giụa. Thằng út đang nghĩ tới lời hứa
của bố mua lôgô. Nó khóc được. Khóc vì ức... Hai bà ôm nhau sụt sùi. Bà Thuận biết ông mà chết rồi
lũ con sẽ chẳng còn nể gì nữa, rồi chúng sẽ đẩy bà đến viện dưỡng lão cũng nên. Nhất là khi biết sự
thật mà lâu nay chúng vẫn ôm mộng tưởng.

- Tôi định về quê ở với bà hai.

Chẳng biết hai bà đã thông đồng với nhau từ bao giờ mà ma chay gọn ghẽ xong bà Thuận thu xếp áo
quần rồi bảo lũ con.

- Mẹ ở lại với chúng con - Cô con dâu tha thiết.

- Thôi. Đằng nào cũng phải đi, để tôi đi cho sớm. Cái nhà này - Bà rớm nước mắt nhìn lại một lượt -
Là từ thời ông bà của anh chị để lại. Tôi biết tôi chẳng giữ được - Anh chị muốn ra sao thì tùy.

- Mẹ cứ thế này mà đi sao?

Bà nhìn cái vẻ mặt giả dối của trằng con trai. Bà không tin nó là con bà. Chắc trong bụng chúng đang
cười thầm. Đêm trước bà thấy chúng nó kêu với nhau cần tiền làm vốn.

Bà Hai dễ thông cảm. Hai chị em nằm với nhau, trong đêm bà Thuận đã kể cho bà hai nghe mọi cơ
sự. Cả việc ông bà bị cho ra ở riêng. Bà Hai nghe xong bảo:

- Thôi thì chị về ở với em. Nhà em là ông ấy xây cho, cũng là nhà chị. Để cho các cháu trên này nó
rộng rãi.

Bà thuận cũng chẳng muốn mang tiếng ác cho con nhưng bà cũng cần nghĩ đến bà. Cuộc sống của
bà chẳng biết sẽ đầy xuống tầng địa ngục thứ mấy nếu còn ở lại. Hai bà lủi thủi với thằng bé dắt nhau
ra bến xe.

Cô con dâu nhìn theo tiếc rẻ:

- Giá cụ ưng ở lại thì có khi chẳng phải thuê ôsin.

- Cô ngu lắm. Bà già mà ở lại thì đứa nào nhận nuôi, rồi còn đến lúc đau ốm.

Ngay ngày hôm sau họ mời luật sư đến chia cái nhà. Cãi nhau mãi, tất cả thống nhất chia theo giá trị.
Anh cả lấy cái bếp với phòng khách. Ba đứa còn lại mỗi đứa nhận một tầng. Còn số tiền trong ngân
hàng chia đều cho ba. Con Thu phận gái không được hưởng nhiều. Nhưng lúc này tất cả mới vỡ lẽ
cái tài khoản chỉ còn vài chục nghìn đồng. Ông đã rút số tiền dành dụm cả đời để xây nhà cho vợ bé
và bây giờ cũng là nơi cư trú cho cả vợ lớn...

Tôi không rõ rồi họ còn chia chác những gì, nhưng hôm trước tôi đi qua chỗ căn nhà ấy chỉ thấy còn
lại là đống gạch vụn. Nghe mọi người bảo lũ em tức khí hò nhau thuê người đến dỡ phòng của mình
đi. Là bởi vì ông anh cả muốn chúng nhượng lại với giá rẻ nên không cho đứa nào đi qua tầng của
nhà mình. Làm sao có thể lên lầu hai, ba, bốn mà không qua lầu một. Ông tưởng nuốt được mà dễ.
Không ăn được thì đạp đổ. Thói đời như vậy. Thế là trong một buổi sáng, căn nhà còn trơ khốc mỗi
cái tầng trệt...

17.Bóng tối âm thầm

Quả nhiên trong bóng tối âm thầm của căn buồng chật hẹp chỉ có họ, hai người đã hôn nhau. Cái hôn
say đắm, lút miệng, gắn chặt cả hai làn môi, hai gương mặt, hai cơ thể gỡ không thể ra. Nhất là khi,
môi vẫn dính liền, họ cuống quýt tháo cởi áo quần cho nhau, rồi lăn xuống và duỗi dài dưới chân
chiếc gương đã che kín một phần nửa. Tình yêu, cơn đam mê ôm trùm cả thế giới, nhưng cũng chỉ là
của hai người.

Tung chăn, phắt dậy, chỉ kịp ngoái lại dặn Đằng: "Anh cứ nằm yên nhé", Vân đã nghe thấy tiếng một
phụ nữ trẻ chao chát ở trước cửa: "Nào, xem nhà cửa cái Vân hồi này có khá hơn trước không nào!
À, nhà mới xây lại, xinh xắn ra dáng đấy nhỉ!".

Tiếng người phụ nữ nọ đã đánh thức Đằng. Lẽ ra là đã gà gà đôi mắt đi vào giấc ngủ như sau các
cuộc yêu đương, Đằng bỗng lại tỉnh táo như vừa qua giấc đêm. Và sau đó, nghe tiếng dép Vân lạch
bạch xuống cầu thang tiếp đó tiếng khóa clêmôn mở xiết vào không khí, Đằng liền nằm im bất động.

- Thế nào, đang ngủ trưa, hả Vân? Có nhận ra đứa nào đây không?

- Cái Hiền chứ ai! Mày từ Sài Gòn ra từ lúc nào? Vào nhà đi! Lụa, Hiền!

- Tao ra hôm qua. Sáng nay định về Hưng Yên thăm ông bác thì cái Lụa rủ lên thăm mày. Nhà mới
làm lại à? Mấy tầng?

- Mày hỏi cái Lụa thì biết. Vất vả quá. Chỉ có ba tầng thôi. Tầng ba để sách vở, phơi phóng. Tầng hai
là buồng ngủ.

- Nhà xinh đấy chứ. Mà sạch sẽ quá nhỉ!

- Lại còn phải kể. Hiền ơi, mày có biết không? Ở nhà là chị ấy luôn chân luôn tay xếp dọn, ngắm
nghía, lau chùi đồ đạc. Khéo, ít nữa có chồng chị ấy cũng suốt ngày lôi ông ấy ra ngắm nghía, lau
chùi mất thôi.

- Ừ, tính tao từ bé là thế. Động ở nhà là xếp với dọn.

- Cơ quan tao có bà kế toán chỉ thích xem hoa nở.

- Còn ở nhà tớ, có bà chị chồng suốt ngày chỉ lôi tiền ra đếm. Đếm đi đếm lại, bỏ vào ví xong, lúc sau
lại moi ra đếm.

- Hì hì...

Hóa ra kể cả Vân, cuộc trò chuyện đang diễn ra ở tầng một, có tới ba người. Ba giọng nói, ba tiếng
cười phụ nữ trẻ rổn rảng vang lên tận căn gác hai nhỏ nhắn, nơi Đằng đang nằm im thít trong chăn
bông, hai mắt mở chong chong, trong trạng thái thức tỉnh. Hóa ra, dư chấn của cuộc ái ân đâu có phải
chỉ là sự mệt mỏi. Nó còn là cảm giác mãn nguyện lâng lâng và sự thức tỉnh trong hoài niệm sung
sướng của các miền xúc động.

Vả chăng, lúc này đây, bỗng như được tách ra khỏi bối cảnh, được một mình một cõi, dẫu đang
vương vương một nỗi e sợ, bỗng có được cơ hội nghe câu chuyện ngồi lê đôi mách của chị em. Ôi!
Những câu chuyện thường nhật của cuộc đời! Mà thoạt đầu thường là chuyện nhà cửa, rồi lan sang
chuyện làm ăn, sinh sống, giá cả và sau cùng thế nào cũng trở về, xoáy tròn xung quanh cái trục
xuyên suốt cuộc đời: Những câu chuyện ái tình. Ái tình! Thì có gì muôn thuở vĩnh hằng và luôn luôn
lạ lẫm, hấp dẫn sôi sục hơn!

Minh họa của Đào Quốc Huy.

- Thế ở trong ấy, mày có gặp cái Nhã bao giờ không, hả Hiền?

- Nó bỏ thằng Khắc, lấy một thằng chuyên vẽ quảng cáo ở quận tớ! Con này quái tởm lắm. Có chồng
rồi mà nó vẫn bồ bịch tùm lum. Nó bắt bồ với một lão già. Vợ lão gặp nó, nói thẳng tưng: "Nè, cô bé,
lão già nhà tui hắn ưng một ả khỏe như ngựa cái cơ. Cô gầy tong teo thế, sức được bao lăm?".

- Thế chúng mày biết chuyện cái Chi chưa? Nó ngoại tình. Ngay ở nhà nó. Chồng nó bắt được. Nó
không hề ngượng ngập. Chỉ mặt chồng, nó nói ráo hoảnh: "Móm rồi, không ngoạm được nữa thì nên
nhường người khác chứ!".

- Nhưng mà tao ức nhất vẫn là thằng Tùy.

- Thằng Tùy nào?

- Thằng Tùy đánh trống ở Đoàn Ca nhạc Hoa Sen ấy. Ăn ở với con Nghi hai năm trời. Từ lúc ốm
thương hàn, gầy còm xác ve tới lúc béo trương béo nứt như chó thiến, trâu thui, chạy sang Nga buôn
bán, có được trăm vé là dở mặt ăn cháo đá bát liền. Con Nghi phát điên vì thế!

- Phát điên?

- Chứ còn gì! Mày cứ thử tưởng tượng xem. Mình đang hết lòng với nó, chẳng tiếc nó một cái gì, nay
bỗng dưng...

Một thác ngôn từ. Những tình tiết quen quen lạ lạ. Những câu chuyện chưa một lần tỏ ra nhàm tẻ.
Tuy nhiên, Đằng nghe mà chẳng nhập tâm. Hơn nữa Đằng còn hiểu thêm rằng, Vân luôn tỏ ra là một
kẻ khơi mào và kiên quyết lôi kéo bạn mình vào vòng mê mải, để họ rơi vào vòng quên lãng. Để họ
quên khuấy cả yêu cầu được leo lên căn gác hai nhà Vân như thông lệ khi đến thăm nhau. Phiền thế!
Cuộc yêu đương của họ, dẫu thế nào thì vẫn còn là hạt giống ủ trong bóng đêm âm thầm. Ôi! Cái hạn
hẹp của lòng người, cái trớ trêu của hoàn cảnh…

- Này Vân, chúng tao hỏi. Bây giờ nhà cửa xong rồi. Vậy bao giờ mày mới kén chọn xong, mới định
ngày lành tháng tốt, rước về một thằng đàn ông làm chồng?

Cuối cùng thì câu chuyện đã đến chỗ phải đến. Và nằm trong bóng tối ở trên gác hai, Đằng bỗng thấy
tim đập rộn lên khác thường, dẫu anh vẫn biết rằng, Vân của anh đủ khôn ngoan trong đối đáp, nàng
biết nói những điều cần thiết đúng lúc. Thậm chí nàng biết tạo nên một trận cười hồn nhiên để khỏa
lấp một tình thế khó xử.

Tuy nhiên, đã không có một trận cười nào bùng nổ vào lúc này. Cũng không nghe thấy tiếng Vân đáp
trả khi một trong hai bạn gái của nàng cùng một giọng xấn xổ, báo cho nàng biết nàng đã gần bốn
mươi tuổi rồi đấy chứ không còn trẻ trung nữa đâu. Không một tiếng nói, một âm thanh nào được phát
ra, ngoài tiếng hạt mưa vừa gieo như những chiếc mỏ sừng mổ tới tấp xuống mái nhà. Có cả ngàn
chiếc mỏ chim đang mổ thóc trên mái nhà, nghe như khúc dạo đầu của một bản nhạc dài. Và mưa đổ
xuống ngay lập tức với cảm hứng bão táp, giữa tiếng kêu của cả hai người khách nữ.

- Chết thôi. Mưa to quá! Làm thế nào về được bây giờ! Có lẽ phải ăn cơm rồi qua đêm với mày đấy,
Vân ơi!

Cơn mưa đến như khách không mời. Ấy thế, vì xưa nay, ái tình vốn dĩ là việc của riêng hai người nam
nữ. Yêu nhau, họ thiết lập một thế giới riêng, không có người thứ ba. Tình yêu bao giờ cũng mang ý
nghĩa trốn lẩn và có tính ích kỷ, một kiểu ích kỷ cặp đôi. Huống hồ lúc này là hoàn cảnh của Đằng và
Vân, nhất là của Đằng.

Vân, ở tuổi bốn mươi, như trái quả đã chín là gái chưa chồng, là một cá thể tự do. Nhưng còn Đằng?
Dẫu là đã chủng chẳng cả chục năm trời, đã ly thân kể từ ngày mới sống chung tới giờ, dẫu đã nhận
ra sai lầm chết người của mình là ở sự lựa chọn thì cũng đã là đàn ông có vợ.

Chẳng có cặp vợ chồng nào sống êm thuận cả. Gia đình nào thì cũng đầy trắc trở, mắc míu, thậm chí
đứng bên bờ vực của tan vỡ. Công nhận điều đó, đồng thời mọi người cũng nhận ra một điều giản dị,
rồi thì mọi sự cũng cứ phải qua đi, con người vốn là một sinh vật quen nhẫn nhịn, nó không đi tìm cái
tuyệt đối.

Bão lớn, động đất sáu ríchte, đổ nhà cao tầng, nhưng cái chuồng lợn xập xệ hai gắp gianh cùn ở nhà
bà nội vẫn nguyên vẹn. Con người luôn bất mãn với hoàn cảnh, nhưng cũng coi chấp nhận, thỏa hiệp
như một phương thức tồn tại. Và như vậy là đã cả chục năm qua, Đằng thực hiện lối sống lưỡng diện
này, dẫu đã có lúc uất tức bốc máu lên đầu, thà làm một khối thuốc nổ tung, chứ sống khổ sở vì nén
chịu mãi thế này thì đừng sống nữa

Khốn nạn, cái thằng đàn ông trông thấy một thằng đàn ông khác đè vợ mình ở trên chiếc giường của
mình, mà đứng im, rồi khi mãn cuộc, nó điềm nhiên đứng dậy, mặc quần áo, đi ra, bấy giờ lại sụp
xuống khóc nức nở khi con vợ đứng trước gương thong thả chải đầu thì là hèn đớn quá, hèn mạt
quá, chứ còn gì!

Mưa vừa gieo một chùm âm thanh trong trẻo xuống mái nhà. Những hạt bụi nước li ti lọt qua khe cửa
chớp bay lơ lửng trong căn buồng. Chập chờn trong hồi ức, he hé mắt, Đằng nhận ra bóng tối theo
mưa đã thấp thoáng hiện hình ở khuôn cửa lên tầng ba và câu chuyện của mấy người phụ nữ vẫn
đang chìm nổi bập bềnh trong tiếng mưa lúc này càng trở nên xối xả, tầm tã.

Thấy hơi lạnh, Đằng liền đưa tay kéo cái chăn mỏng ở bên cạnh, vừa lúc bỗng rụt chân, giật mình
nhổm dậy. Con mèo mướp ngủ ở gác trên, vừa thức giấc, chạy xuống, nhảy lên giường, cọ cái thân
mình êm nhám và lấm tấm ướt vào anh.

"Miu". Đằng quài tay, nhưng con mèo không ngoan ngoãn chui vào lòng anh như mọi khi. Chuội ra
khỏi tay anh, nó nhảy tót lên cái tivi, quay lại trố mắt kêu meo một tiếng khó chịu, rồi thản nhiên như
không có mặt Đằng, giơ chân trước lên, thè lưỡi chậm rãi liếm.

Con mèo khuấy động sự tĩnh lặng ngái ngủ của căn buồng chật hẹp. Nó cũng là cái đối tượng phản
ánh chủ nhân ở sự dịu dàng và năng lực chia sẻ, giảm bớt nỗi cô đơn cho con người. Con mèo khiến
cho căn buồng có phong vị riêng.

Cũng như thế là các đồ vật trong căn buồng này. Cái tủ gương cao áp tường màu cánh dán, chia
nhiều ngăn. Ngăn giữa thụt sâu một khoảng tối mờ là nơi bày những vật kỷ niệm nho nhỏ, soi bóng
một sự việc có quan hệ giữa Vân và anh.

Con búp bê họ mua ở siêu thị cách đây dăm năm. Con voi đá anh mua ở sân bay Nha Trang. Con
ngựa sắt nặng như làm bằng đồng đen anh mua lần đi thăm cố đô Huế. Chiếc bình sứ. Bộ đồ trà.
Chiếc đĩa cổ. Biểu tượng Nữ thần Tự do...

Và tấm gương lớn gắn ở cánh cửa tủ. Ở đó dán chi chít những tấm ảnh Vân và anh. Lần đầu hai
người chụp ảnh chung ở ngay bãi biển Đồ Sơn. Vân đeo kính râm mặc áo tắm màu tím cùng anh mặc
quần sịp đứng sau một cái phao bơi trắng toát. Trong khi anh tỏ ra ngại ngùng thì Vân rất tự nhiên.
Chụp ảnh hai người tức là có người thứ ba. Điều đó khác với khi người ta hôn nhau. Mắt nheo nheo
một ánh cười hóm hỉnh, Vân có ý nói vậy.

…Quả nhiên trong bóng tối âm thầm của căn buồng chật hẹp chỉ có họ, hai người đã hôn nhau. Cái
hôn say đắm, lút miệng, gắn chặt cả hai làn môi, hai gương mặt, hai cơ thể gỡ không thể ra. Nhất là
khi, môi vẫn dính liền, họ cuống quýt tháo cởi áo quần cho nhau, rồi lăn xuống và duỗi dài dưới chân
chiếc gương đã che kín một phần nửa. Tình yêu, cơn đam mê ôm trùm cả thế giới, nhưng cũng chỉ là
của hai người.

Chiếc gương ở phần dưới đã được che bằng những tấm ảnh. Không một đối tượng nào được biết
đến cuộc tình của họ. Người ta kiêng đặt gương soi trong buồng ngủ vì nó phát ra ánh sáng độc. Kể
cả con mèo mướp, con mèo mướp lạ sao, cứ lúc có mặt cả hai người là nó leo lên gác ba nằm ngủ.
Nó để lại tự do cho hai người. Vậy mà, trong tự do, cả hai luôn có cảm giác vội vã và ngượng ngùng.
Họ đều là những con người thành thật.

Sống, làm việc cùng một phòng với nhau đã hơn chục năm rồi. Thời gian ở gần nhau tính ra, có khi
còn hơn cả thời gian Đằng sống với gia đình. Hiểu rõ nhau đến chân tơ kẽ tóc mà không khinh nhau,
chán nhau mà lại yêu nhau tới mức không thể sống không có nhau thì tức là đã coi nhau là bạn đời lý
tưởng rồi. Vậy mà sao cứ phải vội vội vàng vàng như kẻ khuất tất luôn sợ sệt bị tố cáo, bị đe dọa, bị
mất trắng.

Thì ra con người tự khám phá ra mình mỗi khi nó gặp trở ngại. Cũng như bây giờ, lúc này, trong tình
thế bị kẹt ở gác trên, như một kẻ đang bị truy nã phải trốn lẩn. Ấy thế, đi tìm tự do lại rơi vào vòng vây
bủa của đồng loại. Buồn cười, ở trên căn gác hai này, đã bao lần, trong tình thế chịu sự giam hãm tự
nguyện như lần này, Đằng đã đọc hết cả một đống sách lớn.

Toàn những tiểu thuyết trứ danh, mà nếu không có tình thế này anh đâu có ngó ngàng tới. Chẳng
hạn, "Anh chàng Maulne cao kều". "Dưới hầm tối". "Trăm năm cô đơn". Cả quần thể tứ kiệt vĩ đại của
Đốtxtôiepxki, những là "Tội ác và trừng phạt", "Anh em nhà Karamadốp"... Có lần, khi khách đã đi, Vân
trở lên, ngó vào cuốn sách anh đang đọc, bỗng cười ngất: "Chà, Tướng quân chết giữa trận tiền!
Tiểu thuyết của Máckét !Trong chữ có quỷ thần đó, hèn nào!".

Mưa tạnh còn đột ngột hơn cả khi bắt đầu. Nhưng lúc này, trời đã tối. Theo cầu thang lên tới gác hai,
Vân bỗng đứng lại, kêu to: "Chết thôi! Từ chiều, anh vẫn không bật đèn à". Và sà xuống bên người
yêu của mình.

- Bạn bè em đi cả rồi à?

- Đi rồi! Hai đứa, một đứa ở Sài Gòn ra. Đủ chuyện trên trời dưới bể. Anh có nghe thấy không?

- Có.

- Em sốt ruột quá. Ông trời lại chơi khăm mình, đổ mưa mới tai ác chứ. Bạn với chả bè, chán nhỉ?

- Chậc!

- Chúng còn đòi lên gác xem nữa mới rắc rối chứ.

- Em chối từ thế nào?

- Thế nào nhỉ? Đấy, vừa xong lại quên rồi.

- Anh bảo này. Lần sau, nếu gặp trường hợp tương tự, em nói: Không lên được đâu, trên ấy tao xích
con chó dữ lắm.

- Hà hà... Anh đa mưu túc kế ghê nhỉ! Nhưng ai lại nói anh của em thế. Tốt nhất là anh ngủ. Em tưởng
anh ngủ cơ đấy. Em cứ tưởng như mọi lần, yêu nhau xong thì anh mệt.

- Ừ, có mệt, nhưng ít thôi.

- Vậy thì anh ngủ đi. Bây giờ yên hòa rồi, không ai quấy quả, rình mò nữa, anh ngủ đi.

Choàng tay qua vai Vân, Đằng kéo người yêu về phía mình. Vân chạm môi vào má anh, thì thào điều
gì, rồi khi hai người đã nằm duỗi song song, chị bỗng nhổm dậy, nhìn anh, nao nao:

- Anh có điều gì nghĩ ngợi phải không?

- Không.

- Đừng giấu em. Tim anh sao đập mạnh thế!

Hai bàn tay ôm sát mặt Vân, một gương mặt phụ nữ đã thân thuộc cả chục năm nay, Đằng bỗng rưng
rưng. Anh nhận ra, Vân đã đoán được ý nghĩ của anh. Vì cũng không phải chỉ là lần này. Tình yêu,
hình thái kỳ lạ độc đáo nhất thế gian, biểu trưng như một căn buồng chật hẹp, thật sự là một công
cuộc tự đi tìm lấy sự tồn tại của hai người nam nữ, trong đó, điều cốt tử là hai người yêu nhau tự đặt
ra luật lệ riêng và chấp nhận sự hy sinh, có phải thế chăng?

Đầu Vân đã ngả sát xuống ngực Đằng, trong khi tay chị đang xoa nhè nhẹ lên mái tóc dày đã lốm đốm
bạc của anh. Mắt chị vừa ứa lệ vừa nheo cười mãn nguyện. Cho tới lúc, như giật mình, chị nhổm dậy,
nhận ra con mèo mướp, nhân vật phụ thường bị lãng quên trong câu chuyện, từ trên cái tivi nhảy bịch
xuống đất, kêu "meo" một tiếng xưng danh, rồi lững thững đi lên gác trên

18.Trăng khuya

Trăng Khuya là tờ nguyệt san của hội Bách nguyệt - hội của những người đàn bà đẹp, giỏi cầu lông,
tennít, tuổi từ ba mươi đến sáu mươi. Lúc đầu, hội này chỉ kết nạp đúng một trăm hội viên, là những
quý bà đẹp nhất thành phố. Số khác chỉ được gọi là cộng tác viên, là vệ tinh. Hội chỉ kết nạp người
mới nếu có hội viên vượt "đát".

Tôi về báo Trăng khuya tính đến ngày mai là tròn năm năm. Suốt năm năm, cơ quan gần như không
có thay đổi nào ngoài việc bớt hai vị nghỉ chờ hưu, thêm hai cô thử việc - một là con và một là cháu
của các vị vừa nghỉ; và việc cô thủ quỹ lấy được chồng hồi đầu năm ngoái.

Cô gặp ai cũng cười: "Em mới lừa được". Thế mà chồng ra chồng! Đã cao ráo đẹp trai, có nghề
nghiệp mà sai bảo lại cứ răm rắp, cứ như tiền sai. Thật chẳng ai chọn bằng trời chọn, trời cho.

Trăng Khuya là tờ nguyệt san của hội Bách nguyệt - hội của những người đàn bà đẹp, giỏi cầu lông,
tennít, tuổi từ ba mươi đến sáu mươi. Lúc đầu, hội này chỉ kết nạp đúng một trăm hội viên, là những
quý bà đẹp nhất thành phố. Số khác chỉ được gọi là cộng tác viên, là vệ tinh. Hội chỉ kết nạp người
mới nếu có hội viên vượt "đát".

Về sau, căn cứ tình hình thực tế là thành phố ngày càng có nhiều phụ nữ đẹp, tài ba, và nhu cầu mở
mang ảnh hưởng của hội, các chị cho rằng không nhất thiết bách phải là tròn một trăm, mà có thể là
hàng trăm, nhiều trăm. Thế nên việc kết nạp vào hội mới đỡ căng thẳng. Tuy vẫn khá khắt khe nhưng
nay con số cũng đã lên tới hai trăm hội viên.

Trăng Khuya là sáng kiến của bà Hội trưởng - phu nhân một vị lãnh đạo thành phố. Nguyên hồi ấy, bà
có cô em gái là giáo viên môn Giáo dục công dân ở một tỉnh ngoài.

Đối với bà, tiền bạc của nả không thiếu, tình cảm của thiên hạ cũng chẳng thiếu. Nhưng bà vẫn biết
những cái bà thừa thãi ấy bấp bênh lắm, nay ở mai đi. Bà chỉ tin vào máu mủ tình thâm. Thế thì chị
em phải ở gần để chạy qua chạy lại mà lấy hơi nhau, bao bọc nhau...

Bà nghĩ cách chuyển cả gia đình cô em gái về đây. Cậu em rể thì dễ làm kín đáo, chỉ có cô em là bà
phải tính kỹ. Không nghĩ ra được một cái ghế nào khả dĩ, để ngoài cái tình ra thì cái lý cũng phải tiềm
tiệm một chút, kẻo "quan trên trông xuống, người ta trông vào", bà nghĩ đến một tờ báo và chức tổng
biên tập.

Thế là cái hội có hai trăm vầng nguyệt của bà ra đời một tờ tin. Sao lại Trăng Khuya? Thì có mấy
mồng là trăng non, trăng trẻ con, không tính, còn thì nói chung trăng khuya đều là vằng vặc, là "sáng
hơn đèn" rồi, là soi tỏ muôn hoa rồi. Đến cái kim cũng tỏ ấy chứ!

Được một năm thì bà lo xong cái chính danh cho nó; là cơ quan ngôn luận của Hội Bách Nguyệt. Tỉnh
nhà thêm một tờ báo được đường hoàng hoạt động không cần phải cắp bài vở đi xin phép từng số
một. Nhà in hàng tháng cũng có thêm những ngày cả người và máy rộn ràng.
Thật là vui vẻ cả làng. Ông nhà lại được tiếng là có một nội tướng tài ba, xuất chúng. Lo được mấy
chỗ làm tử tế cho con cháu, họ hàng, bạn bè gửi gắm. Tóm lại là giải quyết được khối việc. Toàn việc
lớn mới chết chứ! Bà cười khanh khách, khiến cái "khuôn trăng đầy đặn" càng thêm tươi, thêm giòn.

Nhờ duyên bà Hội trưởng, Trăng Khuya ngày càng được nhiều cơ quan đặt mua. Hơn nữa, bà em
tuy không biết gì về nghề báo, nhưng cũng là người lanh lẹ tháo vát, hót hay. Thật là giống phượng
giống công, giỏ nhà ai quai nhà nấy!

Thế là tờ báo chẳng mấy chốc có tiara lớn vào loại nhất nhì trong tỉnh. Nó được đón nhận còn vì có
nhiều ảnh phụ nữ đẹp, rất "hiện đại", và lại rất nhiều thông tin "cần thiết cho mọi lứa tuổi từ vị thành
niên trở lên".

Nhưng, nói trộm vía hai bà, tôi thấy nó không lá cải thì cũng đại loại là lá khoai lá dong lá ngô đồng lá
gì gì đó. Những người học hành tử tế thì nhìn vào đã thấy ớn, thấy gai cả mắt. Họ quý thời gian và
không hiểu người ta làm ra những loại báo ấy để làm gì?

Nhưng báo Trăng Khuya của chúng tôi có độc giả của chúng tôi, mà đông đảo nữa là khác. Đó là món
ăn bình dân rất dễ tiêu hóa và hợp túi tiền.

Chúng tôi cũng buôn dưa lê từ đời tư các văn nghệ sĩ, cầu thủ bóng đá, chính trị gia,... đến chuyện
phòng the, các kinh nghiệm giữ gìn hạnh phúc, các kiểu "gây men hồi sức", các kiến thức chăm sóc
sắc đẹp v.v... nghĩa là từ em gái mới lớn, các quý bà sồn sồn, đến các quý ông trông bề ngoài rất ư là
nghiêm ngắn, cũng đều muốn biết.

Tóm lại là lá gì thì lá, cũng lắm người có cái để đọc. Chúng tôi cũng chạy những hàng tít lớn suốt
trang, cũng có kiểu mà cánh làm nghề gọi là "giật tít đùng đùng", cũng có tranh, ảnh "nuy" mà chủ yếu
rút từ "sách đỏ" cho an toàn; có chuyên mục dành cho những run rẩy của tuổi "mực tím" hoặc chuyên
đề "cải lão hoàn đồng" cho những cụ ông cụ bà vẫn còn hăng hái...

Tóm lại nữa, là nó hơi giống cái mẹt thuốc, Tây lẫn ta, của bà Vệ làng tôi cách đây vài ba chục năm

Cuộc thi "Hát dưới trăng" do Hội Bách Nguyệt và báo Trăng Khuya tổ chức thế là thành công tốt đẹp.
Nhưng cuộc thi này, tốt đẹp phần lớn là nhờ cái giải thưởng to. Ngoài hai trăm người đẹp là hội viên
đua nhau mở ví để hé lộ vẻ sang giàu, thì cũng cỡ từng đó cộng tác viên muốn tỏ rõ mình đây đã đẹp
lại phóng khoáng, xứng đáng là ứng cử viên sáng giá cho lần kết nạp sắp tới. Cái sổ vàng của Hội
thật là được một phen hứng tiền. Ấy là chưa kể nhiều quý ông nịnh đầm, ném tiền để lấy lòng người
ngọc.

Tôi cầm danh sách các ca sĩ với các tiết mục đoạt giải đã vi tính và in bằng giấy bóng mờ, đang định
sang nhà in để chèn vào cái ô chừa sẵn ở trang 2, bên đó chỉ chờ in tay báo này nữa là chuyển sang
máy gập, rồi xén; cỡ tiếng đồng hồ là xong được mấy chục bản cầm về cho sếp xem trước; thì có
chuông điện thoại. Thì ra là bà chị Tổng biên tập. Dạo này, ông anh rể mới lên chức, giọng chị đâm
ra có vẻ khô và cứng hơn:

- Em sang phòng chị có việc nhé! Cầm cả cái biên bản của hội đồng giám khảo.

Tôi hơi khó chịu. Nhưng cũng chẳng còn cách nào khác. Trước, chị gọi tôi là Mai, xưng mình, vì tôi
chỉ thua chị một tuổi. Cần bàn việc gì, chị tự sang phòng tôi hoặc mời tôi ra hội trường.

Chẳng gì tôi cũng thâm niên hơn hai chục năm làm báo, ẵm bao giải lớn giải bé... Tôi còn chịu ngồi
làm phó cho chị, làm cái công việc mà tôi cho là rất nhảm nhí, cũng bởi chị khôn người, khéo giữ.
Không bạc tiền gì nhưng cũng được lời nói mát lòng. Sáng nay, chị bảo, cái kết quả cuộc thi, phải tự
tay Mai cầm đi nhà in thì chị mới yên tâm. Lỡ sơ sểnh gì thì chết!
- Có một chút thay đổi, Mai ạ! Là cái giải nhì của Thu Hảo, em bóc ra cho chị. Thay bằng cái này...

- Thế Thu Hảo lên giải nhất à? - Tôi khấp khởi mừng.

Cô ca sĩ có chất giọng thật đẹp, mềm ấm và sang trọng, không đạt giải nhất đã khiến tôi buồn bực
mất mấy ngày. Khi giọng hát ấy cất lên, tôi xúc động trào nước mắt: "Một đêm trăng lên thấp thoáng,
tôi nghe tiếng Ba-la-lai-ca, lặng nghe khúc hát Von-ga bồng bềnh trên sóng nước sông Đà, tưởng như
thiên nga chắp cánh...". Không phải vì đây là bài hát yêu thích của lứa sinh viên chúng tôi thời ấy.

Cũng không hẳn vì bài hát có giai điệu trữ tình, sâu lắng liên quan đến nước Nga (ngày ấy, và cả bây
giờ nữa, tất cả các bài hát Nga và bài hát về nước Nga, tôi đều mê).

Quả thật, cô ca sĩ hát bài này, ngoài chất giọng đẹp, gương mặt phúc hậu với những đường nét mềm
mại, đằm thắm và đầy vẻ đoan trang, cô đã hát bài hát này với một xúc cảm khác thường, tôi cảm
được sự run rẩy, tình yêu sâu sắc với đất nước Nga, và sự hiểu biết về văn hóa Nga.

Tôi đã nghe bao nghệ sĩ nổi tiếng hát bài này, nhưng chưa có ai làm tôi xúc động mạnh như thế. Cả
hai vùng đất ấy, nước Nga xa xôi và sông Đà, tôi chưa từng được đặt chân đến, vậy mà cảm thấy rõ
ràng một dòng sông trăng, một dòng âm thanh mênh mang dịu ngọt, hòa trộn tinh hoa của hai nền văn
hóa mà tan vào mình. Tôi mê man giữa quá khứ và hiện tại, trong khúc hát như vang dài trên mặt
sông mênh mông...

- Không! Bỏ hẳn tên Thu Hảo ra. Thay bằng ca sĩ Ban Trắng, với bài... bài gì nhỉ? À, "Trăng sông
Lam"!

- Không phải sông Lam mà là sông La! - Tôi nổi cáu - Bài ấy có vào giải đâu? Biên bản chấm thi cả
sao và gốc, đủ cả năm chữ ký hai cái dấu đỏ chót đây này! Ba ông nhạc sĩ nổi tiếng, chức danh kêu
như khánh như chuông cả, đã ký những chữ to tướng!

- Thay đổi rồi - Tổng biên tập nói và chìa ra cho tôi xem một tờ giấy cũng có hai dấu đỏ, và một, hai,...
đủ năm chữ ký giống hệt năm chữ ký tôi đang cầm trên tay.

Tôi không dám tin mắt mình nữa.

Cuộc thi ấy được đài truyền hình tỉnh truyền hình trực tiếp, tôi là một trong hai thư ký của hội đồng, có
quyết định hẳn hoi, vậy mà toàn bộ hồ sơ chấm thi tôi đang giữ, tất cả đều hợp pháp, đầy đủ thủ tục,
bỗng hóa thành mớ giấy lộn.

Cơn giận đã bừng bừng bốc cháy trong đầu tôi. Tôi vò mớ giấy tờ định xé nát ném vào mặt bà, chợt
nhớ lời em gái tôi tối qua nói trên điện thoại: "Tháng này chị hạn nặng. Xem hai nơi đều bảo thế.
Không đi đâu xa. Không làm việc lớn. Không tranh cãi với ai".

Tôi nuốt giận. Bàn tay cầm nắm giấy tờ vẫn run lên

Bà tổng biên tập quả xứng đáng là bề trên tôi. Bàn tay nõn nà mềm mại xoa vai tôi, vuốt tay tôi, đỡ lấy
nắm giấy, giọng nói mềm lại như nhung:

- Thôi, Mai cho qua đi. Hội đồng đã làm việc lại vì hôm trước có chút trục trặc. Đáng lẽ chị phải báo
trước cho em để mời em cùng dự, nhưng việc gấp quá, em lại đi vắng nên không kịp (rõ ràng bà biết
từ sáng tới giờ tôi chưa rời cơ quan nửa bước). Thu Hảo hát hay thật, chị nghe cũng chảy cả nước
mắt, xứng đáng giải nhất chứ không phải là nhì đâu.

Nhưng cô ấy còn trẻ, còn nhiều dịp tranh tài. Có tài thật sự thì lo gì! Không trao lần này thì lần sau.
Việc này có những lý do tế nhị, sau này chị nói rõ với em. Giờ em đừng để người ngoài nhìn vào lại
tưởng chị em mình có chuyện gì.
Việc này là vì Hội, vì báo thôi. Với lại, chị thấy cô Ban Trắng hát cũng không đến nỗi nào. Cô ấy cần
cái giải vì phải làm hồ sơ xét nghệ sĩ ưu tú, sẽ phụ trách văn - xã nay mai, báo mình còn phải nhờ
cậy nhiều.

Trời ạ! Tôi nghe ù cả tai. Giải mới chả giếc! Có mà giải rút! Thế mà cái trò hề của các bà đã làm tôi
tốn bao công sức. Chạy ngược chạy xuôi, dỗ dành từ thằng nhạc công đến mấy đứa kỹ thuật, loa
máy, từ phòng thu, phòng dựng, phòng bảo vệ... Phải nhét phong bì vào tay cả những đứa vớ vẩn.
Cứ như mấy người dạy xiếc thú nhét mía vào mồm voi, nhét lạc vào mõm gấu khi chúng biểu diễn ấy!

- Thôi, để chị bảo cậu thư ký tòa soạn nó cầm sang nhà in cho. Em mệt cứ về nghỉ, nhé!

Tôi bốc xe máy, vù ra đường, phi như mụ điên. Có lẽ trông mặt mũi tôi kinh lắm nên ai nấy giạt ra cả.
Tuy nhiên, cái bọn choai choai đánh võng lại không biết sợ ai. Và một thằng đã quẹt vào đít xe tôi.
Thế là tôi ngã, gãy mất ba dẻ sườn! May mà cái đầu đang bốc khói không sao. Thật là hú vía!

Tôi nằm nhà hai tháng, ê ẩm hết cả mình mẩy. Người cứ như sợi bún, hư tính hư nết, làm khổ chồng
khổ con. Tôi chán mình, chán người, mò dậy ra ga mua vé tàu. Đi chơi xa, cho nó qua cái năm xung
tháng hạn, để xả bớt nỗi bực bội trong lòng!

Mùa này tàu rảnh. Cả khoang sáu giường chỉ có ba khách. Một ông tầng ba, trèo lên một lát, tàu chưa
chạy đã nghe ngáy ò ọ. Cô gái tầng một bên cạnh, tôi nom quen quen. Vầng trán thật đẹp, đôi mày
cong thanh thoát, mũi dọc dừa, môi hồng, cằm chẻ, cổ cao ba ngấn, mái tóc búi một cuộn thật to...
Đúng rồi! Thu Hảo! Không trang điểm kỹ như lên sân khấu nên tôi không nhận ra ngay. Tôi buột
miệng gọi tên cô.

- Sao chị biết tên em?

- Em vừa dự cuộc thi "Hát dưới trăng" cách đây vài tháng mà.

Cô gái cười nhếch miệng. Một tay chống cằm. Tay kia, những ngón măng bấm lên mặt bàn như bấm
phím đàn.

- Chị rất tiếc là em không được giải.

- Em bị mất đấy! Mười triệu đồng...

- Sao em biết?

- Một ông nhạc sĩ trong ban giám khảo là bạn của ba em.

-!!!

- Bác ấy bảo, nói cũng chẳng ích gì đâu. Giải của họ, họ muốn trao cho ai thì trao. Mời mình chấm chỉ
là trang trí thôi. Cho nó sang mà!

- Nhưng ông ấy không cãi lấy một câu nào sao?

- Bác ấy không muốn để người ta nghĩ là mình có bất đồng với ông chồng bà Hội trưởng hội Bách
Nguyệt. Sợ người ta nghĩ mình tranh cái ghế của ông ấy. Đang làm phó cho ông ta mà!...

Bác ấy đưa em hai triệu, bảo đền cái phần em bị mất vì chữ ký của bác ấy. Tiền cũng quý. Nhưng em
buồn không phải tiếc tiền. Em cũng cần cái giải đó. Mà chẳng sao! Giọng hát em không mất là được.
Không ai lấy của em được. Em bỏ quê mà đi cũng vì thế! Không có hứng nên ở lại hát cũng không
hay nữa!
- Em hát bài "Tiếng đàn Ba-la-lai-ca trên sông Đà" rất tuyệt đấy! Chị nghe thấy lạ lắm, có gì đó ám ảnh
mãi!

- Chị biết không, ba mẹ em lấy nhau và sinh em ở Nga. Ba em biết chơi đàn Ba-la-lai-ca, biết hát rất
nhiều bài hát Nga, nhảy các vũ điệu Nga. Sau này về nước sống, cứ nhắc đến nước Nga là ông chảy
nước mắt. Em mất cái giải này, chỉ thương ba em. Em muốn dâng lên hương hồn ba em...

- Ba mất lâu chưa?

- Hồi có vụ tai nạn ấy...

- Ờ, chị có biết vụ đó!

- Giờ em sẽ lên sông Đà thắp hương cho ba, rồi quay về Hà Nội. Có một đoàn nghệ thuật quân đội đã
tuyển em vào. Giọng chính đấy!

- Mừng cho em! Nhớ thỉnh thoảng về quê hát nữa nhé!

- Hát chứ! Đang giận thì nói thế thôi. Bỏ quê thế nào được. Riêng chuyện chị nhớ em, nhớ tiếng hát
em đã là một cái giải thưởng đấy!

Tôi biết là cô đang nói rất thành thực. Thì mình cũng thế thôi, đôi khi những món quà nho nhỏ lại làm
ta thật xúc động. Có khi món quà ấy chỉ là một câu nói bình thường nhưng mang âm điệu khác lạ...

- Thôi, chị xuống ga Si đây, không đi Hà Nội nữa - Tôi đột ngột quyết định.

- Sao chị đổi ý nhanh thế? - Hảo nhướn cặp mày thanh tú, hỏi tôi.

- Ra Hà Nội chỉ để đi chơi thì phí quá. Không được đi cùng em thì tiếc thật, nhưng chị phải về quê để
kịp nghe một bà cụ hát mấy bài hát cổ, kẻo không, cụ mà đi mất thì tiếc lắm!

- Chị nghĩ thế cũng phải. Không được đi cùng chị em cũng tiếc.

- Đaxviđanhia! - Tôi chào Hảo một câu tiếng Nga

- Đaxviđanhia! - Hảo nhắc lại bằng lối phát âm rất chuẩn.

Tàu chạy, Hảo hét với theo tôi:

- Chị tên gì để em gửi đĩa có bài hát ấy về tặng chị?

- Chị là Mai. Nguyễn Thị Mai - Tôi hét thật to như sợ em không nghe rõ.

Chỉ có vài ba người khách cùng xuống tàu và chẳng ai không vội vã. Còn lại một mình trên sân ga, tôi
mới nhận ra là đang ở giữa một đêm trăng. Vầng trăng đang khuyết dần vì đã qua rằm mất mấy hôm,
nhưng vẫn đẹp nao lòng.

Còn đẹp hơn cả khi nó đầy tròn vành vạnh. Bây giờ trông nó giống một miếng ngọc phát sáng hơn.
Thỉnh thoảng có một vài đám mây xúm lại, được trăng lồng vào, làm thành vầng mây lấp lánh bạc. Cả
bầu trời vẫn sáng trong, mát rượi. Thường thì trăng tách khỏi những đám mây, thản nhiên đứng
không như chẳng làm gì. Thật ra, nhiều khi trăng còn soi tận lòng người. Tôi nghĩ thế!

18.Tấm da trâu lốt hổ

Bây giờ, nói đến "nghề vẽ da trâu" chắc chẳng ai tin, cho dẫu xã hội ngày càng sinh ra trăm vạn thứ
nghề. Ngay cả bản thân tôi, nhiều lúc cũng nghi nghi ngờ ngờ, cho dù biết rằng câu chuyện truyền
đời kia lại do chính cha mình kể lại trong một đêm giao thừa Tết năm con Trâu.
đời kia lại do chính cha mình kể lại trong một đêm giao thừa Tết năm con Trâu.

Đã hơn một lần, tôi mang thắc mắc ấy lục vấn cha, ông bảo: "Đó là chuyện xưa cụ kể cho ông, rồi ông
kể cho cha, và cha kể cho con. Chẳng có gì dám chắc qua mỗi lần truyền thuật, liệu có ai thêm bớt,
hay nói chạnh, nói lệch gì không, nhưng cha tin là có. Đời nào cũng vậy, có cầu ắt có cung, con
người cần gì khắc sinh ra nghề đáp ứng".

Thời gian trôi đi, cha tôi không còn nữa, nhưng từ bấy đến nay, cứ đến năm con Trâu, dịp tết, tôi lại
đem truyện xưa kể lại cho bạn bè, cho con. Mỗi lần một thêm say sưa. Và cũng chẳng dám chắc
những lần ấy có cao hứng thêm bớt mắm muối gì không nữa, nên - khác với cách của cha - trước và
sau khi kể, tôi luôn dặn mọi người: "Nghe, rồi hiểu thế nào, tùy ý, nhưng đừng thắc mắc gì cả".

Nhân một tết Con Trâu nữa lại đến, trộm phép vong hồn cha, xin kể thêm một lần mang tính quảng đại
hơn, "Truyện của người vẽ da trâu", và không dám thất lễ dặn dò độc giả bất cứ điều gì. Chỉ xin được
lượng thứ nếu có làm phí chút thời gian vàng ngọc của các bạn. Câu chuyện thế này...

Ngôi làng ấy tên là làng Bưng. Do gần núi, nên dân chúng sinh sống nửa nhờ rừng nửa nhờ đồng
ruộng. Nghĩa là trồng ngô, lúa hoặc đẵn cây, săn thú. Nhưng rõ ràng, săn thú đẵn cây cần có kỹ nghệ
và khó nhọc hơn, nên cũng kiếm được nhiều tiền hơn trồng cấy. Thú càng hiếm, càng dữ thì tiếng
tăm càng được đồn thổi và vinh danh nức nở.

Bước chân lên nửa bậc nhà sàn, mà đã thấy thấp thoáng trên nhà treo gác cái đầu hươu, đầu nai,
cặp sừng sơn dương là đầu gối đã run lẩy bẩy như muốn qụy xuống, quay về vì sợ mình không đáng
được chủ nhà tiếp. Đặc biệt, nếu ngay bên bếp lửa giữa nhà, lưng ghế ngồi hay mặt sàn ngủ lại là
một tấm da hổ thì không còn gì để nói nữa, khách chỉ có thể tiếp kiến chủ giống như dân đen vào dinh
quan tổng, hay ít ra cũng từa tựa địa chủ, phú ông ở các thôn quê, tộc trưởng ở các bộ lạc mọi rợ.
Tóm lại, những đồ vật bài trí đầy tính hình thức, bề nổi đó như một thứ thước đo địa vị xã hội.

Nhưng khốn nỗi dân làng Bưng ít người tài, người giỏi quá. Trai tráng không thiếu khuôn vạm vỡ
nhưng chỉ biết cày bừa, dẻo dai hơn thì cùng lắm lên rừng kiếm củi. Muốn săn thì phải có súng, có
nỏ, muốn bắt thì phải có bẫy, có mồi... toàn những thứ không tiền sắm nổi. Thế là cái nghèo giam hãm
cái óc, bắt bí cái đầu, dìm chết cả trí thông minh và mơ ước.

Bỗng một dạo, không biết sau chuyến đi chợ biên xa về, có mấy đứa rỉ tai nhau bàn tính chuyện gì vẻ
bí mật lắm, rồi sau đó lẳng lặng rủ nhau vác dao phát lên rừng. Đi làm rẫy mà cứ như đi ăn trộm. Ít ai
biết họ làm gì. Chỉ biết chừng nửa năm sau tốp ấy bắt đầu rủng rỉnh bạc trắng, đồng ra đồng vào,
trông mà nuốt nước miếng. Hóa ra nghe ai xui ai mách, mấy thằng lén khai đất trồng Anh túc, nghĩa là
cây thuốc phiện. Chuyện, sản xuất ma túy làm gì mà chẳng ra tiền nhanh thế. Rõ ràng đám trai tráng
này lười lao động cơ bắp, chỉ muốn ăn nhanh, có tiền nhanh, giàu nhanh thôi.

Gọi là đám, chứ thực tình tất tật nhóm người trồng anh túc chỉ có ba đứa. Đầu têu bày trận là Giàng
Thùng. Thùng có cô em gái là A Thình. Cái ngày ở chợ biên về, người đầu tiên hắn rủ rê trông thuốc
phiện chính là A Thình. Nhưng cô em nhất mực từ chối, bảo "làm gì chứ hại người, thất đức nhất định
sau nó vận vào thân như quả báo, không thoát được đâu. Tôi quyết không làm!". Tán tỉnh hơn thiệt
mãi A Thình cũng không nghe, anh em đâm cãi nhau, đánh nhau suốt mấy ngày, rồi cuối cùng Thùng
đuổi em:

- Cha mẹ mất rồi, quyền huynh thế phụ, tao bảo không nghe, thì mày cút khỏi cái nhà này, đừng ở đây
nữa...

- Nếu anh nhất quyết trồng thứ cây độc ấy, không phải đuổi, tôi cũng đi. Tôi không muốn chờ đến
ngày phải chịu chung với anh cái quả báo ấy...

Rồi Thình bỏ đi thật. Nghe nói xuống một huyện trung du làm thợ hồ gì đấy. Láng máng có tin cô đã
lấy chồng, đâu như kiến trúc sư hay thầu khoán hẳn hoi...
Trở lại chuyện Giàng Thùng. Hắn tìm được hai gã trai làng "cùng chung lý tưởng" như mình làm đệ
tử. Trồng trót lọt dăm vụ anh túc, Thùng giàu lên nhanh chóng, sắm sửa đủ thứ trong nhà. Đương
nhiên, mọi thu hái, giao dịch Thùng nắm hết nên ăn chia, hai "đệ" chỉ được phần như kẻ làm công,
kiểu như trả "lương thợ thuyền". Lương thợ thuyền nhưng so với mức sống dân làng Bưng, đã như
trời - vực.

Đã trồng, đã bán thuốc phiện thì phải biết hút, biết thử, không làm sao mà giao được hàng, định được
loại. Thế là cả ba thầy trò nhanh chóng nghiện hút. Thói đời, ma túy thường hay đi với gái. Tiền bạc
tiện nghi rủng rỉnh rồi, dăm bữa nửa tháng "xe pháo mã" lại chia nhau lên huyện lên tỉnh tìm "hàng"
giải quyết khoái lạc.

Một hôm, vừa rời ống điếu bàn đèn, đê mê trong cơn thăng hoa, tự dưng Thùng ứa nước mắt bảo hai
đàn em :

- Giờ có tiền nhiều rồi, muốn gì được nấy, tự nhiên tao nhớ con em và ân hận quá. Làm sao tìm gọi
được nó về đây...

- Tụi em không biết, chứ biết chị ấy ở đâu gọi về giúp đại ca ngay... Thế chẳng lẽ, cả làng không ai
biết chị ấy đi đâu sao ?

- Biết chứ, thể nào chả có đứa biết, nhất là mấy đứa chơi thân với nó...

- Sao anh không sang mà hỏi...

- Chúng mày nghĩ tao là ai chứ ? Từ ngày tao khá lên, hình như cả cái làng Bưng này không thèm
nhìn mặt tao nữa. Bạn bè cũ và dân làng tuyệt không thấy ai đến chơi. Gặp ở đường chào có đứa
còn ngoảnh đi như không quen biết mới khốn nạn chứ. Nghĩ cũng nhục, mà chẳng hiểu sao. Ngày
trước nghèo rớt, nhờ vả ai cái gì cũng dễ, hôm nọ bảo mắc hộ cái máng nước đầu cọn mà con bạn
cái Thình lắc đầu nguây nguẩy, tức điên lên được...

Sai đàn em tiêm tiếp mồi thuốc phiện nữa, Thùng nhả sợi khói lên trần nhà, mắt lim dim nhưng vẫn
đẫm nước:

- Chúng mày nghĩ hộ tao cách đi, phải làm sao để dân làng nó sợ, nó nghe mình bây giờ?

Ba thằng kềnh ra giữa sàn xếp thành hình tam giác. Khói thuốc phiện từ ba góc tam giác phun lên
như người ta vẫn làm hiệu cháy rừng. Bất chợt, một đệ tử của Thùng ngồi nhổm dậy:

- Trời ơi, em nghĩ ra rồi đại ca, cùng dân làng Bưng vậy mà không ai nhớ?

- Nhớ... nhớ cái gì?...

- Đại ca quên là cả cái làng này chỉ sợ, chỉ phục và nghe thằng nào săn giỏi sao?

- Quên thế nào được. Điều ấy ai chẳng biết.

- Thế thì đại ca phải kiếm ngay một số đồ "chiến tích xạ thủ" mà bày khắp nhà đi. Thấy hiệu quả ngay
thôi mà...

Thùng reo lên, vỗ đùi đánh đét:

- Chí lý! Có tiền mua tiên cũng được mà!...

Vậy là ngay hôm sau, Thùng xuất hai đẫy tiền, sai "pháo, mã" đi về hai hướng, dặn tầm mua bằng
được hàng loạt những hiện vật thị uy và bắt vía dân làng Bưng, bất kể với giá nào. Rồi chỉ vài ngày
sau, pháo mã cưỡi hai con ngựa thồ về tới nơi, trên lưng lỉnh kỉnh những bao lớn bọc nhỏ. Bộ ba hỉ
hả dỡ đồ, khiêng vào, bày, xếp suốt một ngày. Mấy gian nhà sàn như lột xác, biến thành một bảo tàng
thú với nào đầu hươu, nai, sừng sơn dương, lông chồn, sóc bay, nào thỏ, cheo, lợn lòi, đến cả cù lần,
công, tê tê, trĩ...

Trang trí bảo tàng xong, Thùng say sưa ngồi ngắm không biết chán. Ngay sáng sau đã có mấy người
dân làng khép nép đáo thăm. Thùng thử phản ứng và muốn xem hiệu quả tục làng ngay. Hắn sai
người này việc kia, bảo người kia việc nọ... tuy chỉ dám "cậy nhờ" việc... nhỏ, nhưng quả nhiên, đứng
trước những hiện vật "bảo tàng", mọi người cứ làm răm rắp như bị thuật thôi miên khống chế

Sung sướng đến mức đêm hôm ấy Thùng không thể chợp mắt được. Khi mệt quá thiếp đi, vẫn còn ú
ớ nói mê "có tiền mua tiên cũng được"... rồi cười lên khanh khách.

Sáng sau, quan sát lại một lượt nội thất "bảo tàng", như chợt nhớ ra điều gì, Thùng gọi nhị đệ lên, bĩu
môi:

- Các chú mày nhìn lại đi, có nhận ra điều gì không?

Hai đệ tử còn đang ngơ ngác, thì Thùng quát to:

- Ngu và ăn hại quá, định bịp tao chắc! Vẫn thiếu bộ da lông hổ, rõ chưa!

- Dạ... ngay khi về tụi em chưa kịp, thưa đại ca.

- Sao?

- Số là cả hai đứa đã lùng sục khắp nơi, ra giá trên trời... nhưng không đâu có ạ...

- Sao lại không có?

- Tụi em nghĩ họ cũng có đấy, nhưng hình như không dám bán. Vì độ này nhà nước có lệnh bảo vệ
động vật hoang dã quý hiếm, bắt gắt lắm, nên chúng sợ... bẫy của kiểm lâm cũng nên.

- Mẹ kiếp. Tao không thể không có, chí ít là một lưng ghế da hổ, rõ chưa. Chúng mày cầm tiền đi đi,
nếu không kiếm được thì đừng có vác mặt về đây nữa!

Nhị đệ pháo mã lủi thủi lùi ra. Một lát lại quay vào, lẩy bẩy:

- Đại ca thương tụi em, có giết tụi em cũng không kiếm nổi đâu... Nhưng tụi em xin hiến một kế này...

- Kế gì? - Chừng như cũng biết vừa hơi quá với hai đệ ruột đã giúp mình có ngày hôm nay, Thùng hạ
tông.

- Dạ, chỉ còn cách làm giả da hổ...

- Giả là giả thế nào?

- Dạ... vẽ hình lông hổ lên da... trâu ạ. Giống lắm. Em biết đã có nhiều người làm thế. Nhìn không ai
nhận ra cả ạ.

- Mẹ, da trâu thì đâu chả có, nhưng mang da trâu đi thì hóa ra bảo cho dân làng biết, lạy ông tôi ở bụi
này à...

- Không, vời họa sĩ đến tận nhà chứ, ăn, ngủ và vẽ ngay ở nhà mình, cho đến khi xong thì thôi... Làm
sao ai biết được.

- Thế chúng mày đã biết nó ở đâu chưa, tay họa sĩ ấy?


- Thế chúng mày đã biết nó ở đâu chưa, tay họa sĩ ấy?

- Tụi em lên huyện hỏi là biết ngay thôi. Đường, và cả người đều ở... mồm mình cả mà...

- Vậy đi luôn đi...

Khi hai đệ lên ngựa đi được một quãng rồi, bỗng Thùng gọi giật lại, thì thào:

- Tao nghĩ kỹ rồi, nhưng... như thế vụ giả da vẫn có thằng họa sĩ biết. Làm sao phải không ai biết mới
chắc chắn... à, mà thôi, được... Chúng bay cứ đi đi, việc ấy để tao lo...

Chiều hôm sau, hai con ngựa trở về mang trên lưng ba người: nhị đệ của Thùng cùng anh họa sĩ trẻ
với vali màu và bút vẽ. Thùng thết đãi cơm rượu cẩn thận, bày tỏ yêu cầu, ngã giá rất hời rồi dặn đi
nghỉ, sáng mai bắt đầu làm việc. Tấm da trâu được hắn mua sẵn lúc bọn đàn em đi, Thùng buộc bọc
ngay lên chiếc ghế, đặt trong gian kho cuối cùng nhà sàn, cái gian nhà duy nhất không có khe nhìn ra
bên ngoài. Hắn chọn nơi đây làm chỗ anh họa sĩ thực hiện công việc...

Để bảo đảm tuyệt đối bí mật, anh họa sĩ vẽ trong gian nhà, bên ngoài Thùng chặn gỗ, chốt cửa, chỉ
để chừa một lỗ đưa cơm, nước, rượu. Hắn dặn "cứ vẽ trong ấy, khi nào xong mới được ra ngoài, cần
gì gọi sẽ cho mang vào đủ". Suốt từ lúc ấy, hắn cứ loanh quanh bên ngoài, nheo mắt nghĩ mung lung,
chẳng biết để hình dung bức vẽ sẽ hoàn thành nay mai, sợ anh họa sĩ trốn mất hay tính toán điều gì,
mà xem sắc mặt nghe chừng nghiêm trọng lắm.

- Liệu mấy ngày thì xong?

- Dạ, đừng sốt ruột, em làm cẩn thận và bảo đảm cực giống, nên cũng phải ba ngày. Nhưng có tấm da
hổ, có gì mà anh quan trọng thế?

- Quan trọng gì đâu... Nhưng cậu biết tớ vẽ để làm gì không?

- Em vẽ tấm của anh không nhớ là tấm thứ mấy rồi, mỗi người thuê có mục đích khác nhau, nhưng
em cho da hổ chắc chủ yếu chỉ để... dọa..., mà thôi, chuyện đó em không quan tâm, miễn có tiền
mang về cho vợ con là được. À mà anh tên gì, để em còn tiện gọi...

- Tớ á, Thùng! Mà cậu có vẻ cũng hay tò mò thóc mách đấy...

- Gì cơ? Thùng ý ạ, nghe na ná giống tên... vợ em...

Cuộc đối thoại ngắn ngủi đầu tiên, và có lẽ cũng là duy nhất qua bức tường gỗ giữa Thùng và anh
họa sĩ, hình như khiến hắn rờn rợn điều gì rất khó diễn tả

Sang ngày thứ ba. Giàng Thùng cho hai đệ tử đi chơi huyện, bảo "cứ đi cho thỏa thích, sáng mai về
cũng được. Mọi việc ở nhà để tao lo", rồi hắn cầm cái xẻng xuống gầm nhà sàn, tới ngay dưới gian
anh họa sĩ đang vẽ, hì hục và lặng lẽ đào cái gì.

Sáng ngày thứ tư, khi nhị đệ pháo mã uể oải bò về đến nhà, đã thấy Thùng chỗm trệ ngồi trên chiếc
ghế da hổ, những đường nét lông hổ vẽ trên da trâu tỉ mỉ, điêu luyện, mượt mà đến mức không ai có
thể nhận ra là giả. Thấy các đệ tử về, Thùng được dịp thử luôn tác dụng của sản phẩm mới :

- Hai đứa, một đứa bóp chân phải, một đứa liếm ngón chân trái, làm đi!

Uy lực của tập tục cái làng Bưng quả thật nhiệm màu, lập tức nhị đệ của Thùng xông vào chủ như hai
con chó nhà, thực hiện y lệnh. Thùng lim dim mắt tận hưởng, nghĩ trong bụng "Thằng cha họa sĩ tài
thật...Tiếc cho nó".

- Giống y như lông hổ! Tay họa sĩ đâu rồi, đại ca? - Một tên hỏi.
- Tao cho nó... về rồi.

- Về đâu ạ? Nó người xuôi, có biết đường rừng đâu...

- Lắm chuyện quá... Chúng mày chả vẫn bảo đường ở mồm là gì. Bỏ đấy đi lên rẫy, không nói năng gì
nữa.

Hai thằng ngoan ngoãn đứng dậy vớ dao, cuốc đi ra nương thuốc phiện. Lúc đi qua gầm sàn, chúng
phát hiện thấy phồng phồng một nấm đất mới mà không biết là cái gì.

Từ ngày có chiếc ghế lông hổ, Thùng làm ăn phát đạt hơn. Dân làng thi nhau đến, còn mang cả đồ
biếu xén cống nạp không biết bao nhiêu mà kể. Đúng là nước chảy chỗ trũng.

Giàng Thùng ngồi trên chiếc ghế lông hổ được ba năm - đúng bằng con số ngày anh họa sĩ vẽ xong
lông hổ trên tấm da trâu, thì một hôm đột nhiên trời nổi mưa giông, nước hắt xéo vào tận trong nhà.
Những giọt nước mưa vừa chạm vào tấm da hổ rởm thì bỗng nhiên nó bùng lửa bốc cháy. Lửa lan
sang mọi thứ trong nhà bảo tàng thú và chỉ phút chốc cả ngôi nhà sàn cháy đỏ rực. Đám cháy trong
mưa. Nhưng thật kỳ lạ là càng gặp nước mưa, lửa như càng được tiếp thêm dầu, bốc cao ngùn ngụt.
Chỉ phút chốc, ngôi nhà sàn Giàng Thùng biến thành tro bụi.

Nhưng Thùng không chết. Không biết thế có là bất công không. Nó kịp chạy ra ngoài để nhìn chính
ngôi nhà của mình đang dần mất dạng. Thùng chưa kịp xin trú ngụ nhà ai thì công an ập đến, nhưng
họ đến không phải để chữa cháy, mà để còng tay bắt hắn đi.

Câu chuyện sẽ không thể hoàn hảo nếu không có cuộc gặp gỡ tình cờ và trích đoạn đối thoại giữa
Thùng và một người trong trại giam.

- Mày vào đây vì tội gì?

- Tao trồng và bán thuốc phiện.

- Mày có biết vì sao lại bị bắt không?

- Vì... Tao đã không nghe lời em gái tao. Còn mày? Tội gì?

- Lừa đảo, chiếm đoạt lòng tin và tiền.

- Chắc là mày biết vì sao bị bắt?

- Biết quá đi chứ. Cái ngu nhất của thằng vào tù là không biết vì sao mình bị bắt...

- Vì sao?

- Cũng như mày. Nhưng không phải em gái, tao đã không nghe lời một thằng họa sĩ...

Thùng bàng hoàng rùng mình:

- Họa sĩ? Chuyện thế nào?

- Dài lắm, tao sẽ kể sau, tóm lại là nó vẽ cho tao tấm da hổ và dặn "tuyệt đối không để nước mưa bắn
vào"... Tao hỏi tại sao, nó bảo vì "sấm chớp gió mưa là trời, ông làm thất đức trời chưa biết thì còn
thoát, chứ biết thì ngài vật cho là cái chắc!”. Mày mới vào, có biết hiện thằng họa sĩ ấy đang ở đâu
không? Nếu biết ở đâu, mai này ra tù, nhất định tao sẽ đến cảm ơn nó. Con vợ nó cũng vì không
đồng ý cho thằng anh trồng thuốc phiện mà bỏ nhà đi đấy...
Thùng rợn hết tóc gáy, mồ hôi túa ra, chân tay bủn rủn. Nó tưởng như mình chính là tấm da trâu lốt
hổ và cơn mưa trên đầu đang sắp đổ xuống hắt vào xối xả...

19.Tiệc cưới, tiệc cười

Đoàn ăn hỏi lên đường. 21 cái xích lô, trong đó có 11 chiếc chở lễ vật. Số còn lại, mỗi cái tha 2 nhân
mạng. Tôi được ngồi chung với ông trưởng ngành thuế vụ và kế sau đó toàn là những vị có chức
danh và bằng cấp dài thòng thõng. Đám choai choai bạn bè chú rể cứ đôi một kề đùi gác vế cấu véo
nhau rinh rích trên cái xích lô chật chội. Tuyệt nhiên không có người già và cũng có nghĩa không ai
nhìn thấy tóc bạc và răng rụng.

Viết xong cuốn tiểu thuyết, tôi lăn đùng ra ốm. Cũng không có gì là bạo bệnh, chẳng qua là làm việc
quá độ nên sinh ra suy kiệt. Vợ tôi giấu biệt tôi vào buồng để lánh nạn mấy ông bạn văn hay la cà, rủ
rê chè rượu. Từ người thật thà như đếm, mụ sinh tật nói dối hơn cả Cuội.

Đi đâu thì đóng tịt cửa, ở nhà thì cứ như con dê đực gác cổng chuồng. Đám bạn tôi đến, mụ nói dối
ngon ơ với đủ các lý do nặn ra theo từng hoàn cảnh và cấm bao giờ mời khách vào nhà. Tôi đã ốm lại
sinh thêm tật sợ vợ… ho he là mụ ta đay trì cáu cẳn, tụt hết cả cảm hứng văn chương.

Đang thiu thiu ngủ bỗng có tiếng xe rồ ngoài sân. Tôi chột dạ, hé mắt qua khe cửa và chờ một pha nói
dối ngoạn mục sắp diễn ra. Khác với dự đoán, vợ tôi niềm nở dẫn khách vào nhà và chõ miệng vào
buồng gọi tôi:

- Chú Mịch đến chơi, ông dậy uống nước.

Tưởng ai hóa ra Mịch, ông em họ con cô con bác đằng vợ, dễ đến gần chục năm nay mới hạ cố đến
nhà tôi. Chẳng qua cũng là chênh lệch nhau về giàu nghèo chứ nhà cũng cách nhau có một con
sông. Hắn ở thành thị, tôi ở nhà quê. Nhà Mịch kín cổng cao tường, mấy con chó ngao giống Hoa Kỳ
nó dữ hơn cả hổ báo, dân nhà quê yếu bóng vía như tôi sợ mất mật.

Tôi hong hóng chờ cái lý do của sự thăm viếng đột xuất này, nhưng ông em cứ đà đận hết khen cái
này đến cái kia trong một cái gia cư nghèo kiết của tôi:

- Cây táo nhà bác sai quả nhỉ… Con chó đen nhà bác lại 4 mắt, cái móng lại huyền đề là phát tài phát
lộc cho chủ lắm.

Tôi gượng cười, nụ cười méo xệch, cay đắng cho cảnh nhà có bán đấu giá chắc gì mua nổi vài chậu
cảnh nhà hắn. Con chó đen gẻ kềnh gẻ càng lõng thõng hai hàng vú đang chốn đàn con chạy theo
đòi bú. Mấy cây táo còi cọc như đào thế loi phoi quả. Phát tài cái nỗi gì, tôi đang phát bệnh thì có. Lời
khen muối mặt của hắn làm tôi tủi phận. Cái phận của thằng văn sĩ nửa mùa.

Thế rồi hắn cũng phải vào chuyện, ấy là chuyện hắn cưới con. Chỗ họ hàng, dù là thứ họ bắn ca
nông cũng cứ là họ. Đấy là lý do thứ nhất. Lý do thứ hai tôi lại là nhà văn, đã là nhà văn ắt phải giàu
chữ nghĩa, giỏi biến báo thưa gửi, giỏi kê lệch nên bằng. Những kẻ trọc phú đời mới bây giờ lại khát
chữ nghĩa danh vọng, thèm của ấy như gái chửa ăn rở khế chua, thích có ông trưởng này bà phó nọ,
bằng cấp đùng đùng ngồi sắp măng với gia chủ cho thiên hạ nhìn vào mà rôm đốt sau lưng.

Tôi giật mình! Thế ra cánh văn chương cũng có lúc vểnh râu tôm đáo để. Hắn mời tôi làm đại diện họ
nhà trai bởi vì nhà gái, có nghĩa là ông xuôi gia của Mịch cũng là Thạc sĩ ngữ văn, đang đứng đầu
một cơ quan văn hóa… Tưởng môn đăng hậu đối đến thế là cùng.

Mụ vợ tôi nể tình họ hàng nên ton tón nhận lời khi cái miệng tôi còn chưa kịp mở. Cái nước này thì
thằng tôi cũng đành "nhắm mắt, đưa chân" thôi. Khước từ là chuốc họa. Tiến thoái lưỡng nan, tôi
đành tặc lưỡi nhận chân ăn nói ở cái đám cưới lạ huơ lạ hoắc chốn thị thành chỉ vì cái danh văn sĩ…
Lần đầu tiên tôi ân hận và tủi hổ vì cái danh của mình.

Thấy mọi việc đã đến hồi kết, Mịch dúi vào tay tôi bao thuốc lá thơm, một cái phong bì và hẹn sáng
mai sẽ cho xe đến đón. Tôi ngây ra như thằng dở hơi, chân tay luống cuống như đi mượn, lập cập bắt
tay Mịch…

Tôi và Mịch sinh ra ở làng Trường Lộc. Tên làng thì thật no đủ nhưng cả làng nghèo vào diện đội sổ
trong vùng vì chiêm khê mùa thối, vì bệnh dịch. Đàn ông đàn bà tuổi ngoại 50 đã là diện lão lai trường
thọ lắm rồi. Thân hình khô đét nhăn nheo, đi đứng đã xiêu vẹo và đã tính chuyện lo cỗ hậu sự để
chuẩn bị chui vào.

Cái thời dị mọ ấy người ta sống ngắn hạn lắm. Động một tý là chết, chết như đùa. Bao nhiêu thứ bệnh
chỉ trông vào ông lang Lùn có cặp kính thô lố, dày như đít chai. Thuốc men tất cả là lá lảu trong vườn
nên dịch đậu mùa năm xưa đã cướp đi non nửa làng…

Trong số người còn sống sót có ông Tư Na, bố của Mịch. Chẳng biết ông sống được có phải do
thuốc lang băm hay không, nhưng còn sống là may lắm rồi. Di chứng để lại cho khuôn mặt những vết
rỗ lấm tấm. Tính ông vui vẻ và hay bông phèng, ông bảo với đám trẻ con là: "Tao ngủ dưới gốc cây bị
mít nó rụng vào mặt”. Có lúc ông lại phịa chuyện với lũ choai choai: "Tao bị thằng Tây tra tấn, nó dẫm
giày đinh lên mặt"… Thế mà lũ trẻ tin đáo để, cứ tròn mắt mà nghe.

Ông là bạn thợ cày lão nông chi điền với bố tôi, nhà gần nên tôi và Mịch rất thân nhau. Cả hai nhà
đều nghèo, tối lửa tắt đèn đều cưu mang đùm bọc. Tình thân ấy chỉ kéo dài khi bố mẹ chúng tôi còn
sống. Đến đời chúng tôi, hai thằng mỗi đứa mỗi ngả.

Tôi đi bộ đội rồi tự học, hết chiến tranh làm anh cạo giấy văn phòng và tập tọng văn chương, Mịch đi
công nhân đường sắt một thời gian lại bỏ về quê sau làm cái chân loong toong trong một cơ quan cấp
tỉnh. Tôi lấy chị con ông bác nhà Mịch nên hắn phải gọi tôi bằng anh chứ thực tình Mịch hơn tôi một
tuổi…

Bẵng một thời gian tôi không gặp hắn, cả những đình đám lễ tết cũng mất dạng, tôi hỏi vợ mới biết
"cậu ấy" lấy vợ trên phố, ở rể ông bố vợ vừa giàu có vừa có chức quyền. "Cậu" học giỏi lắm, một năm
3 lớp, rồi chuyên tu, rồi tại chức và đang là trưởng phòng cứng cựa. Nghe đâu bố mẹ vợ cho nhiều
đất lắm… Rồi cũng một thời gian sau đấy, vợ chồng tôi được mời đến ăn mừng ông em khánh thành
nhà. Căn nhà to nhất phố chợ, cao đến 3 tầng rưỡi… Vợ tôi cứ xuýt xoa: "Đời có số thật rồi, nó học
hành cứ nhanh như lợn ăn cám tăng trọng. Một bước lên quan. Cạo giấy như ông chán bỏ mẹ, quanh
năm nghèo kiết xác…".

Sáng hôm sau, y hẹn, chiếc tắcxi bóng nhẫy như phết mỡ đã chờ sẵn đầu làng. Một con bé choai
choai mặc váy đen, nồng nỗng hai cái ngà voi trắng hều hễu, rún rẩy xách cái valy lặc lè, cùng cậu lái
xe lần vào nhà tôi! Chết bỏ mẹ rồi, đại họa rồi. Chúng nó vào tha xác thằng gàn này đi bêu thiên hạ
rồi. Quả thật là từ lúc miễn cưỡng nhận lời, tôi cứ mong trời phật phù hộ độ trì cho nhà nó khai tâm
mở trí mà rút lui ý kiến rồ dại. Tôi mong có người thổi vào tai vợ chồng nhà nó là cái thằng văn sĩ kia
gàn dở hâm chập lắm, khó ngửi lắm.

Tôi đứng ngây ra chịu sự điều hành của đứa oắt con cứ leo lẻo gọi tôi bằng anh. Ngượng với vợ quá,
tôi hỏi: "Cô bao nhiêu tuổi". Nó trả lời xanh rờn lá mạ: "Em 21" . Tôi bồi vào mặt nó: "Em kém con út
anh 2 tuổi đấy". Tưởng nó xin lỗi mà cải chính ngôi thứ, ai ngờ nó tỉnh khô đáp lại: "Văn nghệ sĩ
không có tuổi, gọi anh cho nó trẻ". Bố con ranh! Chỉ được cái… nói đúng.

Công việc trùng tu nhan sắc cho gã văn sĩ nhà quê diễn ra ngay tắp lự. Có nghĩa là tôi phải "quàn"
lên người bộ complê và cái giày nâu bóng loáng, phải tròng vào cái cổ họng chiếc cà vạt đỏ khé và xịt
lên người bộ complê và cái giày nâu bóng loáng, phải tròng vào cái cổ họng chiếc cà vạt đỏ khé và xịt
gôm lên mái tóc tổ quạ rồi rẽ ngôi. Tôi cứ như cái hình nộm bị vày vò vặn vẹo.

Mụ vợ tôi tí tởn chạy quanh ngó nghiêng, cổ vũ, nghiêng nghé nhìn như tôi vừa từ sao Hỏa mới hạ
cánh về. Kết quả, tôi bị áp giải lên tắc xi giữa thanh thiên bạch nhật trong sự tò mò của đám nạ dòng,
bạn buôn dưa lê của vợ… Mặt tôi cứ rồm rộm, tê tê… Ngượng chết đi được! Bố cái của khỉ nó hành
tôi, nó đày ải thằng tôi bằng những trang bị, phụ tùng thời thượng.

Đây là lễ ăn hỏi và liền ngày hôm sau tổ chức đón dâu nên nhà Mịch hôm nay đã trang hoàng đâu
vào đấy. Bà cô vợ tôi gần 80 tuổi ốm kinh niên được di tản về quê với cậu rể út. Mấy con chó ngao bị
nhốt trong cũi sắt hầm hầm nhìn khách ra vào. Phông bạt, bàn ghế, tranh ảnh, âm ly, màn hình to như
vuông chiếu sẵn sàng hoạt động. Mùi xào sáo, mùi phấn son ngào ngạt chen vào không khí

Tôi vừa ra khỏi xe, vợ chồng nhà Mịch đã chạy ra săn đón và dẫn vào chiếu nhất với bạt ngàn là com
lê, là váy, là phấn son, là mông và vú đàn bà được cơi nới tưng bừng. Có lẽ nhìn tôi cũng hay hay,
ngồ ngộ nên sau lời giới thiệu chức danh, mọi người xúm vào bắt tay.

Đoàn ăn hỏi lên đường. 21 cái xích lô, trong đó có 11 chiếc chở lễ vật. Số còn lại, mỗi cái tha 2 nhân
mạng. Tôi được ngồi chung với ông trưởng ngành thuế vụ và kế sau đó toàn là những vị có chức
danh và bằng cấp dài thòng thõng. Đám choai choai bạn bè chú rể cứ đôi một kề đùi gác vế cấu véo
nhau rinh rích trên cái xích lô chật chội.

Tuyệt nhiên không có người già và cũng có nghĩa không ai nhìn thấy tóc bạc và răng rụng. Tất cả trẻ
rờ rỡ và bừng bừng như thuốc súng sấy khô. Có lẽ thời đổi mới họ không dùng già làng, trưởng họ
trong việc cưới để bớt đi cái sức ỳ, bớt đi sự ăn nói thưa gửi rườm rà theo kiểu "con tằm nó ăn lá
dâu". Khổ thân tôi, uốn lưỡi làm sao cho hợp thời hợp cảnh đây. Tôi lẩm nhẩm soát xét những lời
vàng ý ngọc sắp trải ra trước sự ủy thác thật trái khoáy phải đeo vào cổ.

Đoạn đường từ nhà trai sang nhà gái non chục cây số. Cuối thu nhưng trời còn nóng và oi. Ông
trưởng ngành thò tay vào túi rút khăn lau mồ hôi. Cái bụng có lớp mỡ dày hí hóp theo nhịp thở. Tôi
cũng bải hoải cả người nhưng không dám động cựa sợ hỏng "phụ tùng" đang đeo.

Ngoái lại trông đám xích lô mới thảm. Vốn dĩ ngày thường đi chở hàng, họ toàn mặc soóc, mặc áo cộc
cho thoáng khí, nay phải "quàn" complê lại hộc tốc, gò lưng mà đạp nên mồ hôi chảy như mưa rào.
Quên cả lời cam kết, họ nới càvạt, phanh cúc áo rồi vén quần quá gối mà đạp. Thỉnh thoảng lại thò
tay vuốt mặt đen nhẻm và lởm chởm râu, thở phì phì như bò bắt nợ. Có gã hất ca vát ra sau bay phất
phới nên trông vào, đây là một đám rước sách lạ mắt và bi hài.

Dân hai bên đường nhìn đoàn ăn hỏi xanh đỏ loè loẹt, nhôm nhoam lễ phục, lả thả con người mà xầm
xì, mà châm chọc… Tôi thấy mặt mình rân rân. Ôi! cái làng quê nghèo khổ của tôi thế mà ấm cúng.
Cưới hỏi đơn sơ, người già áo vá quần thâm, trẻ con mũi thò lò vẫn được đón tiếp chu đáo, có ai
phân bì giàu nghèo địa vị đâu. Tôi đã được đắm mình vào bao niềm vui thôn dã, sơ giản nhưng thấm
đẫm cái tình, niềm vui không nhuốn màu vụ lợi hay phù phiếm trưởng giả.

Hôm sau đám cưới bắt đầu. Từ sáng sớm, đoàn nhạc sống bầu đàn thê tử, lễ mễ đàn trống, xủng
xỉnh xiêm y kéo vào. Một toán ca sĩ, có cả một sao ca nhạc đang ăn khách góp mặt trong cái sân khấu
nhỏ. Mấy cái loa thùng to tổ bố ụp ụp oạp oạp …Khách khứa bắt đầu lác đác tiến vào, sau đó là ngùn
ngụt tuôn vào. Toàn là complê thẳng đuỗn. Toàn là váy đỏ váy đen. Các mệnh phụ được dịp khoe của
và khoe eo, khoe lườn. Tất cả đều thấp thó của nả. Người ta thi nhau nói cười, vỗ đập, xướng rõ to
chức danh bằng cấp của nhau cho đám dân đen nó hãi.

Tiệc mặn bắt đầu. Những tà áo dài thướt tha như cánh bướm. Những bộ váy bộ díp mỏng đến tận
cùng bưng đồ ăn toả khói nghi ngút, len lỏi cọ sát với các thượng khách hào hoa và dư thừa sang
trọng đang ràn rạt nâng ly đụng cốc. Không khí náo động như có lửa sôi.
Đúng lúc đó dàn nhạc sống xuất chiêu với những âm thanh sôi cuồng bốc lửa. Đám ca sĩ nhảy như
choi choi mà hát, mà gào, mà rên. Trang phục họ đeo trên mình là cái đồ hàng mã hết. Nó chỉ dính hờ
hờ trong cái thế khá nguy hiểm khiến người cẩn trọng hay cả lo đến cái chức năng che chắn, đậy
điệm muôn thuở của xiêm y.

Không sao! Đám cưới thời đổi mới cũng phái có chút "mở cửa" chứ. Cứ nhảy, cứ hát, cứ gào, cứ
uống… Lảo đảo là những bước chân đi tìm cạ, tìm mặt mà quảng giao. Làm thân và xu nịnh, tâng bốc
và gạ gẫm…Vui lắm.

Tôi lủi tịt vào một góc, ngồi với mấy ông xích lô, mấy nhân viên thu vé chợ vốn dĩ là lân bang của gia
đình nhà chủ, chỉ ngay ngáy lo nhỡ có thằng nào ngứa miệng mà phô cái danh còm của mình. Cũng
may mà trong không khí nước sôi lửa gào ấy, chẳng ai chú ý đến tôi.

Ăn uống quáng quàng cho phải phép, tôi lủi nhanh ra phía hậu trường, nơi một số bà con xóm mạc và
họ hàng đang đứng xúm xụm như những kẻ tội đồ bị dồn vào trại tập trung. Họ là chỗ họ hàng "phi nội
tắc ngoại" có lẽ vợ chồng Mịch miễn cưỡng phải mời và họ cũng miễn cưỡng phải đến. Để cho đỡ tẻ,
đỡ vô duyên, họ xúm vào định nhận chân bưng mâm rửa bát, tiếp rượu nhưng tất cả mọi dịch vụ gói
gọn rồi.

Ai mượn mấy bà răng đen, mấy ông răng cải mả, dị ứng với com lê cà vạt làm hỏng đội hình nhà đám.
Chốn này là của váy và complê, của tóc ốp và nước hoa Pháp chứ không thể có quần thâm và khăn
vuông mỏ quạ, không thể có răng rụng và bỏm bẻm trầu thuốc. Tất cả là óng chuốt và thơm tho.

Cái làng quê cách một tiếng gọi đò giờ đây nó xa lơ xa lắc. Có chăng chỉ đến lúc nhắm mắt xuôi tay là
cần đến nhau. Nhưng ngày ấy chắc còn xa lắm, còn xa lắm thì lo nỗi gì… Đám dân quê nhà tôi chẳng
ai nhòm ngó hỏi han. Họ biết thân biết phận nên gửi tấm phong bì mỏng tang dăm ba chục ngàn rồi
tìm mọi lý do rút lui. Lần đầu tiên tôi thấy dân nhà quê họ nói dối cũng đại tài. Ngó quanh ngó quẩn
chẳng thấy vợ đâu, thì ra mụ ta cũng theo đám dân làng "hồi cư" lúc nào không rõ.

Thế rồi đám cưới ầm ĩ cũng qua. Cố nhiên là tôi hoàn thành xuất sắc việc ăn nói thưa gửi cho đáng
mặt của một thằng phu chữ. Tôi dằn lòng với bao ý nghĩ và trách nhiệm trước việc hệ trọng của một
đời người. Tôi không muốn vì những định kiến hẹp hòi để vô tình trở thành kẻ bất lương. Sau khi
tháo bỏ xiêm y lỉnh kỉnh, tôi nhận thêm chiếc phong bì nữa và thập thững cuốc bộ về làng.

Qua cổng nhà chú rể út, nơi bà cô vợ đang tá túc, tôi gặp vợ đang hái lá hương nhu nên rẽ vào.
Trong ngôi nhà cấp 4 nghèo nàn, bà cô đang nằm đó. Cô dâu út đang chải tóc gội đầu. Bộ quần áo
lâu ngày bà mặc đã được thay mới. Chiếc thau nhựa có đám hạt mùi già nổi li ti trên nền nước đục
nhờ vừa lau mình mẩy. Tôi nắm bàn tay còn rặt xương sẩu của bà mà ngậm ngùi. Bà thầm thào:

- Nó tệ với cô lắm, vợ giống tính chồng. Cái gì cũng sai con ở. Cả tháng chúng nó chẳng hé răng hỏi
han một lời. Đám cưới con nó, nó sợ xấu mặt nên đùn tao về đây. Nó nhiều "bố" lắm nên phải tiếp.
Lần này tao về đây ở hẳn với vợ chồng nhà út. Đứa nào bắt tao lên phố là tao cắn lưỡi tự tử ngay
cho mà xem.

Biết nói gì đây nhỉ. Tôi thấy mắt mình cay cay. Vợ tôi và cô dâu út cũng đỏ hoe con mắt. Hai cái phong
bì như cựa quậy trong túi. Tôi lặng lẽ đặt vào tay bà mà cổ họng ngẹn đắng dềnh lên, chặn ngang
bao lời định nói.

Ngoài trời chợt nổi trận mưa trái mùa…

20.Người trong tranh

Anh đưa cho chị một tấm voan mỏng và bảo chị vào phòng trong cởi bỏ quần áo. Khi bước ra, không
hiểu sao chị không thể giữ nổi tấm voan trên tay nữa. Anh ngắm chị trong im lặng. Rất lâu. Chị không
dám nói gì với anh. Trong hợp đồng đã ghi rõ điều ấy. Rồi bỗng nhiên, anh nâng bút. Cây bút như
múa trên tấm toan. Nét dài, nét ngắn, nét đậm, nét nhạt, khi cần mẫn, khi hối hả.

Chị từ phòng trong bước ra. Chỉ một tấm voan mỏng che hờ trên tấm thân trần. Rồi tấm voan mỏng ấy
rơi nhẹ xuống sàn nhà. Như làn gió thoảng. Theo hướng tay anh chỉ, chị bước đến chiếc giường đã
trải ga trắng. Trước mặt chị là chiếc giá vẽ và khung tranh đã căng toan. Anh nhìn vào mắt chị. Khá
lâu. Chị bối rối. Anh cảm nhận được điều đó. Ánh mắt của anh tiếp tục lướt nhẹ trên người chị. Chị
cảm thấy từ ánh mắt ấy có hơi ấm lan tỏa trên da thịt. Chị khẽ run lên...

Chị là con gái ngoại thành. Làng nghèo. Nhà chị cũng nghèo. Học hết lớp 7 chị phải nghỉ ở nhà giúp
mẹ việc đồng áng và chạy chợ.

Năm chị mười tám, nghe người ta đồn, thứ gì bán ở phố cũng đắt gấp hai, ba lần ở quê. Chị rủ mấy
đứa bạn trong làng mang rau ra ngoài ấy. Nhưng ngày đầu mon men đến chợ phố, chị và mấy đứa
bạn đã bị mấy bà hàng khô, hàng tươi xua đuổi và xỉ vả tơi bời.

Không bán được ở chợ, đành phải gánh đi rong. Cũng có lãi. Nhưng mà mệt. Mấy đứa bạn chán
cảnh lang thang đành bỏ cuộc. Chỉ còn chị. Chị khỏe mạnh và có duyên bán hàng với người phố. Dần
dà, nhiều người nhà mặt phố còn đặt mua rau tháng. Hôm nào chủ nhà chưa dậy, chị để rau trước
cửa, trưa mới quay lại lấy tiền.

Anh cũng là một trong những khách hàng đặt mua rau thường xuyên của chị. Chẳng mấy khi anh dậy
trước chín giờ. Thành ra mỗi sáng chị chỉ việc đặt mớ rau lên trên chiếc hòm thư bằng gỗ sơn màu
xanh ở ngoài cổng. Gần trưa, bán hết, chị quảy gánh về, anh như đã đứng chờ sẵn. Thường thì cùng
với việc trả tiền, anh còn mời chị cốc nước đun sôi để nguội.

Cho đến một ngày đầu hè. Chói chang nắng và hầm hập nóng. Chị lấy nón quạt liên hồi. Rồi chị cởi
tung cả chiếc khăn che mặt. Sợ đen, con gái làng chị đứa nào cũng che mặt bịt bùng như thế. Lần
đầu tiên anh nhìn thấy mặt chị. Gương mặt ửng đỏ và lấm tấm mồ hôi. Cả người chị như tắm trong mồ
hôi. Cái áo sơmi màu xanh cổ vịt như dán vào da thịt chị. Ánh mắt của anh hôm nay rất lạ. Vẫn thân
thiện nhưng có vẻ bối rối.

Từ khi bán mớ rau đầu tiên vào dịp cuối xuân đến giờ là cuối hạ, trong suy nghĩ của chị, anh là một
khách hàng đàng hoàng và sòng phẳng. Đã nghe người ta đồn thổi đủ điều về thói trăng hoa và giả
dối của con trai thành phố, nhưng với anh, chị thấy có vẻ chân thật.

Đôi lúc nghĩ vẩn vơ, chị còn thấy anh có nhiều nét đáng yêu. Hình dáng của anh, nói như bọn con gái
trong làng là miễn góp ý. Trắng trẻo, thư xinh, tầm thước, mắt sáng, môi đỏ, ngón tay thon như tay
con gái. Còn tính cách, chị cũng đoán được đôi phần qua cách anh đưa tiền hay mời nước. Cả một
đôi lần anh hỏi về chuyện bán rau của chị... Chị còn đang vẩn vơ suy nghĩ về ánh mắt khác thường
của anh thì bên tai đã ngân lên một lời đề nghị: "Hôm nay tôi có câu chuyện muốn bàn... Chị có thể
vui lòng vào trong nhà một lát không?".

Chị theo chân anh vào phòng khách. Căn phòng chừng hai mươi mét vuông, ngổn ngang những giá
vẽ và khung tranh. Tranh phong cảnh ruộng đồng và cả tranh người, hầu hết là những cô gái đẹp. Lại
có bức vẽ một đứa con gái trần như nhộng. Rõ là đồ đĩ thõa.

Người làng chị vẫn bình phẩm những cô gái lẳng lơ và ăn mặc hở hang bằng những câu như thế.
Nhưng mà cô ấy đẹp. Người nuột như cái ngó cần. Chỉ có đôi vú là chán. Nhỏ và lép kèm kẹp. Của
chị tròn trịa và đầy đặn hơn nhiều. Chị không dám nhìn lâu vào bức tranh, sợ anh đánh giá. Anh mời
chị ngồi xuống ghế, đưa thêm một cốc nước mát và giọng nói lại ngân lên, nhẹ như gió:

- Tôi ăn ở lộn xộn quá. Với lại những tác phẩm đặt ở đây đang còn dang dở nên tôi chưa thể cất.
- Không sao đâu ạ. Ở nhà em còn bừa bộn hơn nhiều.

- Thế này chị ạ. Đã lâu rồi tôi quan sát và nhận thấy chị là một phụ nữ có dáng người và đôi mắt rất
đẹp. Còn hôm nay, chị cởi bỏ chiếc khăn, thú thực tôi phải bàng hoàng. Một gương mặt bao năm nay
tôi tìm kiếm bây giờ mới thấy. Vậy nên tôi xin đường đột đề nghị thế này...

Anh nâng cốc uống như thể lấy lại tự nhiên rồi nói tiếp:

- Tôi đề nghị chị làm mẫu vẽ cho tôi...

Đúng là con trai thành phố. Nói hay và nịnh khéo đến thế là cùng. Nhưng làm mẫu nghĩa là… Chị liếc
nhanh về bức tranh khỏa thân rồi cúi đầu lí nhí:

- Em chịu thôi.

Anh vẫn khẽ khàng:

- Tôi biết khi nhìn bức tranh kia, nhiều người đã nghĩ xấu về giới họa sĩ và các cô người mẫu. Thực
ra thì không phải cô gái nào cũng chấp nhận làm mẫu khỏa thân. Nhưng…

Anh định nói thêm một điều gì đó. Nhưng rồi nhìn vào ánh mắt đầy lo lắng của chị, đành thôi. Lại rót
nước đưa cho chị. Lần này chị uống không phải vì khát mà là để cả hai đỡ căng thẳng. Đợi chị uống
xong cốc nước, anh mở ngăn kéo, đặt lên tay chị một tờ giấy:

- Đây là bản hợp đồng tôi ký với một số cô người mẫu trước. Chị đọc và xem các bức tranh tôi đã vẽ
họ. Lúc nào thấy thuận lợi trả lời cũng được.

Năm tháng sau buổi trưa ngột ngạt nắng ấy, các điều khoản trong bản hợp đồng chẳng còn ý nghĩa gì
đối với chị. Chị như bị thôi miên đến mê muội vì những tác phẩm và cả vì sự lịch lãm của anh. Chỉ với
chiếc áo màu xanh cổ vịt, chị đã được hóa thân vào một số bức tranh của anh.

Ngắm tranh, mới thấy những lời khen của anh dành cho chị là thành thật. Trên những tấm toan mỏng,
nét đẹp trên cơ thể chị trở nên lung linh, huyền ảo và tràn đầy sức sống. Có lúc chị còn cảm thấy cô
gái trong bức tranh như đang muốn cử động. Chỉ cần một lời vẫy gọi của anh là cô gái ấy sẽ bước ra
khỏi khung tranh...

Hôm nay chị chỉ xếp gánh rau vơi bằng một nửa ngày thường và trở lại thu tiền sớm gần 2 tiếng theo
lời anh đề nghị. Hợp đồng chị ký với anh, chỉ phải ngồi mẫu mỗi tuần ba buổi, mỗi buổi một giờ, bắt
đầu từ 10 giờ sáng. Một giờ ấy anh trả cho chị số tiền bằng cả tuần kĩu kịt gồng gánh trên vai.

Ngày đầu, ngày thứ hai, rồi ba tháng ngồi mẫu, nhất nhất anh tuân thủ các điều khoản trong hợp
đồng, từng chi tiết nhỏ. Không bao giờ anh dám động đến người chị. Không bao giờ anh và chị hỏi
chuyện đời tư của nhau. Chị chỉ việc cử động theo khẩu lệnh của anh: ngồi xuống, xoay sang phải,
ngước lên, cúi xuống... Nhưng tuần trước, bản hợp đồng có bổ sung thêm điều khoản mới. Điều này
lại do chính chị đề xuất.

Một lần đứng trước bức tranh cô gái khoả thân khá lâu, chị buột miệng hỏi anh:

- Vợ anh đây à?

Anh đáp:

- Đó là cô người mẫu trước của tôi. Trong hợp đồng của chúng tôi đã có điều khoản vẽ cô ấy trong
tình trạng này từ trước.

Không hiểu sao lúc ấy chị trở nên bạo dạn đến thế:
- Anh có nghĩ rằng người em đầy đặn và khỏe mạnh hơn cô gái này không?

Anh nói:

- Anh luôn ao ước có được bức tranh như thế của em.

Chị đỏ mặt:

- Anh khéo thế. Thực ra cũng có lúc em muốn có được bức tranh về mình như thế...

Sau buổi ấy, anh trở thành một người khác. Hoạt bát và mơ mộng. Còn hôm nay, anh hẹn chị đến
sớm. Chị đoán già, đoán non...

Những điều chị đoán đã trở thành sự thật. Chị lặng lẽ nghe theo mệnh lệnh của anh như một con
chiên ngoan đạo. Anh đưa cho chị một tấm voan mỏng và bảo chị vào phòng trong cởi bỏ quần áo.
Khi bước ra, không hiểu sao chị không thể giữ nổi tấm voan trên tay nữa. Anh ngắm chị trong im lặng.
Rất lâu. Chị không dám nói gì với anh. Trong hợp đồng đã ghi rõ điều ấy

Rồi bỗng nhiên, anh nâng bút. Cây bút như múa trên tấm toan. Nét dài, nét ngắn, nét đậm, nét nhạt,
khi cần mẫn, khi hối hả. Thỉnh thoảng anh mới ngước nhìn chị. Ánh mắt khắc khoải và luyến tiếc. Có
lẽ anh sợ hai giờ trong hợp đồng ngày hôm nay không đủ. Chị nhìn anh với ánh mắt đắm đuối. Chị
quên rằng mình không còn mảnh vải nào trên người. Hình như chị đã yêu anh đến mức có thể làm
theo mọi sự sai bảo của anh...

Buổi chiều, con gái chị mang về một tờ báo và hỏi:

- Mẹ xem, con nhỏ trong bức tranh này có giống con không?

Chị ngắm nghía cô gái trong bức tranh đăng kèm một bài báo rồi nói:

- Sao con lại hỏi mẹ như thế?

Con gái chị liến thoắng:

- Là thế này: Bọn bạn con đánh cược rằng chính con đã ngồi mẫu cho ông họa sĩ ấy vẽ. Mà con thì
có bao giờ biết ông họa sĩ nào đâu…

Nói rồi con bé bỏ mặc chị với tờ báo rồi chạy ào lên gác. Lát sau nó bước xuống với chiếc túi du lịch
trên vai. Trước khi ra khỏi nhà, nó bảo:

- Con đi chụp ảnh cho lịch tết. Chắc phải một, hai ngày mới về.

Con gái đi rồi, một mình chị ngồi đối diện với tờ báo. Bức tranh vẽ chân dung chị trong tấm áo màu
xanh cổ vịt. Còn bài báo viết về anh. Rằng anh là một họa sĩ rất nổi tiếng thời chiến tranh. Dọc đường
hành quân vào mặt trận, anh có hàng trăm tác phẩm, trong đó phần nhiều là ký họa người lính nơi
chiến trường gian khổ.

Bài báo cũng hé lộ đôi dòng về đời tư của anh. Rằng anh là người suốt đời tôn thờ cái đẹp nhưng
không hiểu vì sao đến nay vẫn sống độc thân. Có nhiều lời đồn xung quanh chuyện anh không chịu
gắn bó với người phụ nữ nào mặc dầu anh từng được rất nhiều người đẹp si mê. Tác giả bài báo
cũng úp mở rằng, khi chọn bức tranh in kèm bài phỏng vấn, anh chỉ chọn bức "Người năm cũ" thay
cho lời ngỏ muốn một lần được gặp lại cô gái trong tranh trước khi mở triển lãm riêng của mình...

Đọc xong bài báo, mắt chị nhòe đi. Chiếc ống nứa dưới đáy cái hòm gỗ kê ở góc phòng kia còn một
bức tranh nữa của anh vẽ chị. Một bức tranh khỏa thân. Vì bức tranh ấy mà cuộc đời chị gặp bao éo
le, oan trái. Từ khi nhận bức tranh từ tay của anh, chị chỉ được xem nó có 2 lần.

Lần thứ nhất, trong buồng, dưới ánh đèn dầu tù mù. Phải đợi cả nhà đi ngủ, cài then chắc chắn, chị
mới dám lôi nó từ ống nứa ra xem trộm. Lần thứ hai, mới mùa đông năm ngoái. Trước lúc lâm chung,
bố đưa lại cho chị cái ống nứa và dặn rằng: "Bức tranh đẹp lắm nhưng nó không thuộc về cái nhà
này, cái làng này. Con nên trả lại cho người ta".

Tối hôm ấy, chị mở bức tranh ra xem, trong căn phòng riêng, dưới ánh đèn nê ông mát như ánh trăng.
Người trong tranh có đôi mắt đen láy, đầy quyến rũ. Mái ngực căng tràn và hai đầu vú như hai đốm
lửa sắp cháy lên những ham muốn hạnh phúc. Người chồng của chị đã từng bị thiêu đốt vì đôi mắt và
mái ngực rực lửa ấy. Ông ta cũng là người phố, lầm lì, khó hiểu và rất căn cơ.

Năm ấy chị đã gần ba mươi. Ông ta hơn chị mười tuổi và đã một đời vợ. Đêm tân hôn ông ta lén trải
một chiếc khăn bông trắng trên chiếu. Sáng ra khi nhìn thấy những giọt máu màu hồng tươi thấm trên
khăn ông ta mới nở nụ cười mãn nguyện và tin rằng chị chưa một lần chung đụng với đàn ông. Rồi
đứa con gái của chị ra đời.

Nhưng có một chuyện liên quan đến bức tranh khiến cuộc đời chị rẽ sang hướng khác. Lần về quê
thăm ông bà ngoại, tình cờ đứa con gái lục lọi và thấy cái ống nứa dưới đáy hòm gỗ chị gửi lại bố mẹ.
Nó tò mò lôi ra nghịch. Bức tranh rơi ra khỏi ống nứa. May mà bố chị kịp nhìn thấy và giấu biệt.

Tối hôm ấy, về nhà, nó khoe với cả nhà rằng đã trông thấy mẹ cởi trần truồng nằm trên một tấm vải.
Năm ấy nó mới hơn 4 tuổi. Sự ngây thơ và hồn nhiên của nó đã tạo nên những cơn ghen sấm sét
trong người ông ta. Ông ta đòi xem bức tranh. Chị từ chối. Không được xem tranh, ông ta liên tục căn
vặn. Sau căn vặn là những trận đòn và lời xỉ vả ngày này qua tháng khác. Cuối cùng là lá đơn ly dị.

Chị bế con về nhà ở với bố mẹ. Lại những gánh rau kiếm sống. Chị dồn hết sức lực và tình cảm chăm
chút cho con gái. Càng lớn nó càng giống chị. Có phần đẹp hơn. Đám con trai bám theo hàng đàn.
Cánh thợ ảnh tranh nhau mời nó chụp ảnh cho các tập san thời trang. Một công ty quảng cáo chọn
nó làm người mẫu độc quyền. Có tay thợ ảnh còn chèo kéo nó chụp ảnh "nuy" nghệ thuật. Chỉ hai
năm làm người mẫu, nó mang tiền về xây nhà hai tầng ngay trên lô đất ông bà ngoại chia cho chị.

Còn bố nó, sau khi bỏ chị đã cưới thêm hai người phụ nữ nữa. Cả hai người ấy đều phải bỏ ông ta
mà đi. Nghe người ta đồn rằng đêm tân hôn nào ông ta cũng lén trải khăn bông lên trên chiếu. Nhưng
chẳng có cô nào có được một giọt hồng hồng, tía tía như ông ta mong muốn. Và cũng chưa cô nào
kịp sinh con với ông ta...

Tối hôm sau con gái về. Nó xòe ra cho chị vài chục chiếc ảnh đủ kiểu nằm ngồi... Trên người chỉ có
hai mảnh vải che phía trên, phía dưới. Khoe chán, nó nhét tập ảnh vào túi, chạy lên gác. Còn lại một
mình, chị lặng lẽ bước đến bàn thờ. Đĩa hoa quả và cốc nước lã chị đã đặt lên từ sáng. Chị châm
thêm ba nén hương nữa. Trong khi chị đang lầm rầm khấn vái thì con bé bước xuống.

Nó hỏi: "Hôm nay là ngày gì mà phải thắp hương hở mẹ?". Chị không trả lời. Khấn vái xong chị kéo nó
đến bên và dốc bức tranh từ trong ống nứa ra trải ngay ngắn trên bàn. Nó nhìn như dán mắt vào bức
tranh rồi thốt lên: "Có phải vì bức tranh này mà lão ta bỏ mẹ phải không ạ"? Chị gật. Nó hỏi vẻ dò xét:
"Vậy thực ra bố con là ai? Chị nói trong nước mắt: "Con đừng bao giờ hỏi mẹ như vậy nữa. Con chỉ là
của riêng mẹ". Con gái chị tỏ vẻ hối hận. Nó lặng lẽ gật đầu và vuốt lại bức tranh cho phẳng

Chị và nó cùng ngắm tranh, nhưng mỗi người theo đuổi ý nghĩ của riêng mình. Lát sau, chị nói:

- Trước khi chết ông ngoại con mới đưa lại bức tranh cho mẹ. Ông ngoại dặn lại phải trả bức tranh
cho người vẽ. Mẹ thấy lúc này gửi lại cho người ta là hợp nhất.

Con gái chị giãy nảy:


- Đừng. Mẹ biết bức tranh này đẹp đến mức nào không? Người ta chụp cho con cả trăm bức ảnh
"nuy" nhưng chẳng một cái nào đẹp và sống động như bức tranh này.

Gương mặt của chị ánh lên vẻ hạnh phúc:

- Vậy thì lúc này ông ấy càng cần có nó. Con mang đến triển lãm gửi lại cho ông ấy, được không?

Một tuần sau, giữa trưa, con bé về nhà với tờ báo trên tay. Giọng nó vừa như hoan hỉ vừa như nuối
tiếc:

- Mẹ có tưởng tượng được không. Bức tranh mà mẹ cho không ông họa sĩ ấy được bán với giá bao
nhiêu không? Cao chót vót. Báo viết giấy trắng mực đen đây này: "Bức tranh khỏa thân cũng với tên
là "Người năm cũ" của người họa sĩ đang mang trong mình căn bệnh hiểm nghèo, đã có người trả tới
mười lăm ngàn đôla Mỹ!".

Chị cầm tờ báo đọc và ngồi lặng đi...

Ba mươi năm chị mới trở lại ngôi nhà mặt phố có cái hộp thư bằng gỗ sơn màu xanh ấy. Thay vì gánh
rau năm xưa, sáng nay chị gánh hoa. Hầu hết các gia đình trong làng của chị bây giờ đã chuyển sang
trồng hoa. Chiều chiều, người thành phố về làng mua hoa tại vườn, giá có thấp một chút nhưng đỡ
mất công, mất sức. Chiều qua, cánh buôn hoa lại đến. Chị không bán mà để dành cho gánh hoa hôm
nay ra phố.

Chị mới ở tuổi năm mươi. Gầy và sạm nắng, nhưng ơn trời gương mặt vẫn còn phảng phất nét đẹp
ngày xưa...Chị đặt gánh hoa trước cổng ngôi nhà và bấm chuông. Một cô gái trẻ, khá xinh ngó ra. Chị
lên tiếng xin gặp ông họa sĩ và nói thêm:

- Cháu nói giùm với ông ấy rằng bác là người đã bán rau ở đây từ ba mươi năm trước.

Cô gái tỏ ý ngạc nhiên khó hiểu. Lát sau trước dáng vẻ ngượng ngập tội nghiệp của chị, cô gái giải
thích:

- Gia đình cháu dọn về đây đã hơn hai mươi năm. Từ hồi chưa có cháu cơ. Có lẽ bác nhầm nhà. Mà
bố cháu là bác sĩ chứ không phải là họa sĩ.

Rời ngôi nhà có cái hộp thư bằng gỗ sơn xanh, đôi chân của chị như thể đang bước trên những thửa
ruộng ngập bùn ngày trước. Sẩm tối chị mới quẩy gánh hoa đã héo quắt về đến nhà. Con gái đón chị
ở ngoài cổng. Nhìn dáng vẻ mệt mỏi và gương mặt buồn bã của chị, nó như đã đoán được phần nào.
Nó hỏi mà như căn vặn chị:

- Mẹ đến với ông họa sĩ phải không? Sao mẹ phải giấu con?

Chị ngượng nghịu:

- Mẹ định gặp lại ông ấy rồi mới kể với con chuyện xưa.

Con gái chị bước vào trong nhà rồi nói vọng ra:

- Mẹ không phải kể nữa. Con biết hết rồi.

Chị đứng như trời trồng trước hiên, hỏi lại:

- Con biết gì nào? Mà sao con biết?

Con gái chị trở ra với một tờ báo trong tay và nói:
- Ông họa sĩ ấy đã kể hết chuyện của ông ấy với mẹ trong bài phỏng vấn này. Mẹ nghe con đọc xem
cái đoạn sự ra đời của những bức tranh "Người năm cũ" xem có đúng không nhé.

Chị giật lấy tờ báo và nói:

- Đừng. Để mẹ tự đọc

...Thì ra là như vậy. Không phải chỉ riêng chị đơn phương yêu anh mà chính anh cũng rất yêu chị. Anh
còn bộc bạch với nhà báo rằng mùa đông năm bẩy tư ấy, giá như anh không phải vào chiến trường
có lẽ anh đã ngỏ lời yêu. Rồi mùa hè năm bẩy nhăm từ mặt trận trở về, nếu không bị nhiễm chất độc
da cam từ cánh rừng trụi lá chắc anh đã đi tìm chị.

Anh không muốn chị hoặc bất cứ cô gái nào gánh chịu thêm bất hạnh vì chất độcđiôxin trong cơ thể
mình. Cũng không thể sống ở thành phố trong khi căn bệnh quái ác liên tục hành hạ và nguồn thu
nhập chính từ cây cọ vẽ ngày càng trở nên hạn hẹp, anh đã chuyển về quê.

Từ những phác thảo hồi mới gặp chị gần ba mươi năm trước anh đã vẽ đi vẽ lại để có thêm hai bức
tranh "Người năm cũ" mà anh cho là ưng ý nhất. Bức tranh khỏa thân mà con gái chị mang đến, anh
cũng đặt tên "Người năm cũ" và treo vào ngày cuối cùng của triển lãm. Chiều hôm ấy có một người
đàn ông đến nằng nặc đòi mua. Anh không muốn bán nên ra giá thật cao. Không ngờ người đàn ông
ấy vẫn bỏ ra mười lăm ngàn đô để có được bức tranh. Các nhà báo xúm vào phỏng vấn nhưng ông ta
kiên quyết không tiết lộ danh tính...

Không thể đọc hết bài báo, nước mắt chị làm nhòe những dòng chữ còn lại. Chị ngồi thần ra nghĩ
ngợi. Người đàn ông bí hiểm ấy là ai nhỉ. Hay ông tâ chính là người đã đuổi hai mẹ con chị ra khỏi
nhà chỉ vì bức tranh...

Trong khi chị đang miên man với bao suy nghĩ thì con gái từ dưới bếp bưng mâm cơm lên. Thấy chị
đang khóc nó nói nhỏ:

- Hôm nay mẹ đi tìm ông ấy mà không gặp đúng không?

Chị im lặng không đáp. Nó tiếp:

- Hôm trước con đã định nói với mẹ đến gặp ông ấy bàn chuyện cưa đôi tiền bán bức tranh. Nhưng
hôm nay thì con "bai bai" ý nghĩ ấy rồi. Đọc báo mới thấy ông họa sĩ ấy thật đáng trân trọng. Bệnh tật,
túng thiếu thế mà dám dốc cả một khoản tiền lớn tặng cho quỹ nạn nhân chất độc da cam....

Chị ngắt lời con gái:

- Thật thế hở con?

Con gái đến bên chị, chỉ tay vào đoạn cuối của bài phỏng vấn và nói:

- Rõ chán cho mẹ. Thế mẹ chưa đọc đến đoạn này à?

Chị nâng tờ báo lên xem. Những dòng chữ khi tỏ khi mờ trước gương mặt đã đẫm nước mắt của
chị... "Bức tranh "Người năm cũ" là tác phẩm khỏa thân cuối cùng của tôi. Nhưng đã từ ba mươi năm
nay nó thuộc sở hữu của một người khác. Người ấy tặng lại cho tôi đúng vào dịp triển lãm này. Tôi
biết vì bức tranh mà người ấy chịu bao điều oan trái. Mười lăm ngàn đô là một khoản tiền lớn. Lẽ ra
nó phải thuộc về người đã gìn giữ bức tranh trong suốt ba mươi năm. Nhưng tôi biết nếu đem tặng
cho quỹ nạn nhân chất độc da cam, chắc người ấy cũng sẽ thuận lòng...".

Con gái đặt tờ báo xuống trước mặt chị. Giọng nó chùng hẳn xuống:
- Con xin lỗi mẹ vì đã có lúc nghĩ sai về hai người. Ngày mai con sẽ đưa mẹ đi tìm ông họa sĩ. Chắc
ông ấy cũng đang mong được gặp mẹ lắm. Vậy mà hôm trước con đã nói dối rằng bố mẹ cháu đi làm
ăn xa chưa về...

21.Chuyến xe đời người

Bà ngồi bên đống đồ mà lòng xốn xang. Ngày mai, chỉ ngày mai thôi là bà sẽ lại được về với con với
cháu, với xóm giềng và vườn ruộng nhà bà. Thật tự do. Thật sung sướng. Chẳng như cái nơi này, ăn
ngon, mặc đẹp mà như người dưng hay là tội phạm.

Thằng Hai nhà bà - cái thằng con quý tử mà bà hết lòng yêu thương và đặt cả hy vọng đã làm bà thất
vọng. Nó làm gì chẳng biết mà hết họp sáng, lại họp chiều, rồi họp tối. Chao ơi, suốt ngày hội họp,
suốt ngày chỉ ngồi phòng lạnh, xe lạnh. Thi thoảng nó mới có thời gian ở nhà nghiên cứu tài liệu và
ăn cơm cùng mẹ. Mẹ muốn đi chơi thường là vợ nó đưa đi hoặc anh lái xe lo tất. Mấy tháng trời nó
mới tự đưa mẹ đi chơi được một lần.

Đi nhiều, đi suốt chỉ sướng thân nó. Có tí tiền về nó lại đưa hết cho vợ, thi thoảng nó mới cho bà dăm
chục một trăm. Bà cũng chẳng cần mua cái gì vì nhà nó quá dư dả, đủ đầy, bà cần gì có nấy. Dưng
mà bà cứ thấy tưng tức thế nào ấy. Bao công bà vất vả sớm hôm để chăm bẵm nó, những tưởng nó
là ông nọ bà kia thì cũng phải đặt bà lên trên nhất. Vậy mà…

Thằng Cả nghèo túng, vất vả nhưng công to việc lớn gì cũng phải hỏi ý kiến bà. Tiền bán thóc, bán
gà vịt, tất tần tật nó đều đưa bà nắm giữ. Dâu tôi thì chỉ biết an phận thủ thường, lo làm lo ăn, lo hầu
hạ mẹ chồng và chăm sóc con cái. Sống với thằng Cả, bà là người đứng đầu trong nhà, tiền hô hậu
ủng. Bà nói không là phải bảo không, nói có thì phải bảo là có, cấm cãi. Thế mới là đứa con hiếu
thuận.

Thằng Hai học cao, chức trọng mà đặt mẹ ở vị trí thấp, vợ nó coi thường mẹ, coi thường cả nó ấy
chứ. Con vợ nó đáo để lắm. Đúng là sư tử cái. Chồng đưa tiền về, nó giấu biệt, cứ như sợ bà lấy
trộm đem về cho những đứa ở quê không bằng. Bà đã ngần này tuổi rồi mà làm thế sao?

Vợ chồng thằng Hai nhà bà mua nhiều thứ thật lãng phí. Cái tủ lạnh cao gấp đôi người bà, thức ăn
hết ngày là bỏ (chậc, bao nhiêu thức ăn nó bỏ đi cũng đủ cho nhà thằng Cả ăn hai ngày). Chưa kể
nhà nó còn có một tủ đầy rượu ngoại quý đặt trên tầng 5, chẳng mấy người biết. Có chai rượu đắt
đến 10 triệu.

Dùng bình nóng lạnh chưa đủ, nhà nó còn dùng điều hòa hai chiều hai cục gì đấy. Bốn mùa vợ chồng
con cái nhà nó dùng đệm Kim Đan, chăn gối Hàn Quốc. Nhà có mấy phòng thì cả mấy cái điều hòa,
trừ phòng khách, phòng ăn ở tầng một trang trí sơ sài, chỉ có cây quạt treo tường và cái quạt trần cũ
kỹ.

Kể cũng lạ, chúng nó đâu có nghèo mà để hai phòng đó sơ sài, xấu xí vậy? Đã thế ai đến chơi mà gợi
ý mua sắm đồ đạc cho phòng khách, thế nào cũng được con dâu bà cất giọng ngọt như mía, rền rĩ
mình nghèo túng, khó khăn, đồng lương ít, phải tiêu pha nhiều, đóng góp học hành, lo việc học thêm
cho con tốn quá. Cố gắng lắm mới xây dựng được nhà như thế này đấy. Còn số đồ đạc ít ỏi kia là do
vay mượn ngân hàng, anh em và một phần hồi môn của vợ và tiền bán nhà đất mà mẹ chồng cho.
Lúc ấy bà nghe mà ngượng chín cả mặt.

Con dâu bà khi về nhà chồng chỉ có mấy chỉ vàng và bọc quần áo rẻ tiền. Con trai bà nào được tiền,
đất gì đâu. Bà chẳng dại gì mà chia đất sớm kẻo như ối người quê bà không có chỗ trú chân. Mà có
được chia chác thì đất quê rẻ lắm, bán mảnh vườn mấy sào thì được mấy nả.

Bà thấy mình già rồi, như cây cằn cỗi. Bà lạc lõng giữa nhà con trai. Suốt ngày bà chỉ làm bạn với chị
giúp việc. Mà chị giúp việc thì bận luôn tay, bà chẳng giúp được nhiều ngoài nhặt mớ rau, hay quét
cái nhà. Làm việc ấy cũng phải vụng trộm, lúc con trai đi vắng, không chị giúp việc bị quở là lười, bắt
người già phải làm việc.

Mỗi ngày ngồi rảnh, chờ con dâu trang điểm rồi đi làm, bà lại lẩm bẩm nói chuyện một mình và bâng
khuâng nhớ về thời trẻ xa xôi. Ngày ấy bà vất vả, nghèo túng nhưng mà khỏe khoắn. Mùa hè, vừa đẻ
xong mươi ngày, bà đã ra bể nước mưa dội nước ùm ùm. Hôm sau, bà để con ở nhà rồi phăm phăm
lội xuống đồng gánh phân cấy lúa. Ham làm, sữa về căng vú, chảy ướt đầm vạt áo bà cũng không về,
cố theo mọi người cho nhiều công điểm. Một đời bà lam lũ, ăn đói nhịn khát, lao động cực nhọc đã
thành quen rồi, giờ nhàn rỗi, bà thấy ngượng nghịu và lãng phí làm sao.

Con dâu thành phố của bà thật ẽo ợt, điệu đàng. Sáng bảnh mắt mới nhún nhẩy bước ra khỏi phòng.
Xong còn đánh răng, rửa mặt, tập thể dục giữ eo, rồi đánh phấn, rồi uống sữa, ăn bánh hoặc đi ăn
quán, nhất định chẳng chịu ăn cơm do bà và chị giúp việc nấu. Nó bảo ăn cơm sáng nặng bụng, khó
tiêu. Hai đứa trẻ thì được mẹ cho ăn, cho uống đúng giờ. Có ăn thêm hoa quả, bánh kẹo cũng nhất
định phải sau bữa ăn 15 phút. Mỗi lần tiện tay, vả lại thương cháu còn thèm, bà định lấy cho cháu ăn
thêm, nàng dâu chợt từ đâu đi tới, giữ tay bà lại:

- Mẹ, con đã nhắc nhiều lần rồi mà mẹ vẫn cứ cho cháu ăn lung tung, làm hư chúng nó.

Nghe nó nói nhẹ như gió thoảng, uốn éo từng từ mà bà sởn gai ốc. Thật quá thể. Đến quý cháu, cho
cháu ăn thỏa thích khi cháu thèm nó cũng cấm giữ. Bà thấy mình quá tù giam lỏng, chẳng có tự do,
chẳng có quyền hành. Mà bọn trẻ nhà này sống cũng như cái máy rôbốt vậy, mọi thứ phải chỉn chu,
sạch sẽ, ăn, ngủ, nghỉ, chơi phải đúng giờ giấc. Bà làm sao mà nhớ cho hết lịch của chúng. Con dâu
bà nhẹ nhàng, dịu dàng thế thôi nhưng rất kiên quyết bắt mẹ chồng, bắt người giúp việc và con cái
phải răm rắp theo lệnh, theo lịch. Già như bà, lại là bề trên làm sao chịu sự điều hành, quản lý của nó
được cơ chứ?

Cả ngày đó và những ngày sau bà cứ vẩn vơ, vơ vẩn nghĩ ngợi rồi ấm ức, rồi nhớ cháu, thương vợ
chồng thằng Cả ở nhà. Những mong thời gian trôi đi thật nhanh, mau mau tới ngày chúng đưa bà về.
Chờ, chờ mãi đến mỏi cả mắt, đến nẫu cả người mà chúng chẳng chịu buông tha, thu xếp cho bà về
quê. Chúng bảo về quê làm gì cho khổ, mà đâu nghĩ sâu xa rằng bà thích sống trong không khí quê
mùa, dẫu bữa ăn hàng ngày ít thịt, ít cá, lại chẳng có sữa và hoa quả cao cấp tráng miệng.

Buồn nọ chồng chất bực kia khiến đầu óc bà như mụ mị, miệng bà luôn nói ra những lời bực bội, đay
nghiến, vậy mà chúng chẳng thèm nghe. Hỏi sao bà không giận, không bỏ về quê cơ chứ. Sáng nay,
nhân lúc xe chở con dâu vừa chuyển bánh, bà tong tả chạy về phòng gói gém thật nhanh quần áo rồi
len lén trốn ra khỏi cổng, không để chị giúp việc nhìn thấy.

Ôi chao, phố gì mà đông người thế. Chẳng hiểu người ta đi đâu mà lắm vậy, người nọ chen lấn người
kia. Mấy lần bà phải dừng lại giữa đường hét lên vì sợ bị xe máy đâm phải. Cảm giác tự do và sảng
khoái đến với bà khi anh phụ xe dắt bà lên chiếc xe vàng dài ngoằng, đặt bà ngồi lên chiếc ghế xanh
và dặn:

- Cụ ngồi yên đây nhé, khi nào tới bến xe, con dắt cụ xuống.

Sau mấy tiếng, bà đã được trở về nhà. Lúc ấy là giữa buổi trưa. Cả nhà kinh ngạc khi thấy bà tong tả
đi vào. Thằng Huy - con cả biết bà trốn về quê liền nổi giận đùng đùng. Dắt xe đạp ra, hắn nhảy lên,
phóng một mạch ra phố gọi điện trước sự ngơ ngác, bất ngờ của cả nhà. Một lúc, hắn lại đùng đùng
trở về, quẳng xe xuống sân, nói:

- Thằng Hai thật quá đáng, quá thể. Điện thoại cho nó, nó tắt máy. Điện thoại về nhà thì người giúp
việc bảo đi liên hoan. Mẹ lên chơi có ít ngày mà vợ chồng nó cư xử như thế đấy. Phen này đừng có
vác mặt về quê.
Dâu trưởng không để lỡ cơ hội, mát mẻ:

- Ai bảo nhà anh không có điện thoại riêng. Nếu có, nhìn số máy quen đố chú ấy dám tắt.

Anh Cả ớ người. Anh ngồi phịch xuống đất, chả thiết ăn cơm, mặt đăm chiêu nghĩ ngợi. Là anh em
ruột nhưng phận anh và phận chú ấy khác nhau xa quá. Nhiều lúc nghĩ cũng tủi thân. Anh đã nghèo
lại còn phải nuôi mẹ. Mẹ già vừa khó tính lại vừa lắm lời, nhiều khi cũng nản.

Tiếng là giàu có và thành đạt thế mà bao năm qua chú ấy nào đã cho anh mình cái gì ra hồn. Toàn
những thứ thừa chú ấy thải ra. So với xóm giềng, những tiện nghi ấy kể cũng đáng giá nhưng so với
địa vị giám đốc một công ty lớn, một người được hưởng hết lộc của cả nhà thì ngần ấy cũng chưa
thấm thía gì. Vả lại, nếu có lắp cho anh cái điện thoại thì cũng chủ yếu là tiện lợi cho chú ấy gọi về hỏi
thăm mẹ chứ sao? Một thoáng so bì, giận dỗi vậy thôi, anh Cả lại nguôi ngoai và quay sang mẹ:

- Cũng cả tại mẹ nữa. Ở đấy sung sướng thì không muốn. Lần nào cũng tìm cách trốn về, thật bẽ mặt
con cái.

Nghe con gắt, bà thấy tủi thân. "Cha nó chứ. Bà nhớ nó, thương nó, nên bà mới trốn chứ có làm sao
mà nó nặng lời với mẹ". Bà bỏ vào buồng, nằm vật ra. Rồi giấc ngủ đến với bà lúc nào cũng không
hay.

… Khi bà tỉnh dậy thì trời đã xâm xẩm tối. Mấy đứa cháu đã đi học về và đang ngồi vơ suông. Con
dâu bà thì đang mải miết vò đám lúa rối còn sót lại sau khi đã tuốt lúa bằng máy. So với dâu thứ thì nó
xấu hơn, ăn mặc dĩ nhiên là xuềnh xoàng, cẩu thả. Nó cũng không phải là đứa hiền thục, nhưng được
cái tốt nhịn. Ở với nhau bao lâu, mẹ con đã bén hơi nhau nên không cần phải giữ kẽ nhiều. Vả lại
suốt bao năm qua nó phải nhẫn nhịn chịu sự quản lý của bà nên bà thấy dễ chịu lắm. Thấy bà lững
thững đi ra sân, con dâu bà chợt mỉa mai gọi:

- Các con, mau dừng tay ra bà phát quà kìa. Ở phố có khác, trông bà béo trắng hẳn ra, đi lại cũng
đủng đỉnh.

Bọn trẻ tưởng thật vội bỏ lúa, chạy ùa về phía bà, miệng rối rít:

- Bà, bà, quà của cháu đâu?

Bà đứng ngẩn người, ngạc nhiên vì thái độ và câu nói của dâu trưởng. "Mới có mấy tháng xa nhau,
sao nó lại có thái độ coi thường, hỗn láo với bà vậy? Thật chả ra thể thống gì". Tự dưng bà thấy uất
nghẹn trong cổ mà không thốt ra được. Bọn trẻ đang háo hức vây quanh, nhìn thấy vẻ mặt tức giận
của bà thì chưng hửng.

Những ngày sau đó với bà thật nặng nề. Bà không sao thoát khỏi ý nghĩ con cái giờ đây đã trở nên
bạc bẽo với cha mẹ. Chúng lấn át bà. Rẻ rúng bà. Coi bà là gánh nặng. Bà buồn và giận chúng. Thế
nên nhất cử nhất động của con cháu, nhất là con dâu bà đều để ý, soi xét. Mà nó thay đổi thật rồi.
Không còn là dâu hiền của bà nữa. Thỉnh thoảng nó lại buông một câu mỉa mai nhằm vào bà, khiến
bà tức mà không sao tìm lời đáp lại được. Mà chả nhẽ nó nói một câu mình nói lại một câu, quá là đôi
co kiểu trẻ con.

Nghĩ rồi bà lại bực lây sang cả thằng Hai. Thấy mẹ trốn về, nó không thèm về thăm mẹ và xin lỗi như
mọi lần, mà chỉ điện thoại về nhà hàng xóm hỏi thăm rồi cho người về chơi, mang tí quà và tiền cho
mẹ, cho anh. Nó bận đến đâu mà không tự về thăm mẹ? Hứa về sau mà mãi chẳng về khiến vợ
chồng thằng Cả vừa giận, vừa coi thường bà.

Bực nọ chồng chất bực kia, tự dưng bà thấy tiếc nhớ cuộc sống đủ đầy trên thành phố. Nó đơn điệu,
tẻ nhạt. Nó lạnh lùng, xa cách với bà nhưng dẫu sao cũng chẳng bị ai làm phiền. Một mình bà một cái
ti vi, một cái đài, một cái quạt. Chán xem tivi thì mở đài, chán nghe đài thì xuống nói chuyện với chị
giúp việc. Cả một ngày con cháu đi làm, đi học, bà được tự do, tĩnh tại.

Còn đây! Bà chẹp miệng. Con dâu bà dạo này ghê quá. Nó sợ như bà bám lấy nó, buộc nó phải trách
nhiệm một mình vậy. Đến xem tivi nó cũng lườm nguýt. Nhà có một tivi, mỗi người một sở thích, mỗi
người thích xem một kênh. Chỉ có con dâu bà là được độc quyền. Muốn xem kênh nào là mọi người
phải theo.

à, mà phải rồi, nó đang bận trông lợn đẻ, bọn trẻ thì đi chơi, bà phải bật tivi xem một mình vậy. Bà xem
say sưa, như lâu nay nhà không có tivi vậy. Bà chợt giật mình thảng thốt khi nghe cái anh phát thanh
viên đưa tin về cái ông gì đánh bạc tới cả triệu đôla. Tiền đâu mà họ có lắm thế.

Bà chợt giật mình liên tưởng đến con trai của bà. Thôi chết rồi, nó hay đi khuya, nói là họp hành, liên
hoan, không biết có phải vậy không? Mà nó làm cán bộ, lương có hạn sao xây nhà cửa, mua sắm
nhiều tiện nghi đắt tiền đến thế? Thế thì bà phải lên ngay với nó, hỏi rõ ngọn nguồn và bảo ban nó,
để nó đừng hư hỏng, sa đà như cái ông lãnh đạo nọ. Kiên trì và nói đúng ắt con bà phải nghe ra mà
không sa ngã.

Nghĩ đến đấy bà sởn gai ốc, lòng dạ bồn chồn. Bản năng làm mẹ và tình yêu con làm bà không sao
ngồi xem đến hết thời sự một mình. Bà lật đật chạy vào buồng, sắm sanh áo quần, cho vào tay nải.
Mai bà phải lên thành phố ngay mới được! Mọi ấm ức xưa nay với con dâu, con trai bà xí xóa hết.
Thằng Hai và các cháu chắc là mừng lắm khi gặp lại mẹ, gặp lại bà.

- Sáng sớm ấy, khi mọi người trong nhà còn đang say giấc, bà đã rón rén lách cửa đi ra ngoài, chân
trần, đầu không dám đội nón vì sợ gây tiếng động. Tay xách dép, vai đeo nải, bà len lén đi như một
tên trộm. Ra tới đầu làng, ngó lại phía sau tự dưng lòng bà bồn chồn. Cảm giác nhớ quê và một chút
ân hận xâm chiếm lòng bà... Hơi đêm tạt qua mặt khiến bà khẽ rùng mình, ớn lạnh. Mà thôi, nghĩ vu
vơ làm gì cho mệt. Lòng bà đã quyết, vả lại vợ chồng thằng Cả giờ đây đã đổi thay tình cảm nên bà
quyết đi mà không trở lại. Sợ tình cảm mềm lòng, bà đứng phắt dậy đi thật nhanh ra đường cái quan.

Con đường Quốc lộ 1A nhỏ, trải dài ngút mắt. Qua Đồng Văn là đường cao tốc Cầu Giẽ - Pháp Vân.
Đường mới to, nhiều làn nên chiếc xe chạy hết tốc lực. Trên chiếc xe khách 45 chỗ những người ngồi
trong mệt mỏi, vẹo vọ dựa dẫm vào nhau và thiu thiu ngủ.

- Sắp về đến Ninh Bình chưa chú? - Bà hỏi rõ to.

Tiếng cười vang trên xe. Anh phụ bảo:

- Bà ơi, bà bị nhầm à? Đây là xe Ninh Bình - Hà Nội. Bà muốn đi Hà Nội hay về Ninh Bình?

Bà ú ớ nhìn quanh. Chân bà bỗng dưng muốn bước xuống bậc cửa khi anh phụ bảo:

- Bà có xuống đây để bắt lại xe không?

Nhưng từ trong sâu thẳm lòng bà lại có tiếng nhắc: "Phải lên ở với thằng Hai. Thằng Hai đang cần bà,
bà phải luôn bên nó, nhắc nhở nó, chứ không cứ giống cái ông gì phải vào tù thì tội lắm. Bà già rồi,
sức đâu mà đưa cơm cho nó, sức đâu mà đợi được nó mãn hạn tù. Bà phải ở bên con, phải che chở
cho nó chứ". Thế nên chân bà cứ đứng yên tại chỗ, tay nắm chặt thành ghế, sợ lỏng một chút là sẽ
phải xuống đường, phải chở về quê và xa đứa con yêu của mình.

Thấy bà lặng thinh, ngồi yên trên ghế, anh phụ xe gắt gỏng:

Bà già thật lẩm cẩm, làm mất thì giờ. Lần sau đi đâu nhớ bảo con cháu kèm nhé

22.Giao cảm cuối cùng


Chị tôi đã ra đi sau một cơn đột quị do nhồi máu cơ tim. Chị ơi, chị thường nói đùa trái tim chị không
vỡ tung từng mảnh mới lạ. Tôi hiểu trong câu nói đùa chứa đựng cả một sự thật xót xa. Hai lần lấy
chồng, cả hai đều như con bạc thua cháy túi. Bao phen nao nức làm lại cuộc đời rồi chẳng hiểu vì sao
chị đánh dấu chấm hết.

Chị về Đồ Sơn với tôi khi đã chán tìm những niềm vui nho nhỏ, khi vừa đúng tuổi năm mươi. Ngày
tháng trôi đi, căn hộ của hai người đàn bà độc thân thật êm đềm, nhuốm chút buồn lặng lẽ. Chị cặm
cụi vẽ tranh, để chơi nhiều hơn để bán. Hai con gái chị đều ở Hà Nội cùng với chồng con. Thi thoảng
chúng mới bồng bế nhau ào ào về một hai hôm, rồi kéo nhau đi, để lại căn nhà thêm ngơ ngác.

Trước khi đột quị vài ngày, như một điềm gở, tự nhiên chị tôi dặn:

- Thư từ kỷ niệm tôi đều để trong cái hộp sắt. Sau này có sao, nhờ dì "hỏa táng" theo tôi.

- Sao không "hóa" trước đi cho xong chuyện?

- Ngốc thế, chúng chính là một góc đời sống của mình, ai đang tâm nhìn chúng cháy vèo một cái. Dù
sao cũng tiếc chứ.

- Rõ phức tạp!

Chị cười rất hiền, không cãi.

Tôi vẫn biết cái hộp sắt cất trong ngăn kéo bàn làm việc của chị, nhưng tôi chưa từng tò mò tìm hiểu
bên trong. Chả biết nghĩ sao chị bỗng dặn thế.

Sau khi cùng các cháu đưa chị lên Hà Nội ma chay, xong xuôi tôi trở về Đồ Sơn. Chị đi rồi, giờ mới
thật tội nghiệp tôi. Từ lâu tôi đã quen có bóng dáng chị ra vào với cây bút vẽ, mê mải trước tấm toan
trắng. Bây giờ căn nhà hụt hẫng câm lặng. Chỉ những bức tranh treo trên tường bỗng nhiên như biết
kể lể, chúng khiến tôi không dám nhìn lâu. Tôi cứ lẩm nhẩm hai câu thơ tự làm khi chúng tôi mới về
đây:

Bãi biển chiều nay hoang vắng lắm,

Em thơ chị thẩn ngẩn ngơ buồn…

Tôi nhớ dạo đó chị đùa cợt vênh mặt làm bộ Thị Hến nói:

- Người ta chịu buồn ối ra đấy!

Bây giờ cái sự buồn không có lời để nói nữa. Vừa lau nước mắt chứa chan, tôi vừa mở hộp sắt trước
ba nén hương thắp cho chị. Đầy lưng lửng một hộp toàn những thư. Chao ôi, tâm huyết chị tôi để lại
sau cả một đời có thế thôi à? Năm bó thư buộc gọn ghẽ riêng biệt, với khoảng chục tờ để bên trên
cùng. Hình như chị xếp chúng theo một trình tự nào đó.

Xem kỹ, tôi chợt hiểu những bó thư này của riêng từng người. Bằng vào dấu bưu điện, tôi lại biết các
bó thư có khoảng thời gian cách nhau vài năm một. Rất dễ nhận ra chủ nhân của chúng vì trên phong
bì ghi rõ tên tuổi người gửi. Tất cả đều là những bức thư tình đã "quá cố". Đôi ba tên người tôi có
quen biết nhưng không ngờ tới. Đôi ba người từng về đây thăm chị tôi.

Hóa ra chị tôi lãng mạn, không khô khan như tôi nghĩ. Mỗi bó thư đều được một tờ giấy bọc ngoài,
trên đó chị tôi viết mấy dòng "ai điếu" ngắn gọn cho mối tình bất hạnh. Tôi hiểu ít nhiều chị cũng day
dứt, tiếc nuối chúng.

Nhưng tôi không tìm ra nguyên nhân chị chia tay với những người đàn ông trong quá khứ. Chị tôi đâu
có đỏng đảnh. Vả lại cũng theo thứ tự thời gian ghi trong thư, chị tôi đã dần dần đi vào tuổi xế chiều,
cái tuổi không cho phép một người đàn bà được khó tính.

Tôi đặc biệt chú ý đến những lá thư hơi bị nhàu nát. Hẳn chị tôi đã run rẩy, mở ra xem hàng chục lần,
chậm rãi hoặc ngấu nghiến đọc nó. Quả thật dẫu không phải những lời lẽ nồng nàn dành cho mình,
nhưng chúng khiến tôi nao cả lòng dạ.

Và tôi phát hiện đàn ông viết thư tình hay tuyệt vời, chứ không phải phụ nữ. Những lá thư ấy tựa một
thứ bùa yêu khiến người đàn bà mê mụ. Chao ôi, chả trách chị tôi không thể đốt những lá bùa yêu
này đi.

Riêng mấy lá thư trên cùng lại chính chữ chị tôi viết gửi một người nào đó, tôi đoán mãi không biết tên
tuổi. Cũng mới đây thôi, mới vài tháng trước, khi chị tôi dự một cuộc triển lãm toàn quốc, họ đã gặp
nhau như định mệnh. Đây là lá thư chị viết dở:

"Này chàng văn sĩ lang thang của em! Em đang tự đánh lừa mình rằng tất cả chỉ là một trò đùa. Anh
đùa vui, em cũng đùa vui một chút cho đời sống đỡ tẻ nhạt. Cố tin thế để khỏi quá đau đớn, để có thể
bình tĩnh lại. Nhưng không xong. Em càng trấn tĩnh càng thương nhớ anh hơn, càng hiểu tình yêu dữ
dội này chỉ đến một lần trong đời. Anh, anh hãy lý giải xem vì sao em bỗng mất cả hồn vía thế? Em đã
từng yêu, đã từng yêu hết lòng nữa kia, nhưng chưa một lần bị "xâm lăng" đến mất lý trí thế này.
Chính anh đã nói nó như ngọn sóng bất ngờ ập tới, chúng ta hoàn toàn đầu hàng trước sức nhấn
chìm hung bạo của nó. Đầu hàng và hạnh phúc được đầu hàng, như thể có sự a dua của những
người bị nhấn chìm vậy!

Người thương mến ơi, giờ anh ở đâu? Anh có biết hàng ngày em chỉ ngong ngóng chờ nghe tiếng
anh qua điện thoại không? Rồi vì mừng quá, sung sướng quá, em quên hết những điều muốn nói với
anh. Tệ thế cơ chứ!

Nhưng còn gì để nói? Chúng ta đã biết đến tận cùng những điều chẳng cần nói ra nữa. Chỉ có sự
nhớ. Vâng, nhớ ghê gớm. Một tiếng cười hồn nhiên, một ánh mắt nheo nheo, một bàn tay trong
đêm… Anh biết không, cái thể xác bao năm em lãng quên bỗng chốc trỗi dậy, khao khát mãnh liệt. Anh
đã làm cho sự sống trong em hồi sinh bằng chính tình yêu dịu dàng của anh… Thật kỳ lạ. Bên anh,
em ngỡ mình biến thành một người nào khác kia, thơ trẻ, hạnh phúc.

Người thương mến ơi, anh hứa sẽ về với em thật sớm, sau khi hoàn thành cuốn tiểu thuyết còn mắc
nợ với đồng đội. Nhưng thật sớm cũng có nghĩa không hạn định cụ thể. Lại bắt em… thoi thóp là thoi
thóp ơi!

Hôm nay phải ở nhà một mình vì em Thảo đi họp CLB thơ cả ngày trên Hải Phòng đến tận tối khuya,
em mới thật thấm thía hai chữ CÔ QUẠNH ra sao. Trước đây khi chưa có anh, em không cảm nhận
hết ý nghĩa của nó. Việc ra vào lủi thủi đã thành thói quen, thậm chí em còn thích thú vì được thảnh
thơi, không phải bận tâm tới ai. Bỗng dưng hôm nay sự cô quạnh trở nên kinh khủng quá. Ô hay,
mình đi làm gì, mình đứng làm gì, mình đang là ai, tại sao mình ở đây… Em bỗng bất lực trước tấm
toan đang vẽ, không sao cầm nổi cây bút. Anh à, hơn bao giờ, lúc này em cần có anh ghê gớm.

Anh có nhớ lần đầu gặp nhau, anh đã chân tình khuyên em: "Em là người làm công việc sáng tạo,
không được sống chìm đắm trong sự cô độc như thế. Nhất thiết phải kiếm một người đàn ông tử tế,
một người tình tri kỷ cho mình". Thật ngỡ ngàng đến buồn cười, ít lâu sau không thể ngờ người đàn
ông bao năm em thiếu vắng chờ đợi, lại chính là anh. Đây nhất định phải có bàn tay đưa đẩy dẫn dắt
của số phận.

Liệu sức em có chịu đựng được sự xa cách mãi không? Đã nhiều lúc thương nhớ quá bỗng dưng tim
em đau nhói lên. Nó nhói lên chứ không phải "thổn thức" như ngôn ngữ văn chương các anh hay
dùng cho đẹp đâu. Tất nhiên em hiểu những lúc ấy ở nơi xa anh cũng đang như thế. Đến nỗi em
dùng cho đẹp đâu. Tất nhiên em hiểu những lúc ấy ở nơi xa anh cũng đang như thế. Đến nỗi em
không dám khóc, sợ anh sẽ không bình tâm được. Chúng ta từng chứng nghiệm sự giao cảm bí ẩn
không chỉ một lần, điều đó xảy ra anh biết rồi. Như bữa em đang vừa khóc vừa viết thư cho anh, anh
vội gọi điện về hỏi tại sao lúc đó anh cồn cào nhớ em đến thế… Bởi vậy em tin khi người ta thật sự là
một nửa của nhau, có nghĩa bao gồm cả phần tâm linh như thế cơ...".

Theo ngày tháng, lá thư cuối cùng này chị tôi viết trước khi mất ba hôm. Những lá thư kia cũng một
nội dung mong nhớ da diết. Chị không gửi đi vì cái người thương mến ấy không có địa chỉ cố định,
chắc vậy.

Chị ơi, sao chị lại dại dột trao tình cho những ông văn sĩ lãng du? Họ chỉ sống hết lòng với mớ chữ
nghĩa dớ dẩn của họ thôi. Hóa ra từng ấy mảnh tình trải nghiệm cũng không làm cho chị khôn thêm tí
nào .

Chị tôi không đẹp, tuy thế ngày xưa thuộc diện mặn mà dễ ưa. Nhưng cái mặn mà ấy rồi cũng phải
nhạt dần theo năm tháng còn đâu. Tôi tin anh chàng văn sĩ không đến với chị tôi do sự hấp dẫn bề
ngoài. Vậy vì cái gì? Đàn ông kia mà! Liệu chỉ bằng trái tim nóng hổi đến mức tội nghiệp như thế, chị
níu giữ được người thương mến bao lâu? Chưa biết chừng anh ta đã cao chạy xa bay. Những lá thư
nồng nàn này cũng tựa hồ chút ảo tưởng cuối cùng chị tôi gửi theo cho gió.

Tôi xếp trả những bó thư y nguyên trình tự cũ vào hộp sắt. Thôi được, sáng mai tôi sẽ gửi tất cả
xuống dưới ấy như lời chị dặn. Để chị tôi có dịp nhớ lại những mảnh đời đã vương vãi trên dương thế
.

Đồng hồ buông mười hai tiếng sau khúc nhạc dạo. Nửa đêm. Ngoài vườn, tiếng ếch ộp trong bể non
bộ cất lên đều đặn, nhẫn nại, nghe thật buồn bã. Tại mấy hôm vừa qua mưa dầm dề như mưa Huế,
chúng cũng thấm thía cảnh cô đơn, phải kêu cho đỡ quạnh quẽ. Đêm nay nữa, chị tôi biết có ướt áo
hay không?

Đang bần thần nghĩ ngợi, đột nhiên tiếng chuông điện thoại vang to khiến tôi giật nảy. Ai? Ai gọi điện
vào giờ khuya khoắt này? Tôi cầm ống nghe mà tay run lên.

- Alô, tôi nghe đây -Tôi thấy giọng mình lạc đi.

- Em có phải Thảo đấy không? Chị đâu em?

Tôi lặng người, tim muốn rụng xuống.

- Dạ, nhưng anh là ai đây ạ?

- Anh đang đứng ngoài cổng nhà ta. Nói với chị ra mở cổng cho anh Quang.

Tôi vội bật tất cả đèn sân sáng choang, ra cổng xem anh Quang là ai.

Trước mắt tôi, một người đàn ông đứng tuổi, tầm thước, vai đeo balô, gương mặt sáng nhưng đầy
mệt mỏi, bơ phờ, chắc chắn đã làm một chặng hành trình xa xôi tới đây. Thấy tôi, người đàn ông hỏi
luôn, giọng thắc thỏm không giấu được:

- Chị không có nhà ư?

Tôi mở cổng, nghẹn đắng cổ, cố nói trong tiếng khóc sắp bật ra:

- Chị em… chị em mất rồi anh ơi. Hôm kia nhà vừa làm lễ ba ngày cho chị em xong .

Tôi thấy rõ người đàn ông phải tựa lưng vào cánh cổng cho khỏi ngã. Tôi thương cảm chìa tay đỡ cái
balô nặng cho anh, rồi khóa cổng lại.
- Anh vào nhà đi .

Lặng lẽ không nói một lời, anh theo chân tôi vào nhà.

Trên đường đi tôi mơ hồ đoán đây chính là anh chàng văn sĩ của chị tôi. Quả đúng thế. Người
thương mến ơi, muộn quá mất rồi, còn biết nói gì với anh đây?

Tôi pha cốc nước trà chanh mời, vừa lau nước mắt hỏi anh cho có chuyện:

- Anh từ đâu về mà bây giờ mới đến đây?

- Từ Điện Biên em ạ. Chuyện dài lắm. Giờ em hãy nói thật kỹ cho anh biết chuyện chị thế nào đã.

Tôi kể vắn tắt cho anh nghe. Cách đây bốn ngày, sáng sớm hai chị em tôi vẫn ăn sáng, uống cà phê
với nhau theo thường lệ. Rồi chị sang phòng vẽ làm việc. Khoảng mươi phút sau, chợt tôi nghe tiếng
động lạ, vội chạy sang xem có chuyện gì không. Sang tới nơi tôi thấy chị đã ngã xuống nền gạch, mặt
tím tái, cái điện thoại di động chị thường cầm theo bên người bắn văng vào tường vỡ nắp.

- Lúc đó khoảng chín giờ phải không?

Anh thì thầm như tự hỏi mình. Tôi hơi ngạc nhiên:

- Vâng, đúng chín giờ.

Chị tôi đi đơn giản như một tiếng thở dài, cũng chẳng có gì nhiều để kể với anh, ngoại trừ những lá
thư tình giờ đây đã trở thành chuyện cổ tích!

- Trời ơi, em biết không, chính sự vụng về của anh giết chị ấy!

Tôi ngẩn ra. Sao lại có thể thế được?

Anh bỗng khóc nức lên. Tiếng khóc của đàn ông nghe đau đớn không chịu nổi. Chẳng biết an ủi anh
cách nào, tôi bật khóc theo.

Giữa những tiếng nghẹn ngào, anh kể cho tôi nghe rằng đúng chín giờ sáng hôm ấy, lúc chị tôi mất,
tự nhiên anh lên một cơn choáng không có nguyên cớ. Ngực anh đau thắt lại. Người bạn cùng đi với
anh lên Điện Biên phải cấp tốc gọi y tá xã đến tiêm cho anh thuốc trợ tim. Anh linh cảm thấy có điều gì
chẳng lành ở nhà, định gọi điện cho chị tôi. Lúc đó anh mới phát hiện cái điện thoại đã rơi mất.

Bạn anh phải chạy xuống chợ, đến quán thắng cố của một gã to béo, nơi khuya hôm qua họ tới nhậu,
để tìm cái điện thoại. May sao có hai gã thanh niên phát hiện nó rơi dưới gầm bàn, vẫn đang cầm máy
nghịch. Bạn anh phải chuộc lại một trăm ngàn bọn họ mới chịu nghe. Trở về, bạn anh kể:

- Tớ không cho tiền chúng cũng không xong. Lúc đó mặt mũi hai tên đều đỏ gay gắt vì đã nốc rượu từ
sáng tới giờ. Dân cửu vạn vùng biên mà. Lão chủ quán còn mách nhỏ với tớ chúng đã nghịch bậy. Ai
đó gọi điện cho cậu, chúng dám nói cậu vừa rơi xuống vực, giờ mọi người đang cẩu xác lên. Thế có
điên không chứ. Tớ đã định bạt tai cho mấy tên bố láo, nhưng cầm tiền xong hai đứa đi mất luôn.

Nghe anh kể, tôi chợt hình dung ra giây phút nghiệt ngã khi chị tôi gọi điện, rồi đột ngột nghe cái tin
khủng khiếp, chị đã sốc, đã đột quị. Trái tim chị tôi vốn chờ mãi lý do để ra đi. Chị không thể chống
đỡ. Và cũng chính giây phút ấy trái tim anh đã tổn thương theo mối giao cảm bí ẩn giữa hai người.

…Khi người ta thật sự là một nửa của nhau, có nghĩa bao gồm cả phần tâm linh như thế cơ...

Chị ơi, có nhờ phần tâm linh giao cảm nào để chị nghe thấy tiếng khóc người thương mến lúc này
không?
Ngoài trời đêm, cơn giông bắt đầu bằng một trận gió dữ dội, với tiếng lá bạch đàn xào xạc.

Xóm Núi, 7/2008

23.Không hẹn mà gặp

Câu nói đó của anh từ hơn mười năm trước nay lại vang lên, rục ròi trong đầu hắn. "Quả đất tròn"
đúng là quả đất tròn thật rồi. Lần này mình không cẩn thận, tai họa sẽ ập lên thằng cháu. Hắn im
lặng đứng chờ và tìm lối thoát.

Hắn mới về hưu được một năm, hắn chả đi đâu cả, hắn ngại tiếp xúc, hắn tránh mọi người, hắn ra
vào nhà thì thụt như rắn mồng năm. Sao hắn lại thế. Người ta về hưu thì anh em, hàng xóm quây
quần, đằng này hắn cứ lầm lũi một mình. Hình như hắn sợ gặp người, sợ người ta bắt nợ, sợ người
ta đòi tình.

Từ ngày hắn về hưu, chưa bao giờ hắn ra khỏi nhà. Từ ăn uống sinh hoạt, tập thể dục hắn đều ở
trong nhà. Được cái nhà hắn bề thế rộng rãi, có vườn cây ao cá. Toàn bộ khu nhà diện tích đến nửa
nghìn mét. Nó là chiến tích, là thành quả của nhiều năm công tác. Cơ ngơi này ối người nằm mơ...

Nhà cửa, vợ con hắn đề huề có nếp có tẻ. Vợ hắn còn đi làm trên bộ. Hắn có hai con, một trai, một
gái. Thằng con trai cả học khá, tốt nghiệp đại học trong nước, đã đi làm và có gia đình. Vợ nó cũng
làm cùng cơ quan. Còn con thứ hai học lực kém hơn, hết phổ thông hắn nhanh tay cho nó đi du học.

Vừa tránh được tai tiếng thi trượt trong nước, lại vừa giải quyết khâu oai. Nhưng hắn vẫn buồn. Hắn
buồn vì thời hoàng kim của hắn không còn nữa. buồn vì cái tuổi già đang sầm sập đến. Mà hắn đã
nhiều tuổi gì cho cam, sao sức khỏe hắn lại chóng tàn đến thế. Hắn là chiếc máy chạy hết công suất,
chạy quá thời gian.

Hắn nghiện đủ thứ, nghiện ăn, nghiện uống, nghiện chơi, nghiện cả "em út" nữa. Hắn tiếc cho mấy
em, sức sống đang căng tràn mà hắn lại bất lực. Hắn than thân, trách phận, tiếc của người, của giời.

Mà khổ một nỗi cái bụng hắn vẫn đói, vẫn thèm nhưng lại không ăn được. Đúng là tình thế trên bảo
dưới không nghe mới cú chứ. Thành thử ở hoàn cảnh này làm sao hắn lại không buồn. Hắn không
buồn thì mới là chuyện lạ.

Buồn thì phải tìm đến chỗ đông người, tìm đến chỗ bạn bè sẻ chia. Nhưng hắn lại sợ đến chỗ đông
người, nhất là những cuộc họp. Có người hỏi hắn sao hắn không sinh hoạt ở tổ hưu khu phố, hắn trả
lời, hắn đang sinh hoạt ở tổ hưu cơ quan.

Đến cơ quan người ta hỏi, thì hắn lại bảo đang sinh hoạt ở tổ hưu khu phố. Thì ra hắn sợ, hắn sợ
họp thật. Cả đời người hắn đã họp, hắn không nhớ nổi bao lần rồi. Mà trong cuộc họp hắn có nói thật
bao giờ đâu.

Diễn viên người ta chỉ đóng kịch ba, bốn tiếng là đã mệt rồi, đằng này hắn lại đóng kịch cả ngày, đóng
kịch cả mấy chục năm trời, thì còn mệt, còn ngán đến đâu. Hắn đã phải nói những điều mà hắn không
muốn nói. Vì thế mà bây giờ hắn sợ họp, sợ phải tiếp tục đóng kịch thì hắn buồn và mệt lắm.

Cái buồn của một người có một thời vang bóng. Một thời có nhiều người phải luồn lọt, thỉnh cầu. Một
thời mà mẹ hắn hắt hơi, sổ mũi cũng có người đến thăm, đến biếu. Nhưng bây giờ thì họ không đến
nữa.

Người không được hắn giúp, hắn "thương" không đến đã đành, đằng này cả một số được hắn nâng
đỡ, quan tâm cũng ngoảnh mặt thờ ơ. Có phải họ là những người không có tình cảm, không có tâm
không? Hoàn toàn không phải thế. Sự đời mà mọi chuyện được đổi bằng vật chất để mua bán thì làm
gì còn tâm. Và điều này xuất phát sâu xa từ đó.

Nhà tôi ở gần nhà hắn, biết tôi là người hiểu đôi chút sự đời nên một hôm hắn mời tôi đến nhà. Hắn
rót rượu ngon đãi khách. Rượu vào lời ra, hắn tâm sự đủ điều, từ chuyện đông sang chuyện tây, từ
chuyện kim sang chuyện cổ, rồi hắn bộc bạch: "Con người ta kể cũng tệ thật, khi mình đương chức
đương quyền thì họ chen nhau tìm đến, khi mình về hưu thì họ lại ngoảnh mặt làm ngơ".

Nghe đến đây tôi ôn tồn bảo hắn: "Khi người ta nghĩ đến ông thì ông không nghĩ đến họ, đến bây giờ
ông nghĩ đến họ thì đã muộn rồi". Tôi thấy hắn nhếch mép cười. Một điệu cười đắng cay chua chát.

Thôi thì người đời không đến hắn cũng được. Hắn chấp nhận sự trống vắng cô đơn. Chứ mà đi ra
ngoài gặp người đòi nợ thì nguy. Hắn cố tình tránh né, nhưng tránh làm sao mãi được.

Hôm ấy nhà hắn mọi người đều đi vắng, hắn một mình ở nhà chơi với cháu đích tôn. Không may nó bị
đau bụng, chả biết đau bệnh gì mà nó cứ ôm bụng nhăn nhó. Hắn hốt hoảng, gọi xe taxi.

Đưa được thằng cháu đến bệnh viện thì phải xếp hàng. Hắn tìm đến bác sĩ trực thì lại gặp người 15
năm trước đây bị hắn đã trù dập phải chuyển sang nghề y. Thế là gay rồi, thằng này mà nó nhận ra
mình thì nguy to cho thằng cháu. Sự đời thật trớ trêu...

Hồi ấy Thành là kiến trúc sư mới ra trường được phân công về viện hắn công tác. Trước đấy năm
năm quân ngũ, anh cũng đã kịp lấy bằng trung cấp quân y. Ra quân với năng khiếu hội họa anh lại
thi vào trường kiến trúc.

Với tấm bằng tốt nghiệp loại ưu, anh lao vào công viêc ngày đêm với mong muốn được trải nghiệm,
được thử sức mình. Các đề tài, nhiệm vụ được giao anh đều hoàn thành xuất sắc.

Anh tích cực tham gia công tác văn thể, là cây ghi-ta của đội văn nghệ, là cây đập chủ công của đội
bóng chuyền toàn viện. Trong Đại hội đoàn, anh được mọi người tín nhiệm bầu vào Ban chấp hành.

Ai có khó khăn gì anh đều hết lòng giúp đỡ, ai bị trù dập anh tìm cách tháo gỡ, bảo vệ. Trong Đại hội
đoàn, anh đề nghị mọi người hãy dũng cảm đấu tranh, tố giác tiêu cực, những hiện tượng rút tiền nhà
nước ăn chơi, tiêu sài, những hiện tượng trù đập, chạy chức, chạy quyền. Việc này truyền đến tai
ông viện trưởng. Ông lập tức cho thư ký gọi anh lên bàn công việc. Vừa gặp anh, ông đã bắt tay hồ
hởi:

- Cậu về viện mình được mấy năm rồi?

- Thưa bác, cháu về được ba năm ạ.

- Tôi đã luôn theo dõi kết quả công tác của cậu, được biết năng lực và hiệu suất công tác của cậu rất
khá. Xin chúc mừng cậu.

- Cháu cám ơn bác.

- Thôi, khỏi cần xã giao, khách sáo làm gì. Tôi có ý định lấy cậu lên làm trợ lý cho mình. Cậu thấy thế
nào?

- Thưa bác, cháu mới về viện, kinh nghiệm công tác còn thiếu, bác nên chọn người khác.

- Cậu quá khiêm tốn, ở viện thì có nhiều người, nhưng người như cậu thì ít. Cậu về suy nghĩ rồi trả
lời cho mình sớm nhé.

Bắt tay anh ra về, ông viện trưởng bóp đầu suy nghĩ. Cậu này khẩu khí, tướng mạo không phải người
thường. Phải bằng mọi cách để khống chế nó. Mới về viện ba năm nó đã chiếm được uy tín của
nhiều người.

Nó đã trải qua môi trường quân đội, năng lực chuyên môn khá, lại đi đầu trong làn gió đổi mới chống
tiêu cực. Nếu không cao tay mà thu phục, ngăn chặn nó kịp thời, thì chiếc ghế viện trưởng của ông
chắc chắn bị lung lay, không chừng còn rơi vào tay nó.

Đợi hơn một tuần, không thấy anh lên gặp, ông cho thư ký gọi anh lên. Anh nói với anh thư ký: "Nhờ
anh nói giúp với viện trưởng là ý định của ông tôi không thể giúp được. Xin cám ơn và mong ông
thông cảm".

Bẵng đi nửa năm, trong đại hội công nhân viên chức, ông viện trưởng tái mặt khi nghe anh phát biểu
trước các quan chức của Bộ về đề xuất bầu lãnh đạo viện và áp dụng phương án quản lý tự hạch
toán: Ai làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm thì không hưởng.

Không thể để nhà nước mỗi năm bao cấp hàng tỉ đồng mà viện lại không làm ra đồng nào. Không thể
để tình trạng, hàng đống đề tài, sáng kiến được nghiệm thu mà lại vô dụng, xếp xó. Anh đề nghị cán
bộ vào viện phải qua thi sát hạch, kiểm tra. Không thể để viện trở thành nhà trẻ cho con ông cháu cha
trú ngụ.

Nghe anh phát biểu mà ông viện trưởng toát mồ hôi. Càng ngày cậu này càng làm già, càng lấn tới.
Nó không coi mình ra gì. Nó thành một trở ngại, một cái gai trong mắt ông rồi. Nó làm ông mất ăn mất
ngủ. Mới có ba năm mà nó làm cho viện ông khuynh đảo.

Nào tố cáo, nào góp ý, nào phê bình, nào bầu lãnh đạo, nào tự hạch toán. Mà tự hạch toán theo nó,
thì viện này có mà tan, viện này có mà ăn cháo. Phải ra đòn, phải dằn mặt nó.

Ông cho tay chân tung tin: "Ai gây chia rẽ, mất đoàn kết nội bộ, ai làm mất uy tín, truyền thống của
viện sẽ bị xử lý, sẽ đi thực tế ở phân viện Tây Nguyên". Trong viện ai cũng biết dư luận này ám chỉ ai
rồi.

Ai cũng lo cho Thành, tai vạ sắp ập lên đầu anh. Ở viện này đã có gần chục người đã phải rũ áo ra đi.
Phương pháp luân chuyển cán bộ bị lợi dụng, đã gây ra tai họa cho bao người

Người ở Hà Nội bị điều vào Sài Gòn, người ở Sài Gòn lại phải ra Nha Trang, người ở Nha Trang lại
bị điều ra Hà Nội. Ai muốn được gần vợ gần con thì phải quy phục, phải chạy tiền. Ai không làm thế
thì phải ngậm ngùi cất bước.

Đã xảy ra những cảnh tan đàn, xẻ nghé, vợ chồng li tán, con cái đi hoang. Nhiều người nhắc anh phải
giữ gìn, cảnh giác, để khỏi xa vào cạm bẫy của ông. Nghe bạn bè khuyên bảo, anh chỉ ậm ờ qua
chuyện.

Những lời đe dọa của ông không mảy may làm anh nhụt chí. Anh đã nghĩ đến một tình huống xấu.
Nghĩ đến một ngày và ngày ấy đã xảy ra.

Hôm ấy là ngày thứ hai, sau khi họp giao ban, ông viện trưởng cho thư ký vời anh lên gặp. Chưa kịp
chào hỏi xã giao, ông đã lớn tiếng:

- Tháng tới lãnh đạo viện sẽ điều đồng chí đi thực tế ở phân viện Tây Nguyên.

- Tôi không đi.

- Vì sao?

- Vì ở đó không có việc cho tôi làm, và nơi đó chỉ là nơi lưu chứa những người không ăn cánh với
ông.
- Anh không đi tôi sẽ kỷ luật anh.

- Ông sẽ không có cơ hội để kỷ luật tôi.

Ba hôm sau anh đột ngột xin được gặp ông. Những tưởng sau những đòn sắc lẹm của mình, anh đã
bị khuất phục, hoặc phải ngậm ngùi đến nhận quyết định vào Nam. Ông hồ hởi bắt tay anh. Sau cử
chỉ xã giao, anh rút tờ đơn khổ A4 đặt lên bàn ông. Đeo kính vào, nhìn lướt qua hàng chữ: "Đơn xin
thôi việc", ông liền cao giọng:

- Cậu xin thôi việc thật à? Đã nghĩ kỹ chưa?

- Cái đó khỏi phiền đến ông.

- Cậu có đề nghị gì không?

- Tôi không có đề nghị gì cá nhân, chỉ có điều mong ông đừng đối xử với người khác như tôi. Cuộc
đời có vay có trả. Quả đất tròn nhất định chúng ta sẽ gặp nhau.

…Câu nói đó của anh từ hơn mười năm trước nay lại vang lên, rục ròi trong đầu hắn. "Quả đất tròn"
đúng là quả đất tròn thật rồi. Lần này mình không cẩn thận, tai họa sẽ ập lên thằng cháu. Hắn im
lặng đứng chờ và tìm lối thoát.

Nhưng thằng cháu hắn lại đau bụng dữ dội. Kiểu này không thể chờ được nữa. Phải làm thế nào để
đưa cháu vào cấp cứu ngay. Phải bằng mọi cách để cứu lấy cháu. Một ý nghĩ lóe lên trong đầu. Hắn
vội chạy ra đám người nhà quê ra chăm sóc bệnh nhân. Hắn khẩn khoản nhờ một bà:

- Tôi có thằng cháu bị đau bụng, nhờ bà nhận cháu là người nhà đưa cháu vào ngay phòng cấp cứu.

- Thế sao ông không làm mà phải nhờ tôi?

- Tôi với ông bác sĩ có chút khúc mắc, tôi ngại, tôi lo ông ấy… Mà thôi bà cứ nhận đi, tôi sẽ trả ơn bà.

Nói xong hắn nhét vội vào túi bà ta tờ năm mươi ngàn đồng. Tiền thì hắn không thiếu, hắn chỉ thiếu
tình, mà người ở quê thì tình lại thừa mà tiền lại thiếu. Giúp được người thì cũng như làm được việc
phúc, nên bà ta nhận lời ngay. Oái oăm thay cho hắn, một tình huống ngoài dự kiến xảy ra.

Ông bác sĩ hỏi tên cháu là gì, bà lại không biết, nó sống ở đâu, bà cũng không biết, bảo bà ký vào
giấy cam kết giải phẫu bà run bắn lên không ký. Bà sợ trách nhiệm liên quan đến mình.

Ông bác sĩ bảo đi tìm người nhà, bà chạy vội ra tìm ông. Loanh qoanh mãi bà mới tìm được ông.
Nghe bà kể lại, hắn vội lấy bút ra ghi cho bà vào một tờ giấy, họ tên nơi ở của cháu, ghi cả tên mẹ
cháu và bố cháu, phòng khi họ hỏi còn biết trả lời.

Rồi hắn nhét vào túi bà một tờ giấy năm mươi ngàn đồng nữa, miệng bảo bà: "Bà cứ thay mặt tôi ký
vào cam kết đi". Cầm tờ giấy trên tay, bà chạy lộn vào trong tìm ông bác sĩ. Vừa trông thấy bà, ông
bác sĩ nói ngay: "Bệnh nhân là người nhà thủ trưởng cũ của tôi. Cháu bị lồng ruột, không thể đợi bà
đi tìm ông ấy. Tôi đã bảo lãnh và mổ cho cháu rồi. Cháu đã tỉnh. Bà ra bảo ông ấy vào đây gặp tôi".

Bà cám ơn bác sĩ và chạy vù ra tìm ông. Nghe bà kể lại đầu đuôi câu chuyện, chưa kịp nói câu nào
với bà, mặt hắn bỗng nhiên trở nên hồng hào rồi đột ngột tái đi. Hắn đổ quị xuống.

Bà vội tá hỏa gọi người cấp cứu. Bác sĩ bảo: bệnh nhân bị choáng, có thể vì quá xúc động

24.Những người đàn bà


Trời chưa sáng hẳn, trên một lối phố nhỏ, có người đàn bà dừng lại bên kia đường, sau một bờ
tường khuất chị ta vạch vú, hai bầu vú lép kẹp, khô quắt ấn núm vú vào miệng đứa trẻ. Đứa trẻ đâu
chừng sáu tháng tuổi, đang giấc ngủ, miệng được ngậm cái núm vú thì mút lấy, mút để.

Chị nhìn con, nước mắt ứa ra. Chị quấn lại tấm vải thô làm khăn quàng đứa bé, có một mảnh giấy nhỏ
cài trên ngực rồi băng qua bên kia lề đường.

Chị dừng lại một lúc để nhận ra cái cánh cổng ra vào một ngôi nhà mà chị chú ý từ mấy hôm trước.
Nó kia rồi. Chị nhìn trước nhìn sau, không có bóng người. Chỉ còn một đoạn nữa thôi mà chị không
bước nổi, khuỵu xuống, chị ôm con chặt vào lòng, cố lần từng bước để đến được bên bờ tường cánh
cổng ấy. Lúc này toàn thân chị tê dại, ngực đập dồn dập như có một vật nhọn nào đó đâm thốc vào
tim làm chị đau đớn, thở đứt quãng. Nhìn con trong vòng tay mình, chị quấn lại tấm vải lần nữa cho
đứa bé, bất chợt chị nấc lên: "Con ơi!".

Chị lấy hết can đảm đặt con vào bờ tường, rồi bỏ chạy mà không ngoái lại. Bên tai chị lúc này có gió
dữ gào rít, cùng tiếng đứa trẻ khóc thét lên khi nó rời khỏi hơi ấm của mẹ và bị đặt xuống nền đá lạnh.
Chị gục xuống bên kia lề đường, nép vào một gốc cây lớn để tránh người qua lại, thẫn thờ nhìn về
đứa bé.

Lúc này trời đã tỏ mặt người, chị thấy đứa bé quẫy đạp, đôi tay chới với cùng tiếng khóc của nó mỗi
lúc mỗi ngằn ngặt, tức tưởi làm cho gan ruột chị như có ai cấu ra từng mảng, chị ôm lấy đầu mà
không dám kêu than. Chị mở to mắt nhìn vào cánh cổng ấy, ngóng trông cánh cổng mở ra.

Ôi thời gian lúc này sao mà chậm chạp đến thế! Cứ mỗi giây trôi qua là lòng chị thêm đau đớn, cứ
như có ai đó cầm sợi dây mỗi lúc mỗi thít chặt hơn ở cuốn tim trong lồng ngực chị. Mãi một lúc cánh
cửa cổng ấy hé mở, một bà già đang còn ngái ngủ bước ra. Bà ta ngạc nhiên nhìn thấy đứa bé khóc.
Bà cúi xuống nhìn nó một lúc rồi ẵm nó vào nhà. Bấy giờ chị mới thất thểu bỏ đi.

Về nhà, chị vay mượn lối xóm ít tiền gạo, dặn mẹ đôi điều, rồi chị ra thành phố lớn.

Trước khi đi xa, chị có ghé qua nhà nơi chị bỏ rơi đứa con. Chị thẫn thờ một lúc rồi nhìn vào. Tuy
không được thấy, được biết con mình sống trong ngôi nhà ấy ra sao, nhưng chị tin vào điều chị đã
chú ý trước đây là ngôi nhà xây ấy không lấy gì to tát nhưng cũng khá đàng hoàng, có hai người đàn
bà, một trẻ tỏ ra lịch lãm trí thức đã qua thì con gái, một bà già tuổi trên dưới bảy mươi, nhà không có
đàn ông, không có tiếng khóc trẻ thơ, sống rất hòa thuận với lối phố thì nhất định lòng thương người
của họ không thiếu. Chị cứ đứng nguyên thế, chị ước ao cánh cửa cổng ấy mở, cho chị nhìn thấy mặt
con trước khi chị đi đến một nơi xa xôi khác. Đứng lâu quá, chị sợ có nhiều điều người ta dị nghị nên
chị cúi đầu vội vã bước đi.

Thành phố lớn suốt ngày người tấp nập, xe cộ ken dày, qua lại inh ỏi với cái nóng hầm hập, khó thở.
Nhưng đấy là nơi dễ dàng dung nạp tất cả mọi người từ cao sang kiếm tiền triệu cho đến người
nghèo hèn cùng mạt ngày kiếm được chục ngàn đồng nuôi miệng. Chị không nghề nghiệp, ai thuê lau
nhà, quét rác chị đều nhận. Kiếm được một đồng chị ăn một nửa, nửa gửi về nuôi mẹ và mong dành
dụm ít tiền một ngày nào đó để đủ nuôi con.

Thật may, thời gian đầu chị đi làm thuê từng buổi, sau chị tìm được một nhà bán hàng ăn bình
thường, thuê chị rửa bát, cho chị ở luôn trong nhà. Chỉ sau một tháng, thấy chị tận tụy, sạch sẽ, hết
việc lại thích chơi đùa với đứa bé (nó cũng mến chị) nên chủ nhà nhờ chị chăm sóc đứa bé đâu
chừng tám chín tháng tuổi.

Được ở trong một ngôi nhà ấm áp, yên lành cạnh một đứa bé khiến nỗi nhớ con bùng dậy, cồn cào,
nhiều đêm chị không sao chợp mắt được. Hình ảnh con gào khóc, đòi mẹ ban sáng ấy cứ ong ong ẩn
hiện trong đầu óc chị. Con ơi, bây giờ con có được bú mớm chăm bẵm không con, con có ốm đau gì
không con, chắc bây giờ con đã biết ngồi, biết bò, biết lết rồi. Chao ôi mẹ mong được thấy một nụ
cười của con. Chị có hỏi mà không có câu trả lời.

Nỗi nhớ con ngày càng dồn đọng khát khao. Lắm lúc chăm con nhà người ta, chị nhìn nó sững sờ mà
quên bón bột cho em bé. Mươi hôm sau chị xin nghỉ việc.

Ngồi trên xe đò trở về nơi ngôi nhà mà chị bỏ con, chị có cảm giác như xe chạy quá chậm làm chị sốt
ruột, nghĩ đến điều bất ngờ có thể xảy đến với con, như con chị không còn ở nhà bà ta nữa, hoặc nó
ốm đau đi bệnh viện làm chị ngồi không yên.

Xuống xe. Đến nơi, trống ngực chị đập mạnh. Cổng nhà bà ấy đây rồi. Chị mừng quá như muốn
khuỵu xuống khi chị nghe trong nhà vọng ra tiếng trẻ con cười đùa, chị nhận ra ngay tiếng cười đùa
ấy là của con chị, nó cười trong trẻo, ấm áp - mà bà ngoại nó mỗi khi nghe nó cười thường nói với chị
lớn lên nó sẽ thương mẹ nó lắm - dù xa cách mấy tháng nay chị vẫn không sao quên được.

Chị muốn lao vào, ôm chầm lấy nó mà gào lên "Mẹ đây! Con ơi". Nhưng chị đã kịp ghìm lại, bởi bất
ngờ, đường đột như thế người ta có thể cho chị là một mẹ mìn, lừa đảo, chí ít ra cũng là một kẻ tâm
thần, người ta sẽ tống cổ chị. Chị lấy lại được bình tĩnh. Chị đang loay hoay nghĩ ra một cách gì đó
để được gặp con.

Ôi sung sướng như người bắt được vàng, như kẻ ốm lâu ngày không thuốc chữa bỗng nhiên khỏi
bệnh, chị nhìn thấy bên cánh cửa có gắn một tấm bìa nhỏ, viết mấy chữ: "Cần người giúp việc, chăm
sóc bé". Điều đó ngoài sức tưởng tượng của chị làm tràn ngập niềm hạnh phúc trong lòng chị. Sợ
mình nhầm lẫn vì quá ước mong được gặp con, chị sờ vào tấm bìa, đọc từng chữ. Nước mắt chị ứa
ra vì đấy là sự thật, người chị run lên.

Khi thấy có người lạ bấu vào cánh cửa cổng, bà chủ nhà bước ra, hốt hoảng hỏi chị: "Chị bị trúng gió"
hả? Chị đáp: "Cháu đang tìm việc, cháu mừng quá đấy bà ạ". Bà mời chị vào nhà. Bà hỏi: "Cháu bé
chưa đầy tuổi, chị có chăm sóc được không?". Chị đáp, giọng vẫn còn run: "Dạ được". Như để khẳng
định thêm lời nói của mình, chị tiếp: "Con đã có con. Cháu bé đã lớn". Bà cho chị hay: "Tôi là bà cả
Lan. Trong nhà có cô Thanh, con ông chú, mẹ đẻ thằng bé. Xem ra chị ít tuổi hơn cô Thanh, chị gọi
nó bằng cô, xưng với cháu bé bằng dì, còn gọi tôi bằng bà Lan cho gần gũi". Chị dạ

Đứa bé bây giờ đã hơn mười tháng tuổi. Nó bụ bẫm, cười đùa suốt ngày. Có chị, mai kia cô Thanh đi
học xa, nhà đỡ vắng và bà yên tâm hơn. Chỉ trong ngày đầu mà thằng bé không lạ lẫm gì với chị, khi
chị đưa tay ra bế là nó sà ngay vào lòng chị, cứ y như là mẹ đẻ ra nó. Rồi bà thực sự vui mừng khi bà
thấy chị bón cho đứa bé từng thìa cháo, thìa bột không làm dây ra miệng; chị lại còn cất lên lời ru
đồng quê ngọt ngào làm cho đứa bé chóng nuốt, mắt chăm chăm nhìn chị, tai dỏng lên thích thú. Bà
đến bên đứa bé, không giấu được niềm vui, bà thốt lên: "Cháu của bà sướng nhé!".

Bà vui một thì chị mừng mười. Chị không thể ngờ rằng chị có được điều may mắn đến thế. Nhiều khi
chị tưởng như một giấc mơ. Mới hôm qua, hôm kia thôi nỗi nhớ con quằn quặt, cách vời thế mà giờ
đây chị được ôm ấp khúc ruột vào lòng mình và từ hình hài nhỏ bé ấy, làn da thơm sữa, mềm mại
nóng ấm truyền sang người chị, làm cho máu râm ran dồn lên trái tim ngây ngất mà chị chưa bao giờ
cảm nhận được.

Rồi đến lúc chị tắm cho cháu bé, chị vuốt tóc, vuốt má, xoa nhẹ trên cơ thể của con trong làn nước
ấm mà không biết chán. Đến nỗi, có hôm người ít săn sóc cháu bé nhất trong gia đình này là cô
Thanh, người được bà Lan gọi là mẹ đẻ của cháu bé cũng phải nhắc nhở chị: "Dì tắm cho cháu lâu
quá, bé có thể bị cảm đấy". Chị rối rít xin lỗi cô rồi nựng cháu bé: "Dì đãng trí quá. Lần sau dì nhớ".
Nhưng đôi khi không có ai, chị ôm đứa bé vào lòng mà nước mắt ứa ra: "Con ơi! Mẹ đây".

Để tỏ lòng biết ơn bà đã cưu mang hai mẹ con chị, không những chị làm hết mọi việc trong gia đình
bà chu đáo, vui vẻ, mà chị hết sức quan tâm đến bà, tối nào chị cũng nấu nước ấm giục bà ngâm
bà chu đáo, vui vẻ, mà chị hết sức quan tâm đến bà, tối nào chị cũng nấu nước ấm giục bà ngâm
chân. Trở trời hơi gió thì chị bóp lưng đấm vai cho bà, đêm khuya se lạnh nghe bà ho là chị dậy ngay,
khi thì lấy bô, khi thì chờm ngực cho bà. Nhận ra điều ấy, bà biết chị tốt quá.

Bây giờ, đến lúc cuộc sống của bà, bà thấy không thể thiếu tình cảm của chị, bà đã yêu thương chị,
xem chị như con cháu trong nhà, và như là một người bạn tốt để bà chia sẻ trò chuyện. Bà kể cho chị
nghe, chồng bà hy sinh trong cuộc kháng chiến chống Mỹ hồi còn trẻ, bà chưa kịp có con. Bà ở vậy,
phụng dưỡng cha mẹ bên chồng cho đến khi ông bà qua đời.

Cô Thanh, con đầu của ông chú. Chẳng hiểu sao sau khi cô tốt nghiệp đại học, đi làm việc thì cô về ở
với bà. Tính nết cô khác, đến như anh em trong một nhà, cha mẹ cô, cô cũng không hợp tính. Cô nói
chỉ có bà, thương bà cô đơn. Hai bà cháu sống với nhau như bát nước đầy.

Nay cô Thanh đã ba mươi tuổi. Không biết thời đi học đã mắc phải đắng cay vì tình chưa, mà giờ hễ
ai nói đến chuyện chồng vợ là cô thường lảng tránh, chưa tìm được người vừa ý, với lại đang tham
công việc để kiếm tiền học thêm. Mà đúng là chỉ ít nữa cô ra nước ngoài học.

Bà còn cho biết đứa bé ấy chẳng dính dáng gì đến cô Thanh cả. Thằng bé ấy là của trời cho. Trời
Phật đặt trước nhà bà vào một buổi sáng. Bà nhận đứa bé làm cháu. Bà bảo cô Thanh nhận làm mẹ.
Cô Thanh mỉm cười đáp việc thiện nên làm, nhưng cô không thiết tha gì với việc làm mẹ cho lắm, mọi
chăm sóc một tay bà. Nhân đó, cô nói đứa bé là hậu quả của những điều bất hạnh. Mà mọi bất hạnh
đều sinh ra từ lừa đảo, độc ác của giống người ích kỷ, đê tiện. Nghe bà kể, chị ứa nước, nói thương
cho thân phận mẹ của đứa bé.

Bà cháu, dì cháu ngày càng khăng khít. Chiều nay, sau khi tắm rửa cho thằng bé xong, ba bà cháu
hóng mát ở hàng hiên, đợi cô Thanh mang quà về để làm sinh nhật cho thằng bé. Thằng bé đang tập
đi từ chị rồi lại sang bà. Mỗi lần nó đi được một quãng như thế, chị lùi xa thêm một vài bước. Thằng
bé giương mắt nhìn chị, vờ hờn dỗi rồi sà vào lòng bà.

Nhưng tức thì nó quay lại, nhìn chị, nó bặm miệng, bước đi. Nó gắng hết sức cho đến khi vừa tầm với
của chị, nó dang tay vào lòng chị, chị sung sướng quá, ôm nó vào lòng, hôn rối rít vào tóc vào má nó
và chợt reo lên: "Con tôi". Chị sực tỉnh: "Cháu tôi giỏi quá!".

Bà Lan cũng ập tới, xuýt xoa khen cháu, rồi bà mỉm cười, nhìn hai mẹ con chị nói: "Dì cháu chúng mày
cứ như hai mẹ con ruột thịt ấy". Rồi bà âu yếm nhìn hai mẹ con chị: "Cô Thanh ra nước ngoài, bà cho
cháu làm mẹ của đứa bé, rồi ở đây mà nuôi con, bà cháu tôi sớm hôm cũng được bên nhau".

Nghe đến đây chị oà khóc. Chị vừa quàng con vào lòng, vừa chấp tay vái lạy bà: "Bà ơi! Bà như trời,
như biển, bà là bà mẹ đẻ ra con lần thứ hai, con…". Bà ngạc nhiên đỡ tay chị nói: "Chuyện gì vậy?
Đừng làm thế. Tôi có muốn gán ghép cái khó nhọc cho chị đâu!". Chị lại nói: "Không phải thế đâu bà
ơi! Bà nhân hậu lắm, bà đã cứu hai mẹ con con".

Không phải bây giờ chị mới có cảm xúc mãnh liệt ấy. Từ ngày về giúp việc cho bà và được ở bên
cạnh con, ngay cả trong giấc mơ lúc nào chị cũng khao khát được gọi cho thỏa thích: "Con ơi, mẹ
đây! Mẹ đẻ ra con đây", nhưng chị phải âm thầm, kìm nén. Chị biết nói ra khó mà ai tin chị. Người ta
sẽ nghĩ chị là một con yêu tinh xảo trá, biết được cảnh ngộ của một bà già cô đơn, dựng lên một câu
chuyện thương tâm để tính chuyện lừa đảo.

Hơn nữa, đức độ của bà Lan, bà không thể chấp nhận một người đàn bà nhẫn tâm đã vứt con ra lề
đường. Với lại, cô Thanh là người ghét dối trá, nhất định chị sẽ bị đuổi việc. Dù sao nín lặng mà yêu
thương con, được chăm sóc con còn hơn phải xa con. Thì giờ đây, không phải một giấc mơ khao khát
của bao tháng ngày, mà là thật, chị được ôm con vào lòng, được nói lên: "Con ơi! Mẹ đẻ của con
đây". Chị nghĩ ai cho cả trời đất này cũng không thể nào sánh được tấm lòng nhân hậu của bà Lan
với chị. Chị kể lại chuyện đời của chị.
Chị ở miền quê. Tai họa ấp xuống gia đình chị khi cha chị cùng đứa em trai mười bốn tuổi lên đồi
hoang vỡ đất đã không may cuốc phải một quả đạn pháo thời chiến tranh còn sót lại. Khi người ta
báo tin, mẹ chị chạy đến, thấy xác chồng và con không còn nguyên vẹn, được phủ lên bằng những
cành lá thì mẹ chị ngất xỉu.

Chị mới mười tám tuổi, đưa tang cha và em trai chưa kịp đắp nấm mồ trọn vẹn thì đã lại phải vào
bệnh viện chăm sóc mẹ. Mấy hôm mẹ mới hồi tỉnh. Nửa tháng sau mẹ được về nhà, mỗi bữa chỉ húp
không hết bát cháo, sức không còn đủ để cầm cái cuốc làm cỏ như trước kia. Chị tất tả ngược xuôi,
trong làng ai thuê gặt hái, đào gánh đất dù có mệt nhọc đến mấy chị cũng gắng sức. Chị hy vọng thời
gian mẹ sẽ bình phục.

Nhưng ba năm sau mẹ chị không đứng vững được nữa, một tuần không biết mấy lần ngất xỉu. Nhìn
mẹ mặt khô rốc, da xanh như tàu lá, thương mẹ quá, nhà có mấy sào ruộng chị cầm cố lấy tiền đưa
mẹ lên bệnh viện tuyến trên. Vào viện được mấy hôm, bác sĩ bảo phải phẫu thuật. Chi phí cho ca mổ
tim hết mười bốn triệu đồng.

Chị đứng không vững, đầu óc chao đảo, chị phải bám vào thành ghế. Trời ơi, mấy sào ruộng cầm cố
chỉ được triệu bạc, giờ có bán đứt đi nữa cũng không đến năm sáu triệu thì lấy đâu ra mười bốn triệu
bạc! Mẹ ơi, chị nấc lên rồi thất thểu rời phòng bác sĩ. Chị đổ gục xuống bên hàng hiên bệnh viện khóc
nức nở. Lâu lâu chị ngước nhìn mọi người qua lại với lời khẩn cầu tha thiết. Trong thâm tâm chị nghĩ
rằng không nhiều thì ít cũng được chia sẻ.

Quả nhiên có một người dáng thị thành, ăn mặc sang trọng, thơm nức nước hoa dừng lại nhìn chị. Bà
ta xác định những cái được của chị tuy bà ta không vạch răng, cạy mồm, nhòm đuôi như một anh lái
bò, mà bằng cắp mắt tinh quái, lành nghề của bà. Bà ta liếc nhìn xung quanh rồi khẽ đập vào vai chị,
nói nhỏ: "Này cô gái! Đừng khóc nữa. Tôi giúp cô. Đi theo tôi".

Chị ngỡ như gặp bà tiên, ông bụt, chị ngoan ngoãn đi theo bà đến một quán cà phê. Bà ta đẩy cho chị
cốc nước giải khát rồi nói: "Người nhà quê, ngốc lắm". Chị không hiểu, bà ta lại tiếp: "Chồng con gì
chưa?". "Cháu làm ruộng, chân lấm tay bùn, nhà đang khó khăn quá nên chưa dám nghĩ đến chuyện
đó". Bà ta nhìn xoáy vào mắt chị để biết độ chính xác mà câu hỏi mình sẽ đưa ra: "Cô chắc chắn là gái
trinh?". Chị ngỡ ngàng chuyện lạ rồi đáp: "Cháu đâu dám nghĩ chuyện bậy bạ ấy".

"Cô nghe đây - Bà ta tiếp - Mười mấy triệu bạc chữa bệnh cho mẹ cô thì tôi có cách giúp". Rồi bà ta
niềm nở, sấn tới cho gần chị: "Nghe đây. Một là cô bán bớt một quả thận, hai là bán trinh. Mọi chuyện
tôi lo, kín đáo, êm ru". Chị giật ngửa người ra như một tai họa gì đang ập tới, bởi cả đời chị chưa bao
giờ nghe nói như thế. Chị lắc đầu: "Những chuyện ấy cháu không làm được".

Bà ta tỉnh bơ, búng cái tàn thuốc đang hút dở, lạnh lùng: "Cô không làm được thì mẹ cô chết". Lặng
im một hồi lâu, rồi bà ta thân thiện vỗ về chị: "Người nghèo khờ dại trăm thứ, ngu ngơ trăm đường,
em an tâm mà nghe tôi nói, chuyện trinh tiết nghe ra ghê gớm lắm, muốn trinh bao nhiều lần người ta
cũng vá được. Mà cô gái nào không đi lấy chồng, như ngủ với chồng, có gì mất mát đâu".

Rồi bà ta buông một tiếng thở dài thương cảm: "Tội nghiệp! Em không hiểu. Hoàn cảnh như em
thương tâm lắm nên tôi mới làm phúc, tôi mách nước là dịp may đấy. Cô tưởng có cái để bán mà dễ
bán à. Lớ ngớ là giá rẻ như bèo, không may thì lây vạ đấy. Em nghe tôi đi. Ngày mai tôi sẽ gặp lại".

Chị thức trắng đêm bên giường mẹ. Một đời mẹ lam lũ, tưởng khi con lớn lên cuộc sống sẽ khá hơn.
Nào ngờ mẹ đau đớn, đổ bệnh. Chao ôi, chị sống để làm gì khi cứ mỗi ngày thấy mẹ càng héo dần,
mà đời chị vui buồn bây giờ là vì mẹ. Thôi đành nhắm mắt xuôi tay để cứu lấy mẹ.

Hôm sau bà ta đến, chị lặng lẽ cúi đầu đi theo bà ta.

Trong một căn phòng, hắn xộc tới bảo chị cởi bỏ quần áo. Hắn có thân hình béo phị. Đôi mắt hắn lồi
ra, cháy lên, xoi mói khắp thân thể trần truồng của chị. Hắn không vồ vập như hổ đói mồi. Mà hắn làm
con mèo vờn chuột. Hắn lật qua lật lại thân xác của chị, đôi tay béo nung núc của hắn sục sạo khắp
mọi nẻo trên thân thể chị, làm cho chị chết khiếp, mặt tái xám, người cứ run lên như bị lạnh. Cho đến
khi người chị lả đi, hắn mới ập xuống, hùng hục như một con trâu chọi.

Mười hôm liền như vậy, hắn mới buông tha chị. Người chị như bị ma ăn hồn, bước đi không vững.
Chị cố nén đau, cố quên đi những nỗi nhục ê chề khi bệnh viện người ta báo ca mổ thành công, một
thời gian nữa sẽ cho mẹ chị ra viện.

Vài tháng sau, trong một bữa cơm mẹ chị thấy con gái mình hôi cơm tanh cá, cổ vón cao, lông mày
dãn ra bà buồn buồn nói: "Lỡ rồi thì gắng gìn giữ mà nuôi, chớ nghĩ bậy". Chị ứa nước mắt, không nói
gì. Thà cứ để mẹ nghĩ như thế còn hơn nói sự thật. Nỗi đau ấy có thể làm cho mẹ tái bệnh. Chị lân la
lên phố tìm người đàn bà dắt mối. Chị bảo chị đã có thai với ông ta. Người đàn bà ấy nhìn thẳng vào
mặt chị mà quát lên: "Ngu lắm vậy! Người ta đâu cần thai với nghén. Mày mà bép xép chuyện đó, bọn
đâm thuê chém mướn tay chân người ta, không để cho thân xác mày yên đâu".

Chị sinh con, một thằng cu khỏe mạnh làm cho mẹ chị vui hẳn lên. Bà bây giờ tuy lành bệnh nhưng
không được làm việc nặng, chỉ vào ra quét cái nhà, nấu nồi cơm. Chị một thân một mình, ở nhà quê
không sao kham nổi ba miệng ăn. Xót xa quá! Mẹ thì mỗi ngày mỗi lưng lẻo miếng ăn, da xanh xao, rồi
không khéo bệnh tái phát, con càng lúc càng èo ọp mà chị cũng gầy rạc, xác xơ.

Nhiều khi nhìn con day day hai bầu vú khô đét, lòng chị thắt lại mà không biết tính liệu như thế nào.
Nhiều đêm chị không ngủ. Dù thế nào cũng phải tìm cách cứu lấy nhau. Chỉ có một cách mà làm cho
lương tâm chị giằng xé. Trên thế gian này không một người mẹ nào nhẫn tâm rứt bỏ khúc ruột của
mình sinh ra. Nhưng đến nước này thì trăm lần con xá tội cho mẹ. Con ơi, mẹ đau đớn lắm! Đành
phải thế con ơi, để cho mẹ rảnh tay, mẹ lăn lộn kiếm sống. Một mai kia mẹ có chút tiền, mẹ lại tìm về
với con. Chị đã thầm khóc nhiều đêm thương con đã không cha, nay lại phải lìa xa mẹ.

- Bà ơi! Chuyện con thế đó. Con phải làm gì, có phải phục vụ bà bao nhiêu đi nữa cũng không đền
đáp được hết tấm lòng nhân hậu của bà đối với mẹ con con.

Trên khuôn mặt của bà Lan, nước mắt ứa ra lúc nào bà cũng không hay. Nghe hết chuyện chị kể, bà
thốt lên: "Bà thật không ngờ đời chị tủi cực, đắng cay đến vậy. Bây giờ thì mẹ con không còn xa nhau
nữa. Bà mừng lắm"

25. Đèn màu

Sức khỏe tôi dạo này có vấn đề. Đầu óc váng vất. Đêm khó ngủ. Mới lên đến cầu thang gác hai, trống
ngực đã đập thì thõm. Tôi đi gặp bác sĩ. Sau khi khám, xem gần chục kết quả xét nghiệm, bác sĩ kết
luận: Thần kinh suy nhược, rối loạn nhịp tim!

Buồn thật. Trong mấy anh chị em, đứa nhanh nhẹn, khỏe mạnh nhất là tôi. Sao lại ra cơ sự này? Bác
sĩ kê đơn xong, nhìn tôi, dặn dò là phải tránh xa những xúc động đột ngột làm hại tim. Gàn! Phàm đã
là con người, tránh sao được điều đó? Như đoán được ý nghĩ của tôi, ông bác sĩ giảng giải thêm:

- Phải biết cách tự điều chỉnh cảm xúc của mình. Có thể dung hòa vấn đề bằng cách lật ngược hai
mặt...

Được, hiểu! Tôi chỉ cần khỏi bệnh. Cuộc đời ngắn lắm. Nói dại chứ chẳng may tôi có làm sao thì hai
con đang học đại học (đứa ở Thành phố Hồ Chí Minh, đứa ở Hà Nội) có mà đứng đường cò lơ thất
thểu.

Tôi thả bánh xe chầm chậm trên con đường mát mẻ. Cây hoa sữa cuối phố năm nao cũng nở muộn.
Tháng mười, hoa mới bung ra như có ai tung những nắm xôi đỗ xanh lên tán lá. Trong năm, tôi thích
nhất tháng này. Trời trong veo, mây trắng, nắng mỏng hoe. Gió nhẹ hều, đưa hương thơm nồng của
hoa sữa phảng phất suốt đêm thu.

Chao ơi, mùa thu! Chiếc lá vàng mối tình thơ năm nao trở mình trong cuốn lưu bút của tôi. Có cái gì
đó dâng dâng, nghèn nghẹn cuộn lên trong ngực và... nhói một phát. Chết cha! ...Xúc động!... Tôi vội
đưa mắt tìm kiếm. Kia rồi, một bãi phân chó ngay dưới gốc cây! Đêm nay, đôi tình nhân nào mải
nghếnh trăng sao trên trời dứt khoát sẽ đạp phải "mìn". Đấy, thế là cái "cục cảm xúc" trong lòng tôi
biến mất. Tôi về nhà bình an.

Huỳnh, chồng tôi vẫn chưa về. Tan tầm hàng tiếng rồi. Có nguy cơ đây. Tôi phôn cho Hương, bạn
thân, cùng công ty chồng tôi. Giọng Hương the thé: "Đến sàn giao dịch mà tìm, chắc chắn đang lỗ mắt
ở đấy, hình như hôm nay cổ phiếu tăng điểm...". Tôi hít một hơi dài, ngồi xuống giường. Đừng tức
giận, hãy gìm xuống, gìm xuống... tìm cách giải quyết. Vô duyên cho lão hói, đúng lúc này, lù lù vác
xác về. Ào vào nhà, cười khằng khặc như ma ám:

- Phượng ơi! Phượng ơi! Thắng rồi, thắng rồi! Hôm nay mã BAX của anh tăng. Đã bảo cứ yên chí thế
nào cũng vớ bẫm!

Trông đôi tai vểnh như tai chuột đỏ tía của hắn thật ghét! Hơn tuần nay, hắn đốc chứng, nghe bạn bè
rủ rê chơi chứng khoán. Ngày nào cũng như ngày nào, buông bát là chúi mắt, chúi mũi vào Internet,
ghi chép, tính toán. Rời công ty là nhảy tót đến sàn. Tôi bận tối mắt với công việc dạy học ngày càng
nặng nề, rối rắm của cái nền cải cách giáo dục - như một chuyên gia kết luận: "Không giống ai" trên
thế giới. Về nhà, cơm không ai nấu, nhìn bộ mặt lúc thẫn thờ, lúc quýnh quáng của hắn, tôi điên tiết.

Hôm qua, tôi nhét quần áo của hắn vào túi, bảo ra sàn giao dịch mà ở. Hắn đã thề sống thề chết
không chơi nữa, không cổ phiếu cổ phiếc gì nữa. Vậy mà... lại còn dám khua chiêng, gõ trống ầm ĩ
lên.

- Thế có nghĩa những hôm nhà đầu tư im ỉm như lợn ăn khoai là thua bét nhè chứ gì? Chứng khoán
là hàn thử biểu của nền kinh tế, đòi hỏi nhà đầu tư phải có kiến thức và kỹ năng phân tích nó. Tôi hỏi
ông: Thị trường trứng thối của ông từ sau tết đến nay vận hành theo quy luật nào? Sàn AXB to đùng
mà phải rút vốn chạy sang mua vàng kia kìa! Tôi để sẵn bị, gậy cho ông rồi đấy!

Huỳnh trố mắt nhìn tôi:

- Trời ơi! Em cũng nghiên cứu chứng khoán à? Chớ coi thường nhà đầu tư này nhớ! Bị gậy cái gì!
Với diễn biến thị trường lình xình khó đoán như hiện nay thì việc kiếm tiền từ chứng khoán lại chủ yếu
từ kẽ hở của các khoảng trống pháp luật. Đây cũng là nguyên nhân kéo VN - Index thụt lùi. Cái chính
là nhà đầu tư phải biết săn lùng thông tin nguồn thường xuyên, nhất là thông tin từ các doanh
nghiệp...

Tai nóng lên, trống ngực tôi bắt đầu rộn ràng:

- Thông tin cái con khỉ! Đầy doanh nghiệp còn chưa có trang web, nếu có thì cũng là những thông tin
ma, hoặc cũ rích từ đời tám hoánh, làm mồi cho bọn thao túng - Tôi gào lên: Ông muốn kiếm nhiều
tiền để làm gì...ì...ì...

Lão hói bắt đầu sợ nhưng vẫn giở giọng cua càng:

- Mình đừng lo. Đợt này chính phủ sẽ can thiệp sâu đấy, sẽ kéo cho cân bằng thị trường, còn bộ mặt
với quốc tế nữa chứ... tội gì không lướt sóng kiếm tiền vì có sự bảo hộ của nhà nước. Mình sẽ không
phải dạy thêm nữa, ta sẽ mua một cái trang trại... Ôi, ối! Làm sao thế kia? Lại lên cơn à?

Đầu tôi phừng phừng và ngực tôi nhoi nhói. Hỏng, cứ thế này thì hỏng! Suy tim chứ chẳng chơi! Tôi
thầm quát: "Sao lại để xảy ra sự ấy? Điều chỉnh... ". Tôi lăn đùng ra ghế, rên rỉ, ra hiệu cho lão lấy
nước và thuốc uống. Huỳnh im thin thít, làm theo ý tôi như một cái máy. Tôi se sẽ bảo cần ăn phở vì
bệnh của tôi phải nghỉ ngơi nhiều và ăn ngon. Huỳnh tần ngần:

- Mưa, rét thế này, liệu hàng phở còn mở cửa không?

Tôi nhướng mắt lên. Hắn quýp mắt xuống, vơ vội tấm áo mưa, cầm cặp lồng ra phố. Tôi nhỏm dậy,
lục tủ. Có vài chục ngàn với mấy que vàng trong nhà gom hết. Ngày mai sẽ quy đổi ra EUR, gửi tiết
kiệm ngân hàng nhà nước. Lương, thưởng của hắn, tôi tóm chặt. Hết giờ hành chính, tôi réo gọi liên
tục. Quả là hiệu nghiệm, hết đường tung tẩy. Hói phân bua với đám bạn sàn: " Độ rày, bận quá. Bà xã
lại mắc chứng thần kinh...". Tôi thấy đầu nhẹ, lòng thư thái.

Càng ngày, tôi càng hiểu ra rằng: hà cớ gì mà mắc chứng ưu phiền, khi con người ta sinh ra trên cõi
đời đã là một tội lỗi rồi. Kinh Thánh chẳng bảo thế là gì! Cho nên, những đứa trẻ mới đẻ, có bố mẹ
theo đạo Công giáo phải làm phép rửa tội ngay. Cứ thế, hiện thực va đập vào tôi như đấm bị bông.
Hễ đấm bên nọ lại phồng bên kia. Tôi chung chiêng ở giữa dòng đời bàng bạc trôi, mắt nhìn chốn vô
định. Bệnh tôi giảm hẳn, má phính ra. Hàng ngày, cơm nước xong, tôi lăn ra ngủ. Chẳng hơi đâu mà
đọc sách đọc báo. Rặt những tin giật gân với những chuyện tình nhăng nhít, chỉ tổ hại thần kinh.
Đóng cửa sổ lại, khỏi phải thấy mảnh trời xanh với lũ chim xinh xẻo xếp hàng trên sợi dây điện. Nhìn
chúng lại mơ màng vớ vẩn. Tôi béo ụ. Nhưng mặt tôi... Cái Hương bảo:

- Mặt cậu làm sao ấy! Chỗ bạn thân, tớ nói chân tình... Trông ngơ ngác, đần đần và ngây ngây như...
ngỗng ỉa!

Cái con, đến bậy! Tôi đã từng là hoa khôi sư phạm. Kệ xác nó! Nói thì đã chết ai! Tôi vo viên cuộc
sống vào gia đình. Chồng chí thú, con cái ngoan, có tương lai. Tằng tằng đi làm dăm bảy năm nữa
rồi... hưu. Mặc thiên hạ cứ việc múa may quay cuồng.

Cho đến một ngày, thằng Dương, con trai tôi đang học Đại học Kiến trúc, vác cái đầu xanh xanh, đỏ
đỏ, lổm chổm từng búi như quả dứa về nhà. Nó dúi vào Internet chát với một cô bé nào đó. Chốc lại
thấy OK! Nhát lại thấy HE HE! Thôi thì thanh niên bạn bè chúng quan hệ với nhau thế nào là việc của
chúng. Tôi đi chợ về, xào xáo, nấu nướng, cốt cho cả nhà được bữa ăn tươi, nóng sốt. Mâm bê ra rồi,
gọi năm thôi, mười hồi nó lại bảo: Bố mẹ ăn trước đi, nó đang có câu chuyện quan trọng. Tôi tủi thân,
mắng nó rằng mẹ đi chợ, nấu nướng hết cả buổi, muốn cả nhà quấn túm bên nhau, con coi bạn gái
hơn cả bố mẹ thì từ nay đừng về nhà nữa... nó mới vội ra bàn ăn, nhưng lại lên giọng ông cụ

- Bố mẹ nên dành thời gian cho việc giải trí, đi đó đi đây. Con thấy mẹ kì cạch suốt ngày trong bếp,
mà ăn uống có được là bao!

Nó gắp chả mực vào bát bố, thao thao:

- Bây giờ, càng ăn ngon, càng chóng chết!..

Miếng cơm đắng trong miệng tôi. Con cái mất dạy! Chẳng nhẽ đang bữa ăn... Nhưng tôi biết con trai
tôi, chỉ là cái mồm ăn nói vô duyên thôi...

Thằng Dương chợt nhìn chúng tôi rồi cười, bắn cả cơm ra ngoài:

- Con xin lỗi! Là con nói chung xã hội... ý con muốn nói là phụ nữ muốn được giải phóng, trước tiên
phải tự giải phóng mình đã chứ! Bố thì suốt ngày ôm ti-vi như gà ấp trứng ấy. Ông bà già mốc quá!

Chồng tôi thấy cậu con nối dõi chê bai cả chính cái ông đẻ ra nó, nghe chừng tức khí, quay ra, cười
nửa miệng:

- Thế theo con, bố mẹ sẽ vui chơi ở những chỗ nào?


Nó cười phe phé, tay vung vẩy, nguềnh ngoàng như tay vượn:

- Được, tối nay, con sẽ đưa bố mẹ đến tiên cảnh bồng lai. Chỉ xin song thân nhớ diện bộ đẹp nhất
nhé. Mẹ mặc đầm xanh ngọc ấy, đeo trang sức vào. Bố com-lê, cà-vạt cho oách, suốt ngày may ô
sánh với quần đùi. Gớm, thời trang đầy tủ, các cụ định lên Thiên đàng mới trưng mốt à?

Chồng tôi quát lên. Không đi đâu hết, lạ gì mấy cái ổ xí xớn, nơi đốt tiền của bọn nhà giàu dửng mỡ.
Tôi cười thầm trong bụng. Chỉ nói khoác. Từ ngày lấy nhau đến nay, tháng đủ ba mốt tối ở nhà (trừ
tháng trước, lên cơn hấp, chơi chứng khoán) ăn no, ngủ kỹ, ôm ti-vi, có bao giờ biết tăm hơi cái chỗ
rửng mỡ ấy ở đâu. Cậu cả nhà tôi chẳng vừa. Nó nói giọng mũi rằng ông bà già bảo thủ, sợ đổi mới,
thế thì tìm chốn cú ho, cò gáy, trâu gõ mõ, chó leo thang mà sống cho thành... khỉ đỏ đít, ở thành phố
làm gì! Mất dạy thế là cùng! Nó còn cược rằng: đến cái nơi vui vẻ đó thế nào cũng gặp vợ chồng cô
Thắm (bồ cũ của chồng tôi). Không hiểu sao thằng quỷ con này lại biết hết chuyện "tình tọt" xưa của
bố mẹ. Không giấu nổi tò mò, chồng tôi đồng ý. Tôi cũng thấy hồi hộp. Hình như ruột gan tôi lại chộn
rộn.

Mới bảy rưỡi, chúng tôi đã cơm nước xong xuôi, ăn mặc tinh tươm. Ông hói đang chuẩn bị dắt xe ra
thì... xịch... chiếc taxi bóng nhoáng đỗ ngay trước cửa. Thằng Dương lại phe phé cười:

- Bố mẹ định đội mấy quả dưa hấu đi chơi phố chắc? Mà complê, váy đầm đẹp thế kia đi xe máy, quê
quá!

Đường phố ban đêm rực rỡ như hoa muôn sắc. Lông lốc mũ xe máy, nhoang nhoáng các loại ôtô, rền
rền tiếng động cơ. Phía tây nam, những dãy nhà chót vót của khu đô thị mới nhấp nhánh ánh điện
màu như những chùm pháo hoa mới bắn lên. Sau nửa tiếng dạo phố, xe chúng tôi dừng trước một
cánh cổng đồ sộ: "Câu lạc bộ Thủy thủ". Khách khá nhiều, đang giờ đông. Nam thanh, nữ tú dắt tay
nhau dập dìu. Những chàng thủy thủ tàu viễn dương, da nâu bóng, ngực căng phồng gió biển, cười
nói oang oang.

Dương dắt chúng tôi lên tầng hai, chọn chỗ ngồi góc trái, rất thích hợp với việc quan sát toàn cảnh.
Nó bảo hai cụ cứ ở đây, muốn làm gì thì làm, nó lên tầng ba, bao giờ về, nó sẽ nháy di động. Tôi gọi
hai tách cà phê sữa, một đĩa hoa quả. Cậu bồi, tóc chẻ ngôi giữa, thắt nơ mèo đen, bê khay, đặt ly,
dẻo như múa. Phần lớn những người vào đây đều đã luống tuổi, thậm chí còn có cả mấy cụ râu tóc
bạc phơ đang nhâm nhi bánh Moka với rượu màu.

- Tầng này, dành cho các khốt, những anh chị chỉ thích gặm nhấm quá khứ - Người phụ nữ ngồi gần
bàn tôi rỉ tai - Muốn tìm cảm giác mạnh, lên tầng ba, mạnh hơn nữa, lên tầng bốn...

Tôi lo lắng, chẳng biết thằng Dương lên đó làm trò gì? Chồng tôi bảo không sao, có đi theo nó được
cả đời mà giữ không, ngồi đây mà cứ nhấp nhổm như kiến đốt thế thì về còn hơn. Tôi nhìn khay hoa
quả. Trông hoa hoè hoa sói thế này chẳng biết bao nhiêu tiền nhỉ? Tôi lại rỉ tai cô bạn ngồi bên cạnh.
"Bốn trăm nghìn". Trời ơi, bốn trăm nghìn! Ruột tôi như có ai xát muối. Tôi bấm di động gọi thằng
Dương. Nó chạy xuống:

- Con có việc quan trọng, không thể về ngay được. Việc gì á? Chốc về con nói. Mẹ lại hỏi giá tiền
trước chứ gì? Con mời bố mẹ, để con thanh toán. Mẹ cứ ngồi cho hết buổi đi đã, còn nhiều món
khác...

Huỳnh gắt khẽ. Người ta cười cho đấy, có im đi không? Tiếng nhạc bắt đầu nổi lên rộn rã. Đèn sân
khấu bật sáng, sương khói mịt mờ, nước biển nổi sóng cuồn cuộn trên nền phông xanh mát. Giọng
nam trung trầm, ấm:

Biển đã ru anh như hằng ru đời em, biển đã cho anh khao khát những bến bờ...
Thật tuyệt! Lâu lắm rồi, tôi mới lại được nghe một giọng ca ngọt ngào đến thế. Sóng dạt dào, tung bọt
trắng xóa trong tôi. Tôi ngả đầu vào vai chồng, lịm đi trong giai điệu đằm thắm xiết bao lưu luyến. Giai
điệu đẹp, lời hát cũng đẹp. Phút chốc, ký ức tuổi thơ nghèo khó, thời con gái xuân thì với những khát
vọng cháy bỏng sống dậy trong tâm khảm tôi.

Anh, anh rất muốn đưa em về biển, đi trong nắng cháy môi em hồng thêm...

Con tim tôi thổn thức, nhưng không nhói nhói mà mềm ra, mềm ra vì thấm đẫm những xúc cảm êm
đềm, nhung nhớ. Huỳnh xiết chặt tay tôi. Tôi thầm cám ơn con đã đưa bố mẹ đến chỗ này. "Thế mà
mình định về". Tôi ngường ngượng liếc sang bàn bên cạnh. Cả gian phòng lặng đi trong tiếng đàn du
dương tha thiết. Những ánh mắt mơ màng, những đôi tay quấn quýt, những đôi bông tai lung linh
huyền ảo trong ánh đèn màu...

Người ta đến đây, dù chỉ phút chốc, để quên đi những ưu phiền của cuộc sống hàng ngày đã gặm
nhấm, hủy hoại con người cả phần xác lẫn phần hồn. Tiếng vỗ tay vang dậy làm tôi sực tỉnh. Đèn
laser xanh, đỏ, hồng, tím trong các hộc tường quét lên loang loáng. Các bàn đều hết chỗ ngồi. Mấy cô
tiếp viên áo trắng vai bồng, xinh như mộng, hai tay cầm hoa đăng (ngọn nến đặt trong bông sen hồng
làm bằng sáp) đứng đu đưa theo nhạc của điệu valse.

Một vài đôi dời chỗ ngồi, tiến ra sân khấu. Họ không còn trẻ, tầm tuổi vợ chồng tôi. Thế mà nhảy rất
điệu nghệ. Chắc đến đây thường xuyên. Tay trong tay, vai kề vai. Tà váy dài lả lướt mềm lượn sóng.
Họ dìu nhau những bước nhẹ nhàng, thanh thoát. Chàng mỉm cười nhìn nàng, nàng mỉm cười nhìn
chàng. Cuộc đời sao mà mộng thế! Lòng tôi lâng lâng, chân tay động đậy. Còn chàng hói vừa lim dim
mắt vừa ghé tai tôi : "Học khiêu vũ chắc khó lắm nhỉ!". Tôi bảo chẳng khó tẹo nào, ở trường tôi, ối
người già hơn vẫn học được. Hai chúng tôi nhìn nhau, thấy mình đẹp đôi tệ! Chợt, Huỳnh cấu tay tôi,
mắt nhìn ra cửa. Trời, Thắm kia rồi! Nhưng dắt tay Thắm không phải là đức lang quân mà là một anh
chàng cao lớn, râu tóc rậm rì. Chúng tôi thụp vai xuống. Chỗ này, ít người để ý.

Thắm và Râu rậm (sau này, tôi mới biết tên là Hoàng) nhập cuộc luôn. Khi họ bước lên sân khấu,
tiếng huýt sáo, tiếng vỗ tay rầm rầm. Thì ra, theo như cô bạn ngồi gần cho biết, đôi này mới được
tung hô là “Đôi giày vàng” của "Câu lạc bộ Thủy thủ” Lập tức, dàn nhạc sôi động hẳn lên, kèn sắc-xô
phôn dập dìu "Bản tango dành cho em" rộn rã cả gian phòng. Ba đôi khác cũng bước tới. Thắm cười
tươi như hoa, mắt ngời hạnh phúc, xoay gót uyển chuyển. Râu Rậm say sưa, nhịp nhàng, lưng dẻo
như rắn, rất ăn ý với Thắm. Sân khấu rực lên muôn ánh đèn màu đan chéo, nhấp nhoáng. Như gió,
như mây, như nắng, như mưa, như niềm phấn khích của những trái tim đang cuồng nhiệt. Huỳnh
ngây người nhìn Thắm làm tôi chạnh lòng. Bỗng, ngay trước mặt tôi, hai phụ nữ lao lên sân khấu,
vừa chạy vừa la lối:

- Con đĩ!... Con đĩ!... Cướp chồng bà!... Tao giết mày!...

Nhanh như cắt, họ bổ lên, kẻ túm tóc, người túm áo, loang loáng con dao xỉa vào Thắm. Có tiếng rú
kinh hoàng. Râu Rậm nhảy vào giữa, đẩy hai người đàn bà điên khùng ra. Bảo vệ xô đến. Chúng tôi
ùa lên. Thắm loạng choạng bưng mặt, máu loang khắp mặt, cổ. Chiếc áo viền đăng ten trắng muốt đỏ
lòm máu. Nhìn thấy máu đỏ, mắt tôi tối sầm, ngực đau nhói. Tôi xỉu đi...

Khi tỉnh lại, tôi thấy mình nằm trong bệnh viện. Hai khuôn mặt thân yêu đang nhìn tôi. Cái đầu lổm
chổm của thằng Dương làm tôi nhớ ra "Câu lạc bộ Thủy thủ". Con ơi là con! Tiên cảnh bồng lai của
mày như thế à? Đưa bố mẹ dạo mát trên thiên đàng rồi... Uỵch một phát, cho xem cảnh địa ngục là ra
làm sao? Con làm gì ở trên lầu? Mẹ sợ lắm. Chẳng hiểu cô Thắm có sao không? Trời ơi! Máu và
nước mắt... Chuông điện thoại reo. Con gái bé từ Sài Gòn gọi, vừa khóc, vừa nghẹn ngào hỏi thăm
mẹ. Nó rất sợ tôi bị chết. Sống mũi tôi cay cay, nước mắt lại trực trào ra.

Huỳnh nắm tay tôi, nét mặt lo lắng:


- Em thấy đỡ chưa? Ăn cháo nhé!

Thằng Dương cúi sát xuống giường, nó đoán trúng ý nghĩ của tôi:

- Mẹ thư giãn nào, con nói hai việc để mẹ yên tâm. Thứ nhất, cô Thắm chỉ bị thương phần mềm thôi,
chồng cô ấy mất lâu rồi, bố mẹ không biết. Người nhảy với cô ấy chính là thầy giáo của con. Vợ thầy
tác quái, yêu xà lắm. Mông thì xệ như đít vịt, mắt gián nhấm... chuyên trị gọi thầy bằng "thằng"... Thế
mà nhất định không chịu ký đơn ly hôn...

Tôi ngắt lời nó:

- Được rồi, gác chuyện cô Thắm lại, mẹ hỏi: Con lên tầng trên làm trò ma quỷ gì? Lắc à? Tao nghe rõ
tiếng uỳnh uỵch trên đầu...

Thật lạ, nghe tôi hỏi tội, mặt nó lại tươi hơn hớn như bắt được vàng:

- Mẹ hay nghĩ xấu về con quá! Con lên đó trình bày với chủ nhà bản thiết kế đại tu lại câu lạc bộ,
sang năm họ làm lại, sẽ rất hoành tráng. Họ là người có đầu óc thẩm mỹ đấy, chỉ tội cách tổ chức câu
lạc bộ còn lộn xộn... Con sẽ tư vấn...

Trong tôi, ánh đèn màu của câu lạc bộ lấp loáng màu máu đỏ.

- Từ nay, con đừng nhắc đến cái câu lạc bộ ấy nữa, mẹ nhức đầu lắm!

Thằng bé tiu nghỉu, nhìn tôi đầy vẻ xót xa. Tôi thương con quá.

Một tháng sau.

Con trai về kia rồi. Chỉ một, hai tuần không được nghe tiếng cười phe phé của nó là tôi lại nhớ. Mặc
dù mỗi lần nó về là một lần tôi thêm rối ruột. Hôm nay, nhìn mắt, tôi biết, nó sắp giở chứng gì đây.
Đừng có hòng mà rủ chúng tôi đi câu nọ với chả lạc kia nhớ! Cơm nước xong, cả nhà ngồi uống
nước. Nó sán lại, gác cái mồm đang nhai kẹo chọp chẹp lên vai tôi:

- Mẹ iu quý ơi! Bố cưới mẹ năm bố bao nhiêu tuổi nhỉ?

- Hai mươi ba, mẹ mới có mười tám, trên giấy tờ, mẹ khai tăng hai tuổi.

- Eo ôi! Trẻ thế, thảo nào mẹ ra đường khối người nhầm... Mẹ vẫn đẹp lắm! Chả ai đoán đúng tuổi!
Lập gia đình sớm cũng có cái hay mẹ nhỉ!

Tôi thấy vui trong lòng. Huỳnh tủm tỉm. Hình như hai bố con nó âm mưu gì. Thằng lỏi cười cười
nhưng ánh mắt đầy vẻ nghiêm trọng:

- Mẹ à, người yêu con xinh xỉnh xình xinh nhé! Rất hiền, đang học cùng con, mẹ có ưng không?

Điểm này thì tôi mát ruột, sau này tôi mới biết thằng nhóc chơi đòn tâm lý - Vợ nó mới tốt nghiệp phổ
thông, đang ôn thi đại học). Chợt, nó tụt xuống khỏi ghế, quỳ gối, chắp hai tay:

- Muôn tâu thái hậu kính yêu của con! Thái tử đòi lấy vợ bây giờ thì trời có sập không ạ?

Nó giở trò gì thế? Tôi bắt đầu đề phòng:

- Đừng có vớ vẩn, đang học, còn lâu!


- Cô ấy chót có mang với con, mấy tháng rồi! Con xin phép bố mẹ cho bọn con tổ chức đám cưới!

Tôi giật nảy mình.

- Là con gái út của chủ "Câu lạc bộ Thủy thủ" đấy!

Mắt tôi tối sầm, tim lại đập như gõ trống . Tôi chới với:

- Con ơi!... con... ơi!

Thằng con trời đánh vuốt vuốt ngực tôi:

- Mẹ! Con xin lỗi... Mẹ bình tĩnh nghe con trình bày đã nào...

Chồng tôi phụ họa:

- Thì để yên cho con nó nói ra đầu ra đũa...Việc đã rồi, mình cũng nên rộng lòng... Nước đây, uống đi!
Có cần mua phở không?

Á à! Thì ra bố con nó đã thỏa hiệp ngầm với nhau chống lại tôi. Tôi mở mắt, uống nước, hít một hơi
dài. Không, kiểu gì cũng không thông gia với cái nhà Câu lạc bộ... ấy được. Dòng họ nhà tôi là dòng
họ gia giáo... Làm cách nào đây? Tôi biết mình không thể ngất xỉu lúc này. Tôi nhổm người, với con
dao gọt hoa quả:

- Dao đây, đâm chết mẹ đi rồi hãy cưới nó!

Thằng giời con giữ chặt tay tôi, lại còn nhăn nhở:

- Mẹ tiếp tay cho con phạm tội nhá! Con sẽ tố cáo! - Nó van lơn - Con xin mẹ, chúng con rất yêu
nhau... Có phải nhà hàng, vũ trường nào cũng xấu đâu. Sau này, bọn con sẽ...

Tôi không thể đùa với cả một tương lai được:

- Không nói nhiều!... Lên trường ngay! Đừng bao giờ nhắc đến chuyện này với mẹ một lần nào nữa!
Cút!

Thằng con cúi đầu, lút cút ra khỏi nhà.

Hai tháng liền, nó không về, chỉ gọi điện hỏi thăm sức khỏe bố mẹ. Chồng tôi thở dài, lặng lẽ xem tivi.
Tôi nẫu cả ruột nhưng chẳng biết làm cách nào. Sao ông trời lại thù dai tôi thế này? Đến tháng thứ
ba, không chịu nổi, tôi đi thăm con.

Hai đứa thuê nhà trọ. Gian nhà nhỏ nhưng sạch sẽ, gọn gàng. Cô gái trẻ măng, mang thai có lẽ đã
đến tháng thứ tám, trông nặng nề và mệt nhọc quá. Tại sao nhà cô bé giàu có như vậy, lại phải chui
vào đây ở với con trai mình? Nó yêu con trai mình đến thế, đó mới là thiêng liêng chứ. Những tai
ương chúng vấp phải có khi lại do chính mình gây ra... Nhìn chân cô bé có vẻ sưng to. Tôi hốt hoảng:

- Trời ơi! Cháu có đi khám thai thường xuyên không? Phải xét nghiệm nước tiểu nhé! Không khéo bị
phù...

Cô bé nước mắt rưng rưng, nhìn tôi đầy vẻ mãn nguyện:

- Con cảm ơn cô! Con không việc gì, thai hơi to nên bị xuống máu thôi ạ!

Thằng Dương nhe răng ra cười:

- Hồi xưa mẹ có thế không ạ?


Cha bố thằng mặt dày! Kiểu này lại giống y lão hói.

Hôm sau, cả ba chúng tôi về nhà.

Thì ra, chủ "Câu lạc bộ Thủy thủ" chính là vợ chồng ông bác sĩ đã khám bệnh cho tôi dạo nọ. Ông
thông gia nhận ra tôi ngay: "Ngày nghỉ, mời ông bà sang bên này thư giãn cho khuây khỏa, thần kinh
bà không được khỏe lắm...". Huỳnh nhay nháy mắt với tôi. Ghét tệ!

Thắm và Hoàng đã làm lễ cưới. Chúng tôi trở nên thân thiết như người một nhà. Chủ nhật, cả ba gia
đình thường đàm đạo với nhau bên tách cà phê ấm áp. Tôi rất thích nghe những bản nhạc về biển.

Tết, gia đình tôi đón thêm một thành viên mới. Suốt ngày, tôi quanh quẩn bên cháu nội, nựng nịu:

- Âu! Âu!... Chó con của bà, sao cái mặt giống thằng bố mày thế!

Ai dè, thằng chó bố đứng lù lù ngay sau, dẩu mỏ ra, bắt trước tôi:

- Âu! Âu!... Con lớn nhanh lên để đưa ông bà đến câu lạc bộ nhé!

Rồi nó vừa tủm tỉm, vừa lấm lét nhìn tôi, rụt cổ, lè lưỡi, chạy. Hai vợ chồng trẻ cười khanh khách, đèo
nhau sang bên ngoại giám sát công trình.

Tôi mở cửa sổ, trời ấm rồi. Nắng xuân phơi phới, sáng bừng trên tán lá sấu già xanh thẫm

26. “Giải đen”

Chừng như cả ông Hách và Hậu đều cảm thấy quá mệt mỏi trong chuyện này nên khi nghe Phi nhắc
đến "mấy em mới về", "giải đen" ở khách sạn Thu Ngàn thì họ đều bừng tỉnh và cùng tặc lưỡi: "Ừ thì
đi". Bộ ba cùng đứng dậy kéo nhau ra khỏi phòng. Con "Mẹc" đỗ lù lù nghênh ngang dưới sân đã lấy
lại khí thế cho họ.

Chín giờ sáng. Giám đốc Hách mở cửa phòng làm việc. Tâm trạng lâng lâng sau bữa "chào buổi
sáng" với mấy ông bạn vàng, ông Hách hạ mình đặt cặp mông to tướng lên chiếc ghế xích đu rồi co
chân xoay xoay mấy vòng, nhắm mắt mơ màng bắt đầu cho tám giờ vàng ngọc.

Chẳng việc công nào hiện lên trong đầu ông mà chỉ toàn thấy những gương mặt của các em xinh đẹp.
Khổ thế cơ chứ. Số ông là số đào hoa. Ngũ thập rồi mà các em vẫn cứ ríu rít theo.

Sáng nay, tự nhiên lại gặp em Mai xinh thế, mắt lúng la lúng liếng đong đưa hớp hồn ông mới khổ
chứ. Đàn bà gì đã hai mặt con rồi mà trông vẫn cứ hơ hớ phây phây ra đến vậy. Ngỏ ý xin việc cho
em trai mà cô ta cứ như ra lệnh cho mình mới tài chứ.

Sực nhớ tới lời tay Tuyên úp úp mở mở lúc ở quán, ông Hách bấm máy gọi cô thư ký. Chưa đầy một
phút sau, Hằng đã ỏn ẻn đến bên:

- Dạ! Sếp cho gọi em ạ?

Vừa nói, Hằng vừa áp bầu ngực nóng hổi vào lưng ông Hách. Ông Hách ngoảnh mặt lại hỏi:

- Báo "Cội nguồn" về chưa em?

- Dạ, về rồi sếp ạ. Em đã chuyển cho sếp mươi ngày rồi còn gì. Sếp chưa đọc sao?

- Thế hả? Bận tối mắt tối mũi có thời gian nào mà đọc. Lúc nãy ngoài quán, tay Tuyên nó bảo có cái
truyện ngắn "Thọt" hay lắm, hình như nó viết về anh thì phải?
- Thế ạ? Thế thì vinh dự cho anh và lâm trường ta quá rồi còn gì!

Hằng uốn giọng thẽ thọt và chớp chớp đôi mắt nai mơ màng. Cử chỉ này ông Hách khoái lắm. Như
một lẽ tự nhiên, ông cầm bàn tay của Hằng vuốt ve.

Thực ra, báo chí cơ quan trang bị cho ông hơi bị nhiều. Có điều, nó chuyển đến chỗ ông như thế nào
thì khi bán cho hàng giấy vụn nó vẫn giữ nguyên như thế. Tất cả đều được cô thư ký xếp đặt gọn ghẽ
ngăn nắp thành từng món trên chiếc bàn làm việc của ông. Vào phòng ông ngợp những sách báo, tài
liệu. Bề thế lắm. Sang trọng lắm.

Khi từng chồng báo, tạp chí ấy cao đến độ vừa đủ thì chính Hằng lại làm nhiệm vụ bó buộc nó lại, cất
vào tủ cho đến khi nhiều quá thì "tập đoàn sách báo" ấy sẽ bị tống khứ cho mấy bà ve chai giấy vụn.

Giở tờ báo "Cội nguồn", ông Hách lơ đễnh đọc lướt qua các chuyên mục. Vẽ chuyện! Báo với chả
chí! Toàn các vị lắm chữ làm rắc rối vấn đề. Đây rồi! "Thọt" đây rồi! Xem nó viết thế nào mà tay Tuyên
nó bảo viết về mình cơ chứ?

Ông Hách càng đọc càng tái mặt đi. Mẹ cha nó chứ, ai lại viết về ông như vậy được? Thế này bằng
nhổ vào mặt ông rồi còn gì! Ông Hách vò nhàu tờ báo rồi vứt xoạch xuống nền nhà.

- Cô gọi ngay cậu Phẻn lên đây cho tôi!

Hằng đang hí húi cắm lại mấy bông hoa bỗng giật mình trước việc làm và thái độ của ông Hách.

- Có việc gì thế sếp?

- Việc gì! Gọi ngay tay Phẻn lên đây cho tôi!

Ông Hách sẵng giọng ra lệnh. Mặt ông tím dại. Đôi mắt ông vằn lên. Miệng ông bạnh ra tức tối. Hằng
nem nép mở cửa chuồn ra ngoài.

Lát sau, Phẻn, chánh văn phòng hấp tấp đến.

- Thủ trưởng cho gọi em?

- Phải!

- Có việc gì thế ạ?

Phẻn khúm núm. Ông Hách chỉ vào tờ báo vo viên dưới sàn nhà:

- Cậu đọc nó chưa?

- Đọc gì ạ? - Phẻn ngơ ngác hỏi lại.

- Báo "Cội nguồn" chứ còn gì nữa. Đấy! Cầm lên mà xem! Nó viết về thủ trưởng của các anh như thế
mà các anh để yên được à?

Phẻn cúi nhặt tờ báo, vuốt lại cho phẳng. Anh ngây ngô hỏi ông Hách:

- Nó viết về thủ trưởng chỗ nào ạ?

- "Thọt" đấy. Thủ trưởng của cậu đấy! Cậu không thấy à?

- Ôi! Tưởng gì! Cái truyện ngắn họ hư cấu ấy mà. Em đọc rồi. Chẳng có gì đâu thưa sếp.

Phẻn làm ra vẻ xuê xoa định an ủi ông Hách. Không ngờ, anh chưa kịp thở phào về ý đó thì ông Hách
đã dồn cả bực tức lên đầu anh:

- Sao mà anh ngu thế? Nó viết, nó tả rành rành ra như thế mà mắt anh không nhìn thấy gì à?

Phẻn vẫn ú ớ. Ông Hách giằng lấy tờ báo và chỉ vào từng đoạn, vừa thở hồng hộc vừa giải thích.
Chờ cho ông Hách dừng lời, Phẻn nhẹ nhàng nói:

- Sếp ơi! Không phải họ viết về sếp đâu. Đây là truyện ngắn, một thể loại văn học, mà đã là văn học
thì nhà văn có quyền hư cấu, có quyền sáng tạo theo ý tưởng của họ, chứ có phải phóng sự điều tra,
hay chi chép, phản ánh có địa chỉ cụ thể gì đâu mà sếp lo.

- Cậu nói lạ. Rõ rành rành nó viết về tôi như thế mà cậu còn bênh à?

Phẻn cầm tờ báo chìa ra trước mặt ông Hách giải thích:

- Đâu nào thưa thủ trưởng? Em có thấy tên thủ trưởng đâu?

- Không nêu tên thì nó nêu họ. Chả họ Đặng thì cái gì đây? Nó chơi mình đủ thứ tội. Nào là tham
nhũng, nhận hối lộ, nào là hám gái, cửa quyền. Lại còn xỏ xiên cho là mình đang "phấn đấu vào cái
câu lạc bộ một ngàn cái vốn tự có của phụ nữ" mới láo chứ. Văn với chả báo!

- Khổ quá sếp ơi! Đấy là họ viết về nhân vật trưởng phòng Đặng mà anh là giám đốc cơ mà? Anh với
thằng cha nhân vật ấy ngẫu nhiên trùng họ thôi.

Phẻn vẫn một mực phân tích để cho ông Hách hiểu, song ông ta vẫn gầm gừ, nói rít qua kẽ răng:

- Như thế cũng không được. Không thể được. Cậu phải cho thu hết số báo này ngay. Hiểu chưa?
Triển khai gấp đi, đầu giờ chiều báo cáo tôi!

- Dạ. Nhưng mà...

- Nhưng mà sao?

- Dạ. Theo Luật Báo chí thì không làm thế được sếp ạ.

- Không nhưng nhiếc gì hết. Cậu làm ngay đi. Có làm được không thì bảo?

Biết không thể thay đổi được ý định của ông Hách, Phẻn cố giấu nỗi bực dọc, lùi lũi bước ra cửa, suýt
nữa thì va vào Hằng đang đi vào. Nhìn bộ mặt của Phẻn, Hằng vội hỏi:

- Có việc gì thế anh?

- Việc gì? Cô đi mà hỏi sếp nhà cô ấy!

- Ơ! Cái nhà anh này, sao lại cáu cả với em?

Buổi sáng nặng nề chậm chạp trôi qua. Thấy thái độ của ông Hách vậy Hằng không dám nhõng nhẽo
như mọi khi.

Vừa đầu giờ chiều, ông Hách đã gọi Phẻn đến:

- Thế nào? Cậu thu hết được số báo đó chưa?

- Dạ... Thưa anh... Được khoảng non nửa thôi ạ.


- Có nghĩa là...

- Vâng... Có nghĩa là được gần trăm tờ, còn hơn trăm tờ nữa thì rải rác ở các đội sản xuất anh ạ. Có
điều...

- Điều gì?

Ông Hách giật mình hỏi lại. Phẻn ấp úng giây lát rồi nói:

- Sau khi biết anh có chủ trương thu hồi số báo này, nhiều kẻ tò mò đã tìm mua nó ở bưu điện hoặc
sang mượn ở các cơ quan khác anh ạ. Có người còn phô tô cái truyện ấy ra hàng chục bản phát cho
nhau xem nữa kia. Với lại ở các gia đình họ đặt báo riêng, rồi thì trên mạng nữa. Em chịu thôi, thu hết
thế nào được.

- Trời ơi! Thế này thì giết tôi rồi còn gì! Tôi biết ngay mà!

Ông Hách vò đầu, bứt tai rền rĩ.

Chợt ông Hách ngẩng phắt đầu dậy, nhòm Phẻn một cách dễ sợ:

- Có phải... Chính cậu là người cung cấp thông tin cho tay nhà báo viết cái bài này phải không? Đúng
không?

- Dạ... Ơ... ơ... Không, không ạ! Em có biết mặt mũi cái thằng cha này thế nào đâu, thưa sếp. Oan
cho em quá!

Phẻn giãy như đỉa phải vôi. Ông Hách lẩm bẩm một mình:

- Không ai cung cấp mà nó đọc vị viết về mình tài thế nhỉ?

- Vâng. Đúng đấy ạ.

- Cậu bảo đúng? Đúng cái gì? Nó viết đúng à?

Ông Hách dồn chánh văn phòng. Phẻn nhăn nhở:

- Dạ... em... em bảo đúng là... là... không có ai cung cấp thông tin gì thủ...thủ trưởng ạ.

- Thôi được rồi! Tạm tin như vậy. Bây giờ cậu làm thủ tục cắt ngay hợp đồng đặt mua báo "Cội
nguồn" cho tôi. Cắt ngay!

- Nhưng... hiện đang là giữa quý, thủ trưởng?

- Giữa quý cũng cắt. Cắt ngay! Cậu hiểu chưa? Ông Hách dừng lại ngó chòng chọc vào mặt Phẻn
nói nhỏ: - Hay là để tôi... cắt... cậu?

Phẻn co rúm người rùng mình:

- Dạ... dạ... em... em sẽ thực hiện ngay quyết định của thủ trưởng ạ.

Phẻn đi khỏi, ông Hách nói với Hằng:

- Đóng chặt cửa lại, không tiếp khách. Ai hỏi bảo tôi lên tỉnh họp, rõ chưa?

- Dạ... Em hiểu ạ. Anh nghỉ ngơi tĩnh tâm nhé.

Sập cửa phòng sếp xong, Hằng ý tứ về phòng của mình.


Từ ngày làm việc với ông Hách đến giờ, chưa bao giờ cô thấy sếp của mình lại nổi nóng đến vậy.
Thực ra, cái truyện "Thọt" này cô cũng đã đọc. Phải nói rằng cái ông nhà văn này viết tinh tế lắm, có
đến chín phần mười là chuyện của ông Hách.

Cửa quyền, hách dịch, kèn cựa, háu gái, tham tiền, ăn hối lộ, nịnh cấp trên, chèn ép cấp dưới... thôi
thì đủ thói hư tật xấu được ngụy trang dưới cái vỏ bọc mỹ miều hào nhoáng của cái chức giám đốc
của ông Hách. Thì chính cô cũng vừa là nạn nhân lại vừa là đồng phạm đấy thôi.

Là thư ký đời thứ mấy của ông Hách, Hằng không cần biết. Cô chỉ biết "lấy độc trị độc" bằng cách
dựa dẫm vào ông, khai thác lợi thế cái chức vị của ông để tiến thân, để làm kinh tế

Đang miên man suy nghĩ thì Hằng thấy một bóng người lấp ló ngoài cửa.

- Chào cô! Cô cho hỏi anh Hách giám đốc có nhà không ạ?

Hằng quan sát vị khách mới đến. Ông này trạc tuổi ông Hách, ăn mặc khá sang trọng. Cô ướm hỏi:

- Dạ... Xin lỗi bác ở đâu đến ạ?

- Tôi ở trên Công ty, bạn thân với anh Hách đây. Chúng tôi hẹn gặp nhau chiều nay mà.

- Dạ... Xin lỗi bác, thủ trưởng em lên tỉnh họp rồi ạ.

Hằng đáp y lời dặn của ông Hách. Ông khách nhìn cửa phòng ông Hách. Mấy ông bạn vàng có quy
ước riêng với nhau là nếu cửa chính khóa nhưng cửa sổ vẫn mở thì chủ của nó vẫn ở nhà. Đấy là cơ
hội, là tín hiệu để họ gặp nhau. Ông khách khẩn khoản:

- Phiền cô nói với anh Hách là có anh Phi, Trưởng phòng Tổ chức Công ty tới thăm nhé.

Ông khách mới nói vậy, sự nhạy cảm trong thư ký Hằng bỗng nổi lên:

- Dạ... Vâng. Để em vào báo cáo sếp em ạ.

Quả nhiên, trưởng phòng họ Đặng được ông Hách đặc cách mời vào. Bắt chặt tay khách, ông Hách
phân trần:

- Chiều nay tôi hơi bị mệt, dặn mọi người không tiếp ai. Ông là trường hợp ưu tiên đặc biệt đấy.

- Thì vưỡn! Chúng mình chẳng đã quy ước với nhau thế rồi còn gì. Ơ! Thế ông quên cuộc hẹn chiều
nay đi khách sạn Thu Ngàn à?

Trưởng phòng Đặng Tiến Phi vồ vập. Ông Hách vỗ vỗ tay vào trán:

- Ừ nhỉ! Nhiều việc quá, suýt quên.

Nhấp xong ngụm trà nóng, trưởng phòng Phi liếc mắt lên bàn thấy tờ "Cội nguồn" với cái truyện ngắn
"Thọt" nằm chềnh ềnh ra ở đó. Ông với tay cầm tờ báo:

- "Thọt". Ông đang đọc cái này à?

- Không. Đọc làm quái gì ba cái thứ vớ vẩn đó. Tôi vừa giở ra thì thấy nó đấy chứ.

Ông Hách đáp tỉnh bơ. Trưởng phòng Công ty bỗ bã:

- Đúng thế. Tôi cũng có bao giờ đọc báo với chả chí đâu. Ấy vậy mà cái truyện này tôi cũng phải đọc
nó đấy.
- Ông cũng đọc? - Ông Hách giật mình hỏi lại.

- Đọc chứ. Tại cái tay phó phòng của tôi nó đọc xong rồi bảo tôi nên đọc. Hắn ta nhe nhẻn nói rằng
"hình như nó viết về anh đấy". Tò mò, tôi đọc thử thì ra nó có cạnh khóe mình thật. "Trưởng phòng
Đặng", chỉ khác có mỗi cái tên. Truyện nó viết tên Hậu mà mình thì lại tên Phi, Tiến Phi cơ mà. Nhưng
đúng là nó viết về mình thật, ông ạ. Nội dung sự việc thì... cũng na ná thế. Điên tiết, tôi mới gọi tay
phó phòng lên lên lớp cho nó một bài, cấm chỉ việc phát ngôn suy diễn, gán ghép tùy tiện.

Ông Phi tuôn một hồi dài. Hình như giờ mới gặp được bạn tâm giao để ông bộc bạch cái sự đó. Cuối
cùng, ông ta kết luận:

- Chính vì thế mà chẳng có việc gì xảy ra sất. Chẳng ma nào quan tâm thọt với chả què.

Nói xong, trưởng phòng Công ty rung đùi cười mãn nguyện.

Vừa lúc đó, một vị khách nữa lại đến.

- A! Chú Hậu! Đúng hẹn ghê! Bọn anh đang chờ chú đây. Đủ bộ ba rồi đấy.

Trưởng phòng Phi reo to. Người khách tên Hậu vừa đến không thay đổi thái độ. Mặt anh ta vẫn nặng
như chì. Quăng tấm thân lên chiếc ghế, anh ta thủng thẳng nói:

- Vui vẻ chó gì nữa mà hẹn với hò! Đang bực mình đây.

- Sao? Có chuyện gì thế chú em?

Ông Hách ân cần rót nước mời khách và hỏi.

- Bọn nó bêu xấu em trên báo chí kia kìa các bác ạ.

- Báo nào? - Ông Hách vồ vập.

- "Cội nguồn" chứ báo nào nữa!

- Phải "thằng" này không?

Phi cầm tờ báo chìa ra trước mặt Hậu. Hậu liếc vội rồi gật đầu:

- Chính nó! Chính cái truyện "Thọt" này này.

- Giời ơi là giời! Đúng là là... Nó viết về thằng cha trưởng phòng Công ty PHASACO đấy. Đồ ngốc ạ!

- Không phải. Nó viết về em chứ - Hậu cãi lại.

- Chú đúng là đồ thỏ đế, gan chuột nhắt - ông Phi rũ ra cười sặc sụa - Nó viết về thằng Đặng Hậu,
trưởng phòng bên Công ty PHASACO, sao chú lại vơ vào?

Hậu ngây người gật gù. Khéo thế thật? Lát sau, anh ta chợt bừng tỉnh:

- Ơ! Dưng mà thằng ấy là Đặng Quỳnh Hậu, còn truyện lại là Đặng Hậu cơ bác ơi! Với lại, cái tay Hậu
ấy đâu có thế. Uy tín lắm, tài năng lắm. Hắn đang chuẩn bị lên giữ chức Phó Giám đốc Công ty đến
nơi rồi mà? Hơn nữa, em đúng là trưởng phòng Hậu y như tên trong truyện đấy thôi.

- Chú rõ là - Phi cắt ngang - Chú trưởng phòng thật đấy nhưng mà là trưởng phòng Trần Hậu chứ
không phải Đặng Hậu, nhá!

- Đặng với chả Trần! Có khác chó gì nhau. Em bị ngã xe máy què chân, đi tập tễnh nó viết là Thọt lại
không đúng à? Lại nữa, mọi điều trong bài ấy các bác còn lạ gì? Dưới huyện em họ đang đồn ầm lên
kia kìa. Họ gọi em là "Hậu Thọt" đấy các bố ạ? Thế có đau không cơ chứ? Phen này em phải kiện
cho nó biết đời!

- Kiện ai! Chú kiện ai? Kiện cái tay nó viết cái này à? Đúng là là... vô cùng ấu trĩ. Làm đến trưởng
phòng cấp huyện rồi mà vẫn còn ngây ngô thế không biết. Với báo chí phải giữ thái độ thân thiện. Hết
sức thân thiện, chú hiểu chưa?

Phi "đúng là là" một thôi một hồi dồn Hậu. Còn ông Hách thì ngây ra nghe như chính tay Phi nó đang
nói với mình vậy. Sau rồi ông Hách lên tiếng:

- Đúng đấy! Chú phải mang sách bút mà học sư phụ Phi đây này.

- Sao? Học anh Phi?

- Phải!

Ông Hách dài giọng. Phi vê râu rồi thong thả nói:

- Tớ đây này. Mấy thằng đọc cái "Thọt" này này, chúng nó cũng ý nọ ý kia suy diễn ra cho tớ, tớ sạc
cho một trận, khép vào kỷ luật phát ngôn. Thằng nào ho he cho chết liền. Tịt luôn. Nào, còn ai dị nghị
ho he nữa không? Chú chỉ dại, dại lắm! Đang yên đang lành lại "lạy ông tôi ở bụi này", lo chả chết.

Mặt Hậu ngẩn tò te. Ông Hách cũng ngồi đờ đẫn. Mãi sau, Phi kéo hai người lại gần thì thào:

- Bây giờ thế này, các ông phải đổ tất cái truyện ấy cho tay Hậu bên PHASACO kia kìa, để ngăn cái
chức Phó Giám đốc Công ty của nó lại. Nó mà lên đấy ngồi thì các ông đợi đến đời mục thất, nhá.
Hiểu chưa?

Cả ông Hách và Hậu như bừng tỉnh. Hai người gật gù:

- Cao kiến! Cao kiến! Bọn tôi bái phục sư phụ!

- Thôi, dẹp chuyện đó đi. Đúng kế hoạch, bây giờ ta đi khách sạn Thu Ngàn giải đen. Ở đó có mấy
em mới về hay lắm.

Chừng như cả ông Hách và Hậu đều cảm thấy quá mệt mỏi trong chuyện này nên khi nghe Phi nhắc
đến "mấy em mới về", "giải đen" ở khách sạn Thu Ngàn thì họ đều bừng tỉnh và cùng tặc lưỡi: "Ừ thì
đi".

Bộ ba cùng đứng dậy kéo nhau ra khỏi phòng. Con "Mẹc" đỗ lù lù nghênh ngang dưới sân đã lấy lại
khí thế cho họ. Đang chuẩn bị khóa cửa thì Phẻn cầm tập giấy tờ chạy đến:

- Báo cáo anh!

- Lại gì thế?

Ông Hách dằn giọng. Phẻn nói vội:

- Dạ. Anh xem lại bản kiểm điểm của anh em chắp bút thế này được chưa ạ để em còn nộp.

- Kiểm điểm cái gì? - Ông Hách hỏi lại.

Nghe chánh văn phòng nhắc lại nội dung, ông Hách gật đầu:

- Được rồi! Cứ để trên bàn của tớ đấy, tối về tớ xem lại. Bây giờ tớ phải cùng các anh về Công ty họp
gấp. Cậu bảo cô Hằng dọn dẹp phòng cho tớ nhé.
gấp. Cậu bảo cô Hằng dọn dẹp phòng cho tớ nhé.

Chẳng để cho Phẻn kịp ý kiến gì nữa, giám đốc Hách xách vội cái cặp quay ngoắt đít ra xe. Dưới kia,
con "Mẹc" đã nổ máy, bóp còi inh ỏi...

27.Cầu vồng bảy sắc

Tôi ngồi trong khán phòng nghe Hiếu chơi đàn. Tiếng đàn trầm bổng điêu luyện, lúc nỉ non lúc réo rắt
khiến tôi bồi hồi thương cảm. Cậu bé hàng xóm kém may mắn của tôi đã trở thành nghệ sĩ đàn bầu
thiệt sao?

Lúc chia tay nhau, Hiếu là một thiếu niên tật nguyền bất hạnh. Không ngờ bữa nay, Hiếu lớn và
chững chạc như vầy!

Bài "Ru con Nam Bộ" tôi từng nghe Hiếu tập từ lúc nhỏ với cây đàn tự tạo. Nhưng hôm nay Hiếu đàn
hay tới độ tôi không còn tin vô tai mình. Từng giọt đàn tròn trặn da diết rơi xuống lòng tôi khiến mắt
chợt cay xè.

Tôi thấm những giọt lệ lăn xuống má, vừa lúc tiếng vỗ tay nồng nhiệt cất lên. Vội vàng đi ra lối cửa
hông dành cho nghệ sĩ, tôi hồi hộp đứng trước phòng hoá trang chờ Hiếu .

Một thanh niên cao ráo, có thể gọi là đẹp trai nếu không có cặp kính đen sù sụ trên mặt che kín đôi
mắt đục nhờ, cùng mấy đứa trẻ đi tới. Tôi thảng thốt nắm tay người đó: "Hiếu! Hiếu à! Uyên đây. Có
nhận ra mình không?".

Hiếu dừng lại, mừng quýnh. Nụ cười đôn hậu nở trên khuôn mặt chữ điền. "Uyên đó à? Lâu quá rồi
mới gặp!". Rồi Hiếu cúi lại gần, nói nhỏ chỉ đủ cho mình tôi nghe: "Cầu vồng bảy sắc… Tối nay tôi đã
nhìn thấy rồi Uyên à!". Nghe nói vậy, tôi lại muốn rơi nước mắt.

Ngày ấy, tôi và Hiếu là đôi bạn thân cùng lớp, lại còn là xóm giềng với nhau. Hiếu thường nhờ tôi giải
hộ bài toán, còn tôi thì nhờ Hiếu làm giùm bài văn. Con gái giỏi văn, con trai giỏi toán. Thường là như
vậy nhưng tôi và Hiếu lại không giống mọi người.

Tôi hiếu động, đầu têu toàn những trò tinh nghịch trong khi Hiếu lại thích chơi đàn. Lúc nào rảnh là
Hiếu lấy cây đàn bầu tự tạo ra gẩy tưng tưng. Tôi thường giằng lấy vứt lên nóc tủ và ra lệnh "Dẹp cái
trò cụ non đó ngay, đi chơi mau!".

Bị tôi phá đám, Hiếu không đổ quạu mà chỉ cười hiền, đứng dậy đi theo. Tụi con nít trong xóm Cầu
Kênh thường hay châm chọc: "Con trai mà để con gái xỏ mũi dắt đi. Đồ chết nhát!". Hiếu cười trừ,
không cãi không giận.

Tôi chấm cái tánh hiền lành của Hiếu, nên có miếng nào ngon đều dành phần đem cho. Biết chuyện,
tụi quỷ con lại réo lên: "Lộn cầu vồng nước trong nước chảy. Có cô mười bảy, lấy chồng mười ba. Hai
chị em ta, ra lộn cầu vồng…".

Tôi nhảy tới, giận dữ véo tai sắp nhỏ. Tụi nó la inh ỏi. Hiếu lại cười: "Thôi, tha cho mấy đứa đi. Mình
chơi kéo co nghen!". Tôi một đầu, Hiếu đầu kia, cái đuôi rồng rắn là mấy đứa con nít. Đứa nào bị tôi
véo tai đều ùa sang bên Hiếu. Còn lại là vô phe tôi.

Thường thì bên Hiếu đông hơn. Tôi bị thua dài dài, xị mặt ra gắt gỏng: "Khỏi thèm chơi luôn! Ỷ đông
ăn hiếp con gái hả? Dẹp!". Tụi con nít tưng hửng, len lét bỏ đi một hơi. Còn Hiếu đứng lại, gãi tai
cười: "Vậy thì mình lộn cầu vồng há? Ừa đi! Chỉ hai đứa chơi thôi, như mấy bữa đó mà...".

Rồi không đợi tôi gật đầu, Hiếu cầm hai tay tôi, xoay tròn, miệng hát "Lộn cầu vồng...". Tôi bật cười:
"Hát chi mà vô duyên quá trời đi. Bộ tôi già hơn ông hả?". Hiếu đang thở hào hển, cũng phì cười. Vậy
là tôi hết giận.
Lớn lên chút nữa, hai đứa được vào phổ thông cơ sở. Tôi và Hiếu không còn chơi những trò con nít
nhưng vẫn rất thân nhau. Tánh tôi nghịch ngợm không thua con trai nhưng có lần Hiếu gặp tôi ngồi
tha thẩn ngó mưa trước nhà.

Tôi mê mải ngắm cầu vồng, không biết Hiếu sang lúc nào. Những sắc màu xanh đỏ tím vàng huyền
ảo làm tôi ngẩn ngơ. Lâu thiệt lâu tôi vẫn ngồi bất động, mặt nghếch lên trời. Bất chợt day qua thấy
Hiếu chăm chăm ngó mình, tôi mắc cỡ nạt: "Qua hồi nào mà ngậm tăm vậy cà?".

Hiếu cười cười: "Cầu vồng đẹp thiệt há Uyên!". "Ừa, đẹp thiệt. Ngó hoài hổng biết chán". Hiếu đăm
chiêu: "Lâu quá mình không chơi lộn cầu vồng nữa rồi Uyên…". Tôi cắt ngang: "Ông khùng hả? Chơi
chi cái trò con nít đó nữa!". "Nhưng mà hồi nhỏ vui quá trời. Chơi riết rồi Uyên mê coi cầu vồng đó
chi?". Tôi tắc họng, không biết đối đáp ra sao.

Lần đầu tiên tôi ngắc ngứ trước mặt Hiếu. Dòm qua, chợt nhận ra cậu ta cũng đang ngó mình. Tôi đỏ
mặt, vụt đứng dậy quày quả bước vô nhà, để mặc Hiếu đứng lại một mình, cười lỏn lẻn.

Hai đứa tôi chắc vẫn còn gấu ó nhau tối ngày, nếu không có tai họa bất chợt đổ ụp lên đầu Hiếu. Mùa
hè đó tôi ra nhà dì, dượng ở thành phố chơi cả tháng. Buổi trưa đầu tiên về lại quê, tôi ghé qua nhà
Hiếu. Cậu ta ngồi yên trên phản, không ngó thấy tôi bước vô. Tôi kêu: "Hiếu à! Làm chi ngồi thừ ra
đó?".

Hiếu giật mình day qua tôi, đưa tay ra rờ rẫm trước mặt, rồi mới tụt xuống khỏi bộ ván. Tôi điếng
người, thấy mắt Hiếu hấp háy, nhưng tròng mắt đùng đục khác thường. "Mắt ông sao vậy?". Hiếu
không cười như mọi lần, nước mắt ứa ra bên khóe: "Hiếu mù rồi Uyên ơi! Hơn một tuần nay rồi…".

Tôi hét lạc giọng: "Không! Hiếu phải đi bệnh viện chớ. Uyên đưa Hiếu đi!". Hiếu nghèn nghẹn đáp: "Đi
rồi. Ba Hiếu nghỉ phép về đưa đi. Bị di chứng chất độc da cam. Không khỏi được đâu".

Tôi khóc như mưa. Hiếu dỗ dành tôi nhưng cuối cùng cũng khóc oà. Đầu Hiếu gục nặng một bên vai
tôi. Sau rốt, Hiếu ngẩng lên, nói với tôi: "Hiếu khóc bữa nay nữa thôi. Lần sau Uyên qua chơi, nhớ
đừng khóc nghen!". Tôi nghẹn ngào hứa, nhưng nước mắt cứ ầng ậc tuôn ra.

Hiếu bỏ học, ngồi chơi đàn suốt ngày. Tôi ở bên nhà ôn bài, nghe tiếng đàn vọng qua, buồn não ruột.
Cũng không vô đầu được chữ nào. Đêm về, tiếng đàn càng khắc khoải như cười than, khóc hận.
Khuya thật khuya mới chịu lặng đi. Tôi nghe má tôi ru thằng út trong buồng: "Ầu ơ, đàn bầu ai gảy nấy
nghe/ Làm thân con gái chớ nghe đàn bầu...".

Qua hôm sau ba nói có việc phải lên nhà dì dượng. Má lựa lời nhắc: "Ai có phận đó con à. Đừng nghĩ
ngợi nhiều mà học không vô nghen con!". Tôi biết ba má lo cho mình, nhưng không ngờ hai người lại
quyết định gởi tôi lên thành phố.

Trước ngày đi, tôi qua chào Hiếu. Hai đứa ngồi trên cái chõng kê ngoài hiên. Mưa rơi tí tách. Hiếu
gảy đàn, cố lựa toàn bài vui, sao tôi nghe buồn như cật tre cứa ruột. Rồi Hiếu buông cần, hỏi tôi:
"Uyên coi bữa nay có cầu vồng không vậy?". Tôi đang ngó trời, cố làm giọng tỉnh, đáp: "Có. Đẹp
lắm…". Chợt giật thột vì sợ Hiếu buồn, tôi im luôn. Hiếu cười.

Lâu thiệt là lâu mới thấy cậu ta cười. "Hiếu cũng thấy rồi. Đẹp thiệt đó Uyên". Tôi ngạc nhiên ngó qua.
Mắt Hiếu vẫn mờ đục. "Uyên là cầu vồng của Hiếu đó. Cầu vồng bảy sắc à nghen. Lúc nào gặp Uyên
là Hiếu lại ngó thấy cầu vồng trước mặt. Thiệt mà". Tôi nghe nước mắt kéo lên mi, không dám nói gì,
sợ Hiếu biết mình đang khóc.

Mùa hè, tôi hơ hải về nhà. Món quà tôi mang cho Hiếu là chiếc đàn bầu mới tinh thiệt đẹp. Tiền chú,
dì thưởng cho vì học giỏi, tôi mua cho ba cây dọc tẩu, cho má vuông khăn len, phần thằng út cái áo
sơ mi trắng. Tiền mua cây đàn tôi có được nhờ dạy kèm tiếng Anh cho sắp nhỏ hàng xóm.

Tôi tha chừng đó món quà về quê, lòng vui rộn ràng. Hiếu chắc mừng húm vì có cây đàn tốt, thay thế
cây đàn tự tạo đã nứt cả bầu. Tới nhà, tôi tưng hửng vì nghe tin Hiếu đã ra miền Trung, vô học
Trường Nguyễn Đình Chiểu dành cho người khuyết tật.

Những mùa hè sau đó Hiếu cũng không về. tôi hỏi thăm, chỉ nghe má kể là Hiếu ra tận Thủ đô học ở
Nhạc viện Hà Nội. Cây đàn tôi tính tặng Hiếu vẫn còn để nguyên trong hộc tủ thờ. Mỗi lần về thăm
nhà, tôi lại mang nó ra. Hí hoáy lau chùi để nhớ lại một thời thơ bé hồn nhiên nghịch ngợm và cả mất
mát đau buồn giữa hai đứa.

Gặp lại Hiếu, tôi mừng hết biết. Tôi tìm ra tận đây bởi tình cờ đọc được cột tin trên báo về buổi hòa
nhạc từ thiện này. Cái tên Lê Hiếu trong tiết mục độc tấu đàn bầu đập ngay vào mắt tôi. Chắc chắn
đây là Hiếu, người bạn cật ruột ngày xưa tôi vẫn hằng mong gặp lại.

Từ lúc học xong đi làm, ba má đã mấy lần hối tôi lấy chồng, nhưng không một ai làm cho tôi thương
mến như là Hiếu. Tôi vẫn là cầu vồng ngày mưa. Hễ trời tạnh thì tan biến. Trái tim tôi không chịu lớn
khôn cùng thân xác, vẫn cứ vấn vương mấy trò chơi lúc nhỏ. Hôm nay tôi càng tin ông trời có mắt, đã
cho tôi cơ hội tìm được Hiếu, để nối lại tình thân dang dở hồi nào.

Hiếu hẹn tôi ngày mai lại trường chơi, tôi nhận lời, rồi chào Hiếu để quay lại phòng khán giả. Buổi
biểu diễn âm nhạc từ thiện sắp chấm dứt. Tôi lên sân khấu, trao món quà của mình cho ban tổ chức.
Toàn bộ số tiền thu được đêm nay sẽ chuyển cho các trẻ em nạn nhân chất độc da cam. Tôi hiểu nỗi
lòng của Hiếu, muốn góp phần giúp đỡ những đứa trẻ kém may mắn đó.

Trở về khách sạn, tôi trằn trọc mãi mới ngủ được. Sáng hôm sau, không đi tham quan thắng cảnh
theo kế hoạch, tôi gọi xe ôm đi thẳng đến trường.

Hiếu sống trong khu tập thể giáo viên. Tôi hỏi thăm nhà và hồi hộp gõ cửa. Chút xíu nữa là tôi giáp
mặt Hiếu rồi hai đứa mặc sức kể chuyện ngày xưa. Cả về cây đàn bầu vẫn nằm im trong hộc tủ. Và
Hiếu sẽ cười, nụ cười thiệt hiền. Lại gọi tôi là cầu vồng của Hiếu. Cầu vồng tôi sẽ không đi đón cơn
mưa nữa mà đậu lại nơi căn nhà bé nhỏ này, để làm rực rỡ những ngày vui của Hiếu - của tôi.

Một cô gái trẻ lành lặn, xinh xắn ra mở cửa. "Chào chị! Chị là Uyên phải không? Mời chị vô. Anh Hiếu
đang chờ chị!". Tôi định thần lại, đáp: "Vâng, cám ơn cô!". Hiếu đứng dậy, mời tôi ngồi xuống ghế.

Tôi chết trân khi nghe Hiếu giới thiệu : "Đây là Ly, vợ tôi đó, Uyên à! Cô ấy trước là giáo viên dạy chữ
nổi cho tôi". Tôi ráng cười, chúc phúc hai người mà tai ù lên như có đàn ong bay vù vù trong đó.

Ly ái ngại nhìn tôi: "Chị mệt lắm phải không? Vô phòng em nằm nghỉ chút đi. Em làm cơm rồi. Mời chị
ở lại dùng bữa trưa với vợ chồng em!". Tôi lấy cớ phải về gặp đối tác kinh doanh, chỉ xin ngồi thêm
mươi phút nữa. Hiếu cười tươi, kể cho Ly nghe về tình bạn hồi nhỏ giữa Hiếu và tôi.

Vui vẻ đáp lễ hai người mà gan ruột tôi đau như ai xát muối. Sau cùng tôi cám ơn Hiếu và Ly rồi xin
phép ra về. Tới cửa, Ly ý tứ quay trở vô. Hiếu ghé lại gần tôi nói nhỏ: "Uyên là cầu vồng ngày mưa...
Còn Ly, cô ấy là mặt trời ngày nắng đó!".

Tôi trở về nhà, đóng hộp xốp cây đàn bầu để gởi ra trường cho Hiếu. Rồi tôi ráng quên chuyện cũ và
lấy chồng. Tôi lại ru con gái nhỏ của mình giống như má tôi từng ru thằng út: "Đàn bầu ai gảy nấy
nghe/ Làm thân con gái chớ nghe đàn bầu..."

28.Vợ chồng Lão Hậu

Vậy là ban nãy thị ngủ mê. Lão khẽ nhếch mép cười. Nhưng một lúc lâu sau, hai tai lão lại dựng lên,
vì rõ ràng ngoài nhà đang có tiếng động lạ. Lần này thì không thể nhầm được, đó là tiếng giày. Phải
rồi, tiếng giày. Lão nghiến răng khẳng định, khi nghe rõ tiếng giày đang nhỏ dần, nhỏ dần từ chỗ
giường của vợ lão ra phía cổng.

Lão Hậu thức giấc bởi tiếng đuổi nhau chí chóe của những con chuột nhắt ở bồ thóc bên cạnh. Lão
thở dài, ngán ngẩm nhớ đến mấy lỗ thủng ở cái bồ quên không bảo vợ bịt kín lại. Lão lấy tay đập đập
vào thành giường. Lũ chuột im bặt. Nhưng chỉ được một lúc tiếng chí chóe lại nổi lên. Bực quá, lão cố
ngồi dậy, rút cái cọc màn, nằm xoay đầu lại, lấy cọc màn chọc chọc vào cái bồ. Góc màn cũ, lâu
không giặt, chẳng thơm tho gì trùm lên mặt lão. Mặc kệ, lũ chuột còn làm lão khó chịu hơn nhiều. Gian
nhà ngoài vẫn im lặng, chắc vợ lão đang ngủ say…

Lão Hậu ốm đã lâu. Thực ra ở cái tuổi 61 như lão chưa thể gọi là già. Nhưng trông lão tiều tụy, da thịt
nhăn nheo, cóc cạnh. Từ ngày lão ốm, vợ lão bỏ ra nằm ở nhà ngoài. Mấy hôm đầu lão cũng bực
mình, hậm hực. Sau thấy mình "lực bất tòng tâm", chả làm được gì, lão mới chịu xuôi đi.

Người đàn bà ấy kém lão đến hơn chục tuổi, có dáng người tròn lẳn, quyến rũ với khuôn mặt đẹp lúc
nào cũng hây hây, vẫn còn giữ được những nét sáng sủa, thông minh thời con gái.

Ngày ấy, ở cái thị trấn nửa thành phố, nửa thôn quê này, thị nổi lên như một thứ của hiếm. Vậy mà thị
lại bị lão Hậu chinh phục. Nói đúng hơn thì chính thị tự nguyện đến với lão, mê mẩn lão, rồi ngoan
ngoãn ngã vào vòng tay ôm ấp của lão. Ngày ấy, nơi đây náo loạn bởi bọn cướp đến bằng thuyền
gắn máy, có vũ khí, lại liều lĩnh. Chúng vào thị trấn giữa ban ngày, mặc sức hoành hành. Nhà nào,
nhà ấy cửa đóng im ỉm. Cả thị trấn chìm trong nỗi khiếp sợ.

Vậy mà từ đâu lại xuất hiện anh chàng Hậu. Hệt như thần thoại, anh chàng khá điển trai, võ nghệ cao
cường, lại có tài kêu gọi. Mấy tháng sau đám cướp đại bại. Anh chàng lọt vào mắt xanh của cô con
gái gia đình chủ đồn điền nọ. Ông bố, bà mẹ kiên quyết không chịu. Nhưng không làm thế nào được,
họ đành buông xuôi thở dài: "Hắn là kẻ có công, cả thị trấn này mang ơn hắn, nể sợ hắn. Vả lại, hắn
có ép buộc gì con gái mình đâu, thôi thì cũng đành…". Vậy là đám cưới được tổ chức với đầy đủ lễ
nghi, nhưng chỉ thiếu họ nhà trai. Anh chàng giải thích như phường tuồng: "Tôi chỉ là người đi ở, lưu
vong nơi đất khách, lâu nay vẫn coi bố mẹ là trời, đất, các cụ và em có thương thì cho ở nhờ…". Cho
Hậu ở rể được ít lâu, một hôm, vợ chồng chủ nhà gặp riêng con gái. Người cha nói rành rẽ: "Ta xem,
thằng này tướng ác, khác người, tên Hậu mà không có hậu. Cơ sự đã rồi, nhưng kể ra vẫn còn chưa
muộn. Hay con dứt bỏ mà theo cha mẹ đi khỏi xứ này".

Nghe thế, cô gái đang yêu khóc rống lên, giãy nảy: "Trời ơi, sao lại như thế được? Cha mẹ bỏ chúng
con mà đi đâu?". Bà mẹ nghẹn ngào: "Cha mẹ nào có bỏ con. Nhưng phải bỏ nó, kẻo sau này lại hối
không kịp". Và, họ đã quyết định ra đi trong một ngày mưa bão. Nước từ khắp nơi đổ về, như phút
chốc muốn nuốt chửng cả cái thịt trấn, cùng thằng Hậu và đứa con bất hiếu của họ…

Buổi sáng, khi mở then cửa buồng bước vào (gần đây mụ có thói quen cài then cửa buồng phía
ngoài, trước khi đi nằm), thấy lão Hậu vẫn ngủ, cổ ngoẹo sang một bên, tay vẫn khư khư cái cọc màn,
mụ hoảng hồn hét lên:

- Ông làm cái trò gì thế này?

Lão Hậu giật mình tỉnh giấc, trả lời nhát gừng:

- Đuổi, đuổi chuột ấy mà. Hôm nay mình nhớ lấy giẻ đút nút mấy lỗ thủng ở cái bồ lại cho tôi.

Mụ gắt:

- Bộ đút giẻ mà nó chịu à? Bịt chỗ này, thì nó cắn chỗ khác. Bảo đánh bả cho nó tiệt giống đi, thì ông
lại sợ lũ mèo nó chết lây.

Nghe vợ nhắc đến mèo, lão mới nhớ ra, mấy hôm nay hai mẹ con "mi mi" không còn meo meo và nằm
khoanh tròn ở đuôi giường lão nữa. Vậy là chúng cũng bỏ lão mà đi rồi. Theo thói quen, thông qua
mụ vợ, lão lại cắt đặt công việc trong ngày cho những tá điền, lâu nay vẫn làm mướn trên những thửa
ruộng được coi là của hồi môn của bố mẹ vợ để lại. Nhưng vợ lão chỉ ậm ừ, ậm ừ, chẳng ra đồng tình
cũng chẳng ra phản đối. Mụ nghĩ, khốn nạn cái thân lão. Từ ngày biết chính xác là lão không còn đi
ra ngoài được, tức là không còn hét ra lửa và tung ra những miếng chưởng ghê người được nữa, thì
họ đâu còn chịu sự răn dạy, chỉ đạo theo lối áp đặt của lão. Họ đã làm theo ý họ.

Vậy mà mụ lại thấy họ có ăn, hơn là cứ phải răm rắp rập theo cái khuôn công việc mà nhiều khi mới
chỉ kịp lóe lên như một tia chớp trong đầu lão. Họ sợ lão là phải, bởi họ đã được thấy bao nhiêu
gương nhỡn tiền. Lão Bê là một tri điền, có con Tây học. Anh con trai nho nhe cùng bố rủ thêm mấy
gia đình kéo đến nhà lão đòi trả ruộng. Vậy là lão cho biết thế nào là lễ độ. Cha con lão Bê, cùng đám
tá điền đã phải bò lê bò càng, báo hại vợ con phục thuốc hàng tháng trời.

Thị biết, những ngày đầu nghe lão Hậu đổ bệnh, họ kéo nhau mang quà cáp đến thăm, chẳng qua là
để xem thực hư thế nào, chứ trong thâm tâm, họ có thương xót gì lão. Thì ngay như thị đây, ngày
cưới, thị được lão tưng tiu như hòn ngọc. Vậy mà sau khi bố mẹ thị bỏ đi, trong cách đối xử, thị đã
thấy lão có ý khang khác. Lão xét nét thị từng tý. Công việc trong nhà, ngoài đồng, trước đây bố mẹ
thị giao cho người quản lý du học từ Pháp về, bị lão xới tung lên, lộn tùng phèo. Việc không như ý,
vậy là lắm lúc lão ra tay ngay với vợ.

Tuy ít chữ, nhưng lão cũng ranh ma lắm. Lão dạy cho thị một bài học theo cách đặc biệt, chỉ dành
riêng cho những người thuộc đẳng cấp của thị, sao cho không để lại một dấu vết gì, còn tay lão thì
vẫn sạch. Đó là điểm huyệt. Mỗi lần như vậy, thị buốt đến tận óc, chân tay tê dại, bọt mép xùi ra,
không kêu được một tiếng. Hàng xóm có chạy sang, lão bảo thị trúng gió. Thế là xong. Từ chỗ sùng
bái lão, tin yêu lão hết mình, nay thì thị căm ghét lão "như xúc đất đổ đi". Thị không có con với lão.
Vậy là lão đã tuyệt tự. Thế mà lại hay. Nghĩ vậy, mặt thị bỗng đỏ dựng lên.

Không biết lão Hậu ốm vì bệnh gì mà thuốc nào cũng không khỏi, chỉ bớt được một thời gian rồi lại
nặng thêm. Lão bị buốt đầu, bước đi lảo đảo mất phương hướng như người say. Bác sĩ bảo lão bị
thiếu máu và rối loạn tiền đình. Nhưng nếu bệnh chỉ đơn giản có vậy, thì làm gì đến mức cả cái cơ
nghiệp này lão phải bán đi chạy thuốc mà vẫn vô hiệu. Có người cho là lão bị bệnh đen não, phải mổ.
Lão gạt phắt và nghĩ "dẫu danh y Hoa Đà của nước Tàu có sống lại, ta cũng không chịu. Vì đục đầu,
cạo não thì còn chó gì là người".

Cùng với tình yêu nhanh chóng lụi tắt của vợ, là những tài sản lâu nay lão ki cóp, vắt nặn của đám tá
điền, đều lần lượt đội nón ra đi. Giờ lão chỉ còn lại hai gian nhà tranh và cái bồ thóc thủng. Từ ngày
lão không còn đi ra ngoài được, vợ lão phải hầu lão như hộ lý trong bệnh viện. Được cái thị vẫn vui
vẻ. Và, dạo này trông thị lại như đẫy đà hơn, trẻ ra.

Lão Hậu đâm nghi cái con người mấy chục năm ăn cùng mâm, nằm cùng giường, mà lão chưa bao
giờ hiểu hết này. Lão nghi là phải. Vì suốt ngày chết dần trong buồng kín, lão làm sao mà biết được
sự đời. Toàn bộ sinh lực của lão bây giờ được dồn vào đôi tai. Hồi còn trẻ, có người xem tướng bảo,
tai lão to nhưng lại lệch, không cân, nên đoản sự nghiệp và kém thọ. Mặc kệ! Miễn là bây giờ nó phải
giúp lão, phát hiện cho lão...

Từ ngày "chỉ đạo" cho vợ bịt những lỗ thủng ở cái bồ thóc, lão Hậu vẫn thấy lũ chuột nhắt chẳng chịu
buông tha cái gian buồng tối om. Đêm đêm, chúng hết thi nhau cào quèn quẹt vào cái bồ, lại đuổi cắn
nhau, kêu chí chóe. Những tiếng động này cứ lặp đi lặp lại hàng đêm, nên lão đã quá quen thuộc rồi.
Vậy mà đêm nay, những tiếng động nghe khác lắm. Không phải từ phía bồ thóc. Không phải từ trên
cái kèo nhà. Cũng không phải từ mấy cái hốc tường, mà từ đó vẫn phát ra tiếng chí chí của lũ chuột
nhắt mới đẻ.

Tiếng huỳnh huỵch, xen lẫn tiếng rên khe khẽ từ phía gian nhà ngoài vọng vào. Lão khẽ nhỏm dậy,
căng mắt trong đêm, trừng trừng nhìn ra phía cửa buồng. Tai lão dỏng lên, tim đập thình thịch. Đúng
rồi, làm thế nào bây giờ? Nhưng chợt thần kinh lão trùng hẳn xuống. Biết đâu, vợ lão ngủ mê thì sao?
Thỉnh thoảng thị chẳng hay nằm mơ, nói lảm nhảm là gì. Nhưng rồi lão lại nhíu mày, phải kiểm tra lại
cho chắc ăn. Vừa lúc mấy con chuột đuổi nhau dưới chân. Lão đập tay độp độp vào thành giường và
khàn khàn réo tên vợ.

- Ông làm cái gì mà ầm lên thế, không nằm yên được hả. Ngày mai tôi sẽ đánh bả cho tiệt giống đi -
Vợ lão gắt.

Vậy là ban nãy thị ngủ mê. Lão khẽ nhếch mép cười. Nhưng một lúc lâu sau, hai tai lão lại dựng lên,
vì rõ ràng ngoài nhà đang có tiếng động lạ. Lần này thì không thể nhầm được, đó là tiếng giày. Phải
rồi, tiếng giày. Lão nghiến răng khẳng định, khi nghe rõ tiếng giày đang nhỏ dần, nhỏ dần từ chỗ
giường của vợ lão ra phía cổng.

Suốt ngày hôm sau, lão Hậu không chịu ăn uống gì. Tha hồ cho cô vợ nài nỉ, lão cũng không chịu
nuốt lấy một thìa cháo. Lão thều thào đòi thị nói cho lão, thằng đàn ông đi giày tối hôm qua là ai.
Chẳng lẽ cứ để lão lè nhè mãi. Vả lại, giờ thì lão chẳng còn đủ sức mà áp chế thị nữa rồi. Nghĩ vậy,
thị nói luôn một hơi tỉnh bơ:

- Anh Tư, anh ấy yêu tôi lâu rồi, tôi sắp có con với anh ấy.

- Sao? Thẳng Tư hả? Trời ơi!

Lão Hậu vục dậy, rít lên những tiếng khàn khàn, đưa hai bàn tay xương xẩu bứt bứt vào đôi tai lệch.

- Thằng Tư con lão Sáu Đô chứ gì? Trời ơi là trời! Cái thằng ba đời làm con buôn ấy! Ông nó, bố nó
muốn phá tao mà đâu có được. Bây giờ thì trời ơi là trời... Con đĩ, lại đây, lại gần đây...

Không tìm cách trốn khỏi đòn trừng phạt của lão, thị tiến đến gần lão, giơ ra cái chỗ mà trước đây lão
vẫn thường bấm vào, bằng những ngón tay hộ pháp. Chỉ đợi có thế, ngón tay phải của lão bắt đầu
hành động. Mồ hôi lão vã ra, hai mắt trợn ngược, trắng dã. Nhưng nét mặt người đàn bà vẫn bình
thản. Lát sau, thị gỡ tay mình ra khỏi bàn tay đã trở nên cứng đờ, lạnh ngắt của lão. Từ cái hốc nhỏ
trên tường, chỉ còn nghe thấy phát ra tiếng chí chí của lũ chuột nhắt đòi ăn

29.Mộng hồi xuân

Sau dăm ngày hồi phục, chị Yên lột xác trở thành một người đàn bà khác hẳn. Chị đi đứng thong thả
yểu điệu hơn. Như thể chị sợ đi mạnh chân sẽ khiến đôi bầu ngực mẩy căng rơi mất. Với tầm vóc vốn
gọn gàng, giờ đây dáng vẻ chị hấp dẫn không kém bất cứ các bà mệnh phụ nào. Tôi hào hứng tặng
chị hai bộ quần áo không mặc đến và chị "thành phố hóa" đến mức kinh ngạc...

Tôi mở Trung tâm thẩm mỹ phục vụ chị em hơn chục năm nay, có đủ nghiệm chứng để khẳng định
câu châm ngôn tuyệt vời: Không có phụ nữ xấu, chỉ có phụ nữ không biết cách làm đẹp mà thôi. Tôi
thuê viết khẩu hiệu ấy bằng chữ mạ đồng, to đùng, treo chính giữa cửa hàng. Chị em bước chân qua
cửa sẽ bị đập vào mắt cái dòng chữ lấp lánh đó. Họ bị thuyết phục, yên tâm trao gửi cho tôi tấm nhan
sắc bẩm sinh với những khiếm khuyết cần thay đổi, để sau những cuộc phẫu thuật thẩm mỹ họ sẽ
được xinh đẹp đúng như ý muốn.
Bây giờ những cửa hàng thẩm mỹ to nhỏ ở Hải Phòng nhiều không đếm xuể, nhưng chả ai đọ được
với trung tâm này. Tôi dám thách đấy.

Tuy thực chất nó cũng chỉ to bằng các cửa hàng làm đẹp khác, nhưng nghe hai chữ trung tâm thẩm
mỹ vẫn oai hơn. Ngoài đội ngũ nhân viên lành nghề sành điệu được huấn luyện bài bản, tôi còn có
một "chiêu độc" khiến mọi người phát ghen. Đó là chàng bác sĩ phẫu thuật của một bệnh viện nổi
tiếng tại Hà Nội, tuần nào cũng phóng xe máy về với tôi vào mỗi ngày nghỉ. Bởi vậy trung tâm tôi
được tiếng có hẳn một bác sĩ trung ương về giải phẫu thẩm mỹ. Anh tên là Đan, rất giỏi tay nghề, lại
khá đẹp trai, lịch thiệp, đến nỗi anh mê hoặc chính tôi, nói chi mấy chị sồn sồn đến làm đẹp. Anh đã
một lần ly hôn, điều đó làm tôi phải đắn đo, chưa dám vội vàng thả lưới buông câu. Hãy cứ biết hiện
tại chúng tôi dựa vào nhau, cùng làm ăn, và chẳng mấy chốc cả hai đều có vài trăm triệu làm
vốn.

Tiền ở đâu ra lắm vậy? Xin đừng hỏi tôi câu đó. Thế giới phụ nữ cần làm đẹp thật muôn màu muôn
vẻ. Những mệnh phụ phu nhân, vợ các quan chức, vợ các ông chủ doanh nghiệp mới nổi giàu sau
thời mở cửa, họ chính là những đối tượng thường xuyên của trung tâm tôi, những "thượng đế" vô
cùng đặc biệt. Họ không tiếc tiền, không mặc cả, thậm chí họ còn thưởng gấp mấy lần, nếu tôi làm
cho họ đẹp lên. Vâng, cái đẹp xưa nay vốn vô giá, không thể tính bằng tiền được.

Điều kiện duy nhất các bà đòi hỏi chúng tôi, chủ cũng như nhân viên, phải tuyệt đối kín miệng. Không
một người nào có quyền xầm xì rằng bộ tuyết lê ngon lành như ở tuổi thanh xuân kia là nhờ silicôn
hoặc những túi nước tạo thành, sống mũi dọc dừa kia nhờ mẩu sụn xương sườn hoặc nhựa nhân tạo
đấy, đôi mắt mở to mơ mộng kia nhờ mấy nét rạch kín đáo mà có, cái eo thon lại nhờ tháo gỡ lá mỡ
tận hai kilô, đôi môi mọng nũng nịu này nhờ chút xíu sửa chữa... Cứ sờ tận tay cũng đố ai phát hiện
ra đồ mỹ ký.

Tất tôi phải hái ra tiền rồi. Nhưng không chỉ chuyện hái ra tiền, công việc tôi làm còn mang thêm ý
nghĩa phúc thiện nữa. Ai không biết mấy ông chồng của các phu nhân nay tiệc tùng, mai chiêu đãi,
làm cái mồi ngon cho các thứ em ún, thư ký trá hình lẫn cave nhà hàng ở suốt dọc đất nước. Họ đi ký
kết với nhau tận Cà Mau, đi thị sát tình hình đối tác tận Lạng Sơn, có giời mới kiểm soát được họ.
Hãy xem mấy ông giáo về hưu hạng bét cũng luôn tấp tểnh tập hợp nhau nói dối mẹ sề đi tham quan
Móng Cái, huống hồ ai!

Cho nên nhu cầu làm đẹp của chị em phụ nữ ngày mội đòi hỏi dữ dội.

Trung tâm của tôi vắt chân lên cổ phục vụ quanh năm suốt tháng, không bao giờ được ngơi nghỉ. Bù
lại thầy tớ chúng tôi đều hân hoan vui mừng trước những kết quả ngoài cả mong muốn. Khách hàng
sau hồi thẩm mỹ về, không những làm ngon mắt ông chồng háo ngọt, lại còn ngon mắt cả mấy ông
hàng xóm mới đã chứ. Do đó chị em có giá hẳn lên, hạnh phúc hẳn lên. Họ thường vui tươi giải thích:
"Vâng, em uống vài thang thuốc bắc nhà cụ lang Hồng, lên được dăm cân, da dẻ người ngợm mới hồi
lại được thế đấy''. Họ chỉ rỉ tai nói thật với những bạn gái thân thiết, những người đang héo hon
phiền muộn vì nhu cầu làm đẹp để nhử chồng, giống như họ trước đây.

Tuy vậy nghề làm đẹp lại rất cần đến lương tâm. Trong suốt hơn mười năm tôi gặp không ít những chị
em đau đớn vì chồng thiếu chung thủy đến độ mất cả sáng suốt. Làm thế nào cho họ tỉnh ra? Họ đến
với tôi mang theo cả một bầu tâm sự lẫn nước mắt.

- Em gái ơi, cần bao nhiêu tiền em cứ nói, miễn sao chị có bộ ngực thật đẹp là được. Chị đã có hai
con, làm sao bì với đứa mới ngoài hai mươi hở em? Anh ta mê mệt con đĩ chỉ vì thế em ạ. Lạy giời, cứ
để anh ta chết nghẹn vì cái của nợ cho rồi

Tội nghiệp, tôi không sao thuyết phục được người đàn bà ấy rằng không cần phải nhờ đến mỹ viện
chị cũng đã hớp hồn đàn ông. Bầu ngực hai con mẩy mướt đầy đặn tuy không còn thanh tân nhưng
nó có sức hấp dẫn không cưỡng nổi của một người đàn bà độ tuổi chín muồi. Tôi không thể vì tiền
mà nhắm mắt mổ xẻ một bộ ngực giời phú cho thế kia. Người ta mơ chả được.

- Hay là em ngại sẽ tốn kém, chị không đủ khả năng chi? Chị xin trả em gấp đôi đấy. Tiền ai cũng là
tiền, sao em nỡ từ chối chị chứ?

Nghe chị dằn dỗi thế, tôi vội chấp nhận. Rốt cục tôi chỉ vờ vịt cho nhân viên dùng những thủ thuật
massa thủ công để bộ ngực ấy sưng căng lên vài ngày, đồng thời hét giá thật đắt cho người đàn bà
yên tâm. Lấy giá rẻ hợp lý trong trường hợp này lại khiến chị ấy nghi ngờ. Thuốc ngoại đặc biệt đây
nhá. Chỉ còn mỗi một hộp dành cho chị...

Rất may đúng dịp tôi có ông anh họ từ miền Nam ra chơi. Ông anh tôi vốn dòng Đông Gioăng, tán tỉnh
phụ nữ bằng những chiêu vô đối, không cần nhiều lời. Chị khách hàng gặp ông hai lần tại trung tâm
tôi, đã lập tức hoàn toàn tin tưởng vào nhan sắc mình, rằng chồng chị là một tên mù dở mới không
nhận ra, và bên cạnh chị ít nhất cũng đang có một người đàn ông rất tinh mắt, sắp bị thần ái tình bắn
chết đứ đừ!

Ấy thế, phái đẹp xưa nay chỉ lấy con mắt đàn ông làm cái thước đo cho mình. Trong thần thoại Hy Lạp
cổ đại, có lần ba vị nữ thần tranh nhau ngôi vị người đàn bà đẹp nhất. Họ phải nhờ sự phán xử qua
con mắt của chàng trai Paris. Chàng sẽ trao quả táo vàng cho người nào chàng công nhận đẹp hơn
cả. Và vì chuyện đó con người đã phải hứng chịu một cuộc chiến tranh tàn khốc dưới chân thành
Tơroa. Thật kinh khủng!

Vào dịp cuối năm trời rét ngọt, trung tâm của tôi ít khách. Tôi giải quyết cho các em nhân viên nghỉ
phép để chuẩn bị vào chiến dịch phục vụ tết Nguyên đán. Mây xám xịt báo hiệu gió phương Bắc tràn
về. Cũng may Đan đang ở Hải Phòng với tôi. Anh bảo: "Không chăn nào ấm áp hơn lưng người tình.
Anh van em, chúng mình phải nhanh chóng hợp pháp hóa trước Liên Hiệp Quốc đi thôi''.

Hãy biết thế. Chị gái tôi dặn: "Đừng tin đám đàn ông dẻo mỏ. Càng sặc sỡ, hót hay, càng phải đề
phòng''. Tôi không biết Đan có dẻo mỏ không, nhưng tôi sắp không cưỡng được những lời dịu ngọt
anh thì thầm bên tai. Chị gái tôi lại bảo: "Đồ điên, làm gì có tình yêu trên đời này? Thử mở to mắt ra
nhìn xem. Chung quanh đây có ai hạnh phúc đâu nào?''.

Hôm ấy tôi mở cửa lấy lệ vào lúc 8 giờ sáng. Gớm, rét thế nhưng đường phố vẫn ồn ào người. Trông
vẻ mặt họ đều hăm hở quyết tranh sống lấy được. Có thể sẽ đến lúc chật phố chật phường, người nọ
cướp không khí người kia mà thở... Tôi mơ màng nghĩ đến một ngôi nhà nhỏ yên tĩnh ở xóm núi
khuất nẻo, trong lành, thoáng đãng. Nơi ấy sẽ dành cho hai người, chỉ hai người thôi, mặc sức họ hót
với nhau. Dù chị tôi bảo không có tình yêu trên đời này, dù tôi đã gần bốn mươi, trải qua nỗi đau của
hai cuộc tình vắt vai, nhưng tôi vẫn chưa ngừng hy vọng...

Một cái xe máy phành phạch đỗ lại trước cửa trung tâm. Lái xe là một thanh niên dáng vẻ dãi dầu vất
vả với bộ quần áo dạ tá cũ kỹ, quá lỗi mốt. Anh ta không thể làm nghề xe ôm ở đây với cái xe tã đến
thế, hoặc chỉ có thể hành nghề ở ngoại thành xa xôi mà thôi. Quả vậy, cái xe bám đầy bụi đường vàng
quạch và ngồi sau xe anh ta là một người đàn bà quê mùa, trông nhiều tuổi hơn đôi chút, cũng cũ kỹ
không kém. Chắc ngày còn trẻ chị ấy cũng không đến nỗi nào, nhưng thời gian với những vật vã mưu
sinh nơi thôn dã đã xóa hỏng gần hết nhan sắc một người đàn bà. Mỗi đôi mắt đen khiến cái nhìn cứ
thăm thẳm là còn gây ít nhiều ấn tượng. Trên vai người đàn bà khoác một túi du lịch nhỏ, tay cầm cái
chậu thau nhôm mới tinh. Chị xăm xắn đi vào cửa trung tâm.

Đứng sau quầy tiếp khách quan sát, tôi hơi ngỡ ngàng. Có lẽ đây là người nhà một em nhân viên của
tôi chăng?

- Chị ơi, chị tìm ai đấy ạ?


Người đàn bà chưa trả lời tôi mà ngoái nhìn ra ngoài đường, ý chừng để mắt đến người đàn ông đợi
xe. Sau khi yên tâm anh ta vẫn đứng đó, chị quay lại nhỏ giọng:

- Trước hết em giữ kín hộ chị. Ở đây em sửa được ngực cho to ra phải không?

- Vâng.

- Vậy người ta mách đúng rồi... Chờ chị một tí, chị bảo hắn về đã. Chị không muốn cho hắn biết
chuyện này.

Tôi đã hiểu hắn đây chỉ về người đàn ông lái xe. Có lẽ hắn là em trai của chị. Tôi vội mỉm cười gật
đầu đồng tình.

Với gương mặt rạng rỡ, người đàn bà chạy ra cửa. Tôi thấy hai chị em họ trao đổi ít câu rồi cậu em
trai tần ngần cho xe đi. Người đàn bà quay trở lại cửa hàng.

Chị tên là Yên. Sau một hồi nghe chị ngượng ngùng thổ lộ, tôi kinh ngạc hiểu được mục đích chị đến
đây. Năm nay chị đã năm mươi chín, dù vậy chị vẫn có nguyện vọng được nâng bộ ngực đã tàn héo
sau ba mươi năm ở góa. Năm đứa con đều lập nghiệp xa xôi, một mình chị với quán hàng khô ven
sông, giờ chị muốn vớt vát sửa sang làm đẹp cho người chồng tương lai, một người đàn ông quanh
năm lênh đênh với con thuyền gỗ thu mua than trôi nổi. Sau giêng anh chị làm mấy mâm cơm báo cáo
với hai bên họ hàng là xong.

- Người ta gắn bó với mình, thương yêu hết lòng, chả lẽ có điều kiện chiều người ta một tí, cho người
ta vui, mình lại tiếc sao?

Chị Yên đỏ mặt tâm sự. Ôi chao, tình yêu ở đâu cũng mùi mẫn. Tôi thấy như người đàn bà ấy đẹp
hẳn lên, ánh mắt dịu dàng e lệ, ánh mắt khiến chị trẻ ra vài chục tuổi và những nếp nhăn mờ đi
nhường cho màu hồng ưng ửng lên má.

Nhưng dù thông cảm với chị đến mấy tôi cũng không dám tính chuyện có thể giúp chị thực hiện
nguyện vọng làm đẹp cho cái phần cơ thể sớm già nhất của người phụ nữ năm con. Tôi ngần ngừ:

- Việc này khó đấy chị ạ. Để em khám qua rồi bàn với bác sĩ phẫu thuật. Cũng may hôm nay đến ngày
anh ấy xuống làm việc, chỉ lát nữa anh ấy sẽ tới đây thôi.

- Cảm ơn cô. Cố gắng giúp chị nhé. Chị bán nửa sào vườn chuẩn bị tiền nong đây rồi. Có phương
pháp gì tốt nhất em cứ làm cho chị. Chị đã đọc quảng cáo về trung tâm của em trên báo. Chị rất tin
tưởng. Cũng biết sẽ phải nằm viện ít hôm nên quần áo, thau chậu chị mang đầy đủ cả

Ra thế! Tôi phì cười nhìn cái thau nhôm mới tinh nằm trên ghế salông bên túi quần áo của chị Yên.

- Ở đây gần bằng khách sạn ba sao, phục vụ đầy đủ, không cần đến chậu nhôm kia đâu. Rồi lát nữa
chị sẽ thấy.

Chị Yên cười sung sướng.

- Lại thế ư? Chị cứ ngỡ thẩm mỹ viện cũng là bệnh viện. Nhà xa càng phải chuẩn bị kỹ. Thôi, thừa
còn hơn thiếu.

Tôi đưa chị vào phòng khám có máy sưởi ấm áp. Chị khép nép cởi áo len, áo ngoài. Khi lần vải áo lót
cũng đã cởi nốt, thân thể người đàn bà lộ rõ. Chị ngước đôi mắt e dè nhìn tôi như chờ đợi một lời
phán xét.

Biết nói gì với người đàn bà này bây giờ? Hai bầu vú đã dành cho năm cái miệng trẻ nhay kia, giờ chỉ
còn là hai túi da chảy nhẽo, với hai đầu núm quắt queo đen thui dính vào. Vả lại hãy hình dung nơi ấy
dù được thay thế bằng hai quả đào tiên chín mọng đi nữa, thì cái thân thể khô héo với những xương
cùng xẩu cũng chẳng hấp dẫn được ma nào.

Tôi đang ngắc ngứ lựa chưa ra cách từ chối thì bàn tay của người đàn bà đã nắm lấy tay tôi run rẩy:

- Em hãy thương chị. Đây là dịp may mắn cuối cùng chị có được một người yêu mình. Chị quyết vun
vén mọi bề, không để nó tuột khỏi tay. Những người đàn bà thành phố có trăm nghìn cơ hội làm đẹp.
Nào quần áo, son phấn, mỹ viện xoành xoạch... Chả lẽ chị không thể bắt chước họ tí chút nào ư? Chị
cũng là đàn bà kia mà. Để chiều một người đàn ông mình yêu thương, dù phải đau đớn mổ xẻ chị
cũng không quản em ạ.

- Anh ấy yêu cầu chị phải không?

- Không, chị với hắn chưa hề... Hắn biết thì chị xấu hổ chết. Chị bảo có cô em nuôi, nằm thẩm mỹ viện
ở đây cần phải ra trông nom ít ngày, thế là hắn đưa chị ra đây ngay.

- Anh chàng lái xe lúc nãy đấy chăng?

- Đúng đấy. Em nhìn mặt mũi tướng mạo hắn thì biết.

- Em có nhìn kỹ đâu. Hình như anh ấy rất trẻ. Em lại ngỡ...

Tôi kịp ngừng lại, sợ chị ngượng. Nhưng chị Yên hớn hở nói luôn:

- Hắn kém mình đến ba tuổi, lại chưa bao giờ lập gia đình. Chả hiểu cái duyên cái số ra sao, cứ rời
thuyền lên bờ lại lăn lóc tới nhà mình đòi cưới. Đành quyết định ra giêng sẽ tổ chức em ạ. Dịp ấy thế
nào cũng ra đây mời em.

Đang nói dở câu chuyện, tôi đã nghe ngoài cửa có tiếng xe máy của Đan. Xuống đúng lúc quá. Tôi
nói với chị Yên:

- May cho chị, anh bác sĩ của Trung tâm vừa kịp từ Hà Nội về. Em mời bác sĩ khám rồi quyết định.

Chị Yên hốt hoảng ngồi bật dậy.

- Ấy chết, bác sĩ nam à? Em làm hộ chị đi!

- Em chỉ là Giám đốc Trung tâm chứ có là bác sĩ phẫu thuật đâu. Phải chuyên môn cao, trình độ tay
nghề vững, chuyện nguy hiểm chứ đùa đâu.

Chị Yên đắn đo mãi mới chấp nhận. Tôi ra ngoài gặp Đan, đề nghị anh vào ngay phòng khám. "Có
một khách hàng đặc biệt cần phải giải quyết.''

Chỉ một lát Đan ra ngay phòng khách gặp tôi với bộ mặt vừa hài hước vừa ngạc nhiên.

- Em muốn anh làm gì với bà ấy? Thôi đi, tùy em, anh không...

Tôi ngăn anh bằng một cái hôn thật dài rồi thì thầm ngọt ngào vào tai Đan:

- Trước hết em không thể dùng thuốc mátxa để cái ấy tạm thời to lên như những trường hợp khác
được. Làm gì còn tí mỡ nào nữa. Phải giải phẫu thật kỳ công, em biết thế. Đây là trường hợp chúng
mình dứt khoát phải giúp. Tốn kém bao nhiêu, thậm chí tăng giá chi phí cũng được. Anh nghiên cứu
đặt mấy túi silicôn hộ em.

Đan nhăn nhó.


- Dù vậy, anh tin cũng chả giúp ích gì nhiều cho bà ta. Tốn kém mà khổ thân chịu đau đớn...

Lại phải giải quyết bằng một cái hôn thứ hai.

- Chúng mình đang yêu, đúng thế không? Chị ấy cũng thế. Vậy nhân danh tình yêu, chúng mình
không được từ chối...

Đến nước ấy Đan phải nhận. Tôi mừng vô cùng. Tôi đưa chị Yên lên phòng nghỉ trên gác hai, hướng
dẫn mọi chi tiết chuẩn bị. Chị nhất định đặt cái chậu thau vào buồng tắm hiện đại của tôi bằng được.
Thôi tùy. Cũng phải có những thượng đế nhà quê chứ sao.

Cuộc giải phẫu thành công vượt mức mong đợi. Người đàn bà cắn răng chịu đau khi thuốc tê đã hết
tác dụng, không hề xuýt xoa nhăn nhó. Nhìn những hạt mồ hôi lấm tấm trên gương mặt phảng phất
niềm vui thầm kín của chị, tôi thấy thương hại. Chao ôi, tình yêu mọc lên ở bất cứ nơi chốn nào nó
cũng đòi hỏi sự hy sinh đến tận cùng, không biết nới tay cho một ai.

Sau dăm ngày hồi phục, chị Yên lột xác trở thành một người đàn bà khác hẳn. Chị đi đứng thong thả
yểu điệu hơn. Như thể chị sợ đi mạnh chân sẽ khiến đôi bầu ngực mẩy căng rơi mất. Với tầm vóc vốn
gọn gàng, giờ đây dáng vẻ chị hấp dẫn không kém bất cứ các bà mệnh phụ nào. Tôi hào hứng tặng
chị hai bộ quần áo không mặc đến và chị "thành phố hóa'' đến mức kinh ngạc. Mới biết sự tạo tác của
chúng tôi thật kỳ diệu.

Nhớ đến nghề nghiệp anh thuyền chài, tôi thận trọng dặn dò chị Yên trước khi cho chị xuất viện:

- Tất nhiên là ổn rồi, nhưng chị phải luôn nhớ dù sao cũng là của tân trang, phải dùng gượng nhẹ.
Không thể mạnh tay như của thật đâu, kẻo nó xộc xệch đi.

Chị tủm tỉm gật đầu và thì thào vào tai tôi:

- Em yên tâm. Hắn trông thế nhưng hết sức dịu dàng tử tế. Chị thuộc tính nết hắn mà.

Chị nôn nóng ra về, không kịp chờ anh thuyền chài đến đón. Có lẽ chị muốn giấu nhẹm chuyện làm
đẹp.

Tôi không gặp lại người đàn bà ấy. Tôi quên hẳn chị. Sang xuân công việc bù đầu. Tôi lại chịu thua
lòng kiên nhẫn của thần ái tình, nhận lời cầu hôn của Đan. Rồi sau này hậu xét. Tôi đọc truyện ông
Nam Cao vẫn nhớ triết lý "người ta không nên hoãn cái sự sung sướng lại''. Vả từ nay đến tháng tám
âm lịch, ngày tôi lên xe hoa, trái đất vẫn quay liên tục, biết có thiên thạch nào va chạm phải hay
không?

Một sáng chủ nhật chúng tôi đưa nhau đi thăm ông chú họ của Đan làm Phó giám đốc mỏ than Mông
Dương. Bố mẹ Đan đã mất cả, chuyện cưới xin tất phải nhờ chú đứng lên đại diện lo liệu.

Nắng xuân thật ấm áp dễ chịu. Con đường ra Quảng Ninh đẹp như tranh vẽ. Sau mấy tiếng vi vu,
chúng tôi dừng lại một quán nước bên đường. Dưới tàn cây cổ thụ mùa xuân đầy lá lộc, cái quán
nằm ở ven sông yên tĩnh, khang trang, sạch sẽ trông rất bắt mắt. Chúng tôi chọn cái bàn nhỏ dưới
bóng cây ngồi nghỉ. Đan ngó vào trong quán, gọi to:

- Cho hai chén nước ông chủ hàng ơi!

Tiếng một người đàn bà thưa:

- Vâng... Có ngay đây.

Bà chủ quán đon đả chạy ra, tay vẫn đang lau khô bằng cái khăn mặt.
- Anh chị dùng gì ạ ?

Bỗng cả hai chúng tôi lẫn người đàn bà đều ngớ ra. Chị Yên!

- Giời đất ơi, sao lại gặp cô chú ở đây? Đi đâu thế này?

Cuộc gặp gỡ ngẫu nhiên khiến cả ba người đều rất vui. Tôi ý tứ quan sát bộ ngực chị, ngạc nhiên
thấy nó không vồng lên như nửa năm trước. Nó đâu? Hay do chị khoác cái áo rộng lụng thụng làm
hỏng đường nét gợi cảm chăng?

Chuyện vãn một hồi, chị nhất định giữ chúng tôi ở lại ăn cơm. Chúng tôi tìm mọi lý do từ chối, hẹn khi
nào quay về sẽ ở chơi với chị lâu hơn. Tôi lấy làm lạ không thấy chị nhắc nhở tí gì đến anh thuyền
chài.

Trước lúc lên đường tôi viện cớ kéo chị xuống cái bếp phía sau nhà, nơi trông ra sông.

- Tình hình ngực chị vẫn ổn chứ?

Như chỉ chờ tôi hỏi thăm, chị rầu rĩ vén tốc vạt áo lên cho tôi xem.

- Hỏng hết rồi em ạ. Đang tính ấm nắng lên chị sẽ ra ngoài em, nhờ lấy tất ra kẻo khó chịu lắm. Cứ
như phải khoác hai túi nặng trên ngực.

Chị không cần nói tôi đã thấy hết sự cố xảy đến với chị. Những bọc silicôn không bám víu vào đâu
được, giờ đây tụt cả xuống đáy túi da.

- Em đã dặn chị dùng phải thận trọng. Giờ sửa lại cũng khó đẹp như lần trước.

- Không, chị không cần sửa lại. Sửa lại làm đẹp với ai nữa hả em? Hãy lấy ra hộ chị.

Có uẩn khúc chi đây.

- Thế anh ấy đâu? Anh thuyền chài của chị đâu?

- Hắn không bao giờ còn... Hắn...

Giọng chị nghẹn lại. Chị hướng nhìn ra con sông phía sau nhà, ánh mắt đờ đẫn. Tôi chợt hình dung
cái gã thuyền chài nào đó sau khi tận hưởng sự hy sinh làm đẹp của chị đã bỏ bến sông này để cặp
một bến khác, nơi có người đàn bà khác, chắc trẻ hơn với bộ ngực xịn hơn. Tôi lúng túng an ủi chị :

- Đàn ông thế cả chị ơi. Em cứ sửa lại cho chị. Thiếu gì những anh thuyền chài cơ chứ. Rồi chị sẽ tìm
thấy người đích thực yêu thương, chưa muộn gì.

Chị bỗng ôm chầm lấy tôi, tiếng khóc vỡ òa ra không kìm nén được nữa. Tôi cảm nhận thấy cái thân
thể giờ đây gày hơn xưa rất nhiều của chị run rẩy trong vòng tay tôi. Thương quá!

- Nào hắn có được hưởng tí gì đâu em. Chưa kịp cưới xin thì...

Tôi hình dung rất rõ con thuyền cập vào bờ sông ở quãng dưới kia. Một người phụ nữ thân hình chắc
lẳn, trẻ trung, chạy vội xuống bến đỡ những can nhựa trong tay anh thuyền chài. Cả hai cười nói
chòng ghẹo nhau giữa bến sông vắng... Nỗi giận bỗng ứ lên tận cổ. Tôi mau miệng trút sự căm ghét
thói bạc tình của đàn ông thành lời:

- Chị quên khẩn trương cái quân bạc bẽo đó đi. Em sẽ làm mối cho chị những người tử tế bằng vạn
hắn.
- Không, nếu giời bắt tội không cho hắn với chị chung sống thì sẽ không bao giờ nữa... Chị không cần
ai cả. Em ơi, cứ nhìn ra sông, mỗi khi có thuyền đi qua chị lại khóc. Tội nghiệp, cơn lốc đêm bất ngờ
cuốn chìm cả một thuyền than đầy. Đến cái xác chị thuê vớt cả tuần lễ cũng không thấy. Hắn bỏ chị ra
biển mất rồi.

Tôi gai người vì hối hận.

- Em xin lỗi. Em cứ tưởng... Xin vong linh anh ấy tha thứ...

Ô, hình như tôi lại thấy nhẹ nhõm. Đúng vậy, thà anh ta chết, chứ đừng ghé thuyền bến sông dưới
kia... Thà có một chuyện tình Trương Chi thời A-còng, thà có một Mỵ Nương hết lòng thương tiếc
khóc than bên dòng sông...

Xe chúng tôi đi dọc con đường men theo dòng sông nắng. Sóng nước lăn tăn như hàng vạn vảy vàng
nhấp nhánh. Anh trú ngụ nơi đâu giữa dòng nước đầy bí ẩn kia? Anh có biết nàng Mỵ Nương của anh
đang vắt cạn những giọt nước mắt tình yêu cuối cùng cho anh không?

Xóm Núi

Những ngày cuối năm Đinh Hợi

30.Khách trọ

Thực tình là Quang không muốn nhìn thấy Thoa lúc này. Không muốn nhìn thấy cái thực thể phô diễn
khía cạnh thô tục của người đàn bà. Không muốn thấy cái biến dị về phía xấu xí ở người nữ chủ nhân
này. Người thiếu phụ này, trớ trêu thay, với Quang là một vẻ đẹp tươi mởn, mặn mà đã in dấu trong
ký ức và hoài niệm Quang.

Thế này thì dứt khoát là sẽ nổ ra một trận lôi đình rồi! Thế này thì chắc chắn là chỉ chốc lát nữa thôi,
ở căn nhà này, sẽ bùng nổ một cơn giận dữ không đổ quán xiêu đình, thì cũng ầm ĩ tan nát cửa nhà!
Quang nghĩ ngay tới điều hung hiểm buồn lo đến thắt tim nọ, kể từ lúc nghe tiếng Thoa, nữ chủ nhân
của căn nhà, cất tiếng gọi cổng bẳn gắt và sau đó là tiếng giày cao gót của chị nện cồng cộc dồn dập
trên cầu thang gỗ ở tầng hai.

Và cùng với nó là tiếng gằn hậm hực với câu nói quen thuộc cửa miệng: "Thế này thì thật là không
thể chịu đựng được nữa rồi!". Rồi sau đó là tiếng chị gọi giật đùng đùng đứa con gái mười hai tuổi
đang học bài ở trong buồng: "Trang, thằng Hoàng nó đi đâu mà đến giờ chưa về, hả?".

Kinh nghiệm đã được đúc kết: Một khi người thiếu phụ trẻ này không thể chịu đựng được nữa thì có
nghĩa là cân bằng sẽ bị phá vỡ, cơn tức giận sẽ như giọt nước cuối cùng tràn khỏi li. Mà buồn thay,
tất cả chỉ là do thằng Hoàng, vì thằng Hoàng, thằng Hoàng con trai lớn của chị.

Mười lăm tuổi, cao lều nghều một mét bảy mươi, lắt lay như một ngọn cỏ dại, thằng Hoàng là một
nhân cách chưa hình thành, một đứa con trai lồng hổng từ tuổi nhi đồng.

Đi học thì không thuộc bài, không làm bài. Trong lớp thì đứng đầu bảng về mất trật tự. Thường xuyên
trốn tiết để đi chơi điện tử. Lười biếng. Cẩu thả. Vô lễ. Bướng bỉnh và nói dối. Mẹ mắng mỏ, thầy quở
phạt bao lần rồi mà tính nào tính ấy vẫn cứ trơ trơ, vẫn cứ như nước đổ đầu vịt, đá ném ao bèo.

Thằng Hoàng học kém toàn diện. Lớp chín rồi mà quy tắc tam xuất còn quên. Bảng cửu chương
không thuộc. Chữ viết như gà bới. Ngọng elờ và enờ. Thằng Hoàng suốt từ lớp bảy đến lớp chín
toàn đứng bét lớp. Thằng Hoàng không hè nào không phải học thêm để thi lại hai môn Toán và Văn,
rồi sau đó, mẹ nó năm lần bảy lượt đến gặp thầy cùng là quà cáp, phong bì là nước mắt ngắn dài,
rằng thì là tôi mẹ góa con côi không dạy được cháu, mong thầy thông cảm cho, mới được lên lớp.
Thằng Hoàng thiếu ý chí, không có lòng tự trọng. Thằng Hoàng dòng giống con nhà hạ tiện, vô giáo
dục, chứ không phải là con nhà gia phong nền nếp, mẹ là một phụ nữ quyền quý, kế toán trưởng một
công ty. Thằng Hoàng làm khổ làm tủi nhục mẹ!

Thế này thì thật là không thể chịu đựng được nữa thật rồi! Vì người thiếu phụ trẻ sau khi gằn gọc một
lần nữa câu nói nọ và vứt bịch cái túi xách tay vào buồng ngủ của mình, đã vừa nện cồng cộc gót giày
tức tối đi xuống tầng một vừa thét gọi đứa con gái tên Trang, rằng mày mau mau đi tìm thằng Hoàng
về đây cho tao không thì nó chết với tao. Chị thét to, như cố tình để Quang nghe thấy, vì giận dữ cần
được khuếch đại lên, đó cũng là một cách giải tỏa hay sao?

Quả nhiên, Quang đã phải buông bút, bỏ dở bài phóng sự, thở ra nhè nhẹ và đứng dậy bước ra khỏi
phòng. Không chỉ là một ngòi bút sắc sảo, Quang còn là một tâm hồn nhạy cảm, hay xót xa mủi lòng.
Đi bộ đội mười lăm năm, xuất ngũ rồi mới được trở về nghề làm báo, ở thành phố này, lẽ ra Quang có
thể ở cùng nhà với vợ chồng anh chị mình, vì đó là ngôi nhà cha mẹ Quang để lại cho hai anh em.
Nhưng rồi cuối cùng Quang đã phải dọn đi.

Đó là bởi vì cái thói ganh ghét nhỏ nhen, cái ý muốn độc chiếm ngấm ngầm độc ác của ông anh trai
và chị dâu vốn là cái thói ích kỷ thâm canh cố đế không sửa chữa được của con người. Mà họ đâu có
phải vì nghèo. Trái lại, họ rất giàu. Ông anh có hai ôtô cho thuê. Bà vợ có cửa hàng lớn ở chợ.
Nhưng cả hai cùng lũ con trai lộc ngộc năm đứa mất dạy về hùa với bố mẹ, coi Quang như người
dưng bỗng nhiên được hưởng lộc, chiếm đoạt mất nửa ngôi nhà bất động sản giá trị tới hơn ba tỉ
đồng của họ. Và thế là không còn thiếu một hành vi bỉ ổi nào. Kể từ cạnh khóe, chửi bới, gây khó và
vu khống, đe dọa Quang.

Buồn cho thế thái nhân tình, Quang đành ngậm ngùi ra đi. Quang không thể sống chung với cái xấu
xa hỗn độn. Quang yêu cách sống hài hòa êm ả. Và được người bạn giới thiệu, Quang đến thuê một
căn buồng trong căn nhà này của Thoa. Căn nhà to vật vã. Bốn tầng nguy nga và một cái sân
thượng. Nó là kết quả tích cóp dành dụm của vợ chồng Thoa.

Một người là kế toán trưởng, một nghề nghiệp dễ kiếm tiền hơn nhiều nghề khác. Một là cán bộ của
Sở Kế hoạch đầu tư, dẫu liêm chính cũng không ít bổng lộc. Tiếc thay, tòa biệt thự xây xong thì người
chồng đột tử. Nay, tầng bốn để dành riêng là nơi thờ phụng tổ tiên và người chồng. Còn tầng ba với
hơn năm mươi mét vuông là nơi Quang sở hữu trong vai khách trọ.

Giờ thì một năm đã trôi qua. Và trước lạ sau quen, Quang từ một người dưng đã có lúc trở nên một
thành phần trong những buồn vui của cái gia đình nho nhỏ có ba mẹ con này. Ba mẹ con sống khá
sung túc. Đứa con gái tên Trang xinh xắn giống mẹ, học khá, toàn đứng đầu lớp và rất ngoan. Thoa là
một người đàn bà đẹp, vào tuổi ba mươi lăm nhan sắc càng lúc càng nồng ngấu, nhưng tính tình rất
khác thường.

Nó rất giống kiểu người phụ nữ xuất thân trung lưu nhưng sớm va chạm nơi thương trường, không
thuần nhất. Nhiều lúc chị rất khảnh, rất đài, quý phái và ngây thơ, nhưng cũng không ít khi chị chất
phác, thông tục, sỗ sàng, tai ngược và nhất là hay tự ái cay cú, và thình lình nổi những cơn giận dữ
ghê người. Chỉ có người đàn ông nào giàu lòng vị tha mới có thể yêu người đàn bà khó chiều này.
Chị khao khát cái tuyệt đỉnh. Và do vậy, nỗi căm uất của chị dồn hết vào đứa con trai, thằng Hoàng,
một tuổi thiếu niên lêu lổng chưa có ý thức gì về sự tu dưỡng, tập rèn. Nó làm bẽ mặt chị. Vì nó khiến
chị thấy mình thua chị kém em. Nó làm chị tủi nhục. Nó làm chị nổi cơn tự ái uất tức. Và đó là điều tối
kỵ!

"Năm nay mày mà không thi đỗ vào lớp mười trường chuyên là mày làm nhục tao thì tao đập chết
không tiếc!". Trời, nghe Thoa đe thằng Hoàng thế mà bỗng dưng Quang lo cho nó. Quang bỗng dưng
như kẻ mua dây buộc mình lo cho nó. Vì rõ ràng, thằng Hoàng đang đứng trước những thử thách rất
nặng nề. Sức học nó kém cỏi như thế mà sắp tới nó phải qua hai kỳ khảo hạch rất khắc nghiệt. Một là
thi tốt nghiệp lớp 9. Hai là thi vào lớp 11 nhà trường trung học phổ thông chuyên dành cho những học
trò có thành tích xuất sắc. Quang lo cho nó trong tư cách một tâm hồn dễ thương cảm, sẻ chia. Vậy
mà nó có biết lo đâu. Nó vẫn nhơn nhơn chứng nào tật ấy, vẫn lười biếng, ham chơi, hư đốn như mọi
khi.

Hôm nay thì tình thế đã đến mức thật là không thể chịu đựng được nữa. Cơn uất giận của mẹ nó đã
lên tới đỉnh điểm rồi. Ấy là vì mẹ nó sáng hôm nay bị ban giám hiệu gọi đến trường, cảnh báo cho biết,
sức học thằng Hoàng đã chẳng nhúc nhích được tẹo nào, nó vẫn đội sổ, thua cả những đứa con nhà
bình dân bán sức lao động, đã thế gần đây nó lại chơi bời, giao du với mấy thằng học trò cũ bị đuổi
học vốn là những đứa nghiện ma túy!

Quả nhiên, Quang vừa theo cầu thang đi xuống tới tầng hai thì gặp cái Trang đang chạy ngược lên.
Gương mặt tròn trịa tái nhợt, mấy sợi tóc dính mồ hôi bết trán, con bé túm lấy tay Quang, giật giật,
miệng mếu xệch kinh hoàng, rối rít:

- Bác Quang ơi, bác can mẹ cháu đi, không mẹ cháu đánh vỡ đầu anh Hoàng cháu mất. Bác ơi, mẹ
cháu đã tìm được cái cán cờ bằng gỗ, chờ ở cửa rồi. Bác cứu anh cháu với, bác ơi!

Thật tình là Quang đã vội quay mặt đi. Quang không muốn nhìn thấy gương mặt Thoa lúc này. Một
gương mặt dữ tợn, đỏ hăm, với hai con mắt xếch chéo, cái lọn tóc cặp vống lên sau gáy, cùng hàm
răng nghiến kèn kẹt và tiếng rít chói tai: "Trời ơi là trời! Đẻ con khôn mát lòng rười rượi. Đẻ con dại
thảm hại cái lòng là thế này đây. Thằng Hoàng! Tao nói để mày biết nhé. Tao không có đứa con như
mày. Mày là con của bọn xích lô ba gác

Mày là con của loại đầu đường xó chợ. Đồ khốn nạn là mày! Ối Hoàng ơi là Hoàng ơi, tao có cho mày
ăn đói mặc rách không? Tao có để mày thua chúng thua bạn không mà mày chịu thua kém chúng nó,
mày thua cả con lão xích lô, đứa gác cổng. Người ta chê cười mày là người ta bôi gio trát trấu vào
mặt tao đấy, ới Hoàng ơi là Hoàng ơi!".

Thực tình là Quang không muốn nhìn thấy Thoa lúc này. Không muốn nhìn thấy cái thực thể phô diễn
khía cạnh thô tục của người đàn bà. Không muốn thấy cái biến dị về phía xấu xí ở người nữ chủ nhân
này. Người thiếu phụ này, trớ trêu thay, với Quang là một vẻ đẹp tươi mởn, mặn mà đã in dấu trong
ký ức và hoài niệm Quang.

Đó là một buổi trưa Quang từ tòa soạn về, tình cờ rẽ vào căn buồng toalét ở tầng ba, kề nơi anh ở.
Anh bước vào, sững lại như bị thôi miên.

Thoa đang đứng trước gương. Suối tóc đen nhánh chảy sau lưng. Cả phần ngực trần trụi mênh mông
với hai bầu vú mụp mạp cùng hai núm vú đỏ hồng cong vểnh căng tràn sinh lực của chị in trong làn
gương sáng, tạo nên một hình dạng đặc thù, vừa hiện thực vừa hư ảo lạ lùng. Ôi, cơ thể người phụ
nữ.

Quang có cảm tưởng vừa phải vượt qua cả một khu rừng hoang sơ để đến với một cánh đồng phì
nhiêu tươi tốt. Ám ảnh thiêng liêng và huyền bí bám riết Quang đến mức từ đó mỗi khi bước vào căn
buồng nhỏ và đứng soi mình trước tấm gương nọ, anh lại run rẩy bồi hồi như đang ở nơi thánh địa.
Hôm ấy, thật sự là Thoa đã tạo nên ngẫu sự này.

Chị tưởng anh đi vắng chưa về. Và anh nhớ mình đã đứng ngây đờ, môi khô se, miệng đắng ngắt,
sung sướng và ngượng ngập nhìn chị vội vàng mặc lại chiếc áo mới mua màu mận tím, đi ra với lời
xin lỗi và vẻ mặt e thẹn như thiếu nữ dậy thì.

Mùa xuân đi qua như một bản nhạc không lời. Mùa hạ đến với sắc đỏ thắm thiết của hoa phượng. Và
mùa thu tới với những cơn gió heo may ngập ngừng qua ngõ nhỏ mang theo mùi rơm rạ ruộng đồng.
Quang nhận ra mùa đông ấy Thoa mặc đẹp hơn bao giờ hết. Liên tục chị may những bộ váy áo mới.
Chị có nhu cầu làm đẹp, chỉ trở nên duyên dáng, thanh nhã hơn trong mỗi lời nói, cử chỉ trước
Quang.

Cuối đông ấy, ngày nối ngày với những buổi trưa màu trời thanh thiên pha sắc vàng tuyệt đẹp và
thanh tĩnh đến vô cùng. Và Quang đã nín thở vì bất ngờ khi trưa đó dòng suy tưởng đang êm chảy
bỗng bị đứt quãng thình lình vì một tiếng hát nho nhỏ lẫn trong làn gió thơm vừa lọt vào căn buồng.

Về đâu. Về đây khi gió mùa thơm ngát

Ôi lũ chim giang hồ.

Đôi cánh đang cùng rập rờn trên khắp cố đô...

Quang đã dò dè từng bước lần xuống tầng hai. Qua khuôn cửa nhỏ, anh nhận ra Thoa, gương mặt
nhìn nghiêng cắt một lát van vát tinh tế, thanh thản trong cái áo len vàng màu hoa cúc, với đôi bàn tay
xinh xắn đang nhịp nhàng đưa đẩy hai mũi kim đan. Cạnh chị là cuốn len đen pha xanh đang từ từ tở
từng vòng nhỏ và một con mèo nhị thể, vật phân thân của gia chủ nằm thu gọn mình, lim dim hai con
mắt. Căn buồng trưa mùa đông hanh hao, ửng ửng long lanh như rắc kim nhũ vàng.

Còn chân dung nào của Thoa đẹp hơn thế! Bỗng nhiên trong Quang nảy nở một khát vọng, một cái
thú phiêu diêu mang sắc màu hiệp sĩ là được nâng niu nó, được giữ gìn nó, tức cái đẹp như giữ gìn
một khoảnh khắc vĩnh hằng.

Và thế là, thật tự nhiên, công việc của một hiệp sĩ tự nguyện dấn thân bảo hiểm cho điều mình
ngưỡng mộ, tôn thờ đã bắt đầu. "Này, Hoàng! Vào đề một bài văn nghị luận nên bằng một hình ảnh.
Chẳng hạn, với đầu bài "Luận về tính tranh giành và nhường nhịn" có thể viết như sau: "Trong đời
sống hàng ngày, ta thường gặp cảnh tượng sau đây: Một chiếc xe buýt dừng. Một số người xô tới,
chen lấn xô đẩy, bằng mọi cách để lên xe trước. Trong khi đó, một số người khác thì lui lại, nhịn
nhường…".

Còn bài tập chữa ngọng elờ, enờ đây. Bảo đảm một tuần là hiệu nghiệm: Quang bảo thằng Hoàng và
sau đó bắt nó viết, rồi đọc những dòng sau đây: "Nàng tôn nữ diễm lệ nấu cơm nếp lạc, luộc thịt lợn,
đem vào làng, biếu ông nội, qua chỗ lội, gặp Lin Tay lo, Yes yes no no, líu la líu lo, thụt chân nam,
xoạc chân chiêu, ngã quay lơ, nồi niêu lăn long lóc!".

Không ngờ những lời chỉ bảo của Quang lại có tác dụng ngay với thằng Hoàng. Không ngờ bài tập
chữa ngọng cho thằng Hoàng gây niềm vui lớn cho cả nhà. Cái Trang cười như nắc nẻ. Thoa cười
thỏn thẻn. Quang nói vui vẻ: "Thế có phải là đẹp là vui không? Chị Thoa à, một đứa con trai khó dạy
không kém một con thú nhỏ đâu. Đó là câu nói của ông Platon, một nhà hiền triết cổ Hy Lạp đấy".
Thoa cúi mặt, ửng đỏ hai gò má và đôi tai xinh xẻo, bỗng nhiên như thỏ thẻ, thật ngây thơ: "Những khi
cáu giận, em xấu xí lắm phải không, anh?".

Nhưng lúc này thì Thoa đã hoàn toàn biến đổi thành một hình ảnh khác lạ rồi! Không chỉ là những lời
rủa xả, đay nghiến, thậm chí độc địa thuộc một giải tần khác, mà thần thái chị cũng đã di chuyển sang
một hệ giá trị khác, thấp kém và vô cùng tầm thường. Mặt đỏ căng, tay lăm lăm chiếc gậy gỗ lim dài
hơn một thước, to tròn bằng ngón tay cái, môi bậm đến nhợt máu, mắt quăng quắc như mắt thú, chị
đứng sẵn trong tư thế rình đợi kẻ thù ở cạnh cái cổng sơn xanh trước mảnh sân nhỏ nhà mình!

Quang đi ra đúng lúc thằng Hoàng phanh kít chiếc xe đạp Nhật ở trước cổng, rồi chống đôi chân dài
ngoằng xuống đất. Đầu đội chiếc mũ lưỡi chai tím, lưng xề xệ cái balô đựng sách vở, nó ngoảnh mặt
vào mảnh sân nhỏ, khuôn mặt dài thơ trẻ vô tư chưa hề hay biết điều gì đã xảy ra và sắp xảy ra, kể cả
lúc mẹ nó xồ ra từ sau chiếc cổng với cái gậy gỗ giơ cao:

- Hoàng! Mày đi đâu, giờ mới về?

Cùng với tiếng quát, chiếc gậy vung lên, nhằm đầu thằng Hoàng quật xuống, thật là bất ngờ, ngoài cả
dự tính của Quang. Với thằng Hoàng điều đó còn ngoài cả sức tưởng tượng. Nó vừa định mở miệng
"Con chào mẹ" thì đã vội bật nảy ra khỏi chiếc xe và may mắn, nó né được người vào cái đốc cửa ở
căn nhà đối diện. Đầu gậy của cú vụt trượt đập trúng cái yên xe. Nó mạnh đến nỗi chiếc xe không
người giữ đứng yên đến mấy giây rồi mới đổ kềnh xuống đất.

- Hoàng! Tao còn dạy được mày nữa không? Hả!

Chiếc gậy lại vung lên và người phụ nữ trẻ một lần nữa lại xô tới phía trước. Còn Quang, lúc này vừa
xót thương cho thằng Hoàng, vừa uất nghẹn đến cùng cực, không có cách nào hơn, anh ra hiệu cho
thằng Hoàng chạy đi, và tạt ngang sang mấy bước, rồi vừa như che chắn cho nó, vừa trực tiếp đối
mặt với cơn giận giữ của Thoa. Hòn than phải tự cháy hết mình. Hiệp sĩ phải đóng trọn vai. Cú gậy
quất vô tri thứ hai sượt qua thái dương Quang, nện đánh bịch xuống vai phải Quang.

- Thoa à, đừng cáu giận thế!

Quang nói giọng thật dịu, cùng với động tác giơ bàn tay trái lên cao, đón đỡ chiếc gậy gỗ nặng chịch
đang như một ánh chớp vụt xuống lần thứ ba. Bàn tay trái của anh tê dại hẳn đi. Nhưng may, lần này
anh đã tóm được đầu chiếc gậy. Và giật lấy nó, anh giơ ngang tay như chặn người thiếu phụ, không
cho chị bước lên, tiếp tục xả cơn say máu. Người phụ nữ trẻ hẫng một nhịp đà, buông tay, há miệng
kêu một tiếng nho nhỏ, để buột búi tóc sau gáy, xoay lưng lại, gằm mặt đi qua cổng, vào nhà.

Quang dựng chiếc xe đổ, quay lại phía thằng Hoàng, buồn bã bảo nó hãy đi đâu một lúc, tí nữa hãy
quay về. Rồi Quang lặng lẽ bước qua sân, đi vào nhà.

Ở chân cầu thang, Thoa đang úp mặt vào tường ri rỉ khóc. Chắc hẳn là chị đang nhớ lại cái câu chị
thỏ thẻ hỏi Quang hôm nào: Những khi cáu giận, em xấu xí lắm phải không, anh?

31.Lá đơn ly dị

Từ chiều hôm ấy, cứ hôm nào bà vợ lên xe máy của con trai ra khỏi nhà là hắn lại tranh thủ lên tầng
ba kiểm tra tay nghề các nhân viên mát-xa. Ngoài cô bé xinh đẹp ở phòng số 5, thỉnh thoảng hắn cũng
ghé phòng của bốn nhân viên khác theo cách của Tần Thủy Hoàng đến với các cung nữ. Nghĩa là cô
nào trang điểm đẹp, có ánh mắt và nụ cười mời gọi...

Hắn vừa khai trương thêm nhà hàng mới.Trong bữa tiệc mừng, hắn nhận được biết bao lời chúc tụng
của quan khách. Lời nào cũng như có cánh, nâng hắn lên chín tầng mây. Xế chiều, tiễn xong vị khách
cuối cùng dự lễ khai trương hắn lui về phòng riêng để nhâm nhi niềm hân hoan từ những câu chúc,
lời khen. Và chương trình buổi tối hắn cũng đã dự tính sẵn trong đầu từ lúc thằng con trai dắt xe máy
ra khỏi nhà ra theo yêu cầu của mẹ nó. Chắc bà ấy lại đi chùa cầu trời khấn phật phù hộ, độ trì. Đợi
hai mẹ con khuất hẳn, hắn khoác vội áo, xỏ chân vào đôi dép lê nhẹ nhàng bước lên tầng 3. Tầng ấy
hắn bố trí tới 5 phòng mát-xa xông hơi thuộc loại hiện đại.

Năm cô nhân viên cũng mới trên dưới tuổi đôi mươi. Con bé mới tuyển chiều hôm qua, có lẽ chỉ mười
tám. Xinh đẹp, múp míp, trắng trẻo, ăn mặc khá môđen và cách đặt vấn đề của cô ta có vẻ thoáng
lắm. Khi hắn hỏi về nghiệp vụ và kinh nghiệm của nghề mát-xa, cô ta nở một nụ cười thật gợi cảm rồi
nói thẳng tưng: "Anh chủ ạ, công việc này chẳng ai phải dạy, mà chủ yếu là vừa làm vừa học. Anh chủ
cứ tin đi, đôi bàn tay của em sẽ hút khách cho nhà hàng hơn cả nam châm hút sắt. Chỉ có điều, ngoài
tiền boa của khách cho, thỉnh thoảng anh chủ phải thưởng riêng cho em đấy!".
Trong khi đôi tai của hắn còn ngân nga giọng hót oanh vàng của cô nhân viên trẻ thì đôi chân đã đưa
hắn lên đến tầng 3.

Rồi hắn chui tọt vào phòng số 5. Cô bé chốt luôn cửa và tiếp tục cách ăn nói thoáng hôm trước:

- Anh chủ sướng hơn Tần Thủy Hoàng.

Vừa nói cô bé vừa sán đến giúp hắn cởi quần áo ngoài. Khi trên người hắn chỉ còn một chiếc quần
đùi rộng thùng thình, cô bé cũng kêu nóng và cởi luôn chiếc áo ngắn cũn cỡn đang mặc. Trước mắt
hắn cả một tấm thân trắng nần nẫn, non mơn mởn hiện ra. Giọng hắn chùng xuống chen với tiếng thở
gấp gáp:

- Này, chỉ riêng với anh mới được phép cởi thế này nhá. Còn với khách mà thoáng quá, người ta đồn
thổi là không có được đâu.

Từ chiều hôm ấy, cứ hôm nào bà vợ lên xe máy của con trai ra khỏi nhà là hắn lại tranh thủ lên tầng
ba kiểm tra tay nghề các nhân viên mát-xa. Ngoài cô bé xinh đẹp ở phòng số 5, thỉnh thoảng hắn cũng
ghé phòng của bốn nhân viên khác theo cách của Tần Thủy Hoàng đến với các cung nữ. Nghĩa là cô
nào trang điểm đẹp, có ánh mắt và nụ cười mời gọi...

* *

Chưa đầy một tháng sau ngày khai trương, nhà hàng Túy Hậu đã chứng tỏ được sức sống mãnh liệt
của nó. Khách đến ăn nhậu ngày một thêm đông mà khách sành chơi đến thư giãn cũng ngày mỗi
thêm nhiều. Doanh thu của nhà hàng tăng vọt. Cứ mỗi đêm trước khi đi ngủ, hắn có thể thản nhiên
ném năm, bảy triệu tiền lãi vào két sắt. Nhưng cái sự ăn gia làm nên của nhà hàng hình như lại khiến
vợ hắn không vui. Nhiều lúc hắn còn thấy bà ấy trở nên đăm chiêu, khó hiểu. Hắn chẳng mấy bận tâm
về bộ dạng ấy của vợ. Mấy năm nay, mọi quyền lực trong cái gia đình này đã chuyển về tay hắn. Hắn
ở thế thượng phong.

Chỉ cần bà vợ trái lời là hắn sẽ tạo cớ để đâm đơn li dị. Và khi tòa xử có thể hắn sẽ chia cho bà ấy
một nửa cơ nghiệp để sửa chữa một cuộc hôn nhân sai lầm, một cuộc hôn nhân chỉ vì ơn nghĩa chứ
không hề có tình yêu. Đã vài lần hắn tuyên bố như vậy. Vì thế mấy hôm nay, bà ấy vui hay buồn, hắn
chẳng để ý. Điều hắn quan tâm lúc này là phải cấp tốc mở thêm dăm phòng mát-xa nữa. Năm phòng
đã trở nên quá tải so với nhu cầu của thượng đế trong vùng. Hắn nhẩm tính nếu thêm 15 phòng, mỗi
ngày số tiền lãi phải từ mươi triệu đổ lên. Mỗi tháng, trừ tất cả các khoản quà cáp, biếu xén, hắn sẽ
có trong tay thêm vài trăm triệu.

Nhưng đúng lúc cái ý tưởng của hắn đang thăng hoa thì có một chuyện xảy đến khiến hắn cảm thấy
bị hẫng hụt. Buổi chiều hắn vừa đi ký hợp đồng với cánh thợ xây dựng dãy nhà mát-xa ở lô đất sau
vườn thì có một người lạ mặt chuyển đến cho hắn gói quà. Gói quà được gói trong mấy lần túi nilon,
chằng buộc bằng cả một đống dây. Khi mở gói, hắn há hốc mồm vì kinh ngạc. Đó là ba cái bánh
chưng ruột bằng đất sét và một tờ biên bản phạm pháp quả tang mà chính hắn là đương sự. Hắn gieo
mình xuống ghế nghĩ ngợi. Ai là người còn giữ được đống tang vật và tờ biên bản này nhỉ. Mà sao
người ta lại gửi cho hắn vào đúng lúc này. Nhìn tờ biên bản hắn bỗng nhớ lại bàn tay người viết nó.
Bàn tay có sẹo và cụt một ngón. Chính bàn tay ấy đã tát vào má hắn một cái nổ đom đóm mắt mà
thỉnh thoảng nghĩ lại hắn vẫn còn thấy đau.

* *
Ngày ấy hắn chỉ là đứa trẻ nghèo khổ, lam lũ. Đêm đêm hắn theo vài đứa bạn cùng trang lứa bán
bánh chưng ở ga tàu hỏa gần làng. Và không hiểu tại sao, thời kỳ ấy trong rổ bánh chưng của bọn trẻ
thường có thêm vài chiếc bánh chưng ruột đất. Những chiếc bánh chưng ấy chúng chỉ bán khi tàu bắt
đầu chuyển bánh. Có nghĩa là, khách có phát hiện ra bánh đểu thì cũng chỉ có thể ngó đầu ra khỏi
cửa sổ chửi vài câu cho bõ tức chứ chẳng ai dám nhảy xuống tàu đòi lại tiền.

Một buổi tối hắn rao rạc cả họng mà khi tàu kéo còi rời ga, ba buộc bánh gai và dăm chiếc bánh
chưng vẫn nằm chềnh ềnh trong thúng. Trong khi đó con cái Tớn dẻo mỏ bán hàng cứ nhoay nhoáy.
Hình như nó bán được cả loại bánh "ruột đất". Chỉ cần nghe khách trên tàu chõ mồm ra chửi là hắn
đoán được sự tình. Thường thì khách chửi khách nghe, bọn trẻ chả bận tâm. Nhưng hôm nay cùng
với lời chửi của bà khách mua phải "đặc sản" của con Tớn, người ta còn ném cả cái bánh đất vào
người ông Kiên - công an khu vực mới về thay cho ông Lượng. Ngay lập tức ông Kiên chạy về phía lũ
trẻ bán hàng và quát lớn:

- Đứa nào bán cái bánh chưng này?

Lũ trẻ bỏ chạy tán loạn. Chỉ còn mình hắn đứng lại. Hắn đã bán được chiếc nào đâu mà lo. Vậy mà
hắn vẫn bị ông Kiên tóm cổ về đồn. Hắn không ngờ ông Kiên ghê thế. Ông bắt hắn cởi lạt, gỡ lá xem
cả thúng bánh. Ba cái bánh chưng ruột đất phơi ra trên bàn. Ông Kiên lập biên bản và bắt hắn phải
nộp phạt. Chưa hết, ông còn căn vặn hắn đủ điều: Đã bao nhiêu lần bán bánh dởm? Lấy thứ hàng
này ở đâu? Trong số những người cùng hội, cùng thuyền, còn ai có loại bánh đất này? Nhưng ông
Kiên cứ hỏi còn hắn cứ không trả lời.

Trong hội bán rong, hắn nổi tiếng là lì lợm và láu cá. Hỏi chán không được, ông Kiên bắt hắn ký vào
biên bản. Hắn cũng không ký. Vậy là suốt đêm hôm đó ông Kiên phải thức cùng hắn. Gần sáng, chắc
là không chịu nổi sự lì lợm của "đối thủ", ông Kiên đành phải thả hắn về. Nhưng thúng bánh của hắn
thì vẫn bị tịch thu. Ra đến cửa, nhìn thúng bánh trên bàn hắn mới thấy tiếc và thấy ức. Hắn hét lớn:

- Ông thu bánh về để cho vợ con ông ăn chứ gì. Ông ăn cướp miếng ăn của trẻ con! Sao ông ác thế!

Hắn không ngờ lời nói ấy lại khiến ông Kiên trở nên dữ tợn. Ông kéo hắn lại rồi giơ thẳng bàn tay đầy
sẹo tát vào mặt hắn. Sau đó ông ngồi phịch xuống ghế, ngồi ngây ra như bức tượng để mặc cho hắn
lầm lũi đi ra đường. Suốt ngày hôm ấy hắn không muốn về nhà và cũng chẳng đến cơ sở sản xuất
nhận hàng đi bán nữa. Hắn chỉ nghĩ cách trả thù ông Kiên. Buổi tối, hắn vẫn ra ga. Ra để xem ông
Kiên có làm như ông đã tuyên bố không? Ra để xem bọn con Tớn sẽ xoay xở ra sao với những chiếc
bánh nhân đất trước thái độ cương quyết của ông Kiên.

Trong khi hắn đang lang thang ngẫm nghĩ mưu kế trả thù ông Kiên thì Hậu, con gái ông chủ làm
bánh, vợ của hắn bây giờ xuất hiện. Hậu hơn hắn ba tuổi, không xinh nhưng hiền lành và hay thương
người. Mấy lần hắn bán bánh ế, mang về trả, Hậu thường an ủi:

- Buôn bán thì cũng có lúc lỗ, lúc lãi, khi được nhiều, khi được ít. Ế thế này có để cũng thiu, Túy cứ
mang về mà ăn. Hậu không tính tiền đâu mà lo.

Nhưng hôm ấy Hậu đến tận ga tìm hắn chắc là vì thúng bánh chưng bị thu. Hắn cố tìm những câu trả
lời chống chế nhưng nghĩ mãi chẳng ra. Chỉ có cách là lì cái mặt, rồi hứa hẹn: khi nào có sẽ trả...Trái
với dự đoán của hắn, Hậu vẫn như mọi ngày, điềm tĩnh và tỏ ra thông cảm:

- Chuyện Túy bị thu bánh, Hậu biết rồi. Hậu nghĩ, chắc chẳng phải Túy là người đầu têu ra chuyện
ấy.

Hậu đã nói đúng.Việc làm bánh đất là do bọn con Tớn đầu têu. Sau vài lần bắt chước trót lọt, được
nhiều tiền hơn bán bánh thật, lũ trẻ sinh ham. Trong khi hắn chưa kịp phân bua, Hậu lại tiếp:
- Từ bây giờ Túy có ra ga cũng không còn lòng dạ đâu mà bán chác nữa. Chi bằng Túy về làm công
cho bố Hậu. Nhà mới mở thêm một cơ sở sản xuất bánh gai và bánh đậu xanh.

Từ hôm ấy hắn trở thành người làm công cho cơ sở sản xuất bánh đậu của gia đình Hậu và không
còn phải lo đối phó với ông Kiên như lũ con Tớn nữa.

Chuyện đã ba nhăm năm chỉ có hắn và lão Kiên biết với nhau. Vậy chắc chắn chỉ có lão "khốt" ấy mới
là kẻ "xới" lại. Nhưng lão "xới" lại nhằm mục đích gì nhỉ? Chẳng lẽ thấy hắn trở nên giàu có, sang
trọng mà lão Kiên muốn vòi tiền? Phải rồi, cái hôm khai trương nhà hàng, hắn chỉ mời lão Lượng, tiền
nhiệm của lão Kiên. Hắn chẳng thích gì lão Lượng, nhưng cứ nghĩ đến cái tát của lão Kiên, tự nhiên
hắn lại muốn mời tất cả những người đã chứng kiến một thuở hàn vi của hắn.

Nên xử sự với lão Kiên "khốt" thế nào nhỉ? Nghe người ta nói, từ khi về hưu cuộc sống của lão Kiên
vất vả lắm. Vợ lão mất sớm một mình "gà trống nuôi con" hơn chục năm trời bằng đồng lương còi.
Thằng con lớn học xong Trung cấp An ninh, nghe đâu phải vào tận Tây Nguyên hơn chục năm chả
được ra. Đứa con gái không đỗ đại học phải xin đi làm công nhân da giầy với đồng lương chết đói.
Vậy thì phải đến nhà lão. Đến để xem lão khổ ra sao. Đến để lão biết thằng bé đã bị tát ở ngoài ga
ngày trước bây giờ giàu có, sung sướng như thế nào. Đến để nói với lão vài câu mát mẻ. Rằng lão có
phôtô vài trăm tờ biên bản thời đói kém ngày trước gửi cho ai cũng chỉ tổ làm trò cười cho thiên hạ.
Hắn tự nhủ như vậy rồi lập tức rời nhà bằng chiếc xe Camry ba chấm còn đang chạy rốt đa đến nhà
ông Kiên.

* *

Ông Kiên đặt cuốn sách nhìn hắn khá chăm chú. Lát sau, nhận ra khách ông hỏi:

- Sao hôm nay anh Túy lại tìm đến nhà tôi nhỉ? Chắc là phải có sự kiện gì quan trọng lắm đây.

Một câu hỏi khá trịch thượng và không mấy thiện cảm! Một câu hỏi có ý bóng gió về cái trò gửi quà
chăng? Hắn nghĩ vậy và đáp lại theo cách vừa châm chọc, vừa thách thức:

- Chả có gì quan trọng cả. Ông bây giờ cũng đã ngoài sáu mươi và tôi cũng đã xấp xỉ năm mươi rồi.
Chỉ có điều số phận ông cảnh sát hét ra lửa và thằng bé bán hàng rong ở ga ngày trước và bây giờ
cũng đã an bài. Một sự an bài có hậu. Vậy thì chuyện cũ có xới lại cũng chả thay đổi được gì.

Ông Kiên nhìn như xoáy vào mặt hắn và vẫn cái giọng đầy uy lực ngày trước:

- Anh là khách không mời và những điều vừa nói ra thật lạc lõng và khó hiểu đối với tôi.

Hắn cười nhạt:

- Có gì mà không hiểu. Ông không mời nhưng gói quà ông gửi cho tôi buộc tôi phải đến đây...

Ông Kiên đứng phắt dậy. Mặt ông tái đi, đôi môi ông run run:

- Gói quà nào. Tôi mà lại thèm gửi quà cho anh à...

- Ông đừng vờ vịt nữa. Nếu không phải là ông thì ai là người còn giữ được tờ biên bản phạm pháp
quả tang do chính tay ông viết. Tiếc rằng tờ biên bản ngày ấy tôi không ký nên chẳng có giá trị gì. Nói
cho ông biết nhá, nếu cần, xin mời ông đến nhà hàng của tôi. Tôi sẽ đãi ông tất cả những của ngon
vật lạ và thậm chí có cả phong bao cho ông mang về nữa. Còn ông bày ra cái trò đó, chỉ khiến nỗi
đau vì cái tát ngày xưa trỗi dậy trong tôi.
Toàn thân ông Kiên run lên. Đôi mắt trở nên hoang dại, thất thần. Ông giơ cánh tay đầy sẹo và cụt
một ngón về phía hắn. Nhưng hắn đã kịp bước nhanh ra ngõ chui vào ôtô và phóng đi. Suốt ngày
hôm sau, ánh mắt đêm ấy của ông Kiên vẫn còn ám ảnh hắn. Linh tính mách bảo sẽ có chuyện xảy ra
từ ánh mắt ấy.

Một buổi tối khi hắn vừa xếp xong mấy buộc tiền lãi vào trong két thì vợ hắn xồng xộc bước vào. Hắn
hất hàm hỏi vợ:

- Đi đâu mà bây giờ mới về?

- Tôi đi đâu thì ông hỏi làm gì?

Hắn há hốc mồm vì kinh ngạc. Lần đầu tiên vợ hắn dám trả lời hắn như thế. Hắn chưa hiểu sự tình ra
sao thì bà đã đặt tờ giấy lên bàn và tiếp:

- Đây là đơn li dị của tôi. Ông ký vào đi.

Chắc bà ta lại ghen tuông vì mấy cô gái mát-xa đây thôi - Hắn đoán như vậy.

- Tôi nói cho ông biết - Vợ hắn tiếp tục nói mà như xối nỗi tức giận vào hắn - Ông đã làm cho ông
Kiên phải vào bệnh viện cấp cứu. Ông ấy mà không qua khỏi thì tôi không để cho ông yên đâu. Ông
tưởng ông Kiên gửi cho ông mấy cái bánh chưng đất phải không? Ông cạn nghĩ lắm. Ông Kiên là một
người suốt đời đàng hoàng, chính trực. Ông Kiên là người đã giúp ông có ngày hôm nay. Chính tôi đã
nhận từ tay của ông Kiên tờ biên bản và giữ gìn nó hơn ba mươi năm trời. Cũng chính ông Kiên đã
nhờ tôi tìm việc cho ông làm. Và tôi đã xin với bố tôi nhận ông. Ngày ấy dẫu ông có láu cá nhưng
trong mắt tôi ông vẫn là một thằng bé chịu khó và dễ bảo... Rồi không hiểu trời xui đất khiến thế nào
tôi lại yêu ông. Tôi biết ông lấy tôi chỉ vì cái cơ sở làm bánh của bố tôi đang làm ăn phát đạt. Bây giờ
mọi mưu đồ đạt được rồi, ông quên ơn, quên nghĩa, quên hết chuyện xưa. Ông tưởng bao nhiêu lần
ông lên đú đởn với mấy con bé mắt xanh mỏ đỏ ở trên gác ba mà qua được mắt tôi đấy à?... Ông
tưởng thiên hạ người ta mù phải không? Không đâu. Người ta đang đồn ầm lên rằng cái cơ sở mát-xa
Túy Hậu là ổ chứa mại dâm trá hình. Tôi không muốn làm vợ gã Tú ông. Tôi muốn các con tôi tránh
xa cái chốn lầu xanh này. Vì thế tôi gửi cho ông gói quà ngày xưa, là muốn gửi thêm cho ông một cái
tát nữa để ông tỉnh ngộ mà làm lại cuộc đời

32. Đôi tình nhân trên bãi vàng

Ôi, tình yêu! Tình yêu giữa đàn ông và đàn bà. Tình yêu giữa nhóc Giẳng và thị Nhi! Sao lại có thứ
tình cảm vừa say đắm, vừa thanh tân mà lại trong lành thuần khiết đến thế! Đắm chìm vào cái địa hạt
bí ẩn lạ lẫm này, quả thực thị Nhi như kẻ nhập đồng mê man không tri giác. Thị chẳng nhớ gì nữa...

Thị Nhi quen thằng nhóc Giẳng ở bãi vàng Nà Rì. Thị, ba mươi bảy. Nhóc Giẳng, mười bảy. Trai
mười bảy bẻ gãy sừng trâu. Gái ba mươi bảy đang thì hồi xuân.

Ấy là nói đại đởn vậy thôi. Chứ nhóc Giẳng đang tuổi dậy thì vậy mà còm cõi như cái cọc rào. Lại
thêm bệnh hen xuyễn, động giở giời là nằm thổi kèn cò cử. Đất này đàn ông có thể làm nên chuyện
đổi đời, nghèo khó có thể trở nên đủ ăn, thậm chí sung túc, giàu có, nhưng quan trọng là phải có sức
vóc.

Cũng vậy thôi. Thị Nhi là cái đầu thừa đuôi thẹo ở cuộc đời này. Trên đất này, đàn ông cả ngày chui
rúc dưới hầm hố đào bới, có thể thành ông hoàng bà chúa, cũng có thể chết mất xác trong chốc lát,
thì còn thú vui gì hơn là đêm về được hú hí với đàn bà.

Ấy thế, đã có đàn ông thì tất phải có đàn bà. Càng lao lực đàn ông càng cần đến đàn bà để giải
khuây, giải buồn, giải đen. Quy tắc vậy mà vẫn có phàm lệ. Tiếc thay, phàm lệ lại rơi vào thị Nhi. Ấy là
bởi thị xấu quá.

Đàn bà nếu không có dáng người vượng phu ích tử nhân hình diện mạo đôn hậu, đầy đặn thì cũng
nên có dáng chủ về làm ăn sinh kế tần tảo. Tối kị là có dáng cô thần.

Dáng cô thần thuộc dạng tiện tướng, ác cái, lại chính là dáng của thị Nhi. Mắt trắng dã. Mũi huếch.
Mồm vẩu. Mày dựng đứng. Mặt đầy tàn nhang. Lưỡng quyền cao. Giọng á thanh khèn rè. Đã thế lại
chân thấp chân cao. Diện mạo, thân hình tiên thiên bất túc thật chẳng được nét nào đáng gọi là đàn
bà.

Thị Nhi quê ở Thái Bình, bị chồng bỏ năm mười chín tuổi. Thị lên đất này thoạt đầu giúp việc cho ông
Pào người xã làm thuốc bắc ở Pao Mao Phìn. Lửa gần rơm, ít lâu sau, ông Pào và thị ăn ở với nhau
như vợ chồng. Nhà ông Pào ở cách bãi vàng Nà Rì chưa đầy cây số.

Bãi vàng Nà Rì, nơi cơ may chẳng chọn người! Chứng cớ là tuần trước, lão Luông tự xưng đại úy
đặc công phục viên rách như tổ đỉa lên đây thoạt đầu chỉ là anh làm thuê cho bưởng, một đêm nằm
mộng thấy mình đội mũ bình thiên, mặc áo thêu rồng phượng, ngồi trên xe tam mã, cửa rủ rèm tua
vàng; sáng sau vào lò, đào được cục đá nặng trịch to bằng cái mũ cối, ôm về, lái vàng xô đến, chẳng
hiểu trong có những gì mà bán được một tỉ hai, phút chốc đổi đời lên ngôi bưởng trưởng, chủ sở hữu
cả chục lò vàng.

Thị Nhi lên đây cơm nước phục vụ bưởng Luông. Thằng nhóc Giẳng quê cũng Thái Bình, sống cầu
bơ cầu bất, theo người làng lên đây, cũng làm thuê cho bưởng Luông. Cả hai chưa bao giờ nằm ngủ
mộng mị thấy mình là hoàng hậu công chúa, quan lớn quan bé gì. Ngày ngày chỉ mong đủ ba bữa
cơm no, mùa nào có quần áo nấy và sống vui vẻ trong tình người thương mến lẫn nhau.

Thành ra, cuối cùng theo quy tắc vạn vật kết đôi, hai cái đồ dư thừa là thị Nhi và nhóc Giẳng đã gặp
nhau. Tất nhiên, vạn sự khởi đầu đâu có dễ:

- Này, đừng có léng phéng. Ai đã cho phép mà sờ vào hiện vật đấy.

Buổi chiều, bãi vàng vắng ngắt, thị Nhi đang rửa bát trong lán thì thằng nhóc Giẳng xấn tới ôm eo. Thị
rẫy ra, trợn mắt xưng xỉa.

Thằng nhóc Giẳng nhe răng:

- Cao giá thế!

Thị Nhi vênh mặt:

- Muốn gẫy tay thì sờ vào.

Thằng nhóc hít hít, kêu: "Hứ, chưa rang đã thơm". Rồi hùng hổ vỗ ngực:

- Đây đã định là đây không có sợ nhá!

Nói đoạn trơ trẽn xông tới và nhoáng cái nó đã ôm được Thị, lại ép được Thị vào vách lán, làm rung
cả căn lán lợp lá gồi.

Không ngờ bập vào nhau rồi mới thấy khăng khít, keo sơn quá. Mới thấy rằng, cứ như có duyên nợ
với nhau từ kiếp trước. Mới thấy rằng, từ đây chẳng thể xa rời được.

Đêm đầu, trong gian bếp tăm tối, thằng Nhóc mãn nguyện quá. Xong cuộc, nó cười. Hỏi, nó bảo: "Các
cụ nói không sai, đã chơi gái phải chơi loại đã có qua một hai đời chồng rồi mới đã". Thị quát: "Nói
nhảm!".
Thằng Nhóc lật thị lên, bóp nặn ngực thị, kêu: "Vú đằng ấy bự như hai quả dừa chứ kém gì, sao
không mặc xu chiêng đệm mút vào để trông nó bắt mắt". Thị quẫy: "Này, thế đã biết bao nhiêu cái
bướm rồi. Ho hen gì, ông tướng chỉ được cái giả vờ". Thằng nhóc lại dằn thị xuống, áp hai tay vào cổ
thị, gằn: "Từ nay, cấm về với lão Pào đấy. Nhớ chưa!".

Bây giờ thì đôi lứa cọc cạch này dính với nhau như nhựa. Thị Nhi như cây cối vào mùa trổ hoa. Xuân
sắc trở lại, biến đổi từng nét thô kệch xấu xí trên gương mặt. Những nốt tàn nhang mờ dần. Mắt rờ rỡ
sáng. Cặp môi hay múm mím như thiếu nữ e thẹn.

Đôi chân tuy vẫn cái dài cái ngắn, nhưng dáng đi xem ra ngay ngắn và dẻo dai hơn trước nhiều. Ấy
thế, cái đôi chân bất thành nhân dạng ấy giờ đây nó mà quặp vào lưng thì nhóc Giẳng như đang trên
mình ngựa, muốn hạ mã cũng đừng hòng.

Tất nhiên, thằng Nhóc cũng là tay chẳng vừa. Mọi khi, mỗi tuần thị Nhi về với lão Pào một đêm. Còn
bây giờ thì quên đi! Vì mới chập tối ông nhóc đã mò tới. Sáng bửng nó còn lục đục ở trong buồng.
Bưởng trưởng Luông đập cửa liếp, toang toang:

- Dậy đi làm đi! Một vừa hai phải thôi. Đàn bà nó không thương mình như cơm gạo đâu, ông nhóc!

Bây giờ thì trước mặt tôi là nữ phạm nhân phạm tội giết chồng có tên là Nhi đang co ro cúm rúm trong
bộ quần áo kẻ sọc đặc thù. Cũng chẳng hiểu vì sao lại là thị, chứ không phải là một nữ tù nhân nào
khác.

Hay là, ban giám thị trại muốn cho tôi biết một trường hợp vợ phạm tội đầu độc chồng. Trước nay,
bao giờ chẳng vậy, vụ án càng ly kỳ càng hấp dẫn cánh nhà văn nhà báo và sau đó là bạn đọc. Tò
mò có lúc nào thôi là thuộc tính của con người?

Viên quản giáo mới ngoài hai mươi, không phải người đằm tính, dẫn thị Nhi đến cho tôi hỏi chuyện,
sau khi giới thiệu thị với tôi đã như bỏ mặc tôi, lừ lừ ngồi xuống chiếc ghế, kề sau một ô cửa sổ trổ ra
một vùng hồ nước.

Lúc này đang là mùa thu. Mặt hồ xanh biếc. Những cây roi ven hồ đã kết từng chùm quả đỏ hồng.
Ngồi đây, thi thoảng lại nghe thấy tiếng roi rơi dè dặt xuống mặt hồ và sau đó tiếng cá quẫy như một
nốt nhạc buông tan biến vào không gian lặng tờ, con người bỗng chốc như bị rủ rê mau mau thoát
khỏi mọi bấn bíu nhộn nhàng để trở lại với miền thanh tĩnh vĩnh hằng.

Thật tình khung cảnh chẳng thích hợp một tẹo nào cho cuộc trò chuyện về một tội ác và để khám phá
cái gì đó ẩn sau nó cả. Nhất là khi nhìn người đàn bà nọ. Khỏi phải nói giờ đây thị Nhi tiều tụy, xấu xí
đến thế nào. Và nhìn thị, tôi cũng chẳng muốn kéo dài câu chuyện làm gì. Để câu chuyện kết thúc
nhanh, tôi liền vào đề ngay:

- Chị Nhi này, tôi được biết chị bị kết án 7 năm tù. Anh Giẳng bị kết án 3 năm tù. Như vậy là anh ấy ra
tù trước chị. Giờ anh ấy ở đâu?

Một ánh nhìn trộm chớp qua mặt tôi. Thị Nhi gằm mặt, tay vân vê vạt áo và đáp lời tôi, nhẹ như một
hơi thở. Một tiếng nói lọt qua vành môi khô nẻ của thị:

-Thưa ông... anh Giẳng anh ấy chết rồi ạ.

- Anh Giẳng chết rồi!

- Vâng. Anh ấy chết rồi. Anh ấy không chết vì sập lò. Anh ấy chết vì suy tim và hen ạ.

Một khoảng lặng đọng lại giữa tôi và người đàn bà. Buồn nản, thật sự tôi chẳng muốn khơi lại câu
chuyện thảm thương này làm gì nữa. Nhưng anh quản giáo hình như thấy thế là chưa thỏa mãn yêu
cầu nhà báo nên đã xoay người e hèm một tiếng.

Và sau cái nhìn như nhắc nhở của anh thì thị Nhi bỗng ngước dậy nhìn tôi, ánh mắt run rẩy và rõ ràng
là vô cùng sợ sệt..

- Thưa ông, hay là con có tội gì nữa nên mới phải lên gặp ông?

Ngạc nhiên, tôi lặng đi mấy giây, rồi nhíu mày, cắn môi:

- Sao chị lại hỏi tôi thế? Tôi chỉ muốn hỏi những chuyện gì đã xảy ra trong đời chị thôi.

- Thưa ông, con quê ở Thái Bình. Ba mươi lăm tuổi, con gửi hai đứa con không cha ở làng, lên bản
Pao Mao Phìn khai hoang. Ở đây, thoạt đầu con giúp việc cho nhà ông Pào làm thuốc bắc. Ông Pào
sáu mươi lăm tuổi. Nhưng người to khỏe lắm. Ông đã có hai đời vợ. Cả hai, nghe nói, một bị ông bóp
cổ chết vì ngoại tình, một bị ông trói đánh đến què quặt phải trốn đi cũng vì có tình ý với một anh sơn
tràng.

Ông Pào hung hãn lắm. Uống rượu sâm với thuốc kích thích vào là ông hành con suốt cả đêm. Ông
có tật vừa ngủ với con vừa cào cấu, cắn xé, đánh đập con. Có bận ông ngoạm răng nhay nghiến bật
cả máu ở vú con. Con không có tình yêu với ông Pào.

- Không có tình yêu với ông Pào!

Viên quản giáo nghe đến đây, chắc thấy lạ tai, liền đứng vụt dậy, rời ô cửa sổ, bước tới, đay lại câu
nói với cái án cười nhếch miệng như giễu cợt, như nghi ngờ.

Một ngọn gió thu từ ô cửa sổ lọt vào căn phòng, mang theo hơi mát của nước hồ. Người phụ nữ
ngẩng lên. Và khi nhìn thấy những nét chia sẻ cảm thông trên gương mặt tôi thì liền gật đầu, tự tin và
thong thả như đắn đo từng lời.

- Vâng, thưa ông, con không có tình yêu với ông Pào. Con chỉ có tình yêu với anh Giẳng thôi.

Con chỉ có tình yêu với anh Giẳng thôi!

Con chỉ có tình yêu với anh Giẳng thôi!

Thị Nhi xấu xí, tật nguyền, nghèo khổ nhưng không có tình yêu với ông Pào. Thị chỉ có tình yêu với
nhóc Giẳng cọc còi, ho hen, trên răng dưới dép.

Chao ôi! Tình yêu, cứ tưởng cái thứ tình cảm cao siêu ấy chỉ là thứ sở hữu đặc quyền của những
ông hoàng bà chúa, của những công tử tiểu thư, của các bậc đại gia, các đấng thượng lưu trí thức,
của những kẻ có học, chí ít cũng là của những kẻ no cơm ấm áo, gia cảnh đề huề.

Hóa ra là không phải. Hóa ra nó còn là thứ tình cảm của thị Nhi và nhóc Giẳng, những kẻ sống lam lũ,
lầm than, cơm chẳng đủ no, áo chẳng đủ ấm, bị coi là dạng tiện dân, không ai thèm để tâm tới.

Thị Nhi không có tình yêu với ông Pào. Ông Pào uống rượu sâm và thuốc kích thích có thể làm tình
với thị suốt đêm. Nhưng sắc dục dẫu có đắm chìm đê mê cũng khác với tình yêu lắm. Bởi vì, nếu so
ra thì thằng Nhóc Giẳng đâu có phải loại đàn ông hèn kém. Trái lại, hắn cũng là anh háo dục.

Hỏi, vì sao yêu thị, hắn vỗ vào bụng dưới của thị, cười hị hị: "Vì đằng ấy có cái nấm này". Rồi thêm:
"Này, đàn bà giọng khàn rè như đằng ấy là đại dâm đãng đấy! Nhưng không sao. Càng thế mình càng
thích!".

Nhưng mà thằng nhóc Giẳng vẫn khác ông Pào lắm. Cũng là khoái thú nhục thể thôi, nhưng ở thằng
nhóc vẫn có sự khác lắm với ông Pào. Ở thằng nhóc là sự giao tình, là mối yêu đương. Còn ở ông
Pào thì chỉ đơn thuần là làm tình thôi. Thế đấy!

Có lần giao tình nào thằng nhóc không bắt thị khỏa thân. Ôi cái thân xác trẻ chưa qua, già chưa tới
tiên thiên bất túc ỏng eo cóc cách của thị, đâu đã một lần được gã đàn ông nào nhìn ngắm và nâng
niu! Vậy mà thằng nhóc mỗi lần vậy là một lần hắn kêu rằng hắn đang ở trong mơ.

Thôi thì đủ, vừa xuýt xoa khen thị đẹp, vừa xoay vần nghịch ngợm thị, hắn vừa chằm bặp từng hồi,
gọi thị là nàng tiên, thề sẽ yêu thị mãi mãi và nếu cần thì hắn sẽ chết trên bụng thị. Những lúc ấy, thị
run rẩy từng đầu ngón tay ngón chân.

Thị ghì lưng Giẳng, gọi hắn là hòn ngọc hòn vàng của em, tình yêu của em. Y như ngôn ngữ vẫn thấy
trong các pha lâm ly mùi mẫn của các vở cải lương diễm tình trình chiếu trên tivi. Chà, ngôn ngữ nghệ
thuật! Ngôn ngữ gì mà có khả năng lớn lao, kỳ diệu đến thế đấy! Nó lọt vào rồi ẩn nấp trong tàng thức
ta từ lúc nào mà ta không biết. Rồi bất thình lình nó bật ra, nó khơi dậy xúc cảm, nó tạo nên hình ảnh
và khái niệm trong ta.

Và thế là ở bãi vàng này, thị Nhi đã bắt gặp được tình yêu, đã tìm được hòn ngọc, hòn vàng. Đã có
được một tình yêu cao cả hơn lẽ phải, bất chấp cả lôgic, chẳng thèm tính đếm tới tuổi tác.

Thị Nhi như một kẻ khác lạ với chính mình. Giờ đây, trong cái hình hài queo quắt của người đàn bà
này lúc nào cũng râm ran một nỗi khát muốn được dâng hiến, biếu tặng. Thị ân cần chăm sóc Giẳng.
Thị giặt quần áo cho hắn. Dành dụm khoản tiền công ít ỏi, nhịn ăn nhịn mặc thị mua thuốc lá cho hắn
hút, sắm quần áo cho hắn mặc. Sung sướng còn hơn mình được hưởng, thị nấu món khấu nhục học
được khi ở nhà ông Pào cho hắn ăn.

Một ngày không thấy mặt Giẳng, lòng dạ thị bồn chồn như có lửa đốt. Tuần lễ Giẳng về quê chịu tang
mẹ, thị đứng ngồi không yên. Nồi cơm cạn quên rụt lửa. Rửa bát đánh vỡ liền mấy cái. Bưởng trưởng
Luông liếc nhìn cái bụng phinh phính của thị, chép miệng cau mày: "Thế kia rồi mà còn nổi chớp
giông là sao, hả con phò!". Thị cũng bỏ ngoài tai.

Ôi, tình yêu! Tình yêu giữa đàn ông và đàn bà. Tình yêu giữa nhóc Giẳng và thị Nhi! Sao lại có thứ
tình cảm vừa say đắm, vừa thanh tân mà lại trong lành thuần khiết đến thế!

Đắm chìm vào cái địa hạt bí ẩn lạ lẫm này, quả thực thị Nhi như kẻ nhập đồng mê man không tri giác.
Thị chẳng nhớ gì nữa. Thị rơi vào trạng thái hoang mê lú lẫn mù mờ. Chứng cớ là thị quên bẵng ông
Pào, kẻ xét về hôn nhân thực tế là chồng thị.

Ông Pào năm lần bảy lượt nhắn lên bãi vàng gọi thị về, thị cũng lờ tịt. Lờ tịt hay khuây quên cho đến
khi ông Pào xồng xộc lên, tay cầm cuộn dây thừng và cái gậy: "Mẹ mày, có mông có má, có vú có ví
rồi động cỡn, hả!". Ông Pào quát rồi xắn tay áo: "Mày muốn sống hay muốn chết, hở con đĩ già!".

... Ngoài hồ vọng lại tiếng cá quẫy. Viên quản giáo thấy người đàn bà tội phạm và tôi im lặng lâu quá,
liền sốt ruột nhắc:

- Thế nào, chị Nhi, kể tiếp mọi việc đã xảy ra cho nhà báo nghe đi chứ!

Khép nép, mặt ngây ngây như đang trong hoài niệm, người nữ tù nhân ngẩng lên nhìn viên quản
giáo, rồi cúi xuống khẽ khàng:

- Dạ thưa ông, ông bảo con nói gì ạ.

- Anh nhà báo đây muốn hỏi xem chị đã mưu mô giết hại ông Pào chồng chị như thế nào? Chị kể lại
đi!

Viên quản giáo nói. Quay mặt đi, hai gò má cao của người đàn bà nháng ánh nước. Chị đưa mu tay
lên xoa xoa.

- Dạ thưa ông, lúc này con chẳng nhớ gì nữa ạ. Vâng, con quên hết cả rồi, con chẳng nhớ gì nữa ạ!

Cau mặt, viên quản giáo đứng phắt ngay dậy, bước sầm sập lại, khom lưng cúi xuống, đập mu bàn
tay này vào lòng bàn tay kia, dằn từng tiếng thật gay gắt:

- Chị quên rồi, hả! Thế thì để tôi nhắc lại cho chị nhớ nhé!

- Dạ…

- Thế này. Từ bãi vàng về với ông Pào được hai hôm thì thằng Giẳng mò đến nhà chị. Lúc ấy ông
Pào đi hút thuốc phiện ở nhà bà góa A Lìu. Chị và Giẳng bàn bạc cùng nhau những gì. Lát sau ông
Pào về. Chị dọn cơm lên cho ông ấy ăn. Có món trứng vịt rán. Ngon miệng, ông Pào ăn hết cả đĩa.
Có biết đâu đó là trứng chị đã trộn với gan cóc, trứng cóc và nước lá ngón. Ăn xong, ông Pào ôm
bụng quằn quại kêu đau. Thế là chị kinh hoàng kêu gọi hàng xóm sang đưa ông đi bệnh viện. Có phải
thế không?

- Dạ.

Người đàn bà tội phạm giật thót mình, bật tiếng.

- Chị có thấy đó là một tội ác không? May mà ông Pào được đưa vào bệnh viện cấp cứu kịp thời. Hứ!
Thật là đàn bà dễ có mấy tay! Còn bây giờ chị trả lời cho nhà báo biết đi, tại sao chị có gan giết ông
Pào?

- Dạ.

- Chị nói đi! Có gan ăn cắp thì có gan chịu đòn. Huống hồ…

Quanh tôi lúc này là một khoảng lặng không đáy. Nói gì nữa lúc này, khi lát sau người đàn bà tiều tụy,
gầy mòn xác xơ, một thân hình khô héo, sau những chấn động thê thảm ở đời, lã chã nước mắt, thở
không ra hơi, lập bập:

- Dạ… thưa hai ông. Con sợ ông Pào giết con! Với lại, thật tình là con đã yêu anh Giẳng. Con yêu
anh Giẳng! Con yêu anh Giẳng thật lòng! Con yêu điên rồ, con yêu mê dại, con mù quáng. Vâng, con
mù lòa, con mong các ông đèn giời soi xét! Ôi, anh Giẳng ơi… sao anh lại bỏ tôi bơ vơ một mình…
thế này…

(Trại sáng tác văn học "Vì An ninh Tổ quốc và bình yên cuộc sống",
Đồ Sơn - Hà Nội, 23/9/2007)

33.Chiếc vòng bạc

Cầm chiếc vòng bạc trên tay, Vụ đứng ngây ra trong giây lát, hết ngắm chiếc vòng bạc, lại ngước mắt
lên ngắm Dinh. Vụ nhận ra người con gái đứng trước mặt mình vừa xinh đẹp lại có tấm lòng nhân
hậu.

Vụ nhớ rõ tối mùng hai tháng chín năm ngoái, chi đoàn thanh niên tổ chức đêm văn nghệ "cây nhà lá
vườn". Hôm đó Vụ đến chơi nhà Lỷ "cò" không gặp, Vụ ra chỗ diễn văn nghệ tìm nhưng không thấy,
tiện thể đứng xem luôn. Buổi diễn có các tiết mục dân ca Mường như hát ví, hát đối, hát rằng thường,
bộ mẹng... Vụ chẳng hiểu gì cả.

Chỉ có điệu múa sạp là hát "sòn đô" bằng tiếng phổ thông, trong điệu múa ấy từng đôi trai gái lần lượt
ra sân khấu dập dìu theo nhịp bài hát, đến cặp ra sau cùng có lẽ là nhỏ nhất, chừng độ 16, 17 tuổi,
mọi người ồ lên: "Con cái nhà ai thế?".

Tiếng trầm trồ làm Vụ chú ý đến cô gái đi sau ấy. "Ai như Dinh thế nhỉ? Trông giống quá". Vụ chớp
mắt rồi khẽ lắc đầu: "Không phải, nhưng nhìn từ dáng người đến mái tóc, chẳng lẽ lại là Dinh?". Dưới
ánh sáng thủy điện mi ni được giăng từ ngoài suối, đủ để nhìn rõ từng khuôn mặt các "diễn viên" vừa
đi nương về hồi chiều, son phấn trông cô nào cũng đẹp.

Theo điệu nhảy sạp, các bắp chân trắng ngần, lấp ló dưới lớp váy màu đen. Những dải lụa hồng vắt
qua vai được các cô gái phất lên, trông xa như các nàng tiên trong truyện cổ tích.

Vụ ngồi trên yên xe đạp, một chân chống xuống đất, mải mê xem đến nỗi điếu thuốc lá cháy sát ngón
tay, nóng quá giật mình ném vội. Vụ miên man nghĩ tới Dinh. Hồi nhỏ mẹ Dinh mất sớm, đấy là Dinh
kể vậy.

Bố lấy dì ghẻ, rồi có em bé, Dinh bị hắt hủi không chịu nổi, bỏ nhà đi lang thang trên phố huyện. Bố
mẹ Vụ mở cửa hàng ăn, thấy con bé còm nhom, đói rách, thương tình nhận vào rửa bát. Dinh rất chịu
khó lại hiền lành, nên thi thoảng ông Vĩnh bố Vụ lại cho nó ít tiền, vừa là công, vừa là thưởng.

Bà Hải mẹ Vụ thì không thích điều đó, bà thường xét nét, mắng mỏ vô cớ. Những lần bị mắng, Dinh
chỉ biết ra gốc soài đầu nhà ngồi khóc. Vụ hơn Dinh một tuổi, vừa ra dáng đàn anh, vừa có vẻ cậu
chủ, cũng bắt chước mẹ quát nạt Dinh như cơm bữa.

Càng lớn Dinh càng mất dần nét đen đủi, lọ lem, chỉ có vóc người vẫn còi cọc vì lao động vất vả. Dần
dần, Vụ thay đổi không bắt nạt Dinh như trước nữa mà thường nô đùa với Dinh những lúc không học
bài.

Bà Hải không muốn đôi trẻ chơi với nhau, mỗi khi trông thấy bà lại sai bảo Dinh làm đủ các việc. Một
lần hai đứa đuổi nhau quanh gốc soài, đột nhiên Vụ chạy ngược trở lại, hai cái trán va vào nhau nảy
đom đóm mắt.

Vụ đẩy Dinh ra, tay của Vụ vô tình chạm vào ngực Dinh, rụt vội. Dinh đỏ mặt, nước mắt chảy ra, nó
quay mặt đi. Vụ đứng như trời trồng, tay sờ lên trán. Trong nhà bà Hải nhìn thấy, bà gọi Dinh vào, sai
ra chợ mua ít hàn the. Tối đó bà bàn với ông:

- Con Dinh đã lớn rồi. Thằng Vụ còn đang đi học. Ông liệu mà thu xếp cho con bé đi đâu thì đi, để nó
ở đây tôi sợ thằng Vụ không chú tâm học hành, và sau này nhỡ hai đứa chúng nó mến nhau thì...
Ông tính nhà ta thế này, mà con bé lại là đứa làm thuê.

Tối hôm đó, ông Vĩnh xuống bếp nói chuyện với Dinh những gì Vụ không biết. Vụ đang học bài trên
nhà, đột nhiên thấy Dinh chạy lên, nước mắt đầm đìa, tay cầm nắm tiền bước vội vào phòng ngủ, Vụ
nghe rõ tiếng khóc thút thít từ trong phòng mà không hiểu chuyện gì đã xảy ra.

Trưa hôm sau, Vụ đi học về, không thấy Dinh đâu nữa, Vụ hỏi mẹ thì được biết "Dinh đã xin phép về
quê gặt lúa giúp bố mẹ ít ngày". Ở tuổi mười bảy, học lớp mười một đủ cho Vụ hiểu câu trả lời của
mẹ, và Vụ đoán chắc có thể sẽ không bao giờ gặp lại Dinh nữa.

Dinh đi rồi, một mình Vụ chẳng thiết đi học nữa, buổi đực, buổi cái, sáng cắp cặp sang nhà bà Phong
ở ngã ba chơi, trưa cắp cặp về quăng lên giá sách, sáng hôm sau vẫn lặp lại như ngày hôm trước và
Vụ không quên nhót dăm bảy nghìn tiền bán hàng để ở ngăn kéo.

Khi cô giáo chủ nhiệm đến nhà lần thứ hai, bà Hải mới vỡ lẽ con mình đã nhập hội với bọn nghiện
hút. Chúng thường rủ nhau đến bãi cỏ ngay chân cột điện 500 kv, ở đấy có nhiều cây mua lúp súp, ít
người qua lại.

Ông Vĩnh bỏ cả buổi đi rình mới bắt được Vụ hút thuốc phiện. Ông lôi về đánh cho một trận rồi đuổi
đi. Bị đánh đau, Vụ đi thật. Vụ chỉ lẻn về ban đêm đòi mẹ tiền rồi lại biến mất.

Khi Vụ nhập cuộc, cả bọn có bốn đứa, rồi tăng lên mười một đứa, phải chia thành ba nhóm để hút
riêng. Có hôm kiếm được quá ít thuốc phiện, thằng Khiển "mặt ngựa" có sáng kiến trộn lẫn thuốc cảm
cho đủ mỗi thằng một liều.

Hút xong bọn chúng tỏa đi, không hiểu sao Vụ chỉ thích nằm lại một mình, mắt Vụ đục lờ đờ nhìn lên
trời xanh. Cảm giác đê mê tan dần, Vụ nhớ đến Dinh: Con bé nhà quê ấy thế mà hay đáo để, sao mẹ
mình lại đuổi nó đi nhỉ?". Cái cảm giác tròn tròn, mềm mềm hôm đuổi nhau ở gốc soài Vụ vẫn chưa
quên.

Đêm văn nghệ kết thúc, mọi người đứng dậy ra về. Bỗng Vụ nghe có tiếng gọi:

- Anh Vụ! Anh Vụ ơi!

Trên sân khấu một cô gái mặc chiếc áo màu hồng ngắn đến thắt lưng chạy xuống, Vụ nghe rõ tiếng
rật rật phát ra từ đôi chân khua chiếc váy chùng sát gót. Đúng là Dinh rồi. Một thoáng bối rối, chợt Vụ
nhảy lên xe đạp một mạch khuất vào bóng tối, bỏ lại Dinh đứng ngây ra giữa thảm cỏ.

Quái lạ, hay là Dinh nhìn nhầm, thiên hạ thiếu gì người giống nhau? Quay trở lên cùng các bạn thu
dọn sân khấu xong, Dinh bước vội về nhà. Đến đoạn đường vắng chợt có tiếng động phía sau, Dinh
giật mình ngoảnh lại. Dưới ánh trăng là một người đi xe đạp, Dinh né sang vệ đường mòn có ý
nhường cho đi trước. Nhưng người đó không đi tiếp mà xuống xe cất tiếng:

- Chào Dinh!

- Ôi anh Vụ! Đúng anh Vụ rồi. Sao nãy anh lại bỏ đi, làm em cứ tưởng nhìn nhầm ai?

- Nhầm sao được. Tôi sợ trai bản thấy người lạ đuổi đánh thì chết.

- Đấy là ngày xưa. Bây giờ thanh niên bản chỉ đuổi kẻ trộm thôi. Còn anh, đi đâu tận đây?

- Tôi đi tìm Dinh - Vụ nói dối - Sao hồi ấy Dinh bỏ đi không cho tôi địa chỉ?

- Tìm em về tiếp tục rửa bát à?

- Không!

- Bố mẹ anh khỏe không?

- Khỏe!

- Sao anh biết em ở đây?

- Tôi đến chơi nhà thằng Lỷ, nó đi vắng, ra chỗ diễn văn nghệ tìm nhưng không có. Thấy trên sân
khấu có người giống Dinh, hóa ra là Dinh thật, đã hát hay lại múa đẹp nữa.

- Lỷ nào?

- Thằng Lỷ "cò" con ông Điền ấy.

- Thằng Lỷ "cò"? - Dinh trố mắt ngạc nhiên - Sao anh biết nó?

- Qua thằng Phiên.

- Cả thằng Phiên nữa. Thôi chết! Anh quan hệ với chúng nó làm gì? Chúng nó nghiện thuốc phiện
đấy. Đêm nào cũng rủ nhau đi lấy trộm.
- Tôi mới biết chúng nó được mấy ngày.

- Anh đừng chơi với chúng nó. Tuần trước trong cuộc họp dân bản, Công an xã gọi cả bốn đứa ra
kiểm điểm đấy. Hôm ấy có cả chú Hoàng, Công an huyện.

À mà anh có biết chú Hoàng không nhỉ? Chú ấy tốt lắm - Cứ thế Dinh nói một mạch về chú Hoàng -
Chú ấy làm công an trên huyện mà ở dưới xã này gần như cả tháng, bao nhiêu việc ở trên xã, lại còn
đi lao động với dân bản, đắp bai Đồng Cò này, vận động mọi người làm cầu khỉ qua suối Kha cho bọn
trẻ đi học , rồi đi tuần đêm với dân quân bọn em nữa chứ.

Trước mặt chú Hoàng bọn Lỷ "cò" sợ lắm nhá, hôm họp kiểm điểm đứa nào đứa nấy mặt tái mét,
không nói được câu nào. Thế mà chúng nó vẫn chứng nào tật nấy - Chợt nhớ ra, Dinh cuống quít -
Thôi em phải về đây kẻo dì em mắng cho. Em chào anh nhé.

Vụ kéo tay Dinh lại:

- Gượm đã. Tôi muốn viết thư cho Dinh thì địa chỉ thế nào?

- Bùi Thị Dinh, bản Suối Kha, xã thì anh biết rồi. Thôi em về đây!

Dinh đi như chạy. Đêm vắng, âm thanh rật rật từ đôi chân ấy nhỏ dần. Vụ đạp xe quay về nhà Lỷ.

LTS: Thượng tá Nguyễn Tiến Lợi, sinh năm 1956 tại xã Liên Sơn, huyện Lương Sơn, Hòa Bình. Hiện
anh là Trưởng Công an huyện Lương Sơn; Hội viên Hội Văn học Nghệ thuật Hòa Bình.

Đến nay, Nguyễn Tiến Lợi đã cho xuất bản 1 tập truyện ngắn (do Sở Văn hóa - Thông tin Hòa Bình
ấn hành đầu năm 2007).

Warkiller ( theo CAND)

Hơn một tháng sau, Dinh nhận được thư của Vụ gửi từ trung tâm cai nghiện. Vụ kể về những sinh
hoạt ở trung tâm, sự chịu đựng ghê gớm khi cơn nghiện ập đến mà không được hút. Mặc dù đã cắt
cơn hai tuần đầu, nhưng trong người vẫn thấy thiếu một cái gì đó. Vừa uống thuốc, vừa châm cứu,
kết hợp tập thể dục, mà vẫn không sao nguôi được cái cảm giác thèm khát vu vơ.

Trong thư Vụ còn viết lúc nào cũng nghĩ đến Dinh, Vụ nhắc lại những kỷ niệm cũ khi hai người còn ở
chung một nhà. Đọc thư Vụ, Dinh suy nghĩ nhiều lắm.

Là Phó bí thư Chi đoàn, được tiếp thu kế hoạch của Xã đoàn giúp đỡ những thanh niên nghiện hút,
Dinh cho là tại họ thích chơi bời, muốn hút thì hút, muốn bỏ thì bỏ, giờ Dinh mới hiểu bỏ thuốc phiện
không dễ như bỏ thuốc lá, thuốc lào.

Hôm sau, từ tờ mờ sáng, Dinh đi bộ ra thị trấn đón xe lên tỉnh, hỏi thăm mãi mới đến trung tâm cai
nghiện. Gặp lại Dinh, Vụ xúc động thật sự, vì từ ngày Vụ lên đây, Dinh là người đầu tiên đến thăm, nói
là em gái lên chơi, nhưng nhìn cả hai đều lúng túng, ngượng ngùng, ai mà tin là em gái thật.

Dinh mang đến cho Vụ một chút quà, cô tự bổ cam mời tất cả cùng ăn, mọi người vừa ăn cam vừa
xuýt xoa khen Vụ có cô "em gái" xinh đẹp. Sau lần đó Dinh lên thăm Vụ được ba lần nữa, lần nào gặp
nhau Dinh cũng chỉ biết động viên cho Vụ mau khỏi bệnh.

Gần tết, Dinh nhận được thư Vụ hẹn ngày lên đón về. Từ mờ sáng Dinh đi bộ ra phố huyện. Lên xe
khách, Dinh phát hiện bà Hải ngồi cách chỗ Dinh hai hàng ghế.

Lúc xuống xe Dinh không dám giáp mặt bà. Không biết bà nghĩ gì khi biết Dinh cùng đi đón Vụ. Thôi
thì cứ để đi đến nơi, nếu có gì không ổn đã có Vụ nói hộ. Hai người đàn bà, một già, một trẻ cùng đi
về phía chân đồi, cách nhau chừng vài chục mét, con đường rải đá cấp phối lạo sạo dưới chân.

Dinh cố giữ khoảng cách như vậy từ ngoài đường nhựa. Hai hàng bạch đàn thẳng tắp reo vun vút bởi
từng cơn gió mùa đông bắc thổi đến. Lạnh quá, Dinh thắt chặt thêm chiếc khăn len quàng cổ.

Chợt bà Hải đứng lại, bà đặt chiếc làn nhựa màu đỏ xuống vệ đường, bẻ một cành lá lót lên phiến đá
ngồi nghỉ cho đỡ mỏi chân. Chẳng lẽ Dinh cũng dừng lại. Không, ai lại làm thế. Dinh mạnh dạn bước
đến trước mặt bà lễ phép chào. Bà Hải đứng dậy mừng rỡ:

- Ôi Dinh đấy à? Lâu ngày quá. Lớn ngần này rồi. Cháu cũng đi đón thằng Vụ à?

- Cháu... cháu... dạ vâng ạ! - Dinh thở phào, không còn thấy rét nữa.

- Hôm nọ bác lên thăm nó, nó bảo tháng trước cháu cũng lên, nó còn nói nhờ có cháu nó mới chóng
khỏi.

- Cháu có giúp được gì cho anh Vụ đâu ạ.

- Bác không biết, chỉ nghe nói vậy.

Thấy bà Hải vồn vã Dinh nóng bừng hết cả mặt, không hiểu bà nói thật lòng hay khách sáo.

Khi Dinh cùng hai mẹ con về đến nhà, ông Vĩnh đã sắp sẵn mâm cơm. Ông rất vui vì con ông đã khỏi
bệnh, niềm vui ấy được nhân lên gấp đôi khi được gặp lại Dinh và biết chắc là hai đứa đã mến nhau.
Bữa cơm tối hôm ấy thật đầm ấm. Nhấp chén rượu ông Vĩnh chậm rãi nói với Dinh những ý nghĩ như
đã chuẩn bị sẵn:

- Thằng Vụ nó đua đòi bạn bè hư hỏng, may có nhà nước cai nghiện cho. Hơn ba năm trời héo hon vì
con cái. Tiền nó lấy đi, bố mẹ cũng chẳng buồn làm ăn gì nữa, đang đủ ăn giờ hoá ra túng thiếu.

Giá ngày trước bác cố giữ cháu ở lại chắc không đến nỗi. Còn cháu tính nết thế nào bác biết, nếu
cháu không chê thằng Vụ thì tết nhất xong bác sẽ cho người vào thưa chuyện với bố mẹ cháu.

- Cháu rất biết ơn hai bác - Dinh xấu hổ chín cả người, nhưng cố bình tĩnh nói tiếp - Việc này không
vội đâu bác ạ, cháu muốn có thời gian, sợ bố mẹ cháu không đồng ý, vì cả bản chưa có ai lấy chồng
người xuôi.

Hai ông bà nhìn nhau gật gật. Vụ thì mặt đỏ bừng bừng giả vờ cắm cúi ăn, thỉnh thoảng lại ngước lên
nhìn trộm Dinh.

Sáng hôm sau Vụ lấy xe đưa Dinh về tận nhà. Khi chia tay Dinh lấy ra một chiếc vòng bạc được gói
cẩn thận bằng chiếc khăn mùi soa có thêu đôi chim câu và hai chữ "Kỷ niệm", Dinh nói:

- Đây là chiếc vòng bạc, tiếng dân tộc gọi là cái "trằm" của mẹ em để lại. Giờ em gửi anh giữ hộ, anh
không được làm mất. Con gái Mường chúng em khi tặng ai cái gì là chỉ nghĩ đến người ấy thôi. Nếu
mai kia anh yêu người khác thì phải trả lại em cái "trằm" này.

Cầm chiếc vòng bạc trên tay, Vụ đứng ngây ra trong giây lát, hết ngắm chiếc vòng bạc, lại ngước mắt
lên ngắm Dinh. Vụ nhận ra người con gái đứng trước mặt mình vừa xinh đẹp lại có tấm lòng nhân
hậu.

Vụ nâng niu kỷ vật thiêng liêng mà Dinh đã dành cho mình, rồi đeo vào cổ tay, từ cái "trằm" ấy như
toát ra một luồng điện chạy khắp cơ thể. Vụ nắm chặt hai bàn tay thon thả của Dinh, nước mắt Vụ lăn
trên gò má, nhạt nhòa
www.thuvien-ebook.com

Warkiller

Ngày 31/07/2009

Tân An, Long An

You might also like