You are on page 1of 24

Tóm tắt Vi Diệu Pháp

A Comprehensive Manual of Abhidhamma - The Abhidhammattha Sangaha of Acariya Anuruddha General editor
Bhikkhu Bodhi
Pali Text originally edited and translated by: Mahathera Narada Việt Dịch: Lê Văn Phúc - hiệu đính và trình bày: Minh
Hạnh

Phần I

Introduction Lời giới thiệu

by U Rewata Dhamma and Bhikkhu Bodhi Của U Rewata Dhamma and Bhikkhu Bodhi

The nucleus of the present book is a medieval Trọng tâm cuả quyển sách là loại sách tóm lược có
compendium of Buddhist philosophy entitled the vào thơì trung cổ về triết lý Phật giáo có tên là Vi
Abhidhammattha Sangaha. This work is ascribed to Diệu Pháp Toát Yếu (Abhidhammattha Sangaha).
Acariya Anuruddha, a Buddhist savant about whom so Tác phẩm này được coi là do Acariya Anuruddha,
little is known that even his country of origin and the một người am hiểu Phật giáo viết, người mà thanh thế
exact century in which he lived remain in question. ít được biết đến ngay cả tại đất nước cuả chính mình
Nevertheless, despite the personal obscurity that và thế kỷ mà ông sống cũng vẫn còn là một nghi vấn.
surrounds the author, his little manual has become one of Tuy nhiên, bất chấp nhân thân còn mơ hồ cuả tác giả,
the most important and influential textbooks of quyển sổ tay nhỏ bé cuả ông đã trở thành quyển sách
Theravada Buddhism. In nine short chapters occupying giáo khoa quan trọng và có tầm ảnh hưởng nhất cuả
about fifty pages in print, the author provides a masterly Phật giáo Therevada. Trong chín chương ngắn chiếm
summary of that abstruse body of Buddhist doctrine khoảng 50 trang in, tác giả cung cấp tóm lược quán
called the Abhidhamma. Such is his skill in capturing the xuyến cả một bộ phận phức tạp cuả học thuyết Phật
essentials of that system, and in arranging them in a giáo . Tài năng cuả ông là tóm lấy được cốt tuỷ cuả
format suitable for easy comprehension, that his work has hế thống ấy, và sắp xếp chúng theo một định dạng dễ
become the standard primer for Abhidhamma studies hiểu cho đến nổi tác phẩm cuả ông đã trở thành quyển
throughout the Theravada Buddhist countries of South sổ tay chuẩn mực cho việc nghiên cưú luận tạng trong
and Southeast Asia. In these countries, particularly in toàn bộ các quốc gia Phật giáo Therevada ở Nam và
Burma where the study of Abhidhamma is pursued most Đông Nam Á. Trong những quốc gian này, đặc biệt là
assiduously, the Abhidhammattha Sangaha is regarded as Miến Điện (Myanmar) nơi mà luận tạng được theo
the indispensable key to unlock this great treasure-store đuổi kiên trì nhất, thì bộ Vi Diệu Pháp Toát Yếu
of Buddhist wisdom. (Abhiddhammattha Sangaha) được coi là chiếc chià
khoá không thể thiếu được trong việc mở kho tàng vĩ
đại này cuả trí tuệ Phật.
The Abhidhamma Vi Diệu Pháp

At the heart of the Abhidhamma philosophy is the Trung tâm cuả triết lý cuả Luận là Abhidhamma
Abhidhamma Pitaka, one of the divisions of the Pali Pitaka,(Tạng Vi Diệu Pháp) một trong các bộ phận
canon recognized by Theravada Buddhism as the thuộc kho tàng kinh điển được Phật giáo Therevada
authoritative recension of the Buddha's teachings. This công nhận là chính truyền cuả Phật Pháp. Kho tàng
canon was compiled at the three great Buddhist councils kinh điển này được soạn thảo bởi ba Hội đồng Phật
held in India in the early centuries following the Buddha's giáo lớn được tổ chúc tại Ấn độ trong những thế kỷ
demise: the first, at Rajagaha, convened three months đầu sau khi Phật viên tịch. Hội đồng đầu tiên tại
after the Buddha's Parinibbana by five hundred senior Rajagaha, được triệu tập 3 tháng sau khi Phật nhập

Page 1 of 24
Niết bàn với 500 Đại đức dưới sự chủ trì của Sơ tổ
monks under the leadership of the Elder Mahakassapa; Mahakassapa (Đại Ca-diếp); Hội đồng thứ hai tại
the second, at Vesali, a hundred years later; and the third, Vesali, cả trăm năm sau; và Hội đồng thứ ba, tại
at Pataliputta, two hundred years later. The canon that Pataliputta, hai trăm năm sau nưã. Kho tàng kinh điển
emerged from these councils, preserved in the Middle xuất hiện từ các hội đồng này, được bảo tồn bằng
Indian language now called Pali, is known as the ngôn ngữ Trung Ấn, ngày nay gọi là tiếng Pali, được
Tipitaka, the three "baskets" or collections of the biết đến là Tam tạng (Tipitaka), hay ba “cái rỗ” hay là
teachings. The first collection, the Vinaya Pitaka, is the ba bộ sưu tập lời giáo huấn cuả Phật. Bộ sưu tập thứ
book of discipline, containing the rules of conduct for the nhất, bộ Vinaya Pitaka, là bộ sách nói về Luật, chưá
bhikkhus and bhikkhunis — the monks and nuns — and đựng các qui định ứng xử cuả tỳ kheo và tỳ kheo ni
the regulations governing the Sangha, the monastic order. (nam và nữ tu sĩ) và các qui định điều chỉnh tăng già
The Sutta Pitaka, the second collection, brings together (tập thể tăng chúng), nề nếp tu viện. Bộ sưu tập thứ
the Buddha's discourses spoken by him on various hai là bộ Sutta Pitaka (Kinh tạng), tập hợp các bài
occasions during his active ministry of forty-five years. giảng do chính Đức Phật nói ra trong nhiều dịp khác
And the third collection is the Abhidhamma Pitaka, the nhau trong suốt thời gian hành đạo năng động cuả
"basket" of the Buddha's "higher" or "special" doctrine. ngài trong 45 năm. Và bộ sưu tập thứ ba là
Abhidhamma Pitaka (Tạng Vi Diệu Pháp), là “rổ”
chưá đựng học thuyết “cao hơn” hay “chuyên biệt”
cuả Đức Phật.
This third great division of the Pali canon bears a Tạng thứ ba vĩ đại này trong kho tàng kinh điển Pali
distinctly different character from the other two divisions. có tính đặc thù biện biệt khác hai tạng kia. Trong khi
Whereas the Suttas and Vinaya serve an obvious practical Kinh và Luật phục vụ mục đích cụ thể, rõ ràng, tức
purpose, namely, to proclaim a clear-cut message of là, tuyên bố rõ ràng thông điệp giải thoát và đề ra
deliverance and to lay down a method of personal phương pháp tu luyện cá nhân, thì Tạng Vi Diệu Pháp
training, the Abhidhamma Pitaka presents the appearance trình bày diện mạo hệ thống hoá mang tính kỹ thuật
of an abstract and highly technical systemization of the cao và trưù tượng cuả học thuyết. Bộ sưu tập bao
doctrine. The collection consists of seven books: the gồm bảy quyển: Bộ Pháp Tụ (Dhammasangani), Bộ
Dhammasangani, the Vibhanga, the Dhatukatha, the Phân Tích (Phân Biệt - Vibhanga), Bộ Chất Ngữ
Puggalapaññatti, the Kathavatthu, the Yamaka, and the (Giới Thuyết - Dhatukatha), Bộ Nhân Chế Định
Patthana. Unlike the Suttas, these are not records of (Nhân Thi Thuyết - Puggalapannati), Bộ Ngữ Tông
discourses and discussions occurring in real-life settings; (Kathavattu), Bộ Song Đối (Song Luận - Yamaka) và
they are, rather, full-blown treatises in which the Bộ Vị Trí (Phát Thú - Patthana). Không như Kinh
principles of the doctrine have been methodically Tạng, đây không phải là những ghi chép những bài
organized, minutely defined, and meticulously tabulated giảng, đàm luận xảy ra trong bối cảnh đời sống thực ;
and classified. Though they were no doubt originally hơn thế, chúng là những luận đề toàn diện trong đó
composed and transmitted orally and only written down những nguyên lý cuả học thuyết được tổ chức có
later, with the rest of the canon in the first century B.C., phương pháp, xác định chi li , lập thành bảng và phân
they exhibit the qualities of structured thought and loại tỉ mỉ . Dù rằng, không nghi ngờ gì nưã, thoạt đầu
rigorous consistency more typical of written documents. chúng được soạn thảo, truyền miệng và chỉ được ghi
chép lại sau này, so với phần còn lại cuả kho tàng
kinh điển trong thế kỷ thứ nhất sau C.N., chúng hiển
lộ những phẩm chất cuả các tư tưởng được cấu trúc
và sự nhất quán chặt chẽ đặc trưng hơn cho loại tài
dạng viết.
In the Theravada tradition the Abhidhamma Pitaka is Theo truyền thuyết Therevada , tạng luận được gìn
held in the highest esteem, revered as the crown jewel of giữ với sự kính trọng cao nhất, được kính trọng như
the Buddhist scriptures. As examples of this high regard, là châu báu vương miện cuả kinh điển Phật giáo.
in Sri Lanka King Kassapa V (tenth century A.C.) had the Điển hình cho cao trọng này, ở Sri Lanka nhà vua
whole Abhidhamma Pitaka inscribed on gold plates and Kassapa V (thế kỷ thứ 10 sau CN) đã cho khắc toàn
the first book set in gems, while another king, Vijayabahu bộ Luận Tạng trên các điã vàng và cho nạm ngọc
(eleventh century) used to study the Dhammasangani quyển đầu tiên, trong khi một vị vua khác , vua

Page 2 of 24
each morning before taking up his royal duties and Vijayabahu (thế kỷ 11) thường nghiên cứu Bộ Pháp
composed a translation of it into Sinhala. On a cursory Tụ - Dhammasagani vào mỗi sáng trước khi ngự triều
reading, however, this veneration given to the và soạn một bản dịch quyển ấy sang tiếng Sinhala.
Abhidhamma seems difficult to understand. The texts Tuy nhiên khi đọc lướt qua, ta cảm thấy khó hiểu về
appear to be merely a scholastic exercise in manipulating sự tôn kính đối với Luân. Bản văn có vẻ như chỉ là
sets of doctrinal terms, ponderous and tediously một bài tập mang tính học thuật trong việc sử dụng
repetitive. các thuật ngữ học thuyết trưù tượng, lập đi lập lại
nặng nề, nhàm chán.
The reason the Abhidhamma Pitaka is so deeply revered Chỉ khi ta nghiên cứu Tạng Vi Diệu Pháp một cách
only becomes clear as a result of thorough study and toàn diện và tư duy sâu sắc với lòng tin mạnh mẽ
profound reflection, undertaken in the conviction that rằng những quyển sách cổ này ắt hẳn có những điều
these ancient books have something significant to thật ý nghiã cần truyền đạt, thì lý do cuả việc tôn kính
communicate. When one approaches the Abhidhamma Tạng Vi Diệu Pháp mới hiển lộ. Khi ta tiếp cận các
treatises in such a spirit and gains some insight into their bài giảng cuả Tạng Vi Diệu Pháp với tinh thần như
wide implications and organic unity, one will find that vậy và đã đạt được sự thấu hiểu ở chừng mực nào đó
they are attempting nothing less than to articulate a vào những hàm ý rộng lớn và sự thống nhất hữu cơ
comprehensive vision of the totality of experienced cuả chúng, ta mới phát hiện ra rằng chúng không nỗ
reality, a vision marked by extensiveness of range, lực nhằm vào cái gì khác hơn là truyền đạt sự khải
systematic completeness, and analytical precision. From ngộ toàn diện về cái một -toàn -thể về chân lý hiện
the standpoint of Theravada orthodoxy the system that thực được thể nghiệm, một sự khải ngộ mang dấu ấn
they expound is not a figment of speculative thought, not cuả mở rộng giới hạn, cuả sự hoàn chỉnh hệ thống và
a mosaic put together out of metaphysical hypotheses, but sự chính xác trong phân tích. Theo quan điểm chính
a disclosure of the true nature of existence as thống của Phật giáo Therevada, hệ thống mà họ trình
apprehended by a mind that has penetrated the totality of bày không phải là sự sai lầm cuả những tư tưởng
things both in depth and in the finest detail. Because it mang tính lý thuyết, không phải là sự pha tạp cuả
bears this character, the Theravada tradition regards the những giả thuyết siêu hình mà là sự phát lộ chân bản
Abhidhamma as the most perfect expression possible of chất cuả hiện hữu như được tâm thấu hiểu, cái tâm đã
the Buddha's unimpeded omniscient knowledge thâm nhập vào cái một-toàn-thể cuả sự vật cả về
(sabbaññuta-ñana). It is his statement of the way things chiều sâu lẫn về chi tiết tế vi nhất. Bởi vì tính chất
appear to the mind of a Fully Enlightened One, ordered in này mà truyền thuyết Phật giáoTherevada xem Tạng
accordance with the two poles of his teaching: suffering Vi Diệu Pháp là sự thể hiện hoàn thiện nhất có thể có
and the cessation of suffering. được cuả kiến thức Đức Phật bao trùm không gì cản
ngại (trí huệ) (sabbannuta-nana). Đó là khẳng định
cuả ngài về cách mà sự vật xuất hiện đối với tâm cuả
Đấng Giác Ngộ Viên mãn, được an định theo hai cực
cuả giáo lý cuả ngài: khổ và chấm dứt (thoát) khổ.
The system that the Abhidhamma Pitaka articulates is Hệ thống mà Tạng Vi Diệu Pháp trình bày đồng thời
simultaneously a philosophy, a psychology, and an ethics, là triết học, tâm lý học, và đạo đức học, tất cả hội
all integrated into the framework of a program for nhập trong khuôn khổ cuả một chương trình giải
liberation. The Abhidhamma may be described as a thoát. Tạng Vi Diệu Pháp có thể được mô tả như là
philosophy because it proposes an ontology, a perspective triết học bởi vì nó đề xuất một bản thể luận, một dự
on the nature of the real. This perspective has been phóng về bản chất cuả hiện thực.Dự phóng này được
designated the "dhamma theory" (dhammavada). Briefly, gọi là pháp luận (học thuyết về pháp). Một cách ngắn
the dhamma theory maintains that ultimate reality gọn, pháp luận cho rằng hiện thực tối thượng bao
consists of a multiplicity of elementary constituents gồm hằng hà sa số các yếu tố thành phần gọi là chư
called dhammas. The dhammas are not noumena hidden pháp. Chư pháp không phải là cái ẩn dấu sau hiện
behind phenomena, not "things in themselves" as tượng , không phải vật tư thân như là đối lập với chỉ
opposed to "mere appearances," but the fundamental là diện mạo, nhưng là những yếu tố thành phần nền
components of actuality. The dhammas fall into two tảng cuả hiện thực. Chư pháp chia làm hai lớp rộng:
broad classes: the unconditioned dhamma, which is solely pháp không bị qui định, tức là Niết bàn độc hưũ, và
Nibbana, and the conditioned dhammas, which are the pháp bị qui định, là những hiện tượng vật chất tinh

Page 3 of 24
momentary mental and material phenomena that thần phù du tạo nên quá trình cuả kinh nghiệm. Thế
constitute the process of experience. The familiar world giới quen thuộc cuả những vật cụ thể và những con
of substantial objects and enduring persons is, according người tồn tại khổ đau , theo pháp luận, một dạng khái
to the dhamma theory, a conceptual construct fashioned niệm do tâm khuôn đúc từ những nguyên dữ liệu do
by the mind out of the raw data provided by the chư pháp đem lại. Thực thể cuả khung tham chiếu
dhammas. The entities of our everyday frame of hàng ngày cuả chúng ta chỉ là hiện thức đối cảm quan
reference possess merely a consensual reality derivative có nguồn gốc từ các tầng cơ sở cuả chư pháp. Duy chỉ
upon the foundational stratum of the dhammas. It is the có chư pháp mới sở đắc được chân lý hiện thực tối
dhammas alone that possess ultimate reality: determinate hậu: hiện hưũ hạn từ phiá tự thân cuả chúng
existence "from their own side" (sarupato) independent (sarupato) độc lập với quá trình khái niệm hoá các dữ
of the mind's conceptual processing of the data. liệu cuả tâm.
Such a conception of the nature of the real seems to be Một khái niệm như thế về bản chất cuả hiện thưc
already implicit in the Sutta Pitaka, particularly in the dường như đã ẩn tàng trong Kinh Tạng đặc biệt là
Buddha's disquisitions on the aggregates, sense bases, trong các bài giảng cuả Đức Phật về các thức, uẩn,
elements, dependent arising, etc., but it remains there đại (ví dụ tứ đại), nhân duyên, v.v., nhưng nó vẫn còn
tacitly in the background as the underpinning to the more ẩn tàng phiá sau như là cơ sở cho những giáo lý được
pragmatically formulated teachings of the Suttas. Even in khuôn đúc một cách thực tiễn hơn trong Kinh điển.
the Abhidhamma Pitaka itself the dhamma theory is not Ngay trong chính Luận Tạng , pháp luận vẫn chưa
yet expressed as an explicit philosophical tenet; this được trình bày như là nguyên lý triết học rõ ràng ;
comes only later, in the Commentaries. Nevertheless, điều này chỉ xuất hiện về sau, trong các bản Chú Giải
though as yet implicit, the theory still comes into focus in (Commentaries). Tuy nhiên, dù là tìm ẩn, pháp luận
its role as the regulating principle behind the vẫn được tập trung quan tâm trong vai trò là nguyên
Abhidhamma's more evident task, the project of tắc điều hành phiá sau nhiệm vụ hiển nhiên hơn cuả
systemization. Tạng Vi Diệu Pháp, dự phóng cuả việc hệ thống hoá.
This project starts from the premise that to attain the Đề án này khởi sự từ tiền đề rằng để đạt được trí huệ
wisdom that knows things "as they really are," a sharp hiểu được sự vật “như chúng thực sự là”, một cái nêm
wedge must be driven between those types of entities that thật sắc phải được đóng vào giưã những loại thực thể
possess ontological ultimacy, that is, the dhammas, and sở đắc tối thượng bản thể học, nghiã là, chư pháp, và
those types of entities that exist only as conceptual những thực thể chỉ tồn tại như là những dạng thức
constructs but are mistakenly grasped as ultimately real. khái niệm nhưng bị nhận thức sai lầm là thực thể tối
Proceeding from this distinction, the Abhidhamma posits thượng. Tiến hành từ điểm biện biệt này, Tạng Vi
a fixed number of dhammas as the building blocks of Diệu Pháp chấp nhận một tiền đề về con số cố định
actuality, most of which are drawn from the Suttas. It cuả chư pháp như là cơ sở cuả hiện thực , mà hầu hết
then sets out to define all the doctrinal terms used in the đều được rút ra từ Kinh điển. Rồi nó bắt đầu định
Suttas in ways that reveal their identity with the nghiã tất cả những thuật ngữ kinh điển dùng trong
ontological ultimates recognized by the system. On the Tạng Kinh theo cách cho thấy sự đồng nhất cuả
basis of these definitions, it exhaustively classifies the chúng với những thực thể tối thượng bản thể học
dhammas into a net of pre-determined categories and được hệ thống công nhận. Trên cơ sở cuả những định
modes of relatedness which highlight their place within nghiã này nó xếp loại toàn diện chư pháp vào mạng
the system's structure. And since the system is held to be cuả những phạm trù tiên định và các phương thức
a true reflection of actuality, this means that the quan hệ làm nổi bật vị trí cuả chúng trong cấu trúc
classification pinpoints the place of each dhamma within cuả hệ thống. Và bởi vì hệ thống được cho là phản
the overall structure of actuality. ảnh chân thực cuả hiện thực, điều này có nghiã là
việc phân loại xác định vị trí cuả mỗi pháp trong toàn
bộ cấu trúc cuả hiện thực .
The Abhidhamma's attempt to comprehend the nature of Nổ lực cuả Tạng Vi Diệu Pháp nhằm thấu hiểu bản
reality, contrary to that of classical science in the West, chất cuả hiện thực, trái với nỗ lực cuả khoa học
does not proceed from the standpoint of a neutral truyền thuyết phương Tây , không tiến hành từ quan
observer looking outwards towards the external world. điểm cuả người quan sát bàng quang nhìn một cách
The primary concern of the Abhidhamma is to understand hướng ngoại về thế giới bên ngoài. Mối quan tâm lớn

Page 4 of 24
the nature of experience, and thus the reality on which it nhất cuả Tạng Vi Diệu Pháp là hiểu bản chất cuả kinh
focuses is conscious reality, the world as given in nghiệm, và do đó bản chất cuả hiện thực mà nó tập
experience, comprising both knowledge and the known in trung vào là hiện thực ý thức , thế giới đươc mang lại
the widest sense. For this reason the philosophical trong kinh nghiệm, bao gồm cả kiến thức và cái-biết
enterprise of the Abhidhamma shades off into a -được với nghiã rộng nhất. Vì lý do này nỗ lực triết
phenomenological psychology. To facilitate the học cuả Tạng Luận thu tóm thành một tâm lý học
understanding of experienced reality, the Abhidhamma hiện tượng logic. Để có thể hiểu hiện thực được thể
embarks upon an elaborate analysis of the mind as it nghiệm, Tạng Luận tiến hành phân tích toàn diện cái
presents itself to introspective meditation. It classifies tâm như là nó tự hiển lộ khi thiền đinh hồi quang. Nó
consciousness into a variety of types, specifies the factors phân chia ý thức thành nhiều chủng loại đa dạng, nêu
and functions of each type, correlates them with their cụ thể những yếu tố và chức năng cuả mỗi loại, gắn
objects and physiological bases, and shows how the kết chúng với các đối tượng cuả chúng và các cơ cở
different types of consciousness link up with each other triết học cuả chúng, và cho thấy các chủng loại khác
and with material phenomena to constitute the ongoing nhau cuả ý thức kết nối với nhau ra sao và với hiện
process of experience. tượng vật chất để tạo thành quá trình kinh nghiệm
tiếp diễn.
This analysis of mind is not motivated by theoretical Việc phân tích tâm như vậy không phải do động cơ
curiosity but by the overriding practical aim of the hiếu kỳ phi thực tiễn mà chính vì mục đích thực tiễn
Buddha's teaching, the attainment of deliverance from xuyên suốt giáo lý Đức Phật, chứng đạt thoát khổ. Vì
suffering. Since the Buddha traces suffering to our tainted Đức Phật truy nguyên khổ từ các thái độ nhiễm trần
attitudes — a mental orientation rooted in greed, hatred, cuả chúng ta - một định hướng tinh thần bắt nguồn từ
and delusion — the Abhidhamma's phenomenological tham, sân, si - Tâm lý học hiện tượng lô-gich cuả
psychology also takes on the character of a psychological Luận cũng mang tính chất cuả đạo đức tâm lý , đạo
ethics, understanding the term "ethics" not in the narrow đức không hiểu theo nghiã hẹp cuả những chuẩn mực
sense of a code of morality but as a complete guide to luân lý mà là toàn bộ sự dẫn đạo đến cuộc sống cao
noble living and mental purification. Accordingly we find thượng và thanh lọc tâm hồn. Theo đó, chúng ta phát
that the Abhidhamma distinguishes states of mind hiện ra rằng Vi Diệu Pháp phân biệt các trạng thái
principally on the basis of ethical criteria: the wholesome cuả tâm dưạ trên các tiêu chuẩn đạo đức: lành mạnh
and the unwholesome, the beautiful factors and the hay không lành mạnh, những yếu tố đẹp và những
defilements. Its schematization of consciousness follows điều hư hỏng (tịnh >< cấu). Nó sơ đồ hoá ý thức theo
a hierarchical plan that corresponds to the successive dạng từ thấp đến cao tuỳ ứng với các bậc thành công
stages of purity to which the Buddhist disciple attains by trong việc thanh lọc mà đệ tử Phật chứng đạt bằng
practice of the Buddha's path. This plan traces the cách tu tập theo con đường cuả Đức Phật. Sơ đồ này
refinement of the mind through the progression of cho thấy sự luyện tâm qua sự tinh tiến thâm nhập
meditative absorptions, the fine-material-sphere and thiền, các cảnh giới thiền vật chất tế vi và tầng thiền
immaterial-sphere jhanas, then through the stages of phi phi tưởng, rồi đến các bậc nội quan và trí huệ cuả
insight and the wisdom of the supramundane paths and các con đường thoát tục và chứng quả. Cuối cùng, nó
fruits. Finally, it shows the whole scale of ethical pha từ lộ toàn bộ qui mô phát triển đạo đức đến điểm
development to culminate in the perfection of purity đỉnh cuả việc thanh lọc viên mãn đạt được với tâm-
attained with the mind's irreversible emancipation from giải - thoát - bất -thoái - chuyển khỏi các phiền trược.
all defilements.
All three dimensions of the Abhidhamma — the Tất cả ba chiều cuả Tạng Luận - triết học, tâm lý học,
philosophical, the psychological, and the ethical — đạo đức học - có nguyên uỷ từ hòn đá tảng cuả giáo
derive their final justification from the cornerstone of the lý cuả Đức Phật, chương trình giải thoát được tuyên
Buddha's teaching, the program of liberation announced bố qua Tứ Thánh Đế. Sự khảo sát bản thể học về chư
by the Four Noble Truths. The ontological survey of pháp bắt nguồn từ huấn lệnh cuả Đức Phật là Khổ Đế,
dhammas stems from the Buddha's injunction that the đồng nhất với các hiện tượng bị qui định (ràng buộc)
noble truth of suffering, identified with the world of như là một toàn thể phải được giác ngộ (parinneyya).
conditioned phenomena as a whole, must be fully Sự nổi bật cuả các phiển trược về tinh thần và sự tất
understood (pariññeyya). The prominence of mental yếu phải giác ngộ trong hệ thống các phạm trù cuả
defilements and requisites of enlightenment in its nó, là chỉ dấu cho mối quan hệ tâm lý học và đạo đức

Page 5 of 24
schemes of categories, indicative of its psychological and học cuả nó, kết nối Luận với đệ nhị và đệ tứ Thánh
ethical concerns, connects the Abhidhamma to the second Đế, nguồn gốc cuả khổ và con đường dẫn đến chấm
and fourth noble truths, the origin of suffering and the dứt khổ. Và toàn bộ việc phân loại phạm trù cuả chư
way leading to its end. And the entire taxonomy of pháp được hệ thống nghiên cứu cách chi tiết đạt mức
dhammas elaborated by the system reaches its hoàn hảo cuả nó trong “nguyên tố không còn bị qui
consummation in the "unconditioned element" định” (asankhata dhatu) tức là Niết bàn, đệ tam
(asankhata dhatu), which is Nibbana, the third noble Thánh Đế, chấm dứt khổ.
truth, that of the cessation of suffering.
The Twofold Method Phương Pháp Xếp Đôi

The great Buddhist commentator, Acariya Buddhaghosa, Nhà Phật luận nỗi tiếng, Acarya Buddhaghosa, giải
explains the word "Abhidhamma" as meaning "that thích từ “Tạng Vi Diệu Pháp” với nghiã là “ vượt lên
which exceeds and is distinguished from the Dhamma" trên Pháp” (dhammatireka - dhammavisesa), tiền tố
(dhammatireka-dhammavisesa), the prefix abhi having abhi có nghiã là siêu việt và nổi bật, và dhamma ở
the sense of preponderance and distinction, and dhamma đây có nghiã là giáo pháp cuả Đức Phật trong Tạng
here signifying the teaching of the Sutta Pitaka.1 When Kinh. Khi Tạng Vi Diệu Pháp được cho là vượt lên
the Abhidhamma is said to surpass the teaching of the giáo lý cuả Tạng kinh, thì điều đó không có ý cho
Suttas, this is not intended to suggest that the Suttanta rằng giáo lý cuả kinh có khiếm khuyết ở chừng mực
teaching is defective in any degree or that the nào đó hoặc là Tạng Luận tuyên bố khải ngộ mới nào
Abhidhamma proclaims some new revelation of esoteric đó về học thuyết áo bí mà Tạng kinh chưa hề biết
doctrine unknown to the Suttas. Both the Suttas and the đến. Cả Tạng Kinh và Tạng Luận đều đặt nền móng
Abhidhamma are grounded upon the Buddha's unique trên học thuyết duy nhất cuả Đức Phật về Tứ Diệu
doctrine of the Four Noble Truths, and all the principles Đế, và tất cả những nguyên tắc cốt yếu cho sự đạt ngộ
essential to the attainment of enlightenment are already đã được Kinh Tạng minh giải. Cái khác giưã Kinh và
expounded in the Sutta Pitaka. The difference between Luận không hề liên quan đến các nguyên lý nền tảng
the two in no way concerns fundamentals but is, rather, mà là, chính ra, một phần ở phạm vi, một phần là vấn
partly a matter of scope and partly a matter of method. đề phương pháp.
As to scope, the Abhidhamma offers a thoroughness and Về phạm vi, Luận đề ra cách xử lý thấu đáo và toàn
completeness of treatment that cannot be found in the diện mà trong Kinh Tạng không thấy có. Acariya
Sutta Pitaka. Acariya Buddhaghosa explains that in the Buddhaghosa giải thích rằng trong Tạng Kinh những
Suttas such doctrinal categories as the five aggregates, phạm trù trừu tượng mang tính học thuyết như ngũ
the twelve sense bases, the eighteen elements, and so uẩn, thập nhị xứ, Thập bát chất và v.v., chỉ được phân
forth, are classified only partly, while in the Abhidhamma loại một phần, trong khi trong Luận Tạng, chúng
Pitaka they are classified fully according to different được phân loại đầy đủ theo các lược đồ phân loại
schemes of classification, some common to the Suttas, khác nhau, một số giống như trong Tạng Kinh, số
others unique to the Abhidhamma.2 Thus the khác chỉ có trong Tạng Luận. Như vậy Tạng Luận có
Abhidhamma has a scope and an intricacy of detail that phạm vi và tế vi làm cho nó khác với Kinh Tạng.
set it apart from the Sutta Pitaka.
The other major area of difference concerns method. The Một lãnh vực quan trọng khác cuả sự khác biệt liên
discourses contained in the Sutta Pitaka were expounded quan đến phương pháp. Các bài giảng trong Kinh
by the Buddha under diverse circumstances to listeners Tạng được Đức Phật thuyết giảng trong nhiều hoàn
with very different capacities for comprehension. They cảnh đa dạng cho các thính giả với nhiều trình độ
are primarily pedagogical in intent, set forth in the way thính pháp khác nhau. Những bài giảng ấy thoạt đầu
that will be most effective in guiding the listener in the có ý làm cho dễ hiểu (mang tính sư phạm), được đưa
practice of the teaching and in arriving at a penetration of ra theo cách làm thế nào cho có hiệu quả nhất trong
its truth. To achieve this end the Buddha freely employs việc hướng dẫn thính giả thực hành giáo lý và thâm
the didactic means required to make the doctrine nhập được chân lý cuả giaó lý. Để đạt được mục đích
intelligible to his listeners. He uses simile and metaphor; này, Đức Phật thoải mái dùng các phương tiện giảng
he exhorts, advises, and inspires; he sizes up the giải dễ hiểu làm cho thính giả lĩnh hội được học
inclinations and aptitudes of his audience and adjusts the thuyết. Ngài dùng các phương pháp tương đồng, ẩn

Page 6 of 24
presentation of the teaching so that it will awaken a dụ; Ngài thôi thúc, kuyên nhủ, động viên; ngài nắm
positive response. For this reason the Suttanta method of bắt được xu hướng, thái độ cuả thính giả và điều
teaching is described as pariyaya-dhammadesana, the chỉnh cách trình bày giáo lý để có thể tạo được sự đáp
figurative or embellished discourse on the Dhamma. ứng tích cực . Do đó mà phương pháp trong Kinh
được mô tả là bài giảng đầy hình ảnh và hoa mỹ về
Pháp (pariyaaaya-dhammadesana).
In contrast to the Suttas, the Abhidhamma Pitaka is Trái ngược với Tạng Kinh, Tạng Luật (Vi Diệu Pháp)
intended to divulge as starkly and directly as possible the nhằm mở toang trưc tiếp và đơn giản hệ thống nhất
totalistic system that underlies the Suttanta expositions thể toàn cục ẩn tàng bên dưới sự hiển lộ cuả Tạng
and upon which the individual discourses draw. The Kinh và gốc xuất phát cuả các bài giảng. Vi Diệu
Abhidhamma takes no account of the personal Pháp không quan tâm đến xu hướng cá nhân và trình
inclinations and cognitive capacities of the listeners; it độ nhận thức cuả thính giả; nó không nhượng bộ bất
makes no concessions to particular pragmatic cứ những yêu cầu thực tiễn đặc thù nào. Nó cho thấy
requirements. It reveals the architectonics of actuality in thiết kế kết cấu cuả hiện thực theo phong cách trừu
an abstract, formalistic manner utterly devoid of literary tượng, chính thống hoàn hoàn không có chỗ cho ngôn
embellishments and pedagogical expedients. Thus the từ hoa mỹ, các biện pháp hỗ trợ dễ hiểu. Do đó
Abhidhamma method is described as the nippariyaya- phương pháp cuả Luận được mô tả là bài giảng chân
dhammadesana, the literal or unembellished discourse on phương, không hoa mỹ về Pháp (nippariyaya-
the Dhamma. dhammadesana).
This difference in technique between the two methods Sư khác nhau về kỹ thuật giưã hai phương pháp cũng
also influences their respective terminologies. In the có ãnh hưởng đến hệ thống thuật ngữ tương ứng.
Suttas the Buddha regularly makes use of conventional Trong Tạng kinh Phật thường dùng ngôn ngữ qui ước
language (voharavacana) and accepts conventional truth (voharavacana) và chấp nhận chân lý qui ước
(sammutisacca), truth expressed in terms of entities that (sammutisacca), chân lý được diễn đạt bằng các từ
do not possess ontological ultimacy but can still be ngữ thực tại không chứa đựng chân lý tối thượng bản
legitimately referred to them. Thus in the Suttas the thể học nhưng vẫn nói được đúng mức về chúng. Do
Buddha speaks of "I" and "you," of "man" and "woman," đó trong Tạng Kinh, Đức Phật nói đến “Tôi”, “anh”,
of living beings, persons, and even self as though they nói đến “nam”, và ”nữ”, nói đến chúng sinh, con
were concrete realities. The Abhidhamma method of người ngay cả bản ngã như là những thực thể cụ thể.
exposition, however, rigorously restricts itself to terms Phương pháp trình bày cuả Tạng Luận, tuy nhiên hạn
that are valid from the standpoint of ultimate truth chế nghiêm ngặt trong vòng các thuật ngữ có giá trị
(paramatthasacca): dhammas, their characteristics, their trên quan điểm cuả chân lý tối thượng
functions, and their relations. Thus in the Abhidhamma (paramatthtasacca): chư pháp, các tính chất cuả
all such conceptual entities provisionally accepted in the chúng, các chức năng cuả chúng, và các mối quan hệ
Suttas for purposes of meaningful communication are cuả chúng. Do đó trong Tạng Luận tất cả những thực
resolved into their ontological ultimates, into bare mental thể mang tính khái niệm tạm thời được chấp nhận
and material phenomena that are impermanent, trong Tạng Kinh như thế nhằm mục đích truyền
conditioned, and dependently arisen, empty of any thông cụ thể được chuyển thành mục tiêu bản thể học
abiding self or substance. tối thượng, thành các hiện tượng vật chất tinh thấn
trần trụi vô thường, triền phược (bị qui định), nhân
duyên sinh (phát sinh tuỳ thuộc), vô ngã, không.
But a qualification is necessary. When a distinction is Nhưng một sự định tính là cấn thiết. Khi có sự phân
drawn between the two methods, this should be biệt giưã hai phuơng pháp, điều này phải được hiểu là
understood to be based on what is most characteristic of được căn cứ trên điều đặc trưng cho mổi Tạng và
each Pitaka and should not be interpreted as an absolute không nên hiểu là sự phân biệt tuyệt đối. Ở chừng
dichotomy. To some degree the two methods overlap and mực nào đó hai phượng pháp thâm nhập lẫn nhau,
interpenetrate. Thus in the Sutta Pitaka we find chồng lấn nhau. Do đó trong Kinh Tạng chúng ta tìm
discourses that employ the strictly philosophical thấy những bài giảng sử dụng những thuật ngữ triết
terminology of aggregates, sense bases, elements, etc., học nghiêm túc như uẩn, xứ, đại, etc., và như thế nằm
and thus come within the bounds of the Abhidhamma trong phạm vi cuả phương pháp cuả Tạng Luận. Lại

Page 7 of 24
method. Again, within the Abhidhamma Pitaka we find nưã trong Luận Tạng ta còn tìm thấy những phần,
sections, even a whole book (the Puggalapaññatti), that ngay cả cả quyển Nhân Chế Định (Puggalapannatti),
depart from the rigorous manner of expression and ly khai khỏi cách diễn đạt trang nghiêm và việc sử
employ conventional terminology, thus coming within dụng các thuật ngữ qui ước, và như vậy rơi vào phảm
the range of the Suttanta method. vi phương pháp cuả Kinh.
Distinctive Features of the Abhidhamma Các đặc điểm riêng cuả Luận

Apart from its strict adherence to the philosophical Ngoài việc gắn chặt với phuơng pháp trình bày triết
method of exposition, the Abhidhamma makes a number học cuả mình, Luận Tạng còn có những đóng góp
of other noteworthy contributions integral to its task of quan trọng đối với nhiệm vụ hệ thống hoá cuả mình.
systemization. One is the employment, in the main books Một trong những đóng góp đó là việc sử dụng, trong
of the Abhidhamma Pitaka, of a matika — a matrix or các sách chính cuả Luận Tạng, một matika - một ma
schedule of categories — as the blueprint for the entire trận hoặc là sơ đồ các phạm trù - như là sơ đồ cho
edifice. This matrix, which comes at the very beginning toàn bộ toàn bộ cấu trúc. Ma trận này , ở đầu quyển
of the Dhammasangani as a preface to the Abhidhamma Pháp Tụ - Dhammasangani như là lời nói đầu thích
Pitaka proper, consists of 122 modes of classification hợp cuả Luận Tạng, gồm 122 cách phân loại đặc thù
special to the Abhidhamma method. Of these, twenty-two cho phương pháp cuả Luận. Trong số đó, có 22 nhóm
are triads (tika), sets of three terms into which the 3 (tika), các bộ từng 3 thuật ngữ mà theo đó các pháp
fundamental dhammas are to be distributed; the nền tảng được phân bố; còn lại là hàng trăm nhóm 2
remaining hundred are dyads (duka), sets of two terms (duka), các bộ gồm 2 thuật ngữ dùng làm cơ sở cho
used as a basis for classification.3 The matrix serves as a việc xếp loại. Ma trận dùng như là một loại mạng để
kind of grid for sorting out the complex manifold of phân loại kinh nghiệm phức tạp đa dạng phù hợp với
experience in accordance with principles determined by những nguyên tắc được quyết định bởi những mục
the purposes of the Dhamma. For example, the triads đích cuả Pháp. Ví dụ những nhóm 3 bao gồm những
include such sets as states that are wholesome, bộ nói về tình trạng như kiện khang, không kiện
unwholesome, indeterminate; states associated with khang và không quyết định; những tình trạng gắn với
pleasant feeling, painful feeling, neutral feeling; states những cảm xúc vui tươi, cảm xúc đau đớn, cảm xúc
that are kamma results, productive of kamma results, trung tính; những tình trạng là kết quả của nghiệp,
neither; and so forth. The dyads include such sets as dẫn xuất từ những kết quả cuả nghiệp, không thuộc
states that are roots, not roots; states concomitant with hai cái trước v.v. Những nhóm hai bao gồm những bộ
roots, not so concomitant; states that are conditioned, như những tình trạng các căn, không phải các căn;
unconditioned; states that are mundane, supramundane; những tình trạng tuỳ thuộc với các căn, không tuỳ
and so forth. By means of its selection of categories, the thuộc như vậy; những tính trạng bị qui định, không bị
matrix embraces the totality of phenomena, illuminating qui định; những tình trạng trần tục, siêu trần; v.v.
it from a variety of angles philosophical, psychological, Bằng cách chọn những phạm trù, ma trận quán xuyến
and ethical in nature. tổng thể các hiện tượng, chiếu sáng chúng từ hàng
loạt các góc khác nhau về triết thọc, tâm lý học và
đạo đức học trong bản chất.
A second distinguishing feature of the Abhidhamma is Điểm riêng thứ hai cuả Luận là phân đoạn dòng ý
the dissection of the apparently continuous stream of thức hiển hiện liên tục thành những chuỗi những sự
consciousness into a succession of discrete evanescent kiện tinh thần ngắn nguỉ gọi là citta (chất đa: tâm ý),
cognitive events called cittas, each a complex unity mỗi đơn nguyên phức thể như vậy tham gia vào chính
involving consciousness itself, as the basic awareness of bản thân ý thức, với tư cách sự ý thức cơ bản cuả một
an object, and a constellation of mental factors (cetasika) đối tượng, và tập hợp các yếu tố tinh thần (cetasika)
exercising more specialized tasks in the act of cognition. thực hiện các nhiệm vụ chuyên biệt hơn trong hành
Such a view of consciousness, at least in outline, can động nhận thức. Quan điểm như vậy về ý thức, ít nhất
readily be derived from the Sutta Pitaka's analysis of là ở bước phát hoạ, có thễ sẵn sàng rút ra từ sự phân
experience into the five aggregates, among which the tách cuả Kinh Tạng về kinh nghiệm thành ngủ uẩn,
four mental aggregates are always inseparably conjoined, trong đó bốn uẩn tinh thần (thọ tưởng, hành thức)
but the conception remains there merely suggestive. In luôn gắn kết không rời, nhưng khái niệm vẩn còn đấy
the Abhidhamma Pitaka the suggestion is not simply chỉ như là gợi mở. Trong Luận Tạng sự gợi mở

Page 8 of 24
picked up, but is expanded into an extraordinarily không chỉ là chỉ ra mà còn là mở rộng thành một bức
detailed and coherent picture of the functioning of tranh cực kỳ chi tiết và chặt chẽ cuả chức năng nhận
consciousness both in its microscopic immediacy and in thức trong cả trong khoảnh khắc tức thì vĩ mô lẫn
its extended continuity from life to life. trong sự miên tục (liên tục triền miên) đời đời.
A third contribution arises from the urge to establish Sự đóng góp thứ ba khởi sinh từ sự thôi thúc thiết lập
order among the welter of technical terms making up the trật tự giưã đám lộn xộn cuả các thuật ngữ làm nên sự
currency of Buddhist discourse. In defining each of the phổ biến cuả các bài giảng Phật giáo. Trong việc xác
dhammas, the Abhidhamma texts collate long lists of định mỗi trong chư pháp, các văn bản cuả Luận tập
synonyms drawn mostly from the Suttas. This method of hợp các danh sách liệt kê dài các từ đồng nghiã hầu
definition shows how a single dhamma may enter under hết rút ra từ Tạng kinh. Phương pháp định nghiã này
different names into different sets of categories. For cho thấy cách mà một pháp riêng lẻ có thể mang
example, among the defilements, the mental factor of những tên khác nhau vào trong các bộ phạm trù khác
greed (lobha) may be found as the taint of sensual desire, nhau. Ví dụ, trong những phiền não, yếu tố tinh thần
the taint of (attachment to) existence, the bodily knot of cuả thân (lobha) có thể tìm thấy như là nhiễm dục
covetousness, clinging to sensual pleasures, the hindrance cảm quan, nhiễm (ham) sống, sự ràng buộc tham lam
of sensual desire, etc.; among the requisites of về thể xác, đeo bám các thú vui cảm quan, sự cản
enlightenment, the mental factor of wisdom (pañña) may ngại cuả ham muốn cảm quan, etc; trong số những
be found as the faculty and power of wisdom, the yêu cầu giác ngộ, yếu tố tinh thần cuả trí tuệ (panna)
enlightenment factor of investigation of states, the path có thể được tìm thấy với tư cách là khã năng và sức
factor of right view, etc. In establishing these mạnh cuả trí tuệ, yếu tố giác ngộ cuả việc truy vấn
correspondences, the Abhidhamma helps to exhibit the các tình trạng, yếu tố dẫn đạo cuả chính kiến,
interconnections between doctrinal terms that might not etc.Trong vệc thiết lập các mối quan hệ này, Luận
be apparent from the Suttas themselves. In the process it giúp hiển bày mối quan hệ hỗ tương giưã các thuật
also provides a precision-made tool for interpreting the ngữ trừu tượng có thể không rõ ràng chính trong chư
Buddha's discourses. Kinh.Trong quá trình nó cũng cung cấp các công cụ
chế tác chính xác để hiểu các bài giảng cuả Đức Phật
A third contribution arises from the urge to establish Sự đóng góp thứ ba khởi sinh từ sự thôi thúc thiết lập
order among the welter of technical terms making up the trật tự giưã đám lộn xộn cuả các thuật ngữ làm nên sự
currency of Buddhist discourse. In defining each of the phổ biến cuả các bài giảng Phật giáo. Trong việc xác
dhammas, the Abhidhamma texts collate long lists of định mỗi trong chư pháp, các văn bản cuả Luận tập
synonyms drawn mostly from the Suttas. This method of hợp các danh sách liệt kê dài các từ đồng nghiã hầu
definition shows how a single dhamma may enter under hết rút ra từ Tạng kinh. Phương pháp định nghiã này
different names into different sets of categories. For cho thấy cách mà một pháp riêng lẻ có thể mang
example, among the defilements, the mental factor of những tên khác nhau vào trong các bộ phạm trù khác
greed (lobha) may be found as the taint of sensual desire, nhau. Ví dụ, trong những phiền não, yếu tố tinh thần
the taint of (attachment to) existence, the bodily knot of cuả thân (lobha) có thể tìm thấy như là nhiễm dục
covetousness, clinging to sensual pleasures, the hindrance cảm quan, nhiễm (ham) sống, sự ràng buộc tham lam
of sensual desire, etc.; among the requisites of về thể xác, đeo bám các thú vui cảm quan, sự cản
enlightenment, the mental factor of wisdom (pañña) may ngại cuả ham muốn cảm quan, etc; trong số những
be found as the faculty and power of wisdom, the yêu cầu giác ngộ, yếu tố tinh thần cuả trí tuệ (panna)
enlightenment factor of investigation of states, the path có thể được tìm thấy với tư cách là khã năng và sức
factor of right view, etc. In establishing these mạnh cuả trí tuệ, yếu tố giác ngộ cuả việc truy vấn
correspondences, the Abhidhamma helps to exhibit the các tình trạng, yếu tố dẫn đạo cuả chính kiến,
interconnections between doctrinal terms that might not etc.Trong vệc thiết lập các mối quan hệ này, Luận
be apparent from the Suttas themselves. In the process it giúp hiển bày mối quan hệ hỗ tương giưã các thuật
also provides a precision-made tool for interpreting the ngữ trừu tượng có thể không rõ ràng chính trong chư
Buddha's discourses. Kinh.Trong quá trình nó cũng cung cấp các công cụ
chế tác chính xác để hiểu các bài giảng cuả Đức Phật
The Abhidhamma conception of consciousness further Nhận thức cuả Luận về ý thức mang lại kết quả xa
results in a new primary scheme for classifying the hơn nưã trong một sơ đồ quan trọng để phân loại các

Page 9 of 24
ultimate constituents of existence, a scheme which yếu tố tối thượng hình thành hiện thực, một sơ đồ
eventually, in the later Abhidhamma literature, takes cuối cùng, trong văn bản cuả Luận về sau chiếm ưu
precedence over the schemes inherited from the Suttas thế hơn các sơ đồ thừa kế từ Tạng Kinh như là uẩn,
such as the aggregates, sense bases, and elements. In the xứ, đại. Trong Luận Tạng, các phạm trù sau vẫn còn
Abhidhamma Pitaka the latter categories still loom large, rõ ràng, nhưng quan điểm về tâm như là bao gồm
but the view of mind as consisting of momentary những dự hội tụ thoáng qua cuả ý thức và các yếu tố
concurrences of consciousness and its concomitants leads tuỳ thuộc dẫn đến phương pháp phân loại gấp bốn
to a fourfold method of classification more congenial to phù hợp hơn với hệ thống. Đó là việc phân chia hiện
the system. This is the division of actuality into the four thực ra thành bốn thực thể tối thượng (paramattha): ý
ultimate realities (paramattha): consciousness, mental thức, các yếu tố tinh thần, các hiện tượng vật chất và
factors, material phenomena, and Nibbana (citta, Niết bàn (citta, cetasika, rupa, nibbana), ba cái trước
cetasika, rupa, nibbana), the first three comprising bao gồm hiện thực bị ràng buộc (bị qui định) và cái
conditioned reality and the last the unconditioned cuối cùng là yếu tố không bị qui định.
element.
The last novel feature of the Abhidhamma method to be Điểm mới cuối cùng cuả phương pháp cuả Luận được
noted here — contributed by the final book of the Pitaka, ghi nhận ở đây - do quyển cuối cùng cuả Tạng đóng
the Patthana — is a set of twenty-four conditional góp,là Bộ Vị Trí (Phát Thú - Patthana ) là một bộ 24
relations laid down for the purpose of showing how the mối quan hệ ràng buộc được đưa ra làm thấy cách các
ultimate realities are welded into orderly processes. This hiện thực tối tượng được kết thành các quá trình trật
scheme of conditions supplies the necessary complement tự. Sơ đồ này cuả các điều kiện cung cấp sự bổ sung
to the analytical approach that dominates the earlier cần thiết cho phương pháp phân tích thống trị các
books of the Abhidhamma. The method of analysis quyển trước cuả Luận. Phương pháp phân tích tiến
proceeds by dissecting apparent wholes into their hành bằng cách phân chia cái toàn thể hiển nhiên
component parts, thereby exposing their voidness of any thành các yếu tố thành phần cuả chúng, theo đó phơi
indivisible core that might qualify as self or substance. bày cái không cuả bất cư cốt lõi bất khả phân nào mà
The synthetic method plots the conditional relations of có thể cho là ngã hay chất. Phương pháp tổng hợp sắp
the bare phenomena obtained by analysis to show that xếp các mối quan hệ có điều kiện cuả các hiện tượng
they are not isolated self-contained units but nodes in a trần trụi do sự phân tích đem lại cho thấy chúng
vast multi-layered web of inter-related, inter-dependent không phải là các đơn vị tự hữu biệt lập mà là những
events. Taken in conjunction, the analytical method of the nút trong một mạng nhiều tầng lớp mênh mông cuả
earlier treatises of the Abhidhamma Pitaka and the các sự kiện tương liên, tuỳ thuộc lẫn nhau. Chẳng
synthetic method of the Patthana establish the essential hạn, phương pháp phân tích những bài giảng trước
unity of the twin philosophical principles of Buddhism, đây cuả Luận Tạng và phương pháp tổng hợp cuả Bộ
non-self or egolessness (anatta) and dependent arising or Vị Trí (Phát Thú - Patthana thiết lập sự thống nhất
conditionality (paticca samuppada). Thus the foundation nền tảng cho những nguyên lý triết học song sinh cuả
of the Abhidhamma methodology remains in perfect Phật giáo, vô ngã (anatta, non-self hay egolessness).
harmony with the insights that lie at the heart of the entire Do đó nền tảng cuả phương pháp luận cuả Luận vẫn
Dhamma. là sự hài hoà tuyệt vời với sự chiếu kiến nội quan
nằm trong lòng cuả Pháp.
The Origins of the Abhidhamma Các nguồn gốc của Tạng Luận (Vi Diệu Pháp)

Although modern critical scholarship attempts to explain Mặc dù học thật phê bình hiện đại cố gắng giải thích
the formation of the Abhidhamma by a gradual sự hình thành cuả Luận bằng quá trình phát triển tiến
evolutionary process,4 Theravada orthodoxy assigns its hoá dần dần, chính thống giáo Therevada cho rằng sự
genesis to the Buddha himself. According to the Great ra đời cuả nó gắn với Đức Phật. Theo Đại luận văn
Commentary (maha-atthakatha) quoted by Acariya (maha-atthakathaa) do Acariya Buddhaghosa trích
Buddhaghosa, "What is known as Abhidhamma is not the dẫn, Luân được biết không phải là lĩnh vực cũng
province nor the sphere of a disciple; it is the province, không phải là phạm vi cuả một tông đồ; nó là phạm
the sphere of the Buddhas."5 The commentarial tradition vi, lĩnh vực cuả chư Phật. Hơn nưã, truyền thuyết
holds, moreover, that it was not merely the spirit of the luận văn cho rằng nó không chỉ là tinh thần cuả Luận,
Abhidhamma, but the letter as well, that was already mà cả ngôn từ nuã, đã được Đức Phật thực hiện và

Page 10 of 24
rao giảng trong khi ngài còn tại thế.
realized and expounded by the Buddha during his
lifetime.
The Atthasalini relates that in the fourth week after the Atthasalini kể rằng trong bốn tuần lễ sau khi Đại ngộ,
Enlightenment, while the Blessed One was still dwelling trong khi Đức Thế tôn vẫn còn lưu lại trong phạm vi
in the vicinity of the Bodhi Tree, he sat in a jewel house gần Cội Bồ Đề, ngài an toạ trong một ngôi nhà bằng
(ratanaghara) in the northwest direction. This jewel châu báu (ratanaghara) về hướng tây bắc. Ngôi nhà
house was not literally a house made of precious stones, này không phải thật sư làm bằng đá quí, nhưng là nơi
but was the place where he contemplated the seven books ngài quán tưởng về bảy quyển thuộc Luận Tạng. Ngài
of the Abhidhamma Pitaka. He contemplated their tuần tự quán tưởng về nội dung cuả chúng, bắt đầu
contents in turn, beginning with the Dhammasangani, but với quyển Pháp Tụ - Dhammasangani, tuy nhiên
while investigating the first six books his body did not trong khi quán xét sáu quyển đầu, thân ngài không
emit rays. However, upon coming to the Patthana, when phát hào quang. Nhưng khi ngài quán tưởng đến
"he began to contemplate the twenty-four universal quyển Vị Trí (Phát Thú - Patthana, khi ngài quán
conditional relations of root, object, and so on, his tưởng đến 24 mối quan hệ ràng buộc như căn nguyên,
omniscience certainly found its opportunity therein. For đối tượng , và v.v. đại trí cuả ngài mới tìm thấy cơ
as the great fish Timiratipingala finds room only in the duyên trong đó. Như đại kình ngư Timiratipingala chỉ
great ocean 84,000 yojanas in depth, so his omniscience tìm thấy nơi vẫy vùng cuả mình ở độ sâu 84.000
truly finds room only in the Great Book. Rays of six yojana dưới biển sâu, như thế, đại trí cuả ngài chỉ tìm
colors — indigo, golden, red, white, tawny, and dazzling thấy đất dụng võ trong Đại thư. Hào quang sáu màu -
— issued from the Teacher's body, as he was xanh ngọc, vàng ánh kim, đỏ, trắng, vàng nâu và ánh
contemplating the subtle and abstruse Dhamma by his kim lấp lánh - phóng ra từ thân cuả Đấng Đại sư, khi
omniscience which had found such opportunity."6 ngài quán tưởng Pháp vi diệu, cơ duyên cho đại trí
cuả ngài.
Theravada orthodoxy thus maintains that the Chính thống giáo Therevada do đó chủ trương rằng
Abhidhamma Pitaka is authentic Word of the Buddha, in Luận Tạng là chân ngôn cuả Phật, về phương diện
this respect differing from an early rival school, the này khác với một trường phái đối lập trước đây,
Sarvastivadins. This school also had an Abhidhamma trường phái Sarvastivadins. Trường phái này cũng có
Pitaka consisting of seven books, considerably different Luận Tạng gồm bảy quyển, khác về chi tiết với
in detail from the Theravada treatises. According to the những bài giàng cuả Phật Giáo Nguyên Thủy
Sarvastivadins, the books of the Abhidhamma Pitaka Therevada. Theo phái Sarvastivadins, các quyển
were composed by Buddhist disciples, several being thuộc Luận Tạng là do các đệ tử Phật soạn ra, trong
attributed to authors who appeared generations after the đó có mấy quyển được cho là cuả các tác giả có vẻ
Buddha. The Theravada school, however, holds that the thuộc các thế hệ sau Đức Phật. Tuy nhiên trường phái
Blessed One himself expounded the books of the Phật Giáo Nguyên Thủy Therevada cho rằng chính
Abhidhamma, except for the detailed refutation of Đấng Thế Tôn đã giảng các quyển thuộc Tạng Luận,
deviant views in the Kathavatthu, which was the work of ngoại trừ việc bác bỏ có thẳng thừng những quan
the Elder Moggaliputta Tissa during the reign of Emperor điểm khác biệt trong Bộ Ngữ Tông (Biện Giải -
Asoka. Kathavatthu), là tác phẩm cuả kỳ lão Moggaliputta
Tissa trong thời trị vì cuả Hoàng đế Asoka.
The Pali Commentaries, apparently drawing upon an old Các bản Chú Giải Pali, rõ ràng căn cứ vào một truyền
oral tradition, maintain that the Buddha expounded the thuyết truyền miệng, cho rằng Đức Phật giảng Luận,
Abhidhamma, not in the human world to his human không phải trong cõi người cho các đệ tử người cuả
disciples, but to the assembly of devas or gods in the ngài, mà là cho một tập hợp chư thiên trên cõi trời
Tavatimsa heaven. According to this tradition, just prior Tavatimsa (Đạo lợi). Theo truyền thuyết này, chỉ
to his seventh annual rains retreat the Blessed One trước khi nhập thất hằng năm lần thứ bảy vào muà
ascended to the Tavatimsa heaven and there, seated on mưa, Đức Thế tôn thăng lên cõi trời Đạo lợi và ở đấy,
the Pandukambala stone at the foot of the Paricchattaka an toạ trên đá Pandukambala dưới gốc cây
tree, for the three months of the rains he taught the Paricchahataka, trong ba tháng muà mưa ngài giảng
Abhidhamma to the devas who had assembled from the Luận cho chư thiên tập hợp từ ba nghìn thế giới.

Page 11 of 24
ten thousand world-systems. He made the chief recipient Người được chọn nhận pháp chính là mẹ ngài,
of the teaching his mother, Mahamaya-devi, who had Mahamaya-devi, người đã tái sinh lên cõi trời thay vì
been reborn as a deva. The reason the Buddha taught the cõi người. Lý do Đức Phật giảng Luận trên cõi trời
Abhidhamma in the deva world rather than in the human thay vì cõi người, theo truyền thuyết, là để có thể
realm, it is said, is because in order to give a complete giảng Luận trọn trong một buổi giảng về toàn cảnh
picture of the Abhidhamma it has to be expounded from cuả Luận từ đầu đến cuối cho cùng đối tượng thính
the beginning to the end to the same audience in a single giả.. Bởi vì trình bày đầy đủ Luận cần ba tháng, chỉ
session. Since the full exposition of the Abhidhamma chư thiên và Trời Phạm Thiên (Bhrama) mới có thể
requires three months, only devas and Brahmas could tiếp thu liên tục không gián đoạn, vì chỉ có họ mới có
receive it in unbroken continuity, for they alone are khả năng giữ vững ở một tư thế trong thời gian dài
capable of remaining in one posture for such a length of như vậy.
time.
However, each day, to sustain his body, the Buddha Tuy nhiên, mỗi ngày, để duy trì thân thể của mình,
would descend to the human world to go on almsround in Đức Phật xuống cõi người khất thực ở vùng phiá bắc
the northern region of Uttarakuru. After collecting Uttarakuru. Sau khi khất thực xong, ngài đi đến bờ hồ
almsfood he went to the shore of Anotatta Lake to Anotatta để thọ trai. Trưởng lảo Sariputta, Tổng Trì
partake of his meal. The Elder Sariputta, the General of Pháp, sẽ đến diện kiến Đức Phật để nhận tóm tắt giáo
the Dhamma, would meet the Buddha there and receive a lý giảng trong ngày trên cõi trời: Rồi Đức Phật trao
synopsis of the teaching given that day in the deva world: cho ông phương pháp, nói rằng, “Sariputta, có vô vàn
"Then to him the Teacher gave the method, saying, giáo pháp đã được trình bày” . Như thế đấy, Đức Phật
'Sariputta, so much doctrine has been shown.' Thus the trao phương pháp cho truởng lão, người rất giỏi về
giving of the method was to the chief disciple, who was kiến thức phân tích, khi ngài đứng trên bờ và mở bàn
endowed with analytical knowledge, as though the tay chỉ ra biển. Đối với Trưởng lão giáo pháp do Đức
Buddha stood on the edge of the shore and pointed out Thế tôn giảng dạy bằng trăm ngàn phương pháp cũng
the ocean with his open hand. To the Elder also the trở nên sáng tỏ.7”
doctrine taught by the Blessed One in hundreds and
thousands of methods became very clear."7
Having learned the Dhamma taught him by the Blessed Học được Pháp từ Đức Thế tôn, Sariputta lại đem
One, Sariputta in turn taught it to his own circle of 500 truyền lại cho 500 đồ đệ cuả mình, và thế là bản Chú
pupils, and thus the textual recension of the Abhidhamma Giải Luận Tạng được thiết lập. Đối với Đại đức
Pitaka was established. To the Venerable Sariputta is Sariputta được cho là sắp đặt trật tư cuả các bài giảng
ascribed the textual order of the Abhidhamma treatises as cuả Luận Tạng cũng như là đánh số thứ tự trong
well as the numerical series in the Patthana. Perhaps we quyển Vị Trí (Phát Thú – Patthana). Có lẽ ta nên tìm
should see in these admissions of the Atthasalini an thấy trong những xác nhận này cuả Atthasalini một sự
implicit acknowledgement that while the philosophical xác nhận gián tiếp rằng trong khi nhãn quan triết học
vision of the Abhidhamma and its basic architecture và cấu trúc nền tảng cuả Luận Tạng là xuất phát từ
originate from the Buddha, the actual working out of the Đức Phật, việc trình bày các chi tiết, và ngay cả chính
details, and perhaps even the prototypes of the texts khuôn mẫu văn bản là thuộc về Đại tông đồ và các đồ
themselves, are to be ascribed to the illustrious Chief đệ cuả ông. Trong các trường phái đạo Phật khác cận
Disciple and his entourage of students. In other early thời Đức Phật, thì Luận cũng liên quan mật thiết đến
Buddhist schools, too, the Abhidhamma is closely Đaị đức Sariputta, người mà theo các truyền thuyết
connected with the Venerable Sariputta, who in some được coi là tác giả văn bản cuả các bài giảng cuả
traditions is regarded as the literal author of Abhidhamma Luận.
treatises.8

Phần II
The Seven Books Bảy Quyển Tạng Luận

A brief outline of the contents of the seven canonical Việc tóm tắt nội dung cuả bảy quyển trong kho tàng

Page 12 of 24
Tạng Luận sẽ cung cấp một cái nhìn xuyên suốt vào
Abhidhamma books will provide some insight into the khối văn bản đồ sộ này được cô đúc, tóm lược trong
plethora of textual material to be condensed and Vi Diệu Pháp Toát Yếu Abhidhammattha Sangala.
summarized by the Abhidhammattha Sangaha. The first Quyển đầu tiên, Bộ Pháp Tụ - Dhammasangani, là
book, the Dhammasangani, is the fountainhead of the suối nguồn cuả toàn hệ thống. Tưạ đề có thể dịch là
entire system. The title may be translated "Enumeration “Pháp Tụ”, và tác phẩm làm công việc rõ ràng là soạn
of Phenomena," and the work does in fact undertake to thảo một bản thống kê hoàn chỉnh các yếu tố cấu
compile an exhaustive catalog of the ultimate thành tối thượng cuả hiện thực.
constituents of existence.
Opening with the matika, the schedule of categories Mở đầu với Mẫu Đề-Matika, bản lược đồ về các
which serves as the framework for the whole phạm trù làm khung cho toàn bộ Luận, bản Chú Giải
Abhidhamma, the text proper is divided into four được chia thành bốn chương. Chương thứ nhất “Các
chapters. The first, "States of Consciousness," takes up trạng thái cuả Ý thức,” chiếm khoảng nưả cuốn sách
about half of the book and unfolds as an analysis of the và mở ra như là một bản phân tích bộ ba đầu tiên
first triad in the matika, that of the wholesome, the trong Mẫu Đề-Matika, an lành, không an lành và cái
unwholesome, and the indeterminate. To supply that giưã cuả hai cái đó. Để phân tích điều đó, bản Chú
analysis, the text enumerates 121 types of consciousness Giải liệt kê 121 loại ý thức phân loại bằng phẩm chất
classified by way of their ethical quality.9 Each type of đạo đức cuả chúng.9 Mỗi loại ý thức lại được phân ra
consciousness is in turn dissected into its concomitant các yếu tố tinh thần tuỳ thuộc, mà mỗi cái được định
mental factors, which are individually defined in full. nghiã đầy đủ. Chương hai, “Về Chất” , tiếp tục tìm
The second chapter, "On Matter," continues the inquiry hiểu các yếu tố trung gian sẵn có bằng cách liệt kê và
into the ethically indeterminate by enumerating and phân loại các loại hiện tượng vật chất khác nhau.
classifying the different types of material phenomena. Chương ba, gọi là “Tóm tắt,” đưa ra các giải thích về
The third chapter, called "The Summary," offers concise tất cả các thuật ngữ trong trận đồ Luận và cũng như
explanations of all the terms in the Abhidhamma matrix trong Tạng Kinh.
and the Suttanta matrix as well. Finally, a concluding
"Synopsis" provides a more condensed explanation of the
Abhidhamma matrix but omits the Suttanta matrix.
The Vibhanga, the "Book of Analysis," consists of The Vibhanga, “quyển Phân tích”, gồm tám chương,
eighteen chapters, each a self-contained dissertation, mỗi chương là một chủ đề trọn vẹn, lần lượt đề cập
dealing in turn with the following: aggregates, sense đến các vấn đề sau: uẩn, căn, đại, chân lý, năng lưc,
bases, elements, truths, faculties, dependent arising, duyên sinh, cơ sở cuả trí, nỗ lực tối thượng, các yếu tố
foundations of mindfulness, supreme efforts, means to cuả ngộ, bát chính đạo, các cảnh giới thiền, vô hạn,
accomplishment, factors of enlightenment, the eightfold nguyên tắc rèn luyện,tri kiến phân tích, các loại tri
path, jhanas, illimitables, training rules, analytical kiến, các tiểu tiết (liệt kê các bất tịnh) và tâm cuả
knowledges, kinds of knowledge, minor points (a pháp (Dhammahadaya), và đồ hình tâm lý vũ trụ cuả
numerical inventory of defilements), and "the heart of the vũ trụ Phật giáo. Hầu hết các chương trong quy ển
doctrine" (dhammahadaya), a psycho-cosmic topography Phân Tích-Vihanga, mặc dù không phải là tất cả, liên
of the Buddhist universe. Most of the chapters in the quan đến ba phần nhỏ: phân tích theo phương pháp
Vibhanga, though not all, involve three sub-sections: an luận cuả chư Kinh, phân tích theo phương pháp luận
analysis according to the methodology of the Suttas; an cuả chính Luận; và phần tra vấn, áp dụng các phạm
analysis according to the methodology of the trù cuả trận đồ vào chủ đề nghiên cứu.
Abhidhamma proper; and an interrogation section, which
applies the categories of the matrix to the subject under
investigation.
The Dhatukatha, the "Discourse on Elements," is written Dhatukatha, “Bộ Chất Ngữ” được viết dưới dạng tóm
entirely in catechism form. It discusses all phenomena tắt hỏi đáp. Nó thảo luận tất cả các hiện tượng với sự
with reference to the three schemata of aggregates, sense tham chiếu các sơ đồ uẩn, căn, đại, tìm cách xét xem
bases, and elements, seeking to determine whether, and các hiện tượng ấy có bao gồm trong, hay quan hệ hay
to what extent, they are included or not included in them, không quan hệ với ba yếu tố đó và ở chừng múc nào

Page 13 of 24
and whether they are associated with them or dissociated
from them.

The Puggalapaññatti, "Concepts of Individuals," is the Puggalapannatti, “Bộ Nhơn Chế Định” là một quyển
one book of the Abhidhamma Pitaka that is more akin to trong Luận Tạng có phương pháp giống Tạng Kinh
the method of the Suttas than to the Abhidhamma proper. hơn là Luận. Tác phẩm bắt đầu với việc đếm tổng
The work begins with a general enumeration of types of quát các loại khái niệm, và điều này cho thấy rằng
concepts, and this suggests that it was originally intended khởi thuỷ nó đươc dự định làm bổ sung cho các
as a supplement to the other books in order to take quyển khác để tính đến các thực thể khái niệm bị loại
account of the conceptual realities excluded by the strict ra khi áp dụng khắc khe phương pháp cuả Luận. Công
application of the Abhidhamma method. The bulk of the việc đồ sộ này cho những định nghiã chính thức cuả
work provides formal definitions of different types of các loại cá thể khác nhau. Có 10 chương:chương đầu
individuals. It has ten chapters: the first deals with single đề cập các loại đơn lẻ cuả các cá thể; chương hai về
types of individuals; the second with pairs; the third with các căp; chương ba về các nhóm ba, v.v.
groups of three, etc.
The Kathavatthu, "Points of Controversy," is a polemical Kathavatthu”Bộ Ngữ Tông” là những luận đề biện
treatise ascribed to the Elder Moggaliputta Tissa. He is luận được cho là cuả Trưởng lão Moggaliputta Tissa.
said to have compiled it during the time of Emperor Ông được cho là đã soạn nó vào thời Hoàng đế
Asoka, 218 years after the Buddha's Parinibbana, in order Asoka, 218 sau khi Đức Phật nhập Niết bàn, để phản
to refute the heterodox opinions of the Buddhist schools bác các ý kiến không chính thống cuả các trường phái
outside the Theravadin fold. The Commentaries defend Phật giáo bên ngoài phạm vi cuả phái Nguy ên Thủy
its inclusion in the Canon by holding that the Buddha Therevada. Các Bản Chú Giải cho rằng chúng cũng
himself, foreseeing the errors that would arise, laid down thuộc vào các kho tàng kinh điển bằng cách lập luận
the outline of rebuttal, which Moggaliputta Tissa merely rằng chính Đức Phật, thấy trước rằng các sai lầm sẽ
filled in according to the Master's intention. phát sinh, đã đưa ra khung cuả các câu trả lời, mà
Moggaliputta Tissa chỉ cần điền thêm vào theo định
hướng cuả Đức Phật.
The Yamaka, the "Book of Pairs," has the purpose of Yamaka, “Bộ Song Đôi” nhằm mục đích giải quyết
resolving ambiguities and defining the precise usage of các sư hàm hồ và xác định công dụng chính xác cuả
technical terms. It is so called owing to its method of các thuật ngữ. Nó được gọi bằng cái tên như vậy do
treatment, which throughout employs the dual grouping phương pháp giải quyết cuả nó, sử dụng xuyên suốt
of a question and its converse formulation. For instance, sự nhóm đôi cú một vấn đề và phương thức đàm luận
the first pair of questions in the first chapter runs thus: cuả nó. Chẳng hạn cặp các vấn đề đầu tiên trong
"Are all wholesome phenomena wholesome roots? And chương thứ nhất như sau: “Có phải tất cả các hiện
are all wholesome roots wholesome phenomena?" The tượng an lành là căn nguyên an lành? Và tất cả các
book contains ten chapters: roots, aggregates, sense căn nguyên an lành là hiện tượng an lành? Quyển này
bases, elements, truths, formations, latent dispositions, có 10 chương: các căn nguyên, uẩn, căn, đại, chân,
consciousness, phenomena, and faculties. sắc, bản chất tiềm ẩn, ý thức, hiện tượng, và khả
năng.
The Patthana, the "Book of Conditional Relations," is Patthana, “Bộ Vị Trí” (bị qui định, có điều kiện, trói
probably the most important work of the Abhidhamma buộc >< giải thoát) có lẽ là tác phẩm quan trọng nhất
Pitaka and thus is traditionally designated the "Great cuả Luận Tạng và do đó theo truyền thống vẫn được
Treatise" (mahapakarana). Gigantic in extent as well as gọi là “Đại Luận Đề” (mahapakarana). Khổng lồ về
in substance, the book comprises five volumes totalling qui mô cũng như thực chất, quyển này gồm 5 quyển
2500 pages in the Burmese-script Sixth Council edition. tổng cộng 2500 trang, ấn bản Hội đồng thứ 6, chữ
The purpose of the Patthana is to apply its scheme of Myanmar. Mục đích cuả Bộ Vị Trí-Patthana là áp
twenty-four conditional relations to all the phenomena dụng sơ đồ hai mươi bốn quan hệ ràng buộc cuả nó
incorporated in the Abhidhamma matrix. The main body vào tất cả các hiện tượng được thành lập trong trận đồ
of the work has four great divisions: origination của Tạng Luận. Bộ phận chính cuả tác phẩm gồm bốn
according to the positive method, according to the phần vĩ đại: Khởi nguyên theo phương pháp tích cực,

Page 14 of 24
negative method, according to the positive-negative theo phương pháp tiêu cực, theo phương pháp tiêu-
method, and according to the negative-positive method. tích cực và theo phương pháp tích-tiêu cực. Mỗi trong
Each of these in turn has six sub-divisions: origination of bốn phần này lại có sáu tiểu phần: khởi nguyên cuả
triads, of dyads, of dyads and triads combined, of triads nhóm 3, cuả nhóm 2, cuả nhóm 2 và 3 kết hợp, nhóm
and dyads combined, of triads and triads combined, and 3 và nhóm 2 kết hợp, cuả nhóm 3 và nhóm 3 kết hợp,
of dyads and dyads combined. Within this pattern of và cuả nhóm 2 và nhóm 2 kết hợp. Trong mô hình
twenty-four sections, the twenty-four modes of này có 24 phần, hai mươi bốn thức điều kiện được
conditionality are applied in due order to all the vận dụng đúng trật tự đối với các hiện tượng cuả hiện
phenomena of existence in all their conceivable thực trong các dạng biến đổi nhận thức được cuả
permutations. Despite its dry and tabular format, even chúng. Dù có tính khô khan, nặng chất bảng biểu,
from a "profane" humanistic viewpoint the Patthana can ngay cả trên quan điểm nhân văn “thế tục” Patthana
easily qualify as one of the truly monumental products of có thể dễ dàng được đánh giá như là một trong những
the human mind, astounding in its breadth of vision, its sản phẩm thật sự kỳ vĩ cuả trí tuệ con người, đáng
rigorous consistency, and its painstaking attention to kinh ngạc trong tầm nhìn rộng lớn, sự chặt chẽ
detail. To Theravada orthodoxy, it is the most eloquent nghiêm ngặt, và sự quan tâm cẩn trọng đến chi tiết.
testimony to the Buddha's unimpeded knowledge of Đối với chính thống giáo Therevada, đó chính là bằng
omniscience. chứng hùng hồn nhất về trí huệ chí tôn vô ngại của
Đức Phật.
The Commentaries Những bản chú giải

The books of the Abhidhamma Pitaka have inspired a Các quyển cuả Luận Tạng đã tạo cảm hứng cho một
voluminous mass of exegetical literature composed in khối lượng đồ sộ bài viết có tính giảng giải được biên
order to fill out, by way of explanation and soạn nhằm lắp kín phần khung sườn do bản văn cuả
exemplification, the scaffoldings erected by the canonical các kinh điển dựng nên, bằng cách giải thích nêu ví
texts. The most important works of this class are the dụ. Những tác phẩm quan trọng nhất thuộc loại này là
authorized commentaries of Acariya Buddhaghosa. các chú giải được công nhận cuả Acariya
These are three in number: the Atthasalini, "The Buddhaghosa. Có ba tác phẩm: Atthasalini, “Phát lộ”,
Expositor," the commentary to the Dhammasangani; the luận văn về Dhammasagani; Sammohavinodani, “
Sammohavinodani, "The Dispeller of Delusion," the Loại trừ Vọng tưởng”, luận văn về Vibhanga; và
commentary to the Vibhanga; and the Pañcappakarana Pancappakarana Atthakatha, luận văn kết hợp cho 5
Atthakatha, the combined commentary to the other five luận đề khác Visuddhimagga, “Thanh Tịnh Đạo”
treatises. To this same stratum of literature also belongs cũng thuộc bình diện văn bản này cũng cuả
the Visuddhimagga, "The Path of Purification," also Buddhaghosa. Tuy nhiên tác phẩm cuối này chủ yếu
composed by Buddhaghosa. Although this last work is là sự hướng dẫn bách khoa về thiền, các chương cuả
primarily an encyclopedic guide to meditation, its nó về “ kiến giải” (XIV -XVII) trình bày lý thuyết cần
chapters on "the soil of understanding" (XIV-XVII) lay nắm vững trước khi tiến đến kiến chiếu nội quan và
out the theory to be mastered prior to developing insight do đó hình thành cách hiệu quả luận đề cô đọng về
and thus constitute in effect a compact dissertation on Luận. Mỗi luận văn lại có tiểu luận văn (mulatika), do
Abhidhamma. Each of the commentaries in turn has its Trưởng lão cuả Sri Lanka tên là Acariya Ananda, và
subcommentary (mulatika), by an elder of Sri Lanka những tiểu luận này lại có tiểu tiểu luận (anutika), do
named Acariya Ananda, and these in turn each have a học trò cuả Ananda là Dhammapala (khác với
sub-subcommentary (anutika), by Ananda's pupil Acariya Dhammapala tôn kính, tác giả cuả các luận
Dhammapala (who is to be distinguished from the great văn về các tác phẩm cuả Buddhaghosa).
Acariya Dhammapala, author of the tikas to
Buddhaghosa's works).
When the authorship of the Commentaries is ascribed to Khi tác quyền cuả các chú giải được cho là cuả
Acariya Buddhaghosa, it should not be supposed that Acariya Buddhaghosa, thì không nên cho rằng, theo
they are in any way original compositions, or even cách nào đó dù chúng là các bài luận gốc, hoặc là nỗ
original attempts to interpret traditional material. They lực gốc để diễn đạt các tư liệu truyền thống. Mà thực
are, rather, carefully edited versions of the vast body of ra, chúng là những bản được hiệu đính cẩn thận từ
accumulated exegetical material that Buddhaghosa found khối lượng lớn bao la cuả các tư liệu giải thích mà

Page 15 of 24
at the Mahavihara in Anuradhapura. This material must Ngài Buddhaghosa tìm thấy ở Mahavihara ở
have preceded the great commentator by centuries, Anuradhapura. Tư liệu này ắt hẳn có trước nhà viết
representing the collective efforts of generations of luận vĩ đại nhiều thế kỷ, đại diện cho nỗ lực tập hợp
erudite Buddhist teachers to elucidate the meaning of the cuả các thế hệ các nhà giảng dạy Phật học uyên bác
canonical Abhidhamma. While it is tempting to try to nhằm tìm hiểu ý nghiã cuả kho tàng kinh điển Luận
discern evidence of historical development in the Tạng. Trong khi cố gắng làm rõ bằng cứ cuả sự phát
Commentaries over and beyond the ideas embedded in triển có tính lịch sử trong các Luận văn trên và vượt
the Abhidhamma Pitaka, it is risky to push this line too các ý tưởng gắn chặt trong Luận Tạng có sức cuốn
far, for a great deal of the canonical Abhidhamma seems hút hấp dẫn, thì việc đẩy việc làm này đi quá xa cũng
to require the Commentaries to contribute the unifying là nguy hiểm, bởi vì phần nhiều Luận kinh điển
context in which the individual elements hang together as dường như đòi hỏi các Luận văn đóng góp các điều
parts of a systematic whole and without which they lose kiện quan hệ thống nhất trong đó mọi yếu tố riêng lẻ
important dimensions of meaning. It is thus not gắn kết vào nhau như là các thành phần cuả toàn thể
unreasonable to assume that a substantial portion of the hệ thống và không có điều đó chúng sẽ mất các chiều
commentarial apparatus originated in close proximity to kích quan trọng cuả ý nghiã. Do đó mà không phải
the canonical Abhidhamma and was transmitted không hợp lý khi cho rằng phần đáng kể cuả toàn bộ
concurrently with the latter, though lacking the stamp of khối các bản chú giải là bắt nguồn thật gần guĩ với
finality it was open to modification and amplification in a Tạng Luận kinh điển và được truyền bá đồng thời với
way that the canonical texts were not. Tạng Luận kinh điển, nhưng thiếu dấu ấn khoá sổ nên
nó để ngỏ cho sự thay đổi và đào sâu theo cách mà
các chú giải kinh điển không được như vậy.
Bearing this in mind, we might briefly note a few of the Xin lưu ý điều này, chúng ta có thể ghi nhận ngắn gọn
Abhidhammic conceptions that are characteristic of the một ít khái niệm cuả Luận Tạng mang tính chất cuả
Commentaries but either unknown or recessive in the các Luận văn nhưng hoặc là không được biết đến hay
Abhidhamma Pitaka itself. One is the detailed account of là ẩn chưá trong chính Luận Tạng. Một trong số đó là
the cognitive process (cittavithi). While this conception bài về quá trình nhận thức (cittavithi) Trong khi khái
seems to be tacitly recognized in the canonical books, it niệm này có vẻ như được ngầm công nhận trong các
now comes to be drawn out for use as an explanatory tool kinh điển, bây giờ nó được đem ra sử dụng như là
in its own right. The functions of the cittas, the different công cụ giải thích vì yêu cầu cuả chính nó. Các chức
types of consciousness, are specified, and in time the năng cuả các citta, các loại khác nhau cuả ý thức,
cittas themselves come to be designated by way of their được nêu cụ thể, và theo thời gian chính các citta
functions. The term khana, "moment," replaces the được gọi tên bằng chức năng cuả chúng. Thuật ngữ
canonical samaya, "occasion," as the basic unit for khana, khoảnh khắc”, thay cho samaya (“cơ hội”) cuả
delimiting the occurrence of events, and the duration of a kinh điển như là đơn vị cơ bản gở bỏ giới hạn sự xuất
material phenomenon is determined to be seventeen hiện cuả các sự kiện, và khoản thời gian cuả một hiện
moments of mental phenomena. The division of a tượng vật chất được xác định bằng 17 khỏanh khắc
moment into three sub-moments — arising, presence, and cuả các hiện tượng tinh thần. Sự phân chia một
dissolution — also seems to be new to the khoảnh khắc thành ba tiểu khoảnh khắc - sinh, dị, diệt
Commentaries.10 The organization of material - có vẻ như cũng mới mẻ đối với các bản chú giải.
phenomena into groups (kalapa), though implied by the Việc tổ chức các hiện tượng vật chất thành các nhóm
distinction between the primary elements of matter and (kalapa), dù được hàm ý bởi sự phân biệt giưã các yếu
derived matter, is first spelled out in the Commentaries, tố nguyên sơ cuả vật chất và những chất phái sinh, lần
as is the specification of the heart-base (hadayavatthu) as đầu tiên được nêu rõ trong các bản chú giải, như là
the material basis for mind element and mind- đặc điểm cuả cơ sở tâm (hadayavatthu) như là cơ sở
consciousness element. vật chất cuả các yếu tố thuộc tâm về yếu tố tâm-thức.
The Commentaries introduce many (though not all) of Các bản chú giải giới thiệu nhiều (dù không hết) các
the categories for classifying kamma, and work out the phạm trù để phân loại kamma (nghiệp), và đưa ra các
detailed correlations between kamma and its results. mối quan hệ hỗ tương giưã kamma và kết quả cuả nó.
They also close off the total number of mental factors Chúng cũng chốt lải tổng số các yếu tố tinh thần.
(cetasika). The phrase in the Dhammasangani, "or Cụm từ trong Dhammasangani, “ hoặc bất cứ các hiện
whatever other (unmentioned) conditionally arisen tượng phi vật chất duyên sinh khác (chưa đề cập) có

Page 16 of 24
immaterial phenomena there are on that occasion," vào dịp đó,” rõ ràng hình dung một vũ trụ mở cuả các
apparently envisages an open-ended universe of mental yếu tinh thần, mà các bản chú giải đã gỡ bỏ giới hạn
factors, which the Commentaries delimit by specifying bằng cách nêu rõ “ hoặc bất cứ trạng thái nào”
the "or-whatever states" (yevapanaka dhamma). Again, (yevapanaka dhamma). Một lần nưã, các bản chú giải
the Commentaries consummate the dhamma theory by hoàn chỉnh pháp luận bằng cách cung cấp định nghiã
supplying the formal definition of dhammas as "things chư pháp như là “ những sự vật mang bản chất tự
which bear their own intrinsic nature" (attano sabhavam thân” (attano sabhavam dharenti ti dhamma). Nhiệm
dharenti ti dhamma). The task of defining specific vụ định nghiã chư pháp cụ thể cuối cùng được chỉnh
dhammas is finally rounded off by the extensive chu bằng cách sử dụng chuyên sâu công cụ định
employment of the fourfold defining device of nghiã bốn lớp về tính chất, chức năng, biểu hiện và
characteristic, function, manifestation, and proximate nguyên nhân gần kề, một công cụ xuất phát từ hai bản
cause, a device derived from a pair of old exegetical văn giải thích cổ là Petakopadesa và Nettipakarana.
texts, the Petakopadesa and the Nettipakarana.
The Abhidhammattha Sangaha Vi Diệu Pháp toát yếu

As the Abhidhamma system, already massive in its Khi hệ thống Luận, về mặt phiên bản kinh điển cuả
canonical version, grew in volume and complexity, it nó đã là đồ sộ rồi, phát triển thêm về dung lượng và
must have become increasingly unwieldy for purposes of độ phức tạp, thì việc nghiên cứu, lãnh hội nó ắt hẳn
study and comprehension. Thus at a certain stage in the phải càng trở nên khó khăn, nặng nề. Do đó ở một
evolution of Theravada Buddhist thought the need must giai đoạn tiến hoá nào đó cuả tư tưởng Phật giáo
have become felt for concise summaries of the Therevada, người ta ắt phải cảm thấy nhu cầu cần có
Abhidhamma as a whole in order to provide the novice những tóm tắt chính xác cuả Luận như là một tổng thể
student of the subject with a clear picture of its main để cung cấp cho những tân sinh về chủ đề này một cái
outlines — faithfully and thoroughly, yet without an nhìn rõ ràng về sơ nét cấu tạo chính cuả nó - một cách
unmanageable mass of detail. thấu suốt và thành tín mà không cần những chi tiết đồ
sộ khó kham nổi.
To meet this need there began to appear, perhaps as early Để đáp ứng nhu cầu này, đã bắt đầu xuất hiện, có lẽ
as the fifth century and continuing well through the sớm khoảng thế kỷ 15 và tiếp tục qua thế kỷ 12, các
twelfth, short manuals or compendia of the Abhidhamma. sổ tay ngắn gọn hay yếu lược cuả Luận. Ở Miến Điện
In Burma these are called let-than or "little-finger Myanmar, những quyển loại này được gọi là let-than
manuals," of which there are nine: hay là “sổ tay ngón út”, trong có có chín như sau:
1. Abhidhammattha Sangaha, by Acariya 1) Abhidhammattha, cuả Acariya Anuruddha;
Anuruddha; 2) Namarupa-pariccheda, cùng tác giả
2. Namarupa-pariccheda, by the same; 3) Paramattha-vinicchaya, cùng tác giả (?);
3. Paramattha-vinicchaya, by the same (?); 4) Abhidhammavatara cuả Acariya Buddhadatta ( một
4. Abhidhammavatara, by Acariya Buddhadatta (a bậc trưởng thượng đồng thời với Buddhaghosa);
senior contemporary of Buddhaghosa); 5) Ruparupa-vibhaga, cùng tác giả
5. Ruparupa-vibhaga, by the same; 6) Sacca-sankhepa, cuả Bhadanta Dhammapala (có lẽ
6. Sacca-sankhepa, by Bhadanta Dhammapala người Sri Lanka; khác với nhà viết tiểu luận văn vĩ
(probably Sri Lankan; different from the great đại);
subcommentator); 7) Moha-vicchedani, cuả Bhadanta Kassapa (Người
7. Moha-vicchedani, by Bhadanta Kassapa (South Nam Ấn hoặc Sri Lanka);
Indian or Sri Lankan); 8) Khema-pankarana, cuả Bhadanta Khema (người
8. Khema-pakarana, by Bhadanta Khema (Sri Sri Lanka);
Lankan); 9) Namacara-dipaka, cuả Bhadanta Saddhamma
Jotipala (Người Myanmar).
9. Namacara-dipaka, by Bhadanta Saddhamma
Jotipala (Burman).

Page 17 of 24
Among these, the work that has dominated Abhidhamma Trong số đó, tác phẩm đã thống ngự việc tu học,
studies from about the twelfth century to the present day nghiên cứu Luận từ khoản thế kỷ 12 cho đến hiện nay
is the first mentioned, the Abhidhammattha Sangaha, là quyển được đề cập trước tiên, quyển
"The Compendium of Things contained in the Abhidhammattha Sangaha, ( Vi Diệu Pháp toát yếu ).
Abhidhamma." Its popularity may be accounted for by its Nó được phổ biến có lẽ do sự quân bình đáng khó bì
remarkable balance between concision and cuả nó giưã tính chính xác và tính lĩnh hội. Trong
comprehensiveness. Within its short scope all the phạm vi ngắn gọn cuả nó mọi điều cốt yếu cuả Luân
essentials of the Abhidhamma are briefly and carefully đã được tóm gọn cẩn trọng. Dù rằng cách xử lý cuả
summarized. Although the book's manner of treatment is sách thật ngắn gọn ngay cả với những điểm không rõ
extremely terse even to the point of obscurity when read ràng nếu đọc riêng lẻ, nhưng khi học tập, nghiên cứu
alone, when studied under a qualified teacher or with the dưới sự hướng dẫn cuả một thầy có năng lực hoặc với
aid of an explanatory guide, it leads the student sự hỗ trợ cuả người hướng dẫn giải thích, nó dẫn dắt
confidently through the winding maze of the system to a người học tự tin đi qua mê cung khúc khuỷu cuả hệ
clear perception of its entire structure. For this reason thống để đạt đến sự nhận thức minh bạch về toàn bộ
throughout the Theravada Buddhist world the cấu trúc cuả nó.Vì lý do đó, trong toàn bộ thế giới
Abhidhammattha Sangaha is always used as the first Phật giáo Therevada, Vi Diệu Pháp toái yếu -
textbook in Abhidhamma studies. In Buddhist Abhidhammattha Sangaha luôn được dùng như quyển
monasteries, especially in Burma, novices and young sách giáo khoa đầu tiên trong việc tu học Luận. Trong
bhikkhus are required to learn the Sangaha by heart các tu viện Phật giáo, đặc biệt là ở Miến Điện -
before they are permitted to study the books of the Myanmar, tân sinh và các tỳ kheo trẻ được yêu cầu
Abhidhamma Pitaka and its Commentaries. học thuộc lòng Sangaha trước khi nghiên cứu các
quyển thuộc Luận Tạng và các Luận văn cuả nó.
Detailed information about the author of the manual, Những chi tiết về tác giả cuả quyển sổ tay này,
Acariya Anuruddha, is virtually non-existent. He is Acariya Anuruddha, thật ra không có. Ông được coi
regarded as the author of two other manuals, cited above, là tác giả cuả hai quyển sổ tay khác, như nêu trên, và
and it is believed in Buddhist countries that he wrote được các quốc gia Phật giáo tin rằng ngài đã viết cùng
altogether nine compendia, of which only these three với chín quyển yếu lược khác, trong đó chỉ có 3
have survived. The Paramattha-vinicchaya is written in quyển là còn sót lại. Quyển Paramattha-vinicchaya
an elegant style of Pali and attains a high standard of được viết theo văn phong uyển chuyển cuả ngôn ngữ
literary excellence. According to the colophon, its author Pali và đạt được đẳng cấp cao cuả văn chương tuyệt
was born in Kaveri in the state of Kañcipura tác. Theo mấy dòng ghi cuả nhà xuất bản, tác giả cuả
(Conjeevaram) in South India. Acariya Buddhadatta and nó sinh ra tại Kaveri, bang Kancipura (Conjeevaram),
Acariya Buddhaghosa are also said to have resided in the Nam Ấn. Cả Acariya Buddhadatta và Acariya
same area, and the subcommentator Acariya Buddhaghosa đều được nói là ở cùng một vùng, và
Dhammapala was probably a native of the region. There nhà viết tiểu luận văn Acariya Dhammapala có lẻ là
is evidence that for several centuries Kañcipura had been người bản điạ cuả vùng này. Có bằng cớ rằng trong
an important center of Theravada Buddhism from which vòng mấy thế kỷ Kancipura đã là trung tâm quan
learned bhikkhus went to Sri Lanka for further study. trọng cuả Phật giáo Therevada từ đó các tỳ kheo uyên
bác đã đến Sri Lanka để tu học thêm.
It is not known exactly when Acariya Anuruddha lived Không biết được chính xác Acariya Anuruddha sống
and wrote his manuals. An old monastic tradition regards vào thời gian nào và viết các quyển sổ tay cuả ông khi
him as having been a fellow student of Acariya nào. Truyền thuyết cổ trong tu viện cho rằng ông từng
Buddhadatta under the same teacher, which would place là bạn học cùng thầy cuả Acariya Buddhadatta, điều
him in the fifth century. According to this tradition, the này đã đặt ông vào thế kỷ thứ năm. Theo truyền
two elders wrote their respective books, the thuyết này, hai trưởng lão viết các quyển sách tương
Abhidhammattha Sangaha and the Abhidhammavatara, ứng cuả mình, quyển Abhiddhammattha Sangaha và
as gifts of gratitude to their teacher, who remarked: quyển Abhidhammavatara, làm quà tạ ơn thầy mình,
"Buddhadatta has filled a room with all kinds of treasure người nhận xét rằng: “Buddhadatta đã chưá châu báu
and locked the door, while Anuruddha has also filled a đầy phòng cuả mình và khoá cưả laị, trong khi
room with treasure but left the door open."11 Modern Anuruddha cũng chưá châu báu đầy phòng nhưng để
scholars, however, do not endorse this tradition, cưả mở toang.” Tuy nhiên các học giả hiện đại không

Page 18 of 24
maintaining on the basis of the style and content of xác nhận truyền tuyết này, cho rằng căn cứ vào văn
Anuruddha's work that he could not have lived earlier phong và nội dung cuả tác phẩm cuả Anuruddha thì
than the eighth century, more probably between the tenth ông không thể nào sống sớm hơn thế kỷ thứ tám, có lẽ
and early twelfth centuries.12 hơn là vào giưã thế kỷ mười và đầu thế kỷ 9.
In the colophon to the Abhidhammattha Sangaha Acariya Trong dòng ghi cuả nhà xuất bản đối với quyển
Anuruddha states that he wrote the manual at the Abhidhammatta Sangaha, Acariya Anuruddha nói
Mulasoma Monastery, which all exegetical traditions rằng ông viết quyển sổ tay này tại tu viện Mulasoma,
place in Sri Lanka. There are several ways to reconcile mà tất cả các truyền thuyết giải thích cho rằng ở Sri
this fact with the concluding stanzas of the Paramattha- Lanka. Có mấy cách để dung hoà sự kiện này với các
vinicchaya, which state that he was born in Kañcipura. khổ thơ kết luận quyển Paramattha-vinicchaya, nói
One hypothesis is that he was of South Indian descent but rằng ông sinh ra tại Kancipura. Một giả thuyết cho
came to Sri Lanka, where he wrote the Sangaha. rằng ông là người gốc gác Nam Ấn nhưng di chuyển
Another, advanced by G.P. Malalasekera, holds that he đến Sri Lanka, nơi ông viết Sangaha. Một giả thuyết
was a native of Sri Lanka who spent time at Kañcipura khác, do G.P.Malalasekera, cho rằng ông là người bản
(which, however, passes over his statement that he was điạ cuả Sri Lanka có trải qua thời gian ở Kancipura
born in Kañcipura). Still a third hypothesis, proposed by (điều này tuy nhiên, bỏ qua xác nhận cuả ông là ông
Ven. A.P. Buddhadatta Mahathera, asserts that there were sinh ở Kancipura). Vẫn còn giả thuyết thứ ba do Đại
two different monks named Anuruddha, one in Sri Lanka đức A.P. Buddhadatta Mahathera đề xuất, khẳng định
who was the author of the Abhidhammattha Sangaha, rằng có hai vị sư khác nhau tên Anuruddha, một ở Sri
another in Kañcipura who wrote the Paramattha- Lanka, người là tác giả quyển Abhiddhammattha, và
vinicchaya.13 một người ở Kancipura, viết quyển Paramattha-
vinicchaya.
Commentaries on the Sangaha Các Luận văn về Phân Loại - Sangaha

Owing to its extreme concision, the Abhidhammattha Vì vào tính cực kỳ cô động cuả nó, Vi Diệu Pháp toái
Sangaha cannot be easily understood without yếu -Abhidhammattha Sangaha không thể dễ dàng
explanation. Therefore to elucidate its terse and pithy hiểu được nếu như không có sự giảng giải. Vì thế làm
synopsis of the Abhidhamma philosophy, a great number sáng tỏ yếu lượt cô đúc đặc quánh cuả triết học cuả
of tikas or commentaries have been written upon it. In Luận, một lượng rất lớn các tika hay là luận văn đã
fact, this work has probably stimulated more được viết về nó. Thật ra, tác phẩm này có lẽ đã tạo ra
commentaries than any other Pali text, written not only in cảm hứng cho nhiều luận văn hơn bất cứ bản văn Pali
the Pali language but also in Burmese, Sinhala, Thai, etc. nào khác, được viết không những bằng ngôn ngữ Pali
Since the fifteenth century Burma has been the mà còn cả bằng tiếng Myamar, Sinhala, Thái v.v.Từ
international center of Abhidhamma studies, and thế kỷ thứ 15, Myanmar đã là trung tâm quốc tế về
therefore we find many commentaries written on it by nghiên cứu Luận, và do đó chúng ta tìm thấy nhiều
Burmese scholars both in Pali and in Burmese. luận văn viết về nó cuả các học giả Miến Điện
Commentaries on the Sangaha in Pali alone number (Myanmar) cả bằng tiếng Pali và tiếng Myanmar.Các
nineteen, of which the following are the most important: luận văn về Sangaha chỉ bằng tiếng Pali không thôi
cũng lên đến con số 19, trong đó quan trọng nhất là:
1. Abhidhammatthasangaha-Tika, also known as the Abhidhammatthasangaha - Tika, cũng còn biết đến
Porana-Tika, "the Old Commentary." This is a như là Porona-Tika, “Cổ Luận văn”. Đây là một tika
very small tika written in Sri Lanka in the twelfth nhỏ viết bằng tiếng Sri Lanka vào thế ky 12 bởi một
century by an elder named Acariya trưởng lão tên là Acariya Navavimalabuddhi.
Navavimalabuddhi.
 Abhidhammatthavibhavini-Tika, or in brief, the Abhidhammatthavibhavini - Tika, hay gọi tắt,
Vibhavini, written by Acariya Sumangalasami, pupil of Vibhavini, tác giả là Acariya Sumangalasami, học trò
the eminent Sri Lankan elder Sariputta Mahasami, also in cuả trưởng lão người Sri Lanka xuất chúng, cũng vào
the twelfth century. This tika quickly superceded the Old thế kỷ 12. Tika này nhanh chóng thế chỗ Cổ Luận văn
Commentary and is generally considered the most và được nhìn nhận rộng rãi như là tác phẩm giải thích
profound and reliable exegetical work on the Sangaha. In sâu sắc và đáng tin cậy về Sangaha. Ở Myanmar, tác

Page 19 of 24
Burma this work is known as tika-gyaw, "the Famous phẩm này có tên là tika-gyaw, “Luận văn nổi tiếng”.
Commentary." The author is greatly respected for his Tác giả rất được kính trọng vì sự am tường và uyên
erudition and mastery of the Abhidhamma. He relies bác cuả ông về Luận. Ông dưạ nhiều vào các các
heavily on older authorities such as the Abhidhamma- phẩm có uy tín cổ như là Abhidhamma-Anutika và
Anutika and the Visuddhimagga-Mahatika (also known Visuddhimagga-Mahatika (còn có tên là
as the Paramatthamanjusa). Although Ledi Sayadaw Paramatthamanjusa) Mặc dù Ledi Sayadaw (xem bên
(see below) criticized the Vibhavini extensively in his dưới) phê bình mạnh mẽ Vibhavini trong luận văn
own commentary on the Sangaha, its popularity has not cuả mình về Sangaha, sự phổ biến cuả nó không hề
diminished but indeed has even increased, and several suy giảm mà thật sự còn tăng lên, và một số học giả
Burmese scholars have risen to defend it against Ledi Myanmar đã đứng lên bảo vệ nó trước sự phê bình
Sayadaw's criticisms. cuả Ladi Sayadaw.
 Sankhepa-vannana, written in the sixteenth century Sakhepa-vannana, được viết vào thế kỷ 16 do tác giả
by Bhadanta Saddhamma Jotipala, also known as Bhadanta Saddhamma Jotipala, còn có tên là Chapada
Chapada Mahathera, a Burmese monk who visited Sri Mahathera, một nhà sư Myanmar đã thăm Sri Lanka
Lanka during the reign of Parakramabahu VI of Kotte trong thời trị vì cuả vua Parakramabahu VI cuạ triều
(fifteenth century).14 đại Kotte (thế kỷ 15).
 Paramatthadipani-Tika, "The Elucidation of the Paramatthadipani-Tika, “ Minh giảng vế Nghiã Tối
Ultimate Meaning," by Ledi Sayadaw. Ledi Sayadaw of thượng” cuả Ledi Sayadaw cuả Myanmar (1845-
Burma (1846-1923) was one of the greatest scholar- 1923) là một rong những nhà sư học giả và thiền sư vĩ
monks and meditation masters of the Theravada tradition đại nhất cuả truyền thống Therevada thời cận đại.
in recent times. He was the author of over seventy Ông là tác giả cuả hơn 70 sổ tay về các phương diện
manuals on different aspects of Theravada Buddhism, khác nhau của Phật giáo Therevada, gồm triết học,
including philosophy, ethics, meditation practice, and đạo đức học, tu tập thiền, và ngữ pháp Pali. Tika cuả
Pali grammar. His tika created a sensation in the field of ông đã tạo nên một hiện tượng chấn động trong lĩnh
Abhidhamma studies because he pointed out 325 places vực nghiên cứu Luận bởi vì ông chỉ ra 325 chỗ quan
in the esteemed Vibhavini-tika where he alleged that yếu trong Vibhavini-tika mà ông cho là có sai lầm và
errors and misinterpretations had occurred, though his hiểu sai, tuy nhiên sự phê bình cuả ông đã làm dấy lên
criticisms also set off a reaction in defense of the older phản ứng bảo vệ tác phẩm cổ hơn đó.
work.
 Ankura-Tika, by Vimala Sayadaw. This tika was Ankura-Tika, tác giả Vimala Sayadaw. Tika này đươc
written fifteen years after the publication of the viết 15 năm sau khi ấn hành quyển Paramatthadipani
Paramatthadipani and supports the commonly accepted và ủng hộ các ý kiến được rộng rãi chấp nhận về
opinions of the Vibhavini against Ledi Sayadaw's Vibhavini chống lại sư phê bình cuả Sayadaw,
criticisms.
 Navanita-Tika, by the Indian scholar Dhammananda Navanita-Tika, tác giả là học giả Ấn tên là
Kosambi, published originally in devanagari script in Dhammananda Kosambi, thoạt đầu xuất bản bằng chữ
1933. The title of this work means literally "The Butter devanagari vào 1993. Tưạ quyển sách theo nghiã đen
Commentary," and it is so called probably because it là “Luận văn Bơ”, và được gọi như vậy có lẽ là do nó
explains the Sangaha in a smooth and simple manner, giải thích Sangal bằng một cách trơn tru, gọn nhẹ,
avoiding philosophical controversy. tránh những tranh cãi có tính triết học
Outline of the Sangaha Sơ lược về Sangaha

The Abhidhammattha Sangaha contains nine chapters. It Quyển Abhidhammattha Sangaha có chín chương. Nó
opens by enumerating the four ultimate realities — mở đầu bằng cách liệt kê bốn thực thể tối thượng - ý
consciousness, mental factors, matter, and Nibbana. The thức, các yếu tố tinh thần, vật chất và Niết bàn. Phân
detailed analysis of these is the project set for its first six tích chi tiết các yếu tố này được đặt ra cho 6 chương
chapters. Chapter I is the Compendium of Consciousness, đầu. Chương I là Khái quát về Ý thức, định nghiã và
which defines and classifies the 89 and 121 cittas or phân loại 89 và 121 loại ý thức. Tầm bao quát cuả
types of consciousness. In scope this first chapter covers chương thứ nhất cũng đề cập cùng lĩnh vực như
the same territory as the States of Consciousness chapter chương các Trạng thái cuả Ý thức cuả tác phẩm

Page 20 of 24
Dhammasangani, nhưng khác về phương pháp. Tác
of the Dhammasangani, but it differs in approach. The phẩm kinh điển này bắt đầu với sự phân tích nhóm ba
canonical work begins with an analysis of the first triad đầu tiên trong matika, và do đó bắt đầu phân loại ý
in the matika, and therefore initially classifies thức trên cơ sở ba phẩm chất đạo đức cuả an lành
consciousness on the basis of the three ethical qualities of (wholesome), không an lành, và cái giưã hai cái trên
wholesome, unwholesome, and indeterminate; then (không quyết định); rồi trong phạm vi các phạm trù
within those categories it subdivides consciousness on đó nó phân nhỏ ý thức trên cơ sở bình diện thành
the basis of plane into the categories of sense sphere, những lĩnh vực giác quan, lĩnh vực vật chất tế vi, lãnh
fine-material sphere, immaterial sphere, and vực phi vật chất và siêu phàm. Còn Sangala, trái lại
supramundane. The Sangaha, on the other hand, not không bị ràng buộc vào matika, trước tiên chia ý thức
being bound to the matika, first divides consciousness on trên cơ sở bình diện và chia nhỏ nó trên cơ sở phẩm
the basis of plane, and then subdivides it on the basis of chất đạo đức.
ethical quality.
The second chapter, the Compendium of Mental Factors, Chương hai, Khái quát vế các Yếu tố tinh thần, trước
first enumerates the fifty-two cetasikas or concomitants tiên liệt kê 52 tâm sở - cetasika hay là các yếu tố tuỳ
of consciousness, divided into four classes: universals, thuộc cuả ý thức, được chia ra làm 4 lớp chung nhất,
occasionals, unwholesome factors, and beautiful factors. cá biệt, các yếu tố không an lành (bất tịnh) và các yếu
Thereafter the factors are investigated by two tố tốt đẹp. Sau đó các yếu tố được nghiên cứu bằng
complimentary methods: first, the method of association hai phương pháp bổ sung: trước tiên, phương pháp
(sampayoganaya), which takes the mental factors as the gắn kết (sampayoganaya), cho các yếu tố tinh thần
unit of inquiry and elicits the types of consciousness with như là một đơn vị tra vấn và gợi mở các loại ý thức
which they are individually associated; and second, the mà chúng trực tiếp gắn kết; và thứ hai phương pháp
method of inclusion or combination (sangahanaya), bao gồm hay gộp (sangahanaya), cho các loại ý thức
which takes the types of consciousness as the unit of là đơn vị tra vấn và gợi mở các yếu tố tinh thần thâm
inquiry and elicits the mental factors that enter into the nhập vào cơ cấu cuả nhau. Chương này cũng chủ yếu
constitution of each. This chapter again draws principally rút ra từ chương thứ nhất cuả bộ Pháp Tụ -
upon the first chapter of the Dhammasangani. Dhammasagani.
The third chapter, entitled Compendium of the Chương ba, có tên là Khái quát các vấn đề linh tinh,
Miscellaneous, classifies the types of consciousness xếp các loại ý thức cùng với các yếu tố cuả nó theo 6
along with their factors with respect to six categories: phạm trù: căn cội (hetu), cảm xúc (feeling), chức
root (hetu), feeling (vedana), function (kicca), door năng (kicca), cưả (dvara), đối tượng (arammana), và
(dvara), object (arammana), and base (vatthu). cơ sở (vatthu).
The first three chapters are concerned principally with Ba chương đầu liên quan chủ yếu đến cấu trúc cuả ý
the structure of consciousness, both internally and in thức, cả nội tại và trong mối quan hệ với các biến đổi
relation to external variables. In contrast, the next two bên ngoài. Trái lại hai chương tiếp theo đề cập đến sự
chapters deal with the dynamics of consciousness, that is, năng động cuả ý thức, tức là, với cách xuất hiện cuả
with its modes of occurrence. According to the chúng. Theo Luận, ý thức xuất hiện theo hai cách
Abhidhamma, consciousness occurs in two distinct but riêng biệt nhưng xoắn xuýt nhau - như quá trình tích
intertwining modes — as active process and as passive cực và luồng tiêu cực (âm - dương).Chương bốn
flow. Chapter IV explores the nature of the "cognitive nghiên cứu “quá trình cuả nhận thức” , Chương năm,
process," Chapter V the passive "process-freed" flow, luồng tiêu cực “siêu quá trình”, được khai mào bằng
which it prefaces with a survey of the traditional một nghiên cứu về vũ trụ học truyền thống Phật giáo.
Buddhist cosmology. The exposition here is largely Việc trình bày ở đây phần lớn dưạ vào các bản chú
based upon the Abhidhamma Commentaries. Chapter VI, giải về Luận. Chương VI, Khái quát về vật chất,
Compendium of Matter, turns from the mental realm to chuyển từ thế giới tinh thần sang thế giới vật chất.
the material world. Based primarily on the second Được căn cứ trụ yếu vào chương hai cuả Bộ Pháp Tụ
chapter of the Dhammasangani, it enumerates the types - Dhammasangani, nó liệt kê các loại hiện tượng vật
of material phenomena, classifies them in various ways, chất, phân loại chúng thành nhiều cách khác nhau, và
and explains their modes of origination. It also introduces giải thích các cách phát sinh cuả chúng. Nó cũng giới
the commentarial notion of material groups, which it thiệu các khái niệm có tính chất giải thích về các

Page 21 of 24
treats in detail, and describes the occurrence of material nhóm vật chất, trình bày chi tiết, và mô tả sự xuất
processes in the different realms of existence. This hiện cuả các quá trình vật chất trong các cảnh giới
chapter concludes with a short section on the fourth khác nhau cuả hiện thực. Chương này kết thúc với
ultimate reality, Nibbana, the only unconditioned element một phần nhỏ nói về bốn hiện thực tối thượng, Niết
in the system. bàn, yếu tố duy nhất không bị ràng buộc trong cả hệ
thống.
With the sixth chapter, Acariya Anuruddha has Với chương thứ sáu, Acariya Anuruddha đã hoàn tất
completed his analytical exposition of the four ultimate việc trình bày phân tích cuả mình về bốn thực thể tối
realities, but there remain several important subjects thượng, nhưng vẫn hãy còn mấy vấn đề quan trọng
which must be explained to give a complete picture of phải được giải thích để đem lại bức tranh toàn cảnh
the Abhidhamma. These are taken up in the last three cuả Luận. Điều này được thực hiện trong ba chương
chapters. Chapter VII, the Compendium of Categories, cuối. Chương VII, Khái quát về các phạm trù, sắp xếp
arranges the ultimate realities into a variety of categorical các thực thể tối thượng thành các bảng phạm trù đa
schemes that fall under four broad headings: a dạng dưới bốn tiêu đề: Khái quát về cấu (phiền não,
compendium of defilements; a compendium of mixed bất tịnh); khái quát về các phạm trù pha tạp, gồm các
categories, which include items of different ethical mục về các phẩm chất đạo đức khác nhau; khái quát
qualities; a compendium of the requisites of về tính nhất thiết cuả giác ngộ; và Khái quát về cái
enlightenment; and a compendium of the whole, an all- toàn thể, một khảo sát toàn diện về bản thể học cuả
inclusive survey of the Abhidhamma ontology. This Luận. Chương này dưạ gần như hẳn vào tác phẩm
chapter leans heavily upon the Vibhanga, and to some Vibhamga và trong chừng mực nào đó vào bộ Pháp
extent upon the Dhammasangani. Tụ - Dhammasangani.
Chapter VIII, the Compendium of Conditionality, is Chương VIII, Khái quát về Sự qui định (Triền
introduced to include the Abhidhamma teaching on the Phươc), được giới thiệu để gồm giáo lý cuả Luận về
inter-relatedness of physical and mental phenomena, mối quan hệ tương hỗ cuả các hiện tượng vật chất
thereby complementing the analytical treatment of the tinh thần, theo đó hoàn thành việc đề cập mang tính
ultimate realities with a synthetical treatment laying bare phân tích về các thực thể tối thượng với sự trình bày
their functional correlations. The exposition summarily tổng hợp phơi bày trần trụi các mối quan hệ tương hỗ
presents two alternative approaches to conditionality chức năng cuả chúng. Sự trình bày tóm lược cho thấy
found in the Pali canon. One is the method of dependent hai phuơng pháp luân phiên nhau đối với sự qui định
arising, prominent in the Suttas and analyzed from both được tìm thấy trong kho tàng kinh điển Pali. Một là
Suttanta and Abhidhamma angles in the Vibhanga (VI). phương pháp duyên sinh (phát sinh tuỳ thuộc), nổi bật
This method examines conditionality in terms of the trong Tạng Kinh và đươc phân tích dưới gốc độ Kinh
cause-and-result pattern that maintains bondage to và Luận trong tác phẩm Vibhanga (chương VI)..
samsara, the cycle of birth and death. The other is the Phương pháp này xem xét sự qui định về phương diện
method of the Patthana, with its twenty-four conditional mô hình nhân-và-quả cho rằng có sự ràng buộc với
relations. This chapter concludes with a brief account of samsara, vòng luân hồi sinh tử. Phương pháp khác là
concepts (paññatti), thereby drawing in the phương pháp Pattana, với hai mươi bốn mối quan hệ
Puggalapaññatti, at least by implication. qui định. Kết thúc chương này là một bài ngắn về các
khái niệm (pannatti), theo đó kéo theo cả
Puggalapannatti, ít nhất là hàm ý như vậy.
The ninth and final chapter of the Sangaha is concerned, Chương chín và chương cuối cùng, liên quan, không
not with theory, but with practice. This is the phải tới lý thuyết mà là thưc hành. Đây là chương
Compendium of Meditation Subjects. This chapter Khái quát về Các Chủ đề Thiền. Chương này đóng
functions as a kind of summary of the Visuddhimagga. It vai trò như là tóm tắt Visuddhimagga. Nó khảo sát cô
concisely surveys all the methods of meditation đọng các phương pháp thiền đươc giảng giải cặn kẽ
exhaustively explained in the latter work, and it sets forth trong tác phẩm sau, và đưa ra các bài viết cô động về
condensed accounts of the stages of progress in both các giai đoạn tiến bộ trong cả các hệ thống thiền, tập
systems of meditation, concentration and insight. Like trung và nội quan. Là tác phẩm chủ chốt , nó tóm tắt,
the masterwork it summarizes, it concludes with an nó kết luận với một bài viết về bốn dạng người giác
account of the four types of enlightened individuals and ngộ, các quả vị và chấm dứt luân hồi. Cách trình bày

Page 22 of 24
the attainments of fruition and cessation. This cuả tác phẩm Abhidhammattha Sangaha có lẽ dùng để
arrangement of the Abhidhammattha Sangaha perhaps nhấn mạnh việc cưú thế tối thượng cuả Luận. Tất cả
serves to underscore the ultimate soteriological intent of phân tích lý thuyết về tâm và vật cuối cùng hội tụ về
the Abhidhamma. All the theoretical analysis of mind thực hành thiền, và thực hành đi đến tột đỉnh trong sự
and matter finally converges upon the practice of đạt mục tiêu tối thượng cuả đạo Phật, giải thoát tâm
meditation, and the practice culminates in the attainment bằng vô chấp.
of the supreme goal of Buddhism, the liberation of the
mind by non-clinging.
Notes

1. Asl. 2; Expos., p. 3.

2. Asl. 2-3; Expos., pp. 3-4.

3. The Dhammasangani also includes a Suttanta matrix consisting of forty-two dyads taken from the Suttas.
However, this is ancillary to the Abhidhamma proper, and serves more as an appendix for providing succinct
definitions of key Suttanta terms. Moreover, the definitions themselves are not framed in terms of Abhidhamma
categories and the Suttanta matrix is not employed in any subsequent books of the Abhidhamma Pitaka.

4. See, for example, the following: A.K. Warder, Indian Buddhism, 2nd rev. ed. (Delhi: Motilal Banarsidass,
1980), pp. 218-24; Fumimaro Watanabe, Philosophy and its Development in the Nikayas and Abhidhamma
(Delhi: Motilal Banarsidass, 1983), pp. 18-67; and the article "Abhidharma Literature" by Kogen Mizuno in
Encyclopaedia of Buddhism, Fasc. 1 (Govt. of Ceylon, 1961).

5. Asl. 410; Expos., p. 519

6. Asl. 13; Expos., pp. 16-17

7. Asl. 16; Expos., p. 20

8. The first book of the Sarvastivadin Abhidharma, the Sangitiparyaya, is ascribed to Sariputta by Chinese
sources (but not by Sanskrit and Tibetan sources), while the second book, the Dharmaskandha, is ascribed to
him by Sanskrit and Tibetan sources (but not by Chinese sources). The Chinese canon also contains a work
entitled the Shariputra Abhidharma-Shastra, the school of which is not known.

9. These are reduced to the familiar eighty-nine cittas by grouping together the five cittas into which each path
and fruition consciousness is divided by association with each of the five jhanas.

10. The Yamaka, in its chapter "Citta-yamaka," uses the term khana to refer to the subdivision of a moment and
also introduces the uppada-khana and bhanga-khana, the sub-moments of arising and dissolution. However, the
threefold scheme of sub-moments seems to appear first in the Commentaries.

11. Ven. A. Devananda Adhikarana Nayaka Thero, in Preface to Paramattha-vinicchaya and Paramattha-
vibhavini-vyakhya (Colombo: Vidya Sagara Press, 1926), p. iii.

12. G.P. Malalasekera, The Pali Literature of Ceylon (Colombo: M.D. Gunasena, repr. 1958), pp. 168-70.
Malalasekera points out that James Gray, in his edition of Buddhaghosuppatti, gives a chronological list of
saintly and learned men of Southern India, taken from the Talaing records, and there we find Anuruddha
mentioned after authors who are supposed to have lived later than the seventh or eighth century. Since Bhadanta
Sariputta Mahasami compiled a Sinhala paraphrase of the Abhidhammattha Sangaha during the reign of

Page 23 of 24
Parakrama-Bahu the Great (1164-97), this places Anuruddha earlier than the middle of the twelfth century.

13. See the article "Anuruddha (5)" in Encyclopaedia of Buddhism, Fasc. 4 (Govt. of Ceylon, 1965). Ven
Buddhadatta's view is also accepted by Warder, Indian Buddhism, pp. 533-34.

14. This author is commonly confused with another Burmese monk called Chapada who came to Sri Lanka
during the twelfth century and studied under Bhadanta Sariputta. The case for two Chapadas is cogently argued
by Ven. A.P. Buddhadatta, Corrections of Geiger's Mahavamsa, Etc. (Ambalangoda: Ananda Book Co., 1957),
pp. 198-209.

Source: minhhanhdp.brinkster.net

Page 24 of 24

You might also like