You are on page 1of 18

MỞ ĐẦU

Tư tưởng và đạo đức Hồ Chí Minh là sự kết tinh những truyền thống tốt đẹp
của dân tộc ta và tinh hoa văn hoá của nhân loại, là tài sản tinh thần vô giá của
Đảng và nhân dân ta; là tấm gương sáng để mọi người Việt Nam học tập và noi
theo. Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về
những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng sáng tạo
chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, kế thừa truyền thống tốt
đẹp của dân tộc và tinh hoa văn hoá nhân loại nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng
giai cấp và giải phóng con người.
Sự nghiệp đổi mới ở nước ta đã đi qua chặng đường hơn 20 năm. Thành tựu
mà Đảng và nhân dân ta đạt được trong công cuộc đổi mới có ý nghĩa lịch sử vô
cùng to lớn. Qua hơn 20 năm đổi mới, mà trước hết là đổi mới tư duy, nhận thức lý
luận của Đảng về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Bên cạnh đó, là
đảng cầm quyền trong điều kiện hiện nay, Đảng càng phải vững mạnh, trong sạch
để đảm bảo sự phát triển liên tục của cách mạng và sự bền vững của chế độ. Hơn
bao giờ hết, Đảng cần quán triệt và vận dụng một cách sâu sắc tư tưởng Hồ Chí
Minh vào công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng để Đảng thật sự trong sạch, vững
mạnh, xứng đáng là đội tiên phong của giai cấp công nhân đồng thời là của toàn
dân tộc lãnh đạo đất nước đi đến mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh”.
Và để được tìm hiểu về tất cả những điều trên, nhóm tiểu luận chúng em xin
chọn đề tài: “Tìm hiểu sự vận dụng của Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản
trong việc chỉnh đốn và đổi mới Đảng hiện nay”. Đối tượng tìm hiểu là Tư Tưởng
Hồ Chí Minh và Đảng Cộng Sản Việt Nam với phương pháp nghiên cứu là phương
pháp duy vật biện chứng và phương pháp duy vật lịch sử. Làm cho toàn Đảng, toàn
dân nhận thức sâu sắc về những nội dung cơ bản và giá trị to lớn của tư tưởng đạo
đức và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Để thấy rõ được vai trò của Tư tưởng Hồ
Chí Minh đối với Đảng, làm cho toàn Đảng, toàn dân nhận thức sâu sắc về những
nội dung cơ bản và giá trị to lớn của tư tưởng đạo đức và tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh, đặc biệt trong cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, đoàn viên, thanh
niên, học sinh... nâng cao đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô
tư; đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và các tệ nạn xã hội,
góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội X của Đảng.
Kết cấu của bài tiểu luận được chia làm 3 chương:
+ Chương 1: Nội Dung Tư Tưởng Hồ Chí Minh Về Đảng Cộng Sản Việt
Nam
+ Chương 2: Vận Dụng Tư Tưởng Hồ Chí Minh Trong Việc Chỉnh Đốn và
Đổi Mới Đảng Hiện Nay
+ Chương 3: Vận Dụng Tư Tưởng Đạo Đức Hồ Chí Minh Trong Giáo Dục
Cán Bộ, Đảng Viên Hiện Nay
1
NỘI DUNG
Chương 1: Nội Dung Tư Tưởng Hồ Chí Minh Về Đảng Cộng Sản Việt Nam

Những luận điểm chủ yếu của Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam:
1.1. Đảng Cộng sản là nhân tố quyết định hàng đầu đưa cách mạng Việt Nam
đến thắng lợi:
Tiếp thu, vận dụng Chủ Nghĩa (CN) Mác-Lênin, Hồ Chí Minh không chỉ
nhận thức rõ vai trò, sức mạnh của quần chúng nhân dân mà còn phát hiện rằng sức
mạnh của quần chúng chỉ có thể phát huy đầy đủ, đúng đắn khi có sự lãnh đạo của
một đảng cách mạng chân chính. Từ đó người khẳng định rằng muốn làm cách
mạng “trước hết phải có Đảng cách mạng để trong thì vận động, tổ chức dân chúng,
ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản ở mọi nơi. Đảng có vững
cách mạng mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy”.[2]
Người khẳng định Đảng Cộng sản là nhân tố quyết định hàng đầu để đưa cách
mạng Việt Nam đến thắng lợi. Đảng có trách nhiệm giác ngộ, tập hợp, tổ chức nhân
dân đấu tranh thực hiện giải phóng dân tộc và xây dựng xã hội mới. Đường lối đó
phải là CN Mác-Lênin được vận dụng sáng tạo, phù hợp với điều kiện thực tiễn
Việt Nam.
Vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, tính quyết định hàng đầu từ
sự lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng Viêt Nam đã được thực tế lịch sử chứng
minh, không có một tổ chức chính trị nào có thể thay thế được. Mọi mưu toan
nhằm hạ thấp hoặc nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam,
đều xuyên tạc lịch sử thực tế cách mạng dân tộc ta. Trái với mặt lý luận cũng như
thực tiễn, đều đi ngược lại với xu thế phát triển của xã hội Việt Nam.[1]

1.2. Đảng Cộng Sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp Chủ Nghĩa Mác –
Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước:
Là người hiểu rất rõ đặc điểm tình hình Việt Nam là một nước thuộc địa nửa
phong kiến, kinh tế nông nghiệp lạc hậu, Hồ Chí Minh cho rằng nếu kết hợp CN
Mác-Lênin với phong trào công nhân thì chưa đủ, vì giai cấp công nhân còn nhỏ
bé, phong trào công nhân còn non yếu.[2] Trong khi đó, phong trào yêu nước rất
mãnh liệt của nhân dân Việt Nam đã được hình thành qua hàng nghìn năm dựng
nước và giữ nước, vì vậy phải kết hợp với phong trào yêu nước của đông đảo quần
chúng. Do đó đã tổng kết và khái quát: CN Mác-Lênin kết hợp với phong trào công
nhân và phong trào yêu nước đã dẫn đến việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
vào đầu năm 1930.
Hồ Chí Minh nêu thêm yếu tố phong trào yêu nước, coi đó là một trong ba
yếu tố kết hợp dẫn đến việc hình thành Đảng Cộng sản Việt Nam vì:

2
+ Một là, phong trào yêu nước có vị trí, vai trò cực kỳ to lớn trong quá trình
phát triển của dân tộc Việt Nam.
+ Hai là, phong trào công nhân kết hợp được với phong trào yêu nước bởi vì
hai phong trào đó đều có mục tiêu chung.
+ Ba là, phong trào nông dân kết hợp với phong trào công nhân
+ Bốn là, phong trào yêu nước của trí thức Việt Nam là nhân tố quan trọng
thúc đẩy sự kết hợp các yếu tố cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.[1]

1.3. Đảng Cộng sản Việt Nam – Đảng của giai cấp công nhân, của nhân dân lao
động và của dân tộc Việt Nam:
Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân, đồng thời là Đảng
của dân tộc Việt Nam. Tại Đại hội II của Đảng, Hồ Chí Minh đã khẳng định: trong
giai đoạn này quyền lợi của giai cấp công nhân và nhân dân lao động và của cả dân
tộc là một. Chính vì Đảng Lao động Việt Nam là đảng của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động, cho nên nó phải là Đảng của dân tộc Việt Nam.
Nói Đảng của giai cấp đồng thời là của dân tộc, song không có nghĩa là
“Đảng toàn dân” không mang bản chất giai cấp, mà đó là Đảng mang bản chất giai
cấp công nhân Sở dĩ có đặc trưng đó là vì khác hẳn các chính đảng của giai cấp bóc
lột, giai cấp công nhân có lợi ích thống nhất với lợi ích của nhân dân lao động và
lợi ích của toàn dân tộc. Hồ Chí Minh khẳng định rõ mục đích của Đảng là “làm tư
sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Đảng
liên kết với những dân tộc bị áp bức và quần chúng vô sản trên thế giới.
Theo Hồ Chí Minh cái quyết định bản chất giai cấp công nhân của đảng
không phải chỉ ở số lượng đảng viên xuất thân từ công nhân, mà cơ bản là nền tảng
tư tưởng của Đảng là CN Mác-Lênin. Mục tiêu, đường lối của Đảng thực sự vì mục
tiêu độc lập dân tộc gắn liền với Chủ nghĩ xã hội (CNXH), vì sự nghiệp giải phóng
dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người. Đảng không chỉ kết nạp những
người ưu tú trong giai cấp công nhân mà còn kết nạp cả những người ưu tú trong
giai cấp nông dân, trong đội ngũ trí thức và các thành phần khác đã được giác ngộ,
tự giác đứng trên lập trường của giai cấp công nhân.
Bản chất giai cấp công nhân của Đảng còn thể hiện ở chỗ Đảng được xây
dựng theo những nguyên tắc Đảng kiểu mới của giai cấp vô sản, trong đó lấy tự
phê bình và phê bình làm quy luật phát triển Đảng và Đảng ta là một bộ phận trung
thành của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.[2]

1.4. Đảng Cộng sản Việt Nam lấy Chủ nghĩa Mác – Lênin “làm cốt”:
Để đạt mục tiêu cách mạng, Hồ Chí Minh chỉ rõ: phải dựa vào lý luận cách
mạng và khoa học của CN Mác – Lênin. Hồ Chí Minh đã khẳng định Đảng ta phải
lấy CN Mác-Lênin “làm cốt”. Từ năm 1927, trong tác phẩm “Đường Kách mệnh”
Người đã chỉ rõ: “Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai
cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng
3
như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam. Bây giờ học thuyết nhiều,
chủ nghĩa nhiều, những chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất
là chủ nghĩa Lênin.”[2]
CN Mác-Lênin chính là học thuyết khoa học “chân chính nhất, cách mạng
nhất”, vì nó chỉ ra cho Đảng mục tiêu, con đường thực hiện sứ mệnh giải phóng
giai cấp công nhân, nhân dân lao động và giải phóng dân tộc, xoá bỏ áp bức bất
công, xây dựng một chế độ xã hội mới tốt đẹp.
Trong việc tiếp cận và vận dụng CN Mác – Lênin, Hồ Chí Minh lưu ý những
điểm sau đây:
+ Một là: việc học tập, nghiên cứu, tuyên truyền CN Mác – Lênin phải luôn
phù hợp với hoàn cảnh và phù hợp với từng đối tượng.
+ Hai là: việc vận dụng CN Mác – Lênin phải luôn luôn phù hợp với từng
hoàn cảnh.
+ Ba là: Trong quá trình hoạt động, Đảng ta phải chú ý học tập, kế thừa
những kinh nghiệm tốt của các đảng cộng sản khác, đồng thời Đảng ta phải tổng
kết kinh nghiệm của mình để bổ sung CN Mác – Lênin.
+ Bốn là: Đảng ta phải tăng cường đấu tranh để bảo vệ sự trong sáng của CN
Mác – Lênin.[1]
Lấy CN Mác-Lênin “làm cốt”, theo HCM không có nghĩa là giáo điều, máy
móc theo từng câu từng chữ mà chính là nắm vững tinh thần, nắm vững lập trường,
quan điểm và phương pháp của CN Mác-Lênin, vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ
thể của VN để hoạch định đường lối đúng đắn, đưa cách mạng đi tới thắng lợi.

1.5. Đảng Cộng sản Việt Nam phải được xây dựng theo những nguyên tắc đảng
kiểu mới của giai cấp vô sản:
Tiếp thu, vận dụng những nguyên lý về xây dựng Đảng kiểu mới của giai cấp
vô sản do Lênin đề ra, Hồ Chí Minh đã nêu lên những nguyên tắc xây dựng đảng:
+ Một là: Nguyên tắc tập trung dân chủ, đây là nguyên tắc cơ bản nhất để
xây dựng Đảng, không biến Đảng thành một câu lạc bộ. Đây chính là nguyên tắc tổ
chức của Đảng. Dân chủ và tập trung có quan hệ gắn bó và thống nhất với nhau,
dân chủ để đi đến tập trung, là cơ sở của tập trung, tập trung trên cơ sở dân chủ.
Người nhấn mạnh đến việc phát huy dân chủ nội bộ, vì có dân chủ trong
đảng mới có thể nói đến dân chủ trong xã hội, mới định hướng cho việc xây dựng
một chế độ dân chủ.
+ Hai là: Nguyên tắc tập thể lãnh đạo cá nhân phụ trách: Đây là nguyên tắc
lãnh đạo của Đảng. Việc gì đã được tập thể bàn bạc kĩ lưỡng, kế hoạch đã được
định rõ thì giao cho một người phụ trách, như thế công việc mới chạy, mới tránh
được thói dựa dẫm, người này ỷ vào người kia, ỷ vào tập thể. Người kết luận: Lãnh
đạo không tập thể thì sẽ đi đến cái tệ bao biện, độc đoán chủ quan, kết quả là hỏng
việc. Phụ trách không do cá nhân, thì sẽ đi đến cái tệ bừa bãi, lộn xộn vô chính phủ.

4
Kết quả cũng là hỏng việc. Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách phải luôn đi đôi với
nhau.
+ Ba là: Nguyên tắc tự phê bình và phê bình: Hồ Chí Minh coi đây là nguyên
tắc sinh hoạt của Đảng, là quy luật phát triển của đảng.
Tự phê bình và phê bình không những là vấn đề của khoa học cách mạng, mà
còn là của nghệ thuật. Người lưu ý cán bộ đảng viên và các cấp bộ đảng không
những phải luôn luôn dùng mà còn phải “khéo dùng” cách phê bình và tự phê bình,
và đòi hỏi mỗi người phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau.
+ Bốn là: Nguyên tắc kỉ luật nghiêm minh và tự giác:
Yêu cầu cao nhất của kỉ luật Đảng là chấp hành các chủ trương, nghị quyết
của Đảng và tuân thủ các nguyên tắc tổ chức, lãnh đạo và sinh hoạt Đảng, các
nguyên tắc xây dựng Đảng. Mỗi Đảng viên dù ở cương vị nào, mỗi cấp uỷ dù ở cấp
bộ nào cũng phải nghiêm túc chấp hành kỉ luật của các đoàn thể và pháp luật của
nhà nước.
+ Năm là: Nguyên tắc đoàn kết thống nhất trong Đảng:
Hồ Chí Minh nêu rõ, xây dựng sự đoàn kết thống nhất trong Đảng là nhiệm
vụ của toàn Đảng, của mỗi cán bộ Đảng viên để là nòng cốt cho việc xây dựng sự
đoàn kết thống nhất trong nhân dân, xây dựng nên khối đoàn kết vững chắc, đảm
bảo cho thắng lợi. Để xây dựng sự đpoàn kết thống nhất trong Đảng Người yêu cầu
phải thực hiên và mở rộng dân chủ nội bộ, thường xuyên thực hiện phê bình và tự
phê bình, thờng xuyên tu dưỡng đạo đức CM, chống chủ nghĩa cá nhân, chống
tham ô, lãng phí, quan liêu, bè cánh, cơ hội, dối trá, chạy theo chức quyền danh lợi.

1.6. Tăng cường và củng cố mối quan hệ bền chặt giữa Đảng với dân:
Vai trò lãnh đạo của Đảng là do dân ủy thác cho. Đảng lãnh đạo, dân làm
chủ. Chính vì thế, Hồ Chí Minh nêu lên những luận điểm nổi tiếng trong bản Di
chúc:”Đảng ta phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành
của nhân dân.
Hồ Chí Minh nêu lên những yêu cầu về tăng cường mối quan hệ chặt chẽ
giữa Đảng với nhân dân:
+ Một là, Đảng thường xuyên lắng nghe ý kiến của nhân dân, hiểu rõ tâm tư
nguyện vọng của nhân dân.
+ Hai là, thường xuyên vận động nhân dân tham gia xây dựng Đảng bằng
mọi hình thức: bằng việc tích cực thực hiện đường lối chủ chương của Đảng.
+ Ba là, Đảng có trách nhiệm nâng cao dân trí. Không thể có một Đảng tri
tuệ nếu nền dân trí thấp.
+ Bốn là, trong quan hệ với dân, đảng “không được theo đuôi quần chúng”.
[1]
Đảng vừa là người lãnh đạo, vừa là đầy tớ thật trung thành của nhân dân.
Phải thường xuyên chăm lo củng cố mối quan hệ máu thịt giữa Đảng và dân.

5
Hai mặt lãnh đạo và đầy tớ không tách rời nhau, không đối lập nhau, lãnh
đạo có nghĩa là làm đầy tớ. Đảng cầm quyền lại càng phải ý thức thật sâu sắc mình
là đầy tớ nhân dân, chứ không phải người chủ của nhân dân, tự cho phép mình
đứng trên dân trên nhà nước, trên pháp luật.
Đảng không có quyền lợi gì của riêng mình ngoài quyền lợi của giai cấp, của
dân tộc. Đảng ở trong dân, trong lòng dân, Đảng phải lấy dân làm gốc.

1.7. Đảng phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn:


Đảng ta đóng vai trò lãnh đạo toàn xã hội và trong thực tế mấy chục năm qua
đã được nhân dân tin yêu vì “Đảng là đạo đức, là văn minh”, tiêu biểu cho trí tuệ,
danh dự và lương tâm của dân tộc. Nhưng Đảng sẽ mất vai trò lãnh đạo toàn xã hội
và không được nhân dân tín nhiệm nữa nếu Đảng yếu kém, không trong sạch,
không vững mạnh. Hồ Chí Minh nêu rõ: “Một dân tộc, một Đảng và mỗi con
người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và
ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng
nữa, nếu xa vào chủ nghĩa cá nhân”.[1]
Chỉnh đốn và đổi mới Đảng là nhằm làm cho Đảng thật sự trong sạch vững
mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, làm cho đội ngũ cán bộ, Đảng viên
không ngừng nâng cao phẩm chất và năng lực trước những yêu cầu và nhiệm vụ
cách mạng.
Đối với toàn Đảng, mỗi cán bộ, Đảng viên đều chịu ảnh hưởng của xã hội cả
cái tốt và cái xấu, cái hay và cái dở. Chỉ có thể phát huy được cái tốt, cái hay, lọc
bỏ được cái xấu, cái dở bằng việc rèn luyện thường xuyên của mỗi cán bộ, Đảng
viên thường xuyên chú ý đến việc chỉnh đốn Đảng trong điều kiện Đảng đã trở
thành Đảng cầm quyền, Hồ Chí Minh coi việc xây dựng Đảng, chỉnh đốn Đảng là
công việc thường xuyên của Đảng.[2]
Những luận điểm trên đây về công tác xây dựng Đảng của Hồ Chí Minh thực
sự là một chân lí phản ánh đúng thực tiễn và đã được thực tiễn kiểm nghiệm.
Đất nước đang tiến hành đẩy mạnh công ghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng Đảng
trong sạch vững mạnh càng trở thành một nhiệm vụ then chốt của toàn Đảng, toàn
dân, toàn quân ta. Trong đó cần tập trung thực hiện những nhiệm vụ sau đây:
+ Một là: phải nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác giáo dục chính trị tư
tưởng, rèn luyện dạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân.
+ Hai là, phải đẩy mạnh xây dựng, kiện toàn và tăng sức chiến đấu của tổ
chức cơ sở Đảng, gắn với xây dựng chính quyền, mặt trận, các đoàn thể cơ sở và
phong trào cách mạng của quần chúng.
+ Ba là, Tiếp tục đổi mới công tác cán bộ: Trong đó chú ý đổi mới phương
pháp đánh giá cán bộ; làm tốt công tác quy hoạch, tạo nguồn, luân chuyển cán bộ...
Nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng về lý luận chính trị, chuyên môn, nghiệp
vụ, năng lực quản lý điều hành, phương pháp công tác và thái độ phục vụ nhân dân.

6
+ Bốn là, đẩy mạnh công tác nghên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, tiếp tục
đổi mới phương thức lãnh đạo của đảng: Tiếp tục làm rõ những vấn đề về CNXH
và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam trong điều kiện mới.
Thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ nêu trên, chính là thiết thực đã góp
phần xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh.

Chương 2: Vận Dụng Tư Tưởng Hồ Chí Minh Trong Việc Chỉnh Đốn và
Đổi Mới Đảng Hiện Nay

Trong bản Di chúc thiêng liêng, Bác Hồ đã dặn lại toàn Đảng, toàn quân và
toàn dân ta những công việc phải làm khi Tổ quốc đã thống nhất, trong đó có
nhiệm vụ đổi mới và chỉnh đốn Đảng. Bác viết: ''Công việc trên đây là rất to lớn,
nặng nề và phức tạp, và cũng là rất vẻ vang. Đây là một cuộc chiến đấu chống lại
những cái gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt hơn''. Người còn
chỉ rõ: “Theo ý tôi, việc cần phải làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng, làm cho mỗi
đảng viên, mỗi đoàn viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm tròn nhiệm vụ Đảng giao phó
cho mình, toàn tâm, toàn ý phục vụ nhân dân. Làm được như vậy, thì dù công việc
to lớn mấy, khó khăn mấy, chúng ta cũng nhất định thắng lợi”.
Là người sáng lập Đảng cộng sản Việt nam, Hồ Chí Minh đã xây dựng và
rèn luyện Đảng cộng sản thành một đảng cách mạng chân chính, bộ tham mưu sáng
suốt và kiên cường của giai cấp công nhân và dân tộc Việt nam. Trong những di
sản tư tưởng mà người để lại, những luận điểm của người về Đảng cộng sản, về xây
dựng đảng đặc biệt trong điều kiện Đảng lãnh đạo chính quyền là một phần cực kỳ
quan trọng.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam bắt nguồn từ học thuyết
của Mác về Đảng Cộng sản và trực tiếp từ học thuyết của Lênin về Đảng kiểu mới
của giai cấp công nhân. Nhưng xuất phát từ những điều kiện lịch sử cụ thể của Việt
nam, Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo học thuyết ấy để đưa đến việc thành lập
Đảng Cộng sản Việt Nam vào năm 1930.
Từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Mác - Lênin. Người đã kết hợp
chặt chẽ các vấn đề dân tộc và giai cấp, chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế
vô sản không những trong nhận thưc lý luận mà còn ở trong hoạt động thực tiển
cách mạng rất phong phú. Người đã sáng lập Đảng cộng sản Việt nam, đó là sản
phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong
trào yêu nước, lấy chủ nghĩa Mác-Lênin " làm cốt", Đảng là nhân tố quyết định
hàng đầu để đưa cách mạng Việt nam đi đến thắng lợi.

7
Đảng Cộng sản Việt Nam được xây dựng theo những nguyên tắc của đảng
kiểu mới của giai cấp vô sản. Hồ chí Minh đã đề cập những nguyên tắc xây dựng
Đảng như sau:
2.1. Tập chung dân chủ:
Đây là nguyên tắc cơ bản nhất để xây dựng Đảng cộng sản thành một tổ chức
chiến đấu chặt chẽ, vừa phát huy sức mạnh của mỗi người, vừa phát huy sức mạnh
của tất cả những ai đã tự nguyện gắn bó với nhau trong một tổ chức.
Theo Hồ Chí Minh, dân chủ và tập trung là hai mặt có quan hệ gắn bó và
thống nhất vơí nhau trong một nguyên tắc.
Dân chủ để đi đến tập trung, là cơ sở của tập trung, chứ không phải là dân
chủ theo kiểu phân tán, tùy tiện vô tổ chức. Tập trung là trên cơ sở dân chủ, chứ
không phải tập trung quan liêu theo kiểu độc đoán chuyên quyền.
Về tập trung, Người nhấn mạnh: phải thống nhất về tư tưởng, tổ chức, hành
động. Do đó thiêủ số phải phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, mọi đảng
viên phải chấp hành nghị quyết của Đảng. Từ đó làm cho "Đảng ta tuy nhiều người,
nhưng khi tiến đánh thì chỉ như một người".[2]
Người đặc biệt nhấn mạnh đến việc thực hiện và phát huy dân chủ nội bộ, vì
nếu không có dân chủ nội bộ thì sẽ làm cho nội bộ của Đảng âm u. Hơn nữa có dân
chủ trong Đảng, mới có thể nói đến dân chủ trong xã hội, mới định hướng cho việc
xây dựng một chế độ dân chủ triệu lần hơn chế độ tư bản chủ nghĩa.

2.2. Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách:


Theo Hồ chí Minh đây là nguyên tắc lãnh đạo của Đảng. Theo Người một
người dù tài giỏi đến mấy cũng không thể thấy hết mọi mặt của một vấn đề, càng
không thể thấy hết được mọi việc, hiễu hết được mọi chuyện. Vì vậy, cần phải có
nhiều người cùng tham gia lãnh đạo. Nhiều người thì nhiều kiến thức, người thấy
mặt nầy, người thấy mặt kia, do đó hiễu được mọi mặt, mọi vấn đề. Ý nghĩa của tập
thể lãnh đạo rất đơn giản: dại bầy hơn khôn độc.
Về cá nhân phụ trách, Người chỉ rõ việc gì đã được tập thể bàn bạc kỹ lưỡng,
kế hoạch đã được định rõ thì cần giao cho một người phụ trách, nếu giao cho một
nhóm người thì cũng phải có một người phụ trách chính. Như thế công việc mới
chạy, mới tránh được thói dựa dẫm, người nầy ỷ vào người kia, ỷ vào tập thể.
Không xác định rõ cá nhân phụ trách, thì giống như nhiều sãi không ai đóng cửa
chùa.
Đối với nguyên tắc nầy Người đã kết luận: Lãnh đạo không tập thể, thì sẽ đi
đến cái tệ bao biện, độc đoán, chủ quan. Kết quả là hỏng việc.[2]
Phụ trách không do cá nhân, thì sẽ đi đến cái tệ bừa bãi lộn xộn, vô chính phủ. Kết
quả cũng là hỏng việc.
Tập thể lãnh đạo cá nhân phụ trách cần phải luôn luôn đi đôi với nhau.

8
2.3. Tự phê bình và phê bình:
Hồ chí Minh coi nguyên tắc nầy là nguyên tác sinh hoạt của Đảng, là luật
phát triển của Đảng. Người cho rằng mỗi đảng viên trước hết tự mình phải thấy rõ
mình, để phát huy ưu điểm, khắc phục khuyết điểm, cũng giống như phải tự soi
gương rửa mặt hàng ngày. Hơn nữa, biết tự phê bình tốt thì mới phê bình người
khác tốt được.
Người xem tự phê bình và phê bình là vũ khí để nâng cao trình độ lãnh đạo
của đảng. Người đã thẳng thắn vạch rõ một đảng mà dấu diếm khuyết điểm của
mình là một đảng hỏng. Một đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ
khuyết điểm, nguyên nhân và hoàn cảnh đưa đến khuyết điểm rồi tìm cách sữa
chữa khuyết điểm đó. Như thế mới là một đảng tiến bộ, mạnh dạn chắc chắn và
chân chính. Người lưu ý, muốn thực hiện tốt tự phê bình và phê bình đòi hỏi mỗi
người phải trung thật, chân thành với bản thân mình cũng như với người khác.
Người đã phê phán những thái độ lệch lạc, sai trái thường xẩy ra trong tự phê bình
và phê bình như thiếu trung thực, che dấu khuyết điểm của bản thân, sợ phê bình,
không dám phê bình, nể nang, né tránh, dĩ hòa vi quý, hoặc ngược lại lợi dụng phê
bình để nói xấu, bôi nhọ, vùi dập, đả kích người khác…
Trên cơ sở tổng kết hai năm thực hiện cuộc vận động xây dựng chỉnh đốn
Đảng, tiếp tục đưa việc tự phê bình và phê bình trong các cấp ủy và tổ chức Đảng
từ Trung ương đến cơ sở thành nề nếp thường xuyên và theo định kỳ.
Đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng, quan liêu làm trong sạch đội
ngũ đảng viên. Cán bộ đảng viên ở bất cứ cương vị nào đều phải chấp hành nghiêm
chỉnh Cương lĩnh, Điều lệ, Nghị quyết của đảng và pháp luật của Nhà nước. Thi
hành kỷ luật nghiêm khắc mọi vi phạm về nguyên tắc, nhất là đối với những vấn đề
quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng.[1]

2.4. Kỷ luật là phải nghiêm minh và tự giác:


Hồ chí Minh rất coi trọng việc xây dựng một kỷ luật nghiêm minh và tự giác
trong Đảng để tạo nên sức mạnh to lớn của Đảng.
Nghiêm minh là thuộc tổ chức Đảng, vì đó là kỷ luật đối với mọi cán bộ
đảng viên, không phân biệt cán bộ lãnh đạo cao hay thấp, là cán bộ lãnh đạo hay
đảng viên thường, mọi cán bộ đảng viên đều bình đẳng trước kỷ luật của Đảng.
Tự giác là thuộc về mỗi cá nhân cán bộ, đảng viên đối với Đảng, là do lòng
tự giác của đảng viên về nhiệm vụ của họ đối với đảng.
Yêu cầu cao nhất của kỹ luật Đảng là chấp hành các chủ trương, nghị quyết
của Đảng và tuân thủ các nguyên tắc tổ chức, lãnh đạo và sinh hoạt Đảng, các
nguyên tắc xây dựng Đảng. Có như vậy, Đảng mới là một khối thống nhất về tư
tưởng và hành động. Nếu không có kỷ luật, không thống nhất về tư tưởng và hành
động, Đảng sẽ xệch xoạc, ý kiến lung tung, kỷ luật lỏng lẽo, công việc bế tắt.[2]

9
Từ việc tuân thủ kỷ luật của Đảng, mỗi đảng viên dù ở cương vị nào, mỗi
cấp ủy dù ở cấp bộ nào cũng phải nghiêm túc chấp hành kỷ luật của các đoàn thể và
pháp luật của Nhà nước, tuyệt đối không ai được cho phép mình coi thường, thậm
chí đứng trên tất cả.
Tăng cường công tác kiểm tra của các cấp ủy, của ủy ban kiểm tra các cấp,
tập trung vào các nội dung chủ yếu: thực hiện các Nghị quyết, chủ trương, chính
sách của đảng và Nhà nước, chấp hành nguyên tắc tập trung dân chủ và quy chế
làm việc; củng cố đoàn kết nội bộ, giáo dục, rèn luyện, nâng cao phẩm chất, đạo
đức cách mạng của cán bộ, đảng viên.

2.5. Đoàn kết thống nhất trong Đảng:


Hồ chí Minh đặc biệt quan tâm đến việc xây dựng sự đoàn kết thống nhất
trong đảng cũng như khối đại đoàn kết toàn dân. Phải xây sự đoàn kết thống nhất
trong Đảng để làm nòng cốt cho việc xây dựng sự đoàn kết thống nhất trong nhân
dân.
Cơ sở để xây dựng sự đoàn kết thống nhất trong Đảng chính là đường lối,
quan điểm của Đảng và điều lệ Đảng. Đây là cơ sở để tạo nên sự thống nhất về tư
tưởng, về tổ chức, từ đó có sự thống nhất về hành động của toàn Đảng nhằm đưa
đường lối, quan điểm của Đảng vào cuộc sống, biến các chủ trương của đảng thành
hành động cách mạng của quần chúng nhân dân.
Để xây dựng sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, Người thường nêu những
yêu cầu như: phải thực hiện và mở rộng dân chủ nội bộ để cán bộ đảng viên có thể
tham gia bàn bạc đến nơi đến chốn những vấn đề hệ trọng của Đảng, thực hiện tự
phê bình và phê bình, tình thương yêu đồng chí, chống chủ nghĩa cá nhân, thường
xuyên tu dưỡng đạo đức cách mạng,...
Tư tưởng HCM về Đảng cộng sản, về nguyên tác xây dựng Đảng đã chỉ đạo
cho việc xây dựng Đảng cộng sản Việt nam thật sự là một Đảng Macxit-Leninit
chân chính, Đảng của Hồ chí Minh đã làm tròn sứ mệnh lịch sử vẻ vang và trách
nhiệm nặng nề trước dân tộc, đồng thời có những đóng góp tích cực vào phong trào
cách mạng thế giới
Sự nghiệp đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo 17 năm qua đã giành
được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa rất quan trọng: chính trị - xã hội ổn định,
an ninh quốc phòng giữ vững, kinh tế phát triển, đời sống của nhân dân được cải
thiện, quan hệ của Việt nam với thế giới được mở rộng, vị thế của nước ta trên
trường quốc tế được nâng cao..Việt nam đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội kéo
dài, vượt qua chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ để bước vào thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Những thành tựu của công cuộc đổi mới gắn
liền với sự trưởng thành của Đảng, những tồn tại, yếu kém trên nhiều lĩnh vực đòi
hỏi phải khắc phục.

10
Đã có nhiều Nghị quyết đặt ra những yêu cầu trong công tác xây dựng Đảng
trong tình hình mới. Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm vẫn tồn tại không ít
khuyết điểm, đáng chú ý là những khuyết điểm về công tác giáo dục rèn luyện đội
ngũ cán bộ, đảng viên, sự suy thoái về chính trị và đạo đức, lối sống của một bộ
phận cán bộ đảng viên ở mọi cấp mọi ngành lại đang có chiều hướng trở thành phổ
biến hơn, nghiêm trọng hơn. Tham những trở thành quốc nạn. Bệnh quan liêu với
nhiều biểu hiện khác nhau đã làm tổn thương không nhỏ đối với mối quan hệ của
Đảng, Nhà nước với dân. Vì vậy, hội nghị lần thứ sáu (lần hai) Ban chấp hành
trung ương khóa VIII đã ra Nghị quyết "Về một số vấn đề cơ bản và cấp bách trong
công tác xây dựng Đảng hiện nay". Nghị quyết đã đề cập nhiều vấn đề lớn: quan
điểm tư tưởng chính trị, việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, chế độ tự phê
bình, phê bình trong đảng” vấn đề giáo dục chính trị, đạo đức, lối sống, chống tham
những, quan liêu... Hội nghị chủ trương phát động “Cuộc xây dựng chỉnh đốn
Đảng” trong hai năm 1999-2001. Qua hai năm thực hiện cuộc vận động thu được
một số kết quả và kinh nghiệm bước đầu song chưa đạt yêu cầu đề ra. Nghị quyết
đại hội đai biểu trung ương lần IX đã nêu: Trong những năm tới toàn Đảng tiếp tục
thực hiện các nghị quyết về xây dựng Đảng, nhất là Nghị quyết Trung ương 6(lần
hai) khóa VIII, tập trung làm tốt những công tác quan trọng sau đây:
Xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo Tư tưởng Hồ Chi Minh trên cả ba mặt tư
tưởng, chính trị và tổ chức làm cho Đảng trong sạch, vững mạnh đang là một yêu
cầu bức xúc của toàn Đảng, toàn dân ta.
Xây dựng, chỉnh đốn Đảng về tư tưởng là làm cho hệ thống lý luận của Chủ
nghĩa Mác - Lê nin, Tư tưởng Hồ Chí Minh thật sự trở thành nền tảng tư tưởng và
kim chỉ nam cho hành động của toàn Đảng, toàn dân ta, giữ vững và tăng cường
bản chất giai cấp công nhân của Đảng. Tại lớp huấn luyện đảng viên mới của
Thành uỷ Hà Nội, ngày 14-5-1966. Bác Hồ nói: ''Để lãnh đạo cách mạng, Đảng
phải mạnh. Đảng mạnh là do chi bộ tốt, chi bộ tốt là do các đảng viên đều tốt.
Muốn xây dựng chi bộ "bốn tốt'' thì phải bồi dưỡng lập trường vô sản cho
đảng viên. Muốn có lập trường vô sản vững chắc thì đảng viên phải có ý thức giai
cấp, đồng thời phải có lý luận cách mạng. Không có lý luận về chủ nghĩa xã hội
khoa học thì không thể có lập trường giai cấp vững vàng.
Xây dựng, chỉnh đốn Đảng về chính trị là kiên định con đường mà Đảng và
Bác Hồ đã lựa chọn, giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Trong
những bài học mà Đại hội VIII của Đảng đã tổng kết sau mười năm đổi mới, bài
học về giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội được đưa lên hàng
đầu. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là bài học xuyên suốt trong lịch
sử lãnh đạo cách mạng của Đảng ta.
Xây dựng và chỉnh đốn Đảng về tổ chức là tăng cường sức chiến đấu của
Đảng từ Trung ương đến cơ sở. Đại hội VIII của Đảng nhận định: “Tổ chức cơ sở
Đảng ở nhiều nơi yếu kém, phương thức lãnh đạo và sinh hoạt lúng túng, có trình
trạng vừa kém dân chủ, vừa thiếu kỷ luật, kỷ cương. Một số cán bộ và cấp uỷ chưa

11
tôn trọng và thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, bệnh quan liêu, độc đoán, cục
bộ, địa phương, kèn cựa, địa vị, cá nhân chủ nghĩa rất nặng. Không ít nơi nội bộ
mất đoàn kết nghiêm trọng”
Xây dựng đội ngũ cán bộ trước hết là cán bộ lãnh đạo và quản lý ở các cấp,
vững vàng về chính trị gương mẫu về đạo đức, trong sạch về lối sống, có trí tuệ,
kiến thức và năng lực hoạt động thực tiển, gắn bó với nhân dân. Đến hết năm 2005,
phần lớn cán bộ lãnh đạo chủ chốt từ cấp huyện trở lên học xong chương trình cao
cấp về lý luận chính trị và có trình độ đại học về một chuyên ngành nhất định.
Tất cả các Đảng bộ, chi bộ ở cơ sở đều nắm vững và thực hiện đúng chức
năng là hạt nhân lãnh đạo chính trị đối với chính quyền, đoàn thể, các tổ chức kinh
tế, sự nghiệp, các mặt công tác và các tầng lớp nhân dân ở cơ sở, nâng cao tính
chiến đấu, khắc phục tình trạng thụ động, ỷ lại, buông lõng vai trò lãnh đạo.
Phát huy dân chủ trong sinh hoạt Đảng, từ sinh hoạt chi bộ, sinh hoạt cấp ủy
ở cơ sở đến Ban chấp hành Trung ương. Chống dân chủ hình thức, dân chủ cực
đoan hoặc lợi dụng dân chủ để mưu cầu lợi ích riêng, cục bộ, bản vị.
Từng đảng bộ giữ vững sự đoàn kết, thống nhất trong tập thể lãnh đạo. Đối
với những cấp ủy, tổ chức đảng vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, cán bộ lãnh
đạo độc đoán, chuyên quyền, léo bè, kéo cánh gây mất đoàn kết nội bộ, cấp ủy cấp
trên phải chỉ đạo kiểm điểm làm rõ đúng sai, xử lý nghiêm những người có khuyết
điểm, kiện toàn tổ chức cán bộ; nơi không có khả năng khắc phục khuyết điểm thì
giải tán về tổ chức, lập tổ chức mới theo quy định của Điều lệ Đảng. Tăng cường
chế độ lãnh đạo tập thể đi đôi với việc phát huy tinh thần chủ động, sáng tạo và
trách nhiệm cá nhân.
Nội dung Nghị quyết hội nghị lần thứ sáu(lần hai) và cuộc vận động xây
dựng chỉnh đốn Đảng đã quán triệt những tư tưởng lớn của Hồ chủ tịch về Đảng
cộng sản. Xây dựng chỉnh đốn đảng là nhằm thực hiện câu nói của chủ tịch Hồ chí
Minh: "Đảng ta là đạo đức, là văn minh". Đảng phải là đảng của trí tuệ tiên phong
ngang tầm thời đại thì mới đưa dân tộc vững bước tiến vào thế kỷ XXI, mới giữ
được định hướng xã hội chủ nghĩa, mới giành được thắng lợi cho sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. [4]
Tư tưởng HCM vẫn soi sáng cho công tác xây dựng Đảng ta hôm nay và lâu
dài về sau.

12
Chương 3: Vận Dụng Tư Tưởng Đạo Đức Hồ Chí Minh Trong Giáo Dục
Cán Bộ, Đảng Viên Hiện Nay

Chủ tịch Hồ Chí Minh là hiện thân của những giá trị cao đẹp về đạo đức của
người chiến sĩ cách mạng, là “hiện thân của nền văn hóa tương lai”. Tư tưởng đạo
đức Hồ Chí Minh có nội dung vô cùng phong phú, rộng lớn nhưng lại rất cụ thể,
bình dị, gần gũi với cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân.
Tư tưởng xây dựng Đảng của Chủ tịch Hồ Chí Minh có ý nghĩa soi đường
cho Đảng ta xây dựng và trưởng thành. Học tập tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh về
xây dựng Đảng hiện nay có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc, góp phần xây dựng
Đảng ta thực sự trong sạch, vững mạnh, qua đó làm tăng thêm niềm tin của nhân
dân vào sự lãnh đạo của Đảng, vào con đường phát triển của đất nước.
Việc học tập tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng
ta trong sạch, vững mạnh “là đạo đức, là văn minh” theo chủ đề năm 2010 là dịp để
các tổ chức Đảng, đoàn thể và mỗi cán bộ, đảng viên, đoàn viên ôn lại và nâng cao
nhận thức lý luận về xây dựng Đảng, nâng cao hơn nữa tinh thần trách nhiệm, ý
thức tự giác, đẩy mạnh công tác xây dựng Đảng, góp phần tích cực vào thành công
của Đại hội Đảng các cấp và Đại hội lần thứ XI của Đảng. [5]
Hồ Chí Minh luôi coi đạo đức là “cái gốc”, là “nền tảng” của người cách
mạng. Người cho rằng cũng như “sông có nguồn mới có nước, không có nguồn thì
sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo
đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi đến mấy cũng không lãnh đạo được nhân
dân”. Đạo đức cách mạng không tự nhiên mà có, mà là kết quả của một quá trình
giáo dục, rèn luyện bền bỉ mà nên, như “ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện
càng trong”. Đạo đức nội hàm sức mạnh to lớn, người có đạo đức cách mạng mới
“gánh được nặng” và “đi được xa”. Đạo đức mà Hồ Chí Minh đòi hỏi ở người Cán
bộ Đảng viên chính là những biểu hiện tổng hòa của những tiêu chí đạo đức trong
các mối quan hệ của họ với Đảng, Nhà nước, giai cấp, nhân dân, dân tộc; trong các
mối quan hệ đa diện đa chiều của con người (đối với mình,đối với người, đối với
việc)... Đó là những phẩm chất: Trung với nước, hiếu với dân; yêu thương con
người; cần kiệm liêm chính, chí công vô tư; là tinh thần quốc tế trong sáng thủy
chung... Những phẩm chất ấy được Người đặc biệt quan tâm trong điều kiện Đảng
Cộng sản trở thành Đảng cầm quyền và đội ngũ cán bộ Đảng viên là những “công
bộc” của nhân dân.
Trong Tư tưởng Hồ Chí Minh, đạo đức Cách mạng có sức mạnh tinh thần to
lớn; là nhân tố tạo nên sức hấp dẫn của cán bộ Đảng viên, làm tăng sức mạnh của
Đảng và chế độ xã hội XHCN. Điều đó cũng có nghĩa đặt ra một yêu cầu, đã là Cán
bộ Đảng viên thì trước hết phải trở thành một công dân mẫu mực, làm nòng cốt cho

13
giữ gìn phẩm chất đạo đức và kỷ cương xã hội. Sự mực thước, nêu gương của
người Cán bộ Đảng viên trước nhân dân là vô cùng cần thiết, như Hồ Chí Minh đã
chỉ rõ: “Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán hai chữ cộng sản mà
ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức.
Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người bắt chước”.[3]
Trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, để xây dựng
Đảng ngang tầm với nhiệm vụ chính trị của một đảng cầm quyền lãnh đạo nhân dân
tiến hành cách mạng XHCN, với quan điểm đổi mới tư duy, đổi mới tổ chức, đổi
mới cán bộ, đổi mới phong cách lãnh đạo và công tác, Đảng ta đã triển khai sâu
rộng công tác xây dựng đảng nói chung và giáo dục đạo đức Cách mạng đối với
Cán bộ Đảng viên nói riêng. Từ năm 1987 đến 2004, Ban chấp hành Trung ương và
Bộ Chính trị các khóa đã ban hành 15 nghị quyết chuyên đề về xây dựng đảng trên
các lĩnh vực chính trị, tư tưởng, cán bộ và phương thức lãnh đạo của Đảng. Trước
những thử thách khắc nghiệt của kinh tế thị trường, mở rộng dân chủ, mở cửa hội
nhập với thế giới, tuyệt đại đa số Cán bộ Đảng viên vẫn tin tưởng vào đường lối đổi
mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo. Họ đã khắc phục gian khổ, khó khăn, vượt
qua thử thách, hăng hái đi đầu trong công cuộc đổi mới, được dân tin, dân phục,
dân yêu. Tuy nhiên, chúng ta cũng đang đối mặt với một thực tế là tình trạng một
bộ phận không nhỏ Cán bộ Đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống diễn ra ngày càng phổ biến và trầm trọng.
Nhằm nhanh chóng khắc phục tình trạng đó, không ngừng nâng cao năng
lực, sức chiến đấu của Đảng, chúng ta cần quán triệt sâu sắc, vận dụng thật tốt tư
tưởng đạo đức Hồ Chí Minh. Trước hết, phải nghiêm khắc nhìn nhận thực trạng,
nguy cơ đó với tinh thần dũng cảm nhìn thẳng vào sự thật, theo tinh thần Hồ Chí
Minh: “Chúng ta đã không hề che giấu sai lầm, trái lại chúng ta đã thật thà tự phê
bình và tích cực sửa chữa”. Trong các biện pháp tích cực sửa chữa, đặc biệt coi
trọng các biện pháp giáo dục nhằm làm cho Cán bộ Đảng viên thấy rõ vai trò, vị trí
của mình trong Đảng và trong xã hội, có nhận thức đúng về những nguyên nhân
dẫn tới sự suy thoái, từ đó thấy rõ sự cần thiết phải nâng cao tư tưởng chính trị,
chăm lo tu dưỡng đạo đức Cách mạng, kiên quyết đấu tranh chống những biểu hiện
sa sút phẩm chất đạo đức. Bảo đảm các nguyên tắc trong tổ chức và sinh hoạt
Đảng...
Như vậy có thể thấy, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam,
Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm tới công tác giáo dục đạo đức
Cách mạng cho Cán bộ Cách mạng, coi đó là một vấn đề đặc biệt quan trọng của sự
nghiệp cách mạng, của công cuộc xây dựng, chỉnh đốn đảng. Những điều Hồ Chí
Minh nói về đạo đức cách mạng cách đây đã rất lâu rồi nhưng chúng ta vẫn như
thấy đang nói về hôm nay, về tình hình tư tưởng đạo đức của Cán bộ Cách mạng
hôm nay. Việc không ngừng nghiên cứu sâu sắc các quan điểm của Hồ Chí Minh
về đạo đức Cách mạng và giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho đội ngũ Cán
bộ Cách mạng; vận dụng các quan điểm, tư tưởng đó và thực tiễn hoạt động của

14
Đảng là một công việc căn cốt trong xây dựng và chỉnh đốn Đảng. Toàn Đảng và
xã hội đang đẩy mạnh thực hiện cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo
đức, tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, để việc học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh được hiệu quả hơn, để tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
thấm sâu hơn trong từng lời nói và việc làm của Cán bộ Cách mạng và quần chúng
nhân dân, không chỉ tiến hành bằng một cuộc vận động là đủ mà phải coi đây là
sinh hoạt chính trị thường xuyên trong Đảng và trong toàn xã hội, qua đó góp phần
nâng cao văn hóa đảng, để Đảng ta mãi mãi là đạo đức, là văn minh, tiêu biểu cho
trí tuệ, lương tâm và danh dự của dân tộc.[3]

15
KẾT LUẬN

Trong giai đoạn hiện nay, đất nước ta đang đứng trước thời cơ lớn và thách
thức lớn của sự phát triển. Để lãnh đạo đất nước trong điều kiện mới, Đảng phải
tiếp tục tự đổi mới, tự chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu, nắm
bắt thời cơ, vượt qua thách thức, nâng cao tầm trí tuệ. Mỗi cán bộ, đảng viên, mỗi
tổ chức đảng, cấp ủy đảng phải quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng
Đảng.
Với nhận thức chung đó, việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh trong công tác xây dựng Đảng hiện nay cần tập trung vào những nội
dung, tư tưởng Hồ Chí Minh. Muốn đề ra đường lối, chủ trương, quyết sách phù
hợp, Đảng phải nâng cao tầm trí tuệ, nắm chắc yêu cầu thực tiễn, tình hình trong
nước và quốc tế để tiếp tục hoàn thiện đường lối đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Vận dụng tốt tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng
trong sạch, vững mạnh “là đạo đức, là văn minh” trong tổ chức Đại hội Đảng các
cấp tiến tới Đại hội lần thứ XI của Đảng có ý nghĩa rất thiết thực trong công tác xây
dựng Đảng, trong thực hiện cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh” hiện nay; đáp ứng được yêu cầu chung của công cuộc đổi mới,
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa; sự mong đợi của đông đảo cán bộ, đảng
viên và toàn thể nhân dân.
Trên đây là tất cả những phần tìm hiểu của nhóm tiểu luận chúng em về sự
vận dụng Tư Tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản trong việc chỉnh đốn và đổi
mới Đảng hiện nay. Là một môn lý luận Chính trị nên chúng em không thể không
khỏi còn yếu về mặt hiểu biết cũng như tầm bao quát của một vấn đề lớn. Bài tiểu
luận còn nhiều thiếu xót và sai lệch. Chúng em rất mong nhận được sự góp ý của cô
giáo để bài tiểu luận của chúng em được chính xác và hoàn thiện hơn.
Chúng em xin chân thành cảm ơn!

Nhóm tiểu luận.

16
TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1]. Giáo Trình Tư Tưởng Hồ Chí Minh_ Nhà Xuất Bản Chính Trị Quốc Gia_ Xuất
bản năm 2006.

[2] Giáo Trình Bài giảng môn học Tư Tưởng Hồ Chí Minh _ TS. Trần Thị Lan
Hương (Chủ biên)_Nhà Xuất Bản Lao Động – Xã hội_ Xuất bản năm 2007.

[3] Trang thông tin điện tử - Đảng Bộ Bộ Khoa Học và Công Nghệ:
http://dangbo.most.gov.vn/modules.php?name=News&file=article&sid=202

[4] Website Học Viện Chính Trị - Hành Chính Quốc Gia Hồ Chí Minh:
http://www.hcma.vn/TRANGCH%E1%BB
%A6/tabid/36/ctl/Details/mid/434/ItemID/1180/Default.aspx

[5] Website Báo Quảng trị:


http://baoquangtri.vn/default.aspx?TabID=74&modid=405&ItemID=21129

17
MỤC LỤC

Mở Đầu:…………………………………………………………………………….1

Nội Dung:
Chương 1: ……………………………………………………………………2
Chương 2: ……………………………………………………………………7
Chương 3: …………………………………………………………………..13

Kết Luận: ………………………………………………………………………….16

Tài Liệu Tham Khảo:……………………………………………………………...17

Mục Lục:…………………………………………………………………………..18

18

You might also like