You are on page 1of 30

1.

Cuộc vận động học tập và làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh

1.1. Vì sao Đảng ta tiến hành cuộc vận động làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh

Chúng ta nhận thức rằng, qua hơn 20 năm thực hiện đường lối đổi mới, nhân dân ta đã giành
được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Những thành tựu về chính trị, kinh tế, văn
hoá, xã hội, quốc phòng - an ninh và ngoại giao đã tạo thế và lực mới cho cách mạng Việt
Nam. Có thể nói, chưa bao giờ thế và lực của đất nước ta mạnh như hiện nay, vị thế của nước
ta cao như hiện nay. Chính những thắng lợi to lớn đó là nhân tố quyết định tạo ra thời cơ lớn
cho nước ta phát triển nhanh hơn trong thời gian tới.

Trên trường quốc tế, chưa bao giờ nước ta bình thường hoá quan hệ với tất cả các nước như
hiện nay; đặc biệt là bình thường hoá và có vị thế cao trong quan hệ với tất cả các cường
quốc trên thế giới như Nga, Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, và Liên minh châu Âu (EU). Việt
Nam đã góp phần thúc đẩy xu thế chung của thế giới hiện nay, đó là xu thế hoà bình, hợp tác
phát triển, xu thế toàn cầu hoá và phát triển mạnh mẽ cách mạng khoa học và công nghệ.
Chính vì thế, Đại hội X của Đảng ta nhận định cách mạng Việt Nam đang đứng trước thời cơ
lớn. Từ đó, Đại hội X cũng đi đến quyết định trong 5 năm tới đưa Việt Nam thoát khỏi một
nước nghèo và đến 2020 Việt Nam trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Như vậy, hiện nay Đảng ta đang đứng trước một sứ mệnh lịch sử mới là lãnh đạo toàn dân
tộc thực hiện khát vọng ngàn đời là xây dựng một nước Việt Nam hùng cường, dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Lịch sử giao cho Đảng ta nhiệm vụ rất
nặng nề. Để đủ sức hoàn thành sứ mệnh lịch sử nặng nề và đầy vinh quang trên, đòi hỏi Đảng
ta phải nâng cao cho được năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng. Bác Hồ - Người sáng
lập và rèn luyện, lãnh đạo Đảng ta từng nói: “Đảng ta là đạo đức, là văn minh”. Như vậy, Bác
khẳng định thành tố đầu tiên tạo nên năng lực lãnh đạo của Đảng là đạo đức. Vì vậy, yêu cầu
xây dựng cho được nền tảng đạo đức vững vàng của Đảng là yêu cầu đầu tiên, cơ bản để
nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Đó là lẽ thứ nhất.

Thứ hai, Đảng ta phát động cuộc vận động này trên cơ sở sau 20 năm thực hiện đường lối đổi
mới, Đảng ta đã có bước trưởng thành trong điều kiện mới, nhưng cũng đối mặt với những
nguy cơ và thách thức rất lớn. Đó là sự suy thoái về tư tưởng chính trị và cả về đạo đức, lối
sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên. Trước đây, Đảng ta đã mở cuộc vận
động đẩy mạnh việc nghiên cứu, học tập và làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh (theo tinh thần
Chỉ thị 23-CT/TW, Bộ Chính trị khoá IX). Đại hội X đã tổng kết, đánh giá là cuộc vận động
đã đạt được kết quả bước đầu, nhưng trong Đảng tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị,
đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên vẫn chưa được ngăn chặn và đẩy lùi
mà ngày càng diễn biến phức tạp. Tình hình trên là rất nghiêm trọng nên Đại hội X của Đảng
nhận định, nếu chúng ta không ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị,
đạo đức, lối sống, tham nhũng thì sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến sự tồn vong của chế độ xã hội
chủ nghĩa.

Thứ ba, Đảng ta đã tiến hành cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo tinh thần Nghị
quyết TW6 (lần 2) khoá VIII đạt một số kết quả nhất định, nhưng Đại hội X đánh giá là
không đạt yêu cầu đề ra. Xuất phát từ yêu cầu sứ mệnh lịch sử của Đảng ta trong giai đoạn
mới và rút kinh nghiệm từ hai cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng và đẩy mạnh nghiên
cứu, học tập tư tưởng Hồ Chí Minh, Trung ương Đảng quyết định phát động cuộc vận động
chính trị “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” với quyết tâm cao nhất là
ngăn chặn và đẩy lùi sự suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và tham nhũng trong

1
cán bộ, đảng viên; nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, hoàn thành
sứ mệnh lịch sử trong giai đoạn mới.

1.2. Ý nghĩa, yêu cầu và nội dung của cuộc vận động

Cuộc vận động này chúng ta tiến hành trên cơ sở rút kinh nghiệm từ những thành công và
chưa thành công qua 7 năm thực hiện cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng và 3 năm
thực hiện việc đẩy mạnh nghiên cứu, học tập tư tưởng Hồ Chí Minh. Đây là một chủ trương
lớn, vừa mang tính cấp bách trong bối cảnh hiện nay, vừa có ý nghĩa lâu dài đối với sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Cuộc vận động này tiến hành bằng việc kết hợp tất cả
các giải pháp, trong đó giải pháp chính trị tư tưởng được xem là giải pháp chủ yếu. Thông
qua cuộc vận động này, chúng ta tiến hành giáo dục trong toàn Đảng, đoàn viên, hội viên,
thanh niên và nhân dân nhận thức sâu sắc về những nội dung cơ bản và giá trị to lớn của tư
tưởng đạo đức và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.

Yêu cầu của cuộc vận động là phải nâng cao cho được nhận thức trong cán bộ, đảng viên về
vị trí và tầm quan trọng về đạo đức của Đảng đối với vận mệnh của Đảng, vận mệnh của chế
độ, vận mệnh của đất nước, đặc biệt là hạnh phúc của dân tộc. Qua đó, tạo sự chuyển biến
mạnh mẽ về ý thức tu dưỡng, rèn luyện và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trong
toàn xã hội, đặc biệt là đội ngũ cán bộ, đảng viên có chức có quyền từ trung ương đến cơ sở,
trong thanh niên, học sinh… nâng cao đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công,
vô tư; đồng thời gắn với việc quản lý, giám sát về đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên;
quyết tâm đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng
viên.

Dân tộc ta, Đảng ta có một diễm phúc rất lớn là có vị lãnh tụ vĩ đại, Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Bác Hồ đã để lại cho Đảng ta, dân tộc ta một sự nghiệp vĩ đại, đó là sự nghiệp độc lập dân
tộc, thống nhất đất nước và một di sản tinh thần rất quý báu là tư tưởng Hồ Chí Minh, tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh. Do đó, chúng ta phải quán triệt cho toàn thể cán bộ, đảng viên
về tấm gương đạo đức của Bác Hồ để mọi người học tập noi theo.

Nội dung nghiên cứu, học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, cần tập trung
nghiên cứu sâu tác phẩm “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân”, tác
phẩm “Di chúc” và tấm gương đạo đức của Người, tập trung vào các phẩm chất cần, kiệm,
liêm, chính, chí công vô tư, ý thức tổ chức kỷ luật, ý thức phục vụ nhân dân, đấu tranh chống
chủ nghĩa cá nhân, quan liêu, tham nhũng, lãng phí.

Yêu cầu quán triệt nữa là việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh gắn liền
với việc triển khai thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội X của Đảng, với cuộc vận động
xây dựng, chỉnh đốn Đảng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí và đẩy mạnh cuộc đấu tranh
phòng, chống tham nhũng với phong trào thi đua yêu nước ở từng địa phương cơ sở.

2. Cuộc vận động học tập và làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong công tác xây dựng
Đảng

2.1. Tổng quan nội dung học tập tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh đối với cán bộ Đảng
viên

• Thực hiện chuẩn mực đạo đức Hồ Chí Minh “Trung với nước, hiếu với dân” cần quán
triệt những nội dung của chủ nghĩa yêu nước trong giai đoạn mới; phát huy sức mạnh

2
đoàn kết toàn dân tộc, đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới đất nước, công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển.

• Thực hiện đúng lời dạy: "Cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư” nêu cao phẩm giá
con người Việt Nam trong thời kỳ mới

• Nâng cao ý thức dân chủ và kỷ luật, gắn bó với nhân dân, vì nhân dân phục vụ

• Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh cần phát huy chủ nghĩa yêu
nước gắn chặt với chủ nghĩa quốc tế trong sáng, đoàn kết, hữu nghị giữa các dân tộc
trong điều kiện toàn cầu hóa, chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế
2.2 Nội dung trọng yếu của việc học tập tư tưởng Hồ Chí Minh đối với cán bộ Đảng
viên:

2.2.1 Một nguyên tắc cơ bản của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh “Nói đi đôi với làm, phải
nêu gương về đạo đức”
Theo Hồ Chí Minh, đạo đức không phải là đạo đức tu thân mà là đạo đức dấn thân, có nghĩa
là đạo đức gắn liền với hành động. Nói về đạo đức phải gắn liền với thực hành đạo đức, đặc
biệt phải có hiệu quả. Một người làm việc gì cũng không có hiệu quả, thì không thể coi là
một người có đạo đức, Người chỉ ra rằng “Phải lấy kết quả thiết thực đã góp sức bao nhiêu
cho sản xuất và lãnh đạo sản xuất mà đo ý chí cách mạng của mình. Hãy kiên quyết chống
bệnh nói suông, thói phô trương hình thức, lối làm việc không nhằm mục đích nâng cao sản
xuất".
Hồ Chí Minh nói nhiều đến vai trò, tác dụng của đạo đức, nêu ra những nguyên tắc chuẩn
mực đạo đức cho cán bộ, nhân dân từ đời công đến đời tư. Song, Hồ Chí Minh thực hành đạo
đức nhiều hơn những điều Người nói và làm rất lặng lẽ. Theo Người, muốn giáo dục mọi
người phải nêu gương trước của mình đã, sau đó mới giáo dục bằng lời nói.
Ở Hồ Chí Minh luôn luôn có sự nhất quán giữa nói và làm, giữa giáo dục đạo đức với thực
hành đạo đức. Người nói “Cả đời tôi chỉ có một mục đích, là phấn đấu cho quyền lợi Tổ
quốc, và hạnh phúc của quốc dân. Những khi tôi phải ẩn nấp nơi núi non, hoặc ra vào chốn tù
tội, xông pha sự hiểm nghèo – là vì mục đích đó”. Cho đến khi qua đời, Người còn viết trong
Di chúc “Suốt đời tôi hết lòng, hết sức phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân
dân. Nay dù phải từ biệt thế giới này, tôi không có điều gì phải hối hận, chỉ tiếc rằng không
được phục vụ nhân dân lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa”. Cả cuộc đời Người đã là minh chứng
cảm động cho sự nhất quán giữa nói và làm đạo đức. Nhờ kiên trì thực hành đạo đức, Người
đã để lại cho dân tộc ta một tấm gương sáng ngời về đạo đức của một vị lãnh tụ thực sự của
nhân dân.
Sở dĩ Hồ Chí Minh trở thành một nhà đạo đức chân chính đã để lại cho chúng ta một tấm
gương đạo đức tuyệt vời, là vì suốt đời Người không ngừng tự hoàn thiện mình theo lý tưởng
Chân, Thiện, Mỹ; nêu gương từ việc lớn đến việc nhỏ, nên đã thực sự nhất quán giữa đời
công và đời tư, giữa đạo đức cách mạng với đạo đức hàng ngày.
Trong xã hội, tấm gương của các thế hệ trước đối với các thế hệ sau rất quan trọng. Mỗi thế
hệ đều có trách nhiệm của mình, nhưng thế hệ trước bao giờ cũng có trách nhiệm rất nặng nề
với thế hệ sau trong việc giáo dưỡng, nhất là bồi dưỡng về đạo đức. Chính vì vậy, ngay sau
Cách mạng Tháng Tám năm 1945, nhân dân ta giành được chính quyền, Đảng ta trở thành
Đảng cầm quyền, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt lên hàng đầu việc giáo dục đạo đức cho cán

3
bộ, đảng viên. Người kiên quyết đấu tranh chống lại nguy cơ xa rời quần chúng, rơi vào thoái
hóa biến chất của một đảng cầm quyền. Người nhắc nhở: “Quần chúng chỉ quý mến những
người có tư cách đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta
bắt chước". "Muốn giải phóng cho dân tộc, giải phóng cho loài người… mà tự mình không có
đạo đức, không có căn bản, tự mình đã hủ hóa, xấu xa thì còn làm nổi việc gì?". Người đã
từng cảnh báo: “Một dân tộc, một Đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức
hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi,
nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân".
Theo Người, sức hấp dẫn của chủ nghĩa xã hội không phải ở lý tưởng cao xa nào mà trước
hết, cụ thể và trực tiếp là ở những người cộng sản ưu tú bằng tấm gương sống và hành động
của mình, chiến đấu cho lý tưởng đó thành hiện thực. Củng cố hay làm suy giảm niềm tin của
quần chúng vào tương lai của chủ nghĩa xã hội không phải ở những sai lầm và thất bại tạm
thời khó tránh khỏi trên con đường mới khai phá mà chủ yếu ở sự sa sút, thoái hóa của những
người được mệnh danh là "những chiến sĩ tiên phong" trước thắng lợi hay khó khăn của cách
mạng.
Sự lành mạnh của đời sống đạo đức xã hội phụ thuộc một phần rất quan trọng vào sự nêu
gương của người lãnh đạo, nhất là những người đứng đầu các ngành, các địa phương, các đơn
vị. Điều này được Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn nhắc nhở: Muốn thực sự làm người lãnh
đạo, người chỉ huy, người đứng đầu cơ quan, đơn vị phải hết sức giữ gìn và nêu gương về
mặt đạo đức.
Để thực hiện theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, Đảng ta vừa qua đã ra nhiều nghị quyết,
chỉ thị học tập và làm theo Người. Đặc biệt Đảng ta yêu cầu những người lãnh đạo cao cấp
phải nêu tấm gương về đạo đức, lối sống lành mạnh, phải là những chiến sĩ đi đầu trong việc
đấu tranh chống tham nhũng, quan liêu, sa hoa, lãng phí, không chỉ trong xã hội mà cả trong
gia đình riêng của mình.
Ngày nay, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch chưa lúc nào từ bỏ âm mưu và thủ đoạn
thâm độc để chống phá sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa của nước ta.
Chúng luôn thực hiện "diễn biến" về tư tưởng, đạo đức lối sống qua con đường giao lưu, hội
nhập kinh tế, qua các mạng thông tin để lôi kéo dân ta đi chệch khỏi các định hướng giá trị
của dân tộc, đánh phá từ bên trong. Chính vì vậy, để Đảng ta mãi mãi "là đạo đức, là văn
minh” mỗi cán bộ đảng viên không ngừng nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa
cá nhân như lời Bác Hồ đã dạy.
2.2.2 Phẩm chất đạo đức “Trung với nước, hiếu với dân” và phẩm chất yêu thương con
người trong tư tường Hồ Chí Minh
Hồ Chí Minh cho rằng phẩm chất đạo đức quan trọng và bao trùm nhất của con người Việt
Nam là trung với nước, hiếu với dân.
Trong tư tưởng đạo đức truyền thống Việt Nam và phương Đông, trung và hiếu là những
khái niệm quen thuộc, giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của cá nhân. Trong thời
đại Hồ Chí Minh, Người đưa vào những nội dung mới:
+ Theo quan niệm truyền thống, trung là trung quân, là trung thành với vua mà trung thành
với vua là trung thành với nước. Ở đây vua với nước là một. Hiếu có nghĩa con, cháu hiếu
thảo với cha mẹ, ông bà, chữ hiếu chỉ thu hẹp trong phạm vi gia đình. Tư tưởng trung với
nước, hiếu với dân của Hồ Chí Minh không chỉ đã kế thừa được những giá trị của chủ nghĩa
yêu nước truyền thống của dân tộc mà còn vượt qua được hạn chế của truyền thống đó. Trung

4
với nước là trung thành với sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Nước ở đây là nước của nhân
dân, nhân dân là người chủ của đất nước. Hồ Chí Minh luôn xác định ''bao nhiêu quyền hạn
đều của dân'', ''bao nhiêu lợi ích đều vì dân''. Đảng và Chính phủ là '' đầy tớ của nhân dân'',
chứ không phải là ''quan nhân dân để đè đầu cưỡi cổ nhân dân''. Như vậy, quan niệm về nước
và dân trong Tư tưởng Hồ Chí Minh đã hoàn toàn khác so với trước. Điều này đã làm cho Tư
tưởng đạo đức Hồ Chí Minh vượt xa lên phía trước.
+ Hồ Chí Minh mong muốn mỗi người Việt Nam phải trung với nước, hiếu với dân, suốt đời
phấn đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hoàn
thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng. Đây là một lời kêu gọi hành
động, vừa là định hướng chính trị - đạo đức cho mỗi con người Việt Nam không chỉ trong
cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân ta từ trước đến nay, mà còn lâu dài về sau.
+ Đối với cán bộ, đảng viên, Hồ Chí Minh cho rằng ''điều chủ chốt nhất'' của đạo đức cách
mạng là ''tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân'', là ''trung với nước, hiếu với dân'',
hơn nữa phải là ''tận trung, tận hiếu'' thì mới xứng đáng vừa là người lãnh đạo, vừa là đầy tớ
thật trung thành của nhân dân. Tư tưởng hiếu với dân không còn dừng lại ở chỗ thương dân
mà còn phải phục vụ hết lòng vì dân. Vì vậy phải gần dân, gắn bó với dân, kính trọng và học
tập dân, dựa hẳn vào dân, lấy dân làm gốc. Đối với cán bộ lãnh đạo, phải nắm vững dân tình.
Hiểu rõ dân tâm, phải thường xuyên quan tâm đến việc cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí để
dân hiểu được quyền và trách nhiệm của người chủ đất nước. Có như vậy người lãnh đạo sẽ
được dân tin yêu, quý mến, kính trọng.
2.2.3 “Trọng dân”-Một tư tưởng lớn của Bác Hồ
Trong báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ hai của Đảng ngày 11-2-
1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: "Phải củng cố mối quan hệ giữa Đảng và quần chúng".
Người chỉ rõ sự cần thiết phải củng cố mối quan hệ giữa Đảng và quần chúng: Không có
quần chúng thì không có lực lượng. Không có Đảng thì không có người lãnh đạo, hướng dẫn,
chỉ đường. Người nhấn mạnh: "Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng chứ không phải là
sự nghiệp của cá nhân anh hùng". "Lực lượng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động
là rất to lớn".
Nói về trách nhiệm của Đảng đối với Tổ quốc và nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ:
"Hễ còn một người Việt Nam bị bóc lột, bị nghèo nàn, thì Đảng vẫn đau thương, cho đó là vì
mình chưa làm tròn nhiệm vụ. Cho nên Đảng vừa phải lo tính công việc lớn như đổi mới nền
kinh tế và văn hóa lạc hậu của nước ta thành nền văn hóa tiên tiến, đồng thời luôn luôn quan
tâm đến những công việc nhỏ như tương, cà mắm, muối cần thiết cho đời sống hàng ngày
của nhân dân".
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, sức mạnh của Đảng nằm ngay trong mối quan hệ giữa Đảng với
dân và dân với Đảng. Người khẳng định: "Trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân,
trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân. Khi sức dân được huy
động, được tổ chức, được tập hợp dưới sự lãnh đạo của Đảng thì thành vô địch". "Làm việc gì
cũng phải có quần chúng. Không có quần chúng thì không thể làm được... Việc gì có quần
chúng tham gia bàn bạc, khó mấy cũng trở nên dễ dàng và làm được tốt". "Dễ trăm lần không
dân cũng chịu. Khó vạn lần dân liệu cũng xong". Mối quan hệ giữa Đảng và quần chúng
được thể hiện rất cụ thể ở đạo đức, thái độ, tác phong trong quan hệ với dân ở từng cán bộ
đảng viên. Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: "Cán bộ đảng viên phải nâng cao tinh thần phụ
trách trước Đảng và trước quần chúng, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân. Phải kính yêu
nhân dân. Phải tôn trọng thật sự quyền làm chủ của nhân dân. Tuyệt đối không được lên mặt
"quan cách mạng", ra lệnh, ra oai... phải khiêm tốn, gần gũi quần chúng, không được kiêu

5
ngạo. Khi chọn cán bộ, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu phải lựa chọn "những người liên lạc
mật thiết với dân chúng, hiểu biết dân chúng. Luôn chú ý đến lợi ích của dân chúng. Như thế,
thì dân chúng mới tin cậy cán bộ và nhận cán bộ là người lãnh đạo của họ". Chủ tịch Hồ Chí
Minh lên án gay gắt chủ nghĩa cá nhân. Người nói: "Hiện nay chủ nghĩa cá nhân đang ám ảnh
một số đồng chí. Họ tự cho mình là cái gì cũng giỏi, họ xa rời quần chúng, không muốn học
hỏi quần chúng, mà chỉ muốn làm thầy quần chúng. Họ ngại làm việc tổ chức, tuyên truyền
giáo dục quần chúng. Họ mắc bệnh quan liêu, mệnh lệnh. Kết quả là quần chúng không tin,
không phục, càng không yêu họ. Chung quy là họ không làm nên trò trống gì".
Theo Bác Hồ, Đảng phải liên hệ chặt chẽ với nhân dân, tôn trọng nhân dân và hướng dẫn
nhân dân, tổ chức thành lực lượng, thành phong trào hành động cách mạng trên các lĩnh vực
kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng, có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa,
nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân. Còn các tầng lớp của nhân dân phải
tham gia xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị tư tưởng và tổ chức. Nhân dân là
nguồn bổ sung vô tận cho Đảng và luôn luôn tràn trề sức xuân. Trọng dân là thương dân, vì
nhân dân mà phục vụ và biết coi trọng sức mạnh vĩ đại của nhân dân. Biết bao những phần tử
ưu tú trong giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, đội ngũ trí thức và các tầng lớp nhân dân
lao động khác, đã trở thành đảng viên của Đảng. Quần chúng còn tham gia góp ý, phê bình sự
lãnh đạo của Đảng với mong muốn Đảng luôn luôn trong sạch và vững mạnh để lãnh đạo sự
nghiệp cách mạng đến đích cuối cùng.
Khi Quốc hội tín nhiệm bầu Người làm Chủ tịch nước - Người trả lời các nhà báo: "Tôi tuyệt
nhiên không ham muốn công danh, phú quý chút nào. Bây giờ gánh vác chức Chủ tịch là vì
đồng bào ủy thác thì tôi phải gắng làm, cũng như một người lính vâng lệnh quốc dân ra trước
mặt trận". Người căm ghét thói cậy quyền, cậy thế, chia rẽ, kiêu ngạo, tham ô, lãng phí, quan
liêu, móc ngoặc, tham nhũng... vì nó "là kẻ thù của nhân dân, của dân tộc, của Chính phủ. Nó
là kẻ thù khá nguy hiểm, vì nó không mang gươm, mang súng, nó nằm trong tổ chức của ta,
nó là giặc nội xâm để làm hỏng công việc của ta. Người dạy: "Cơm của chúng ta ăn, áo của
chúng ta mặc, vật liệu chúng ta dùng đều là mồ hôi nước mắt của nhân dân mà ra. Vì vậy
chúng ta phải đền ơn xứng đáng cho nhân dân. Chớ vác mặt làm quan cách mạng để dân
ghét, dân khinh, dân không ủng hộ". Trước lúc đi xa Bác Hồ đã căn dặn toàn Đảng cũng như
mỗi cán bộ, đảng viên rằng: Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người
lãnh đạo, người đầy tớ trung thành của nhân dân. Đảng coi việc "làm đầy tớ" của nhân dân,
phục vụ nhân dân, chăm lo cuộc sống vật chất, tinh thần của nhân dân là trách nhiệm, là vinh
dự và niềm hạnh phúc.
Bác Hồ từng nói: Chúng ta có trọng dân, yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta. Tôn
trọng và tin tưởng nhân dân là tôn trọng và tin tưởng những người làm ra lịch sử, những
người sáng tạo ra của cải, vật chất, những người được sánh với Trời, Đất theo triết học
phương Đông như Bác Hồ khẳng định: "Trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân".
Những lời dạy của Bác Hồ: "Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng...", "Cán bộ, đảng viên
là người đầy tớ trung thành của nhân dân..." là một tư tưởng lớn của Bác Hồ về trọng dân
xuyên suốt từ ngày thành lập Đảng đến nay. Tư tưởng yêu nước, thương dân, trọng dân, suốt
đời vì cách mạng, vì nhân dân mà hy sinh phấn đấu, không ham danh lợi, với một lối sống
chân thực, giản dị, khiêm nhường của Bác Hồ là tấm gương đạo đức vô cùng trong sáng để
toàn Đảng, toàn dân, toàn quân chúng ta học tập và noi theo.
2.2.4 Phẩm chất người lãnh đạo

6
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh thì người cán bộ phải có đủ tài, đủ đức. Hội tụ đủ Trung, Hiếu,
Nhân, Nghĩa, Trí, Dũng, Cần, Kiệm, Liêm, Chính là những phẩm chất đạo đức căn bản nhất
phải có. Những phẩm chất, đạo đức đó được nhân dân ta, Đảng ta và Hồ Chủ tịch vun đắp lâu
đời. Nó phù hợp với yêu cầu xây dựng con người mới XHCN, nền đạo đức mới của dân tộc
trong thời đại hiện nay. Đạo đức mới, đạo đức vĩ đại, không phải vì danh vọng cá nhân mà
toàn tâm toàn ý cho lợi ích của dân tộc và của Đảng, của cả loài người. Chính Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã kế thừa có chọn lọc truyền thống của cha ông ta bằng chính cuộc sống và sự
nghiệp cách mạng vĩ đại của Người. Là một biểu tượng cao đẹp của con người trung thành,
hiếu nghĩa, một lòng một dạ vì nước vì dân, là bậc đại nhân, đại nghĩa, đại trí, đại dũng và hết
sức cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư.
Học tập và làm theo lời dạy và tấm gương đạo đức phẩm chất của nhà cách mạng thiên tài
Hồ Chí Minh để xứng đáng là người lãnh đạo và đầy tớ thật trung thành của nhân dân.
2.2.5 Tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh qua tác phẩm “Nâng cao đạo đức
cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân”
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cảnh báo hai vấn đề lớn liên quan nguy cơ của Ðảng cầm quyền.
Một là, sai lầm về đường lối của Ðảng, và hai là, sự suy thoái về phẩm chất đạo đức của đội
ngũ cán bộ, đảng viên.
Bước chân vào con đường hoạt động cách mạng, Bác Hồ quan tâm hàng đầu tới việc giáo dục
đạo đức cho mọi người Việt Nam yêu nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng, "cũng như
sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc
thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng
không lãnh đạo được nhân dân. Vì muốn giải phóng cho dân tộc, giải phóng cho loài người là
một công việc to tát, mà tự mình không có đạo đức, không có căn bản, tự mình đã hủ hóa,
xấu xa thì còn làm nổi việc gì?".
Theo Người, tư cách của người cách mạng là yếu tố quan trọng hàng đầu giúp các thế hệ
người Việt Nam vững tin đi vào con đường cách mạng và đưa sự nghiệp cách mạng giải
phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản đến thắng lợi cuối cùng. Bởi vì, đạo đức
cách mạng là gốc, là nền tảng. Mọi việc thành hay bại, chủ yếu là do cán bộ có thấm nhuần
đạo đức cách mạng hay không. Ðạo đức cách mạng không chỉ tạo nên sức mạnh chiến thắng
kẻ thù, mà còn là thước đo lòng cao thượng của con người.
Bác Hồ quan tâm đạo đức cách mạng một cách nhất quán, xuyên suốt từ những năm hai mươi
đến tận cuối đời. Người đặc biệt chú trọng cả hai mặt lý luận và thật sự thực hành đạo đức
của cán bộ, đảng viên từ khi Ðảng ta trở thành Ðảng cầm quyền. Tại sao như vậy? Bởi vì
trong điều kiện Ðảng cầm quyền thì cán bộ, đảng viên dễ mắc bệnh quan liêu, nhũng lạm.
Trong điều kiện Ðảng cầm quyền, hệ thống chính trị là tấm gương của xã hội. Gương sáng thì
dân soi, gương mờ làm lòng dân không yên. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cảnh báo hai vấn đề
lớn liên quan nguy cơ của Ðảng cầm quyền. Một là, sai lầm về đường lối của Ðảng, và hai là,
sự suy thoái về phẩm chất đạo đức của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Tóm lại, Ðảng cầm quyền
liên quan vận nước. Ðảng và mỗi cán bộ, đảng viên vui với mỗi bước phát triển, đi lên của
đất nước và phải chịu trách nhiệm trước những lời kêu ca, phàn nàn của dân. Chủ tịch Hồ Chí
Minh có nỗi quan tâm lớn từ khi Ðảng ta trở thành Ðảng cầm quyền, bởi sứ mệnh nặng nề
của Ðảng là làm cho dân tự do, hạnh phúc sau khi giành được độc lập dân tộc. Người chú
trọng giáo dục việc nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân.
Nâng cao đạo đức cách mạng, trước hết là nâng cao nhận thức và thực hành cần, kiệm, liêm,
chính, chí công vô tư, ý thức tổ chức kỷ luật, ý thức trách nhiệm, ý thức phục vụ nhân dân.

7
Trong điều kiện Ðảng cầm quyền, Ðảng có quyền lực chính trị, lãnh đạo xã hội và hệ thống
chính trị. Vì vậy, Ðảng phải nâng cao ý thức phục vụ nhân dân. Cán bộ, đảng viên, công
chức, viên chức, thanh niên..., cùng với những đức tính cần cù, tiết kiệm, chính trực, thì phải
trong sạch, không tham lam tiền của, đặc biệt không tham địa vị, quyền hành, vì địa vị quyền
hành dẫn tới lợi ích vật chất. Là cán bộ, đảng viên thì phải đặt lợi ích của Tổ quốc, của nhân
dân lên trên hết, trước lợi ích cá nhân. Nêu cao ý thức phục vụ nhân dân là đạo đức đẹp đẽ
nhất của mỗi cán bộ, đảng viên. Ðặc biệt, trên cơ sở nhận thức Ðảng cầm quyền, nhưng dân
là chủ, là gốc; Ðảng cầm quyền cho dân làm chủ, cán bộ đảng viên phải có ý thức chịu trách
nhiệm trước nhân dân. Vì Ðảng, Nhà nước cũng phải chịu trách nhiệm trước nhân dân, như
cách nói của Bác Hồ.
Chống suy thoái về đạo đức là chống lười biếng, xa xỉ, quan liêu và đặc biệt là chống sự
nhũng lạm. Theo quan điểm Hồ Chí Minh, là cán bộ, công chức Nhà nước thì dù ít, dù nhiều
đều có quyền hành. Cấp cao thì quyền to, cấp thấp thì quyền nhỏ. Có quyền mà thiếu lương
tâm, không chịu tu dưỡng rèn luyện thì dễ trở nên hủ bại, dễ biến thành sâu mọt, dễ "dĩ công
vi tư". Vì vậy, tham nhũng theo tinh thần Hồ Chí Minh là bệnh của những người có quyền
lực, lạm dụng quyền lực cộng với lòng tham để nhũng nhiễu dân. Muốn chống tham nhũng,
phải chống cả xa xỉ, vì xa xỉ mà sinh ra tham nhũng. Mà chống tham nhũng trước hết là
chống tham quyền. Chống tham nhũng phải bằng giáo dục, công tác tư tưởng. Nhưng chỉ có
giáo dục đạo đức không thôi thì không thể xóa bỏ được tham nhũng, mà phải kết hợp chặt
chẽ với pháp luật, mà quan trọng là tính khoa học và minh bạch của bộ máy; đồng thời phải
dùng cả "pháp trị" với tính nghiêm minh của pháp luật, phép nước theo tấm gương Hồ Chí
Minh.
Chống suy thoái về đạo đức, đặc biệt phải tập trung chống chủ nghĩa cá nhân. Bởi vì chủ
nghĩa cá nhân là một loại giặc, đồng minh với các loại giặc khác. Muốn chống các loại giặc
khác, trước hết phải chống giặc trong lòng, tức chủ nghĩa cá nhân. Chủ nghĩa cá nhân là một
thứ vi trùng rất độc, đẻ ra hàng trăm thứ bệnh khác nhau. Nó không chỉ ảnh hưởng tới từng cá
nhân, đối với dân tộc, mà còn làm mất niềm tin của nhân dân đối với Ðảng. Nói ngắn gọn,
theo quan điểm Hồ Chí Minh, chủ nghĩa cá nhân là một trở lực trên con đường xây dựng chủ
nghĩa xã hội, là đối lập với chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, thắng lợi của chủ nghĩa xã hội không thể
tách rời thắng lợi của cuộc đấu tranh trừ bỏ chủ nghĩa cá nhân. Chống chủ nghĩa cá nhân
không có nghĩa là chà đạp lên lợi ích cá nhân.
Giờ đây, trong bối cảnh tình hình mới, việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức trở thành một nhu
cầu cấp bách và có ý nghĩa lâu dài đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tư tưởng
và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh chứa đựng một ý nghĩa sâu xa về lý luận và thực tiễn,
tiếp tục soi sáng công cuộc đổi mới đất nước.

2.3. Sức lan tỏa của cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh

2.3.1 Tác động của cuộc vận động

Cuộc vận động đã góp phần hình thành phong trào tu dưỡng, rèn luyện và làm theo gương
Bác, bồi đắp nền tảng đạo đức, văn hoá trong toàn Đảng và toàn xã hội. Đây là động lực lớn
để đẩy mạnh cuộc vận động này trong thời gian tới. Kết quả của cuộc vận động thể hiện ở 4
điểm chính:

Một là, nhận thức của cấp ủy các cấp, cán bộ, đảng viên về cuộc vận động được nâng lên rõ
rệt. Chúng ta đều biết cuộc vận động có mục đích rất quan trọng, đó là xây dựng nền tảng đạo

8
đức, nền tảng tinh thần của xã hội, trực tiếp là công tác xây dựng Đảng và góp phần làm
trong sáng, trong sạch đội ngũ Đảng viên, cán bộ của Đảng. Vì thế, việc nâng cao nhận thức
của cán bộ, đảng viên có một vai trò rất lớn.
Năm 2007 đã tiến hành các cuộc điều tra dư luận xã hội thì nhiều cán bộ, đảng viên khẳng
định đây là cuộc vận động trúng và đúng; đông đảo các tầng lớp nhân dân tích cực tham gia.
Hai là, cuộc vận động đã được triển khai sâu rộng trong Đảng và trong xã hội với các hình
thức phong phú, sinh động và sáng tạo. Tôi muốn nhấn mạnh đến sự kết hợp giữa vận động
và làm theo. Ở nhiều nơi, cuộc vận động đã được gắn với việc giải quyết những vấn đề bức
xúc, nổi cộm trong đời sống nhân dân, trong công tác xây dựng Đảng; phát huy vai trò gương
mẫu của cán bộ, Đảng viên.
Ba là, cuộc vận động đã gắn kết với việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị của các tổ chức
trong toàn Đảng, toàn dân. Chính vì thế, trong năm 2009 đã góp phần hạn chế tốc độ suy
giảm kinh tế và chúng ta đã đạt được tốc độ tăng trưởng rất ngoạn mục.
Bốn là, cuộc vận động ở các cấp, các ngành đã được gắn kết chặt chẽ trong công tác, nhiệm
vụ chính trị của từng cơ quan, đơn vị.
Quá trình triển khai cuộc vận động trong 3 năm qua cho thấy, việc học tập và làm theo luôn
luôn gắn bó chặt chẽ với nhau, những năm sau này có thể thấy hoạt động làm theo ngày càng
rõ hơn, thể hiện ở những điểm chính sau:
Thứ nhất, đối với lãnh đạo, ý thức trách nhiệm của các cấp ủy đảng, chính quyền các cấp
trong việc thực hiện nhiệm vụ chính trị, quan tâm đến đời sống nhân dân ngày càng tốt hơn.
Thứ hai, trong những điều kiện khó khăn như thời gian qua (tình hình suy giảm kinh tế năm
2008, 2009), các tổ chức đảng, các cơ quan quản lý nhà nước đã đoàn kết vượt qua khó khăn
để hoàn thành nhiệm vụ chính trị.
Thứ ba, tinh thần tương thân, tương ái theo truyền thống dân tộc, theo tư tưởng tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh ngày càng tốt hơn. Ví như cuộc vận động vì người nghèo cuối năm
2008 đã huy động được số tiền 4.000 tỷ đồng.
Thứ tư, công tác xây dựng Đảng được quan tâm hơn. Theo báo cáo của các địa phương, việc
Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trong thời gian qua đã góp phần hạn
chế được tình trạng tiêu cực, tình trạng vi phạm kỷ luật trong Đảng.
Thứ năm, ở nhiều địa phương, cán bộ chủ chốt đã nghiêm chỉnh chấp hành. Có những cơ
quan, cán bộ chủ chốt đã tuyên bố trước tập thể và gương mẫu thực hiện là đi công tác bằng
máy bay không đi vé hạng nhất mà đi vé hạng thường, số tiền tiết kiệm đó được bổ sung để
xây dựng nhà tình nghĩa. Đó là những biểu hiện tích cực của việc làm theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh.

2.3.2 Phương hướng trong tương lai

Theo chương trình triển khai Cuộc vận động toàn khóa, năm 2010, trong toàn Đảng và cả hệ
thống chính trị sẽ tổ chức học tập chủ đề "Tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về xây
dựng Đảng ta thật sự trong sạch, vững mạnh, là đạo đức, là văn minh". Việc học tập chủ đề
trên được gắn với nhiệm vụ chính trị quan trọng của năm 2010 là công tác tổ chức và tiến
hành đại hội Đảng các cấp. Đây là sự kết hợp rất cần thiết, bởi tư tưởng Hồ Chí Minh là nền
tảng tư tưởng của Đảng. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh là

9
sự vận dụng lý luận xây dựng Đảng vào thực tiễn Việt Nam, chỉ dẫn cho chúng ta về công tác
xây dựng Đảng hiện nay. Tổ chức tốt việc học tập chủ đề năm 2010 là phục vụ trực tiếp cho
tiến hành thành công Đại hội đảng.
Để tránh bệnh hình thức trong việc học tập và làm theo tấm gương Hồ Chí Minh chúng ta
phải nỗ lực ở cả hai lĩnh vực: nâng cao nhận thức và tích cực làm theo. Phải nâng cao nhận
thức để chúng ta hiểu rõ đây là trách nhiệm của mỗi người, không chỉ lãnh đạo mà tất cả mọi
người đều phải thực hiện. Nỗ lực làm theo là phải làm tốt và hoàn thành công việc của mình.
Vì thế bên cạnh việc vận động cần xây dựng những qui chế, qui định để giúp đỡ, động viên,
hướng hoạt động của mỗi người trong việc học tập và làm theo Bác. Đồng thời, mỗi cấp ủy
cũng cần tranh thủ sự ủng hộ và giúp đỡ của nhân dân, kết hợp với nâng cao nhận thức thì
mới thúc đẩy việc làm theo.
Cán bộ lãnh đạo chủ chốt, người đứng đầu cơ quan cần thực sự gương mẫu tham gia học tập
tư tưởng của Bác và gương mẫu làm theo Bác, phát huy được vai trò, tác dụng của nêu
gương.
Cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, đảm bảo thường xuyên, liên tục, sâu rộng, đến tất cả
các đối tượng trong xã hội với những hình thức phù hợp, hấp dẫn. Kết hợp tuyên truyền về tư
tưởng, tấm gương đạo đức của Bác và tuyên truyền về những gương điển hình thì việc học
tập, làm theo mới có sức thuyết phục cao, đồng thời phát huy vai trò hướng dẫn làm theo của
báo chí, tuyên truyền.
3. Cuộc vận động học tập và làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh trên lãnh vực kinh tế

3.1 Tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế

Qua hơn hai mươi năm tiến hành công cuộc đổi mới, chúng ta đã thu được những thành tựu
quan trọng trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, vị thế và vai trò của đất nước ngày
càng được củng cố và nâng cao trên trường quốc tế, đời sống của nhân dân đã có những
chuyển biến tích cực. Song, trong giai đoạn đầu của quá trình hội nhập sâu vào nền kinh tế
thế giới, nhất là khi chúng ta đã đứng trên con tàu WTO để tiến ra biển lớn thì những hạn chế
trong việc điều tiết chính sách kinh tế vĩ mô, đặc biệt là việc chưa tận dụng tốt những tiềm
năng và sức mạnh nội lực sẵn có, đang là bài toán nan giải cho các nhà hoạch định chính sách
kinh tế - xã hội, trong đó phải kể đến việc chúng ta chưa sử dụng một cách có hiệu quả các
đòn bẩy kinh tế - động lực của phát triển kinh tế - xã hội. Chính việc này đã và đang là lực
cản lớn đối với đất nước ta trên con đường xây dựng, phát triển và hội nhập. Vì vậy, việc tìm
hiểu, nghiên cứu tư tưởng của Hồ Chí Minh về sử dụng các đòn bẩy kinh tế - động lực quan
trọng trong phát triển kinh tế - xã hội là một việc làm thiết nghĩ rất có ý nghĩa trong giai đoạn
hiện nay khi mà toàn Đảng, toàn dân ta đang nỗ lực phấn đấu để đưa nước ra khỏi tình trạng
của một nước kém phát triển, đồng thời phát huy được hết tiềm năng và sức mạnh của dân
tộc.

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn thường nhắc nhở cán bộ, chiến sĩ và toàn thể nhân dân
ta rằng, phải làm thế nào để nông thôn tiến kịp thành thị, miền núi tiến kịp miền xuôi về mọi
mặt, nền kinh tế phát triển bền vững, tự chủ, đồng bào ai cũng được ấm no, hạnh phúc. Nghĩa
là tăng trưởng kinh tế phải luôn luôn gắn liền với tiến bộ xã hội. Cũng theo Người, muốn tăng
trưởng kinh tế nhanh, mạnh và vững chắc thì phải sử dụng hợp lý các đòn bẩy kinh tế, muốn
đẩy mạnh tiến bộ xã hội, phải thực hiện thi đua yêu nước. Việc sử dụng các đòn bẩy kinh tế,
đối với Người không chỉ là động lực của phát triển kinh tế mà nó còn là chính sách để thực

10
hiện công bằng xã hội. Đây là một trong những nét đặc sắc trong tư duy kinh tế của Hồ Chí
Minh. Bởi, công bằng xã hội trong tư tưởng của Người không chỉ biểu hiện như là mục tiêu
của chủ nghĩa xã hội, mà còn là một động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước, một biện pháp căn bản để thực hiện hoá những giá trị, lý tưởng cao cả của xã hội văn
minh, tiến bộ.

Đối với Hồ Chí Minh, việc thực hiện công bằng xã hội luôn là một yêu cầu bức thiết của
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, đặc biệt là trong điều kiện kinh tế nước ta còn đang
phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, nhằm đảm bảo sự ổn định và phát triển xã hội. Trong
giai đoạn đất nước còn gặp nhiều khó khăn (những năm 60), Hồ Chí Minh đã từng nói rằng:
“Không sợ thiếu, chỉ sợ không công bằng; không sợ nghèo, chỉ sợ lòng dân không yên”. Bởi
theo Người, để phát triển kinh tế nhanh, mạnh và vững chắc chúng ta có thể áp dụng các đòn
bẩy kinh tế - động lực của quá trình phát triển kinh tế như: thực hiện công bằng xã hội, chính
sách tiền lương, tiền thưởng, chính sách khoán, thực hành tiết kiệm, huy động nguồn vốn nội
lực, cải cách hành chính, thực hiện công bằng trong lưu thông phân phối, v.v…

3.1.1 Thứ nhất, xét về mặt kinh tế, thực hiện công bằng xã hội, trước hết cũng là một động
lực, một đòn bẩy kinh tế rất quan trọng, có tính quyết định để tăng năng suất lao động xã
hội, nâng cao hiệu quả kinh tế, cải tiến kỹ thuật và cải tiến trong công tác quản lý.

Theo Hồ Chí Minh, công bằng xã hội ở đây không phải là thứ công bằng chung chung, không
phải là sự cào bằng bình quân chủ nghĩa. Công bằng ở đây là công bằng về quyền công dân,
quyền làm chủ xã hội, công bằng về quyền lợi và nghĩa vụ trước pháp luật. Một khi đã thực
hiện được công bằng xã hội thì người lao động sẽ nhận rõ được quyền lợi, trách nhiệm và
nghĩa vụ của mình đối với xã hội, đồng thời cũng thể hiện được mối quan hệ hài hoà giữa lợi
ích cá nhân với lợi ích tập thể. Có thể nói, thực hiện công bằng xã hội trong phát triển kinh tế
nó chính là động lực để thúc đẩy, phát huy hết mọi tiềm năng, sức mạnh của cá nhân và tập
thể trong quá trình lao động sản xuất. Trong bài phát biểu với cán bộ, học viên Trường Cán
bộ công đoàn, ngày 19/01/1957, Hồ Chí Minh đã nói rằng: “Bây giờ anh em mong được lên
lương có chính đáng không? Có. Nhưng lương tăng gấp đôi mà hàng đắt, vẫn không ăn thua
gì. Nuôi lợn ít mà muốn ăn thịt nhiều là không được”. Và chính Người cũng đã từng nêu lên
phương châm: sản xuất phải nhiều, nhanh, tốt, rẻ, để nâng cao năng suất, hiệu quả và để nâng
cao mức sống của người lao động. Điều này cho thấy, với Hồ Chí Minh không thể có thứ
công bằng mà ở đó ta làm ít hưởng nhiều; trái lại, làm bao nhiêu hưởng bấy nhiêu, không làm
không hưởng. Nói cách khác, đồng lương của người lao động nó phải luôn gắn chặt với hiệu
quả của công việc. Bởi vì, lương là một trong những thước đo công sức, trình độ, thái độ, ý
thức, tinh thần lao động của người lao động. Nâng lương là một trong những biểu hiện của
nâng cao mức sống, mức thu nhập của người lao động. Song tiền lương và giá cả hàng hoá
cũng tăng theo tỷ lệ thuận, thậm chí tốc độ tăng giá cao hơn, rõ ràng đây là một nghịch lý, bởi
nó không giúp tăng mức sống của người lao động mà còn kéo mức sống thụt lùi. Điều đó
cũng nói lên rằng sản xuất không tăng, kinh tế kém phát triển. Như vậy, theo Hồ Chí Minh
chính sách tiền lương cũng là một trong những động lực quan trọng của phát triển kinh tế.
Bởi, như trên đã nói, tiền lương chính là thước đo của giá trị sức lao động mà người lao động
đã bỏ ra. Và nếu đồng lương không tương xứng với giá trị sức lao động thì những tư liệu sinh
hoạt cần thiết của người lao động cũng không được đáp ứng. Điều này sẽ dẫn tới việc đánh
mất đi động lực của quá trình sản xuất, và nền kinh tế tất yếu sẽ bị ngưng trệ. Không chỉ vậy,
tiền lương không thích hợp nó còn là một trong những nguyên nhân của rất nhiều căn bệnh
như tham ô, tham nhũng

11
3.1.2.Thứ hai, không chỉ có tiền lương, chính sách khoán cũng là một trong những đòn
bẩy kinh tế đem lại lợi ích cho tập thể và người lao động.

Khi nói về chế độ làm khoán Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Chế độ làm khoán là một điều kiện của
chủ nghĩa xã hội, nó khuyến khích người công nhân luôn luôn tiến bộ, cho nhà máy tiến bộ.
Làm khoán là ích chung và lại lợi riêng. Công nhân sản xuất ra nhiều vải, cố gắng nhiều
hưởng được nhiều; làm khoán tốt thích hợp và công bằng dưới xã hội ta hiện nay. Nếu người
công nhân nào thiếu tinh thần trách nhiệm, thiếu tinh thần kỷ luật thì làm cho mau nhưng
không tốt, như vậy là không đúng và làm khoán phải nâng cao số lượng, nhưng luôn luôn
phải giữ chất lượng”. Với một đoạn văn ngắn gọn, dễ hiểu, Hồ Chí Minh đã trình bày một
cách khái quát và hàm súc vai trò đòn bẩy kinh tế của chế độ khoán đối với việc phát triển
kinh tế - xã hội. Chúng ta cũng cần khẳng định thêm rằng, chế độ làm khoán ở đây là chế độ
khoán sản phẩm, chứ không phải khoán trắng, bởi, trên thực tế yếu tố chất lượng và yếu tố số
lượng phải luôn đi đôi với nhau, trong đó yếu tố chất lượng là yếu tố hàng đầu. Theo Hồ Chí
Minh, giá trị của khoán sản phẩm không chỉ đem lại lợi ích về thu nhập, mà chủ yếu và sâu
xa là sự tiến bộ của công nhân và phát triển của nhà máy, đặc biệt nó còn có ý nghĩa giáo dục
tinh thần trách nhiệm và kỷ luật lao động. Hay nói cách khác, khoán là biện pháp tích cực để
giáo dục và xây dựng tác phong công nghiệp cho người lao động. Chúng ta nói khoán là đòn
bẩy kinh tế bởi vì, nó có ý nghĩa khuyến khích tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng
và hiệu quả kinh tế. Quay trở lại với phương châm “nhiều, nhanh, tốt, rẻ”, của Hồ Chí Minh
chúng ta thấy rằng, khoán vừa là biện pháp vừa là động lực trong việc thực hiện chính sách
phát triển kinh tế của Người. Qua thực tiễn sản xuất, vai trò đòn bẩy kinh tế và tính hiệu quả
của chế độ khoán càng được thể hiện rõ nét. Không chỉ trong sản xuất, trong hoạt động kinh
tế, chế độ khoán còn áp dụng tốt trong các lĩnh vực hoạt động phi sản xuất, kể cả lĩnh vực
hành chính trong giai đoạn hiện nay.

3.1.3.Thứ ba, ngoài chế độ tiền lương, khoán, thì thực hành tiết kiệm cũng là một trong
những đòn bẩy kinh tế quan trọng.

Hồ Chí Minh luôn kêu gọi mọi người phải thực hành tiết kiệm và phê phán mạnh mẽ thói xa
hoa, lãng phí. Người cho rằng, lãng phí cũng là một căn bệnh, là tội lỗi đối với Đảng, với Nhà
nước, và đối với nhân dân. Sự lãng phí gây ra rất nhiều tai hại trước mắt và hậu quả lâu dài.
Trong rất nhiều bài viết, bài nói chuyện của mình Chủ tịch Hồ Chí Minh không ngừng phê
phán thói lãng phí, sự không minh bạch về tài chính. Người viết: “Đúng, chế độ chi tiêu của
Nhà nước là một sự “ràng buộc”, nhưng đó là một sự ràng buộc rất cần thiết và rất hay. Nó
ràng buộc những kẻ phung phí, những người thích phô trương. Nó ràng buộc cả những người
chỉ biết việc trước mắt mà không thấy việc lâu dài. Chỉ biết việc của bộ phận mình mà không
thấy việc chung của cả nước. Nhưng chính nhờ đó mà nó lại chặt xiềng, chắp cánh cho kinh
tế nước ta tiến lên như ngựa thần trên con đường xã hội chủ nghĩa. Nó giúp ta dành dụm từng
đồng xu thành những số vốn lớn. Nó vít kín các lỗ thủng, các khe hở, không để của cải dành
dụm của chúng ta hao hụt phân tán. Như vậy mới dồn được phần lớn vốn của Nhà nước vào
việc công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa”.

3.1.4.Thứ tư, theo Hồ Chí Minh, ngoài tiết kiệm để tích luỹ vốn, phục vụ sản xuất thì việc
huy động vốn trong dân cũng là một trong những biện pháp hữu hiệu trong các đòn bẩy
kinh tế.

Theo Người, đồng tiền dính với hoạt động của tất cả các ngành. Vì vậy, các ngành, các tổ
chức kinh tế, các cơ quan nhà nước cùng toàn thể nhân dân phải biết sử dụng đồng tiền cho
tốt…. Một đồng vốn bỏ ra phải đảm bảo tăng thêm của cải cho xã hội, phải luân chuyển

12
nhanh, đừng để tồn đọng. Phải tích cực huy động tiền nhàn rỗi để bỏ vào sản xuất. Khi nói về
vấn đề này Hồ Chí Minh yêu cầu: huy động tiền nhàn rỗi trong dân là nhằm đưa vào sản xuất,
thì đồng tiền ấy mới sinh sôi, nảy nở ngày càng thêm nhiều. Về góc độ kinh tế, con người
muốn làm chủ nền kinh tế mới thì phải học cách quản lý và sử dụng tiền sao cho hợp lý, đem
lại lợi ích cho công cuộc kiến thiết nước nhà, nâng cao mức sống của nhân dân. Mặt khác,
pháp luật của Nhà nước là hành lang ngăn chặn các hành vi lãng phí, tham ô, tham nhũng
trong cán bộ, đảng viên và nhân dân.

3.1.5.Thứ năm, như trên đã nói, chính sách tiền lương tốt là một trong những điều kiện
chống lãng phí, tham ô, tham nhũng có hiệu quả.

Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng: giảm đến mức tối thiểu số người làm việc hành chính, tăng
cường lực lượng cho sản xuất trực tiếp. Bởi vậy, cải cách hành chính cũng là một trong
những động lực rất có ý nghĩa của phát triển kinh tế. Bộ máy hành chính nhà nước càng
phình ra bao nhiêu thì trở thành gắnh nặng cho ngân sách nhà nước bấy nhiêu. Lượng tiền bỏ
ra chi cho khối hành chính càng lớn, thì lượng tiền đưa vào sản xuất càng hạn chế. Đó là chưa
kể sự thất thoát đồng tiền qua việc mua sắm những thứ đắt tiền không cần thiết, xây dựng trụ
sở tiêu tốn nhiều tiền của công quỹ. Cải cách hành chính là đòn bẩy kinh tế, vì cải cách hành
chính như một biện pháp tiết kiệm sức người, sức của. Mấu chốt của thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta như Hồ Chí Minh đã khẳng định: đó là tăng gia sản xuất và thực hành
tiết kiệm, để xây dựng cơ sở vật chấy kỷ thuật và tiến hành công nghiệp hoá nước nhà. Tăng
gia sản xuất và thực hành tiết kiệm theo Hồ Chí Minh luôn luôn là những nhiệm vụ hàng đầu
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Cải cách hành chính thực chất cũng nhằm thực thi
hai nhiệm vụ là tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm. Khi nói về vấn đề này, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã viết: “Gián tiếp sản xuất cũng cần. Phải có người làm bàn giấy, tính toán, đánh
máy….mới phục vụ cho người trực tiếp sản xuất, nhưng nhiều quá có bao nhiêu lãi chén hết.
Bây giờ nhà máy số gián tiếp sản xuất còn nhiều quá”. Như vậy, việc giảm cán bộ gián tiếp
của bộ máy quản lý thực chất là cải cách hành chính, là công việc phải làm thường xuyên, để
làm cho bộ máy nhà nước không rơi vào tình trạng quá cồng kềnh, gây lãng phí sức người,
sức của, trở thành gọn nhẹ mà công việc vẫn được thực hiện một cách có hiệu quả.

3.1.6.Thứ sáu, thực hiện công bằng xã hội trong lưu thông phân phối cũng là động lực
của phát triển kinh tế.

Bởi vì, tổ chức lưu thông phân phối cũng góp phần nâng cao năng suất và hiệu quả kinh tế.
Hoạt động lưu thông phân phối không thể thiếu được trong nền kinh tế. Hồ Chí Minh đã từng
nói: “Trong nền kinh tế quốc dân có ba mặt quan trọng: nông nghiệp, công nghiệp, thương
nghiệp. Ba mặt công tác liên hệ mật thiết với nhau. Thương nghiệp là cái khâu giữa nông
nghiệp và công nghiệp. Thương nghiệp đưa hàng đến nông thôn phục vụ nông dân; thương
nghiệp lại đưa nông sản, nguyên liệu cho thành thị tiêu dùng. Nếu khâu thương nghiệp bị đứt
thì không liên kết được nông nghiệp với công nghiệp, không cũng cố được công nông liên
minh. Công thương nghiệp không chạy thì hoạt động nông nghiệp, công nghiệp sẽ bị rời rạc”.
Cũng như trong quá trình sản xuất, đồng vốn không được để ứ đọng thì quá trình lưu thông
phân phối cũng không được để ách tắc. Như cơ thể con người, muốn khỏe mạnh thời phải
thông khí huyết, bế là sinh bệnh tật, thứ bệnh của lưu thông phân phối gây bế tắc là bệnh đầu
cơ tích trữ. Người phân tích: “Tệ nạn phải chống là bọn đầu cơ tích trữ. Đảng, Chính phủ và
mậu dịch cung cấp hàng cho dân, nhưng một số hàng không đến tay dân mà bị bọn đầu cơ lợi
dụng như vải, thuốc tây…Có thứ thuốc mậu dịch bán 500đ một viên mà bọn đầu cơ bán
2500đ. Thật là nó lợi dụng đồng bào ốm để làm giàu, như thế là rất đáng phản đối. Muốn
chống bọn đầu cơ thì không riêng gì công an, công thương, mậu dịch mà tất cả cán bộ, công

13
nhân, nhân dân đều phải chống cả, vì cán bộ nhân dân có hàng triệu tai, mắt mới làm được để
hàng hóa đến tay nhân dân”. Như vậy, lưu thông phân phối tốt, thì nền kinh tế khỏe, vững và
sản xuất không ngừng phát triển.

Trên đây là những luận điểm cơ bản nhất của Hồ Chí Minh khi bàn về động lực của quá phát
triển kinh tế - xã hội. Chính những động lực này là nhân tố quan trọng góp phần làm cho nền
kinh tế nước ta vượt qua được những khó khăn thử thách, đặc biệt trong thời kỳ đất nước có
chiến tranh. Theo Hồ Chí Minh, với việc sử dụng một cách linh hoạt, hợp lý và có hiệu quả
các đòn bẩy kinh tế trong phát triển kinh tế nó không chỉ là động lực thúc đẩy đất nước phát
triển, mà cao hơn nữa là tiến tới xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ và văn minh.

3.2. Kết luận

Tư tưởng Hồ Chí Minh về sử dụng các đòn bẩy kinh tế - động lực quan trọng trong phát triển
kinh tế không chỉ khẳng nguyên tắc nhất quán trong tư tưởng kinh tế của Người, mà nó còn
thể hiện một kiểu tư duy kinh tế mang tính tổng hợp, toàn diện song cũng rất cụ thể, linh
hoạt. Lý luận của Hồ Chí Minh vừa giản dị nhưng cũng rất sắc bén, luôn đặt các sự vật và
hiện tượng trong mối quan hệ biện chứng. Đó chính là mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với
ổn định chính trị, phát triển kinh tế gắn liền với việc phát triển con người và ổn định xã hội.
Nói cụ thể hơn, đó chính là mối quan hệ hài hoà giữa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và lợi ích
xã hội.

Ngày nay, khi học tập và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong công cuộc xây dựng và phát
triển đất nước, chúng ta không thể không nói đến tư tưởng của Người về việc sử dụng các
đòn bẩy kinh tế trong chính sách phát triển kinh tế - xã hội. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay
khi mà Đảng, Nhà nước và toàn thể nhân dân ta đã và đang nỗ lực nhằm kìm chế lạm phát,
giữ vững tốc độ tăng trưởng kinh tế và giữ cho con tàu kinh tế Việt Nam đứng vững trước
những đợt sóng khủng hoảng của nền kinh tế thế giới.

4 Cuộc vận động học tập và làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh trên lĩnh vực văn hoá

Những tư tưởng lớn của Hồ Chí Minh về văn hóa đã đặt nền tảng cho đường lối văn hóa văn
nghệ của nhà nước ta. Tư tưởng đó vẫn còn nguyên giá trị trong quá trình xây dựng, bảo vệ
và phát triển đất nước, nhất là trong nền kinh tế thị trường hiện nay.

4.1 Những quan điểm chung của Hồ Chí Minh về văn hoá

“Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra
ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công
cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng
tạo và phát minh đó tức là văn hoá. Văn hoá là tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng
với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và
đòi hỏi của sự sinh tồn”. (Hồ Chí Minh)

4.1.1 Quan niệm về vị trí, vai trò của văn hoá:

Theo Hồ Chí Minh, “Văn hóa cũng là một mặt trận, người làm văn hóa là chiến sĩ trên mặt
trận ấy”. Đây là quan điểm cơ bản nhất, là tư tưởng hạt nhân xác định vị trí, vai trò, chức
năng của văn hóa trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước xã hội chủ nghĩa.
Quan điểm này của Người bắt nguồn từ truyền thống “văn dĩ tải đạo” của ông cha ta và từ

14
quan điểm biện chứng của chủ nghĩa Mác-Lênin. Người từng khẳng định: “Văn hóa là một
kiến trúc thượng tầng, những cơ sở hạ tầng của xã hội có kiến thiết rồi, văn hóa mới kiến thiết
được và đủ điều kiện phát triển được”. Với quan điểm khoa học và cách mạng này, Hồ Chí
Minh đã vạch trần và đập tan luận điểm lừa bịp của thực dân Pháp và tay sai cho rằng “văn
hóa chí thượng”, “văn hóa phải đứng trên giai cấp và ở ngoài chính trị”…

Văn hoá có quan hệ mật thiết với kinh tế, chính trị, xã hội, tạo thành bốn vấn đề chủ yếu của
đời sống xã hội và phải nhận thức như sau:

- Văn hoá quan trọng ngang kinh tế, chính trị, xã hội.

- Chính trị, xã hội có được giải phóng thì văn hoá mới được giải phóng. Chính trị giải phóng
mở đường cho văn hoá phát triển.

- Xây dựng kinh tế để tạo điều kiện cho việc xây dựng và phát triển văn hoá.

- Văn hoá là kiến trúc thượng tầng, nó phải phục vụ nhiệm vụ chính trị, thúc đẩy xây dựng và
phát triển kinh tế.

4.1.2 Quan điểm về tính chất của nền văn hoá mới

Trong thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ, nền văn hoá thể hiện:

- Tính dân tộc, đặc tính dân tộc hay cốt cách dân tộc là cái tinh tuý, đặc trưng riêng của văn
hoá dân tộc. Cốt cách văn hoá dân tộc không phải “nhất thành bất biến”, mà có phát triển và
bổ sung nét mới.

- Tính khoa học của nền văn hoá thuận với trào lưu tiến hoá của tư tưởng hiện đại: hoà bình,
độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Những người làm văn hoá phải có trí tuệ, hiểu biết
khoa học tiên tiến, phải có chiến lược xây dựng văn hoá mang tầm thời đại.

- Tính đại chúng của nền văn hoá là phục vụ nhân dân, phù hợp nguyện vọng của nhân dân,
đậm đà tính nhân văn.

Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, nền văn hoá thể hiện:

- Nội dung xã hội chủ nghĩa: tiên tiến, tiến bộ, khoa học, hiện đại, tiếp thu tinh hoa văn hoá
nhân loại.

- Tính dân tộc của nền văn hoá là giữ gìn, kế thừa và phát huy những truyền thống văn hoá
tốt đẹp của dân tộc, phù hợp với điều kiện lịch sử mới.

4.1.3 Quan điểm về chức năng của văn hoá

- Một là, bồi dưỡng tư tưởng đạo đức đúng đắn và tình cảm cao đẹp cho con người. Người
thường xuyên quan tâm đến bồi dưỡng lý tưởng cho cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân
dân. Đó là chức năng cao quý của văn hoá. Hồ Chí Minh nói phải làm cho “văn hoá soi
đường cho quốc dân đi”, đi sâu vào tâm lý quốc dân, để xây dựng tình cảm lớn cho con
người.

15
- Hai là, nâng cao dân trí, “mọi người phải hiểu biết quyền lợi của mình... phải có kiến thức
mới để có thể tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà, và trước hết phải biết đọc, biết viết
chữ quốc ngữ”. Khi miền Bắc quá độ lên CNXH, Người nói “chúng ta phải biến một nước
dốt nát, cực khổ thành một nước văn hoá cao và đời sống vui tươi hạnh phúc.”

- Ba là, bồi dưỡng những phẩm chất tốt đẹp, những phong cách lành mạnh, luôn hướng con
người vươn tới chân- thiện- mỹ để không ngừng hoàn thiện bản thân mình.

4.2 Tư tưởng Hồ Chí Minh về một số lĩnh vực chính của văn hoá

4.2.1 Văn hoá giáo dục:

Trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh, tư tưởng về giáo dục luôn có ý nghĩa lý luận và thực tiễn
sâu sắc đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Trong sự nghiệp đào tạo nguồn nhân lực cho
công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, thực hiện mục tiêu "dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh" ở nước ta, tư tưởng đó của Người càng có ý nghĩa thiết
thực.

4.2.1.1 Về vai trò và mục đích của giáo dục.

Mục đích trọng tâm và xuyên suốt tư tưởng giáo dục Hồ Chí Minh là vì con người, cho con
người, là xây dựng con người mới. Theo Hồ Chí Minh, giáo dục có vai trò hết sức to lớn
trong việc cải tạo con người cũ, xây dựng con người mới. Người nói: "Thiện, ác vốn chẳng
phải là bản tính cố hữu, phần lớn đều do giáo dục mà nên". Không những thế, giáo dục còn
góp phần đắc lực vào công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước. Người kêu gọi: "Quốc dân
Việt Nam! Muốn giữ vững nền độc lập, Muốn làm cho dân mạnh nước giàu, Mọi người Việt
Nam... phải có kiến thức mới để có thể tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà, và trước
hết phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ". Người dặn các cháu “Non sông Việt Nam có trở
nên vẻ vang hay không, dân tộc Việt Nam có được sánh vai với các cường quốc năm châu
hay không, đó là nhờ một phần lớn công học tập của các cháu.” Và: Một năm khởi đầu từ
mùa xuân. Một đời khởi đầu từ tuổi trẻ. Tuổi trẻ là mùa xuân của nhân loại. Người nhắc nhở
toàn Đảng, toàn dân: “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và
rất cần thiết”. Người chỉ rõ: “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì
phải trồng người”. Suốt đời, Hồ Chí Minh mong muốn xây dựng một xã hội mới về chất, cao
hơn hẳn xã hội cũ - xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản Chủ nghĩa. Và để xây dụng chủ
nghĩa xã hội, theo Người, "trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa”. Đào tạo con
người xã hội chủ nghĩa không có con đường nào khác ngoài giáo dục tri thức khoa học và lý
tưởng, đạo đức xã hội chủ nghĩa. Đó là nền giáo dục nhằm phát triển con người toàn diện,
vừa “hồng” vừa "chuyên" trong thời đại mới. Và như vậy, "con người xã hội chủ nghĩa", con
người toàn diện, "nhất định phải có học thức. Người chỉ rõ: "Trình độ văn hoá của nhân dân
nâng cao sẽ giúp chúng ta đẩy mạnh công cuộc khôi phục kinh tế, phát triển dân chủ. Nâng
cao trình độ văn hoá của nhân dân cũng là một việc làm cần thiết để xây dựng nước ta thành
một nước hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, văn minh và giàu mạnh".

4.2.1.2 Về phương pháp giáo dục.

Tuy Hồ Chí Minh không để lại cho chúng ta một tác phẩm, một hệ thống lý luận về phương
pháp giáo dục, nhưng những việc làm thiết thực, những bài viết ngắn gọn, súc tích của Người
đã hàm chứa các phương pháp giáo dục mẫu mực. Người lấy nguyên tắc thống nhất giữa lý
luận và thực tiễn làm nguyên tắc cơ bản cho việc xây dựng các phương pháp về giáo dục.

16
Nguyên tắc này được Người sử dụng trong việc giáo dục cán bộ, đảng viên, thanh thiếu niên,
công nhân, nông dân, bộ đội, trí thức, học sinh, sinh viên… Nó được coi như "kim chỉ nam"
để lồng dẫn nhận thức, hành động và bồi dưỡng tinh thần yêu nước cho tất cả mọi người. Hơn
nữa, nguyên tắc này có tính chất quyết định trong việc chuyển hướng giáo dục và trở thành
đặc trưng của nền giáo dục xã hội chủ nghĩa. Người nhấn mạnh: "Học phải suy nghĩ, học phải
liên hệ với thực tế, phải có thí nghiệm và thực hành. Học với hành phải kết hợp với nhau”.
“Học ở mọi nơi, mọi lúc, học mọi người; học suốt đời; coi trọng việc tự học, tự đào tạo và
đào tạo lại. “học không biết chán, học không bao giờ đủ, còn sống còn phải học” Cần phải
học văn hoá, chính trị, kỹ thuật. Nhưng do yêu cầu của mỗi thời kỳ cách mạng khác nhau, Hồ
Chí Minh đã đề ra nhiệm vụ giáo dục khác nhau cho phối hợp. Ở thời kỳ chuẩn bị thành lập
Đảng, Người tập trung vào việc triển khai các lớp huấn luyện tại Quảng Châu, Trung Quốc
nhằm nâng cao trình độ nhận thức cho cán bộ về con đường cách mạng Việt Nam và cách
mạng thế giới. Đến giai đoạn toàn quốc kháng chiến và xây dựng nền dân chủ, Người kêu gọi
sửa đổi giáo dục cho phù hợp với việc đào tạo nhân tài kháng chiến kiến quốc. Tất cả giáo
dục tập trung phục vụ kháng chiến kiến quốc. Bước sang giai đoạn cách mạng xã hội chủ
nghĩa ở miền Bắc, mục đích giáo dục lại gắn liền với tình hình mới. Đó là thời kỳ rất cần
những con người làm chủ xã hội, làm chủ sản xuất, biết quản lý cơ quan, xí nghiệp, trường
học...

Cần phải học lý luận Mác - Lênin kết hợp với đấu tranh và công tác hàng ngày. Hồ Chí Minh
đặc biệt quan tâm đến việc luyện "tài", rèn "đức" cho cán bộ. Bởi, theo Người, "có tài mà
không có đức, ví như một anh làm kinh tế tài chính rất giỏi nhưng lại đi đến thụt két thì chẳng
những không làm được gì ích lợi cho xã hội, mà còn có hại cho xã hội nữa. Nếu có đức mà
không có tài ví như ông bụt không làm hại gì nhưng cũng không lợi gì cho loài người". Tài là
giỏi về kiến thức chuyên môn và giỏi về cách thức, phương pháp vận dụng kiến thức đó vào
hoạt động thực tiễn, làm cho ích nước lợi dân. Tài không có nghĩa là kiến thức hoàn chỉnh,
tuyệt đối, khép kín, mà là một kiến thức mở, "dĩ bất biến, ứng vạn biến", luôn được bổ sung
và phát triển qua thực tiễn cách mạng sinh động. Do đó, theo Người, học tập chủ nghĩa Mác -
Lênin là "học tập cái tinh thần xử trí mọi việc... học tập những chân lý phổ biến của chủ
nghĩa Mác - Lênin để áp dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh thực tế của nước ta". Người
có tài tham gia hoạt động thực tiễn phải biết dựa vào dân, bởi theo Hồ Chí Minh, "có dân là
có tất cả". Người viết: "Dễ mười lần không dân cũng chịu, Khó trăm lần dẫn liệu cũng xong".

Để nâng cao trình độ nhận thức của người lao động, Hồ Chí Minh cho rằng cần có quan điểm
dân chủ, thẳng thắn, không nhồi sọ và cần có sự đối thoại trong quá trình học tập, nhận thức.
Người chỉ rõ: "Mọi người được hoàn toàn tự do phát biểu ý kiến, dù đúng hoặc không đúng
cũng vậy. Song không được nói gàn, nói vòng quanh". "Khi mọi người đã phát biểu ý kiến,
đã tìm thấy chân lý, lúc đó quyền tự do tư tưởng hoá ra quyền tự do phục tùng chân lý". Từ
đó, Hồ Chí Minh kêu gọi cán bộ, nhà giáo phải biết tôn trọng ý kiến người khác, không nên
có thành kiến đối với các ý kiến trái với ý kiến của mình. Đội ngũ giáo viên có phẩm chất,
yêu nghề; phải có đạo đức cách mạng, phải yên tâm công tác, đoàn kết; phải giỏi chuyên
môn, thuần thục phương pháp. Trong khi viết và nói, Hồ Chí Minh luôn dùng các khái niệm
giản dị, dễ hiểu, nhưng văn phong vẫn trong sáng, ý tưởng phong phú. Phong cách đó làm
cho mọi tầng lớp, mọi người ở trình độ khác nhau đều hiểu. Đối với Hồ Chí Minh, viết và nói
là làm cho người khác hiểu, cho nên viết và nói phải biết cách. Viết và nói phải thiết thực,
ngắn gọn, rõ ràng, dễ nhớ và phải xuất phát từ người đọc, người nghe. Trong giáo dục, theo
Hồ Chí Minh, cần có phương pháp phù hợp với điều kiện giáo dục và đối tượng giáo dục.
Giáo dục phải căn cứ vào "trình độ văn hoá, thói quen sinh hoạt, trình độ giác ngộ, kinh
nghiệm tranh đấu, lòng ham, ý muốn, tình hình thiết thực của quần chúng". Cần có phương
pháp tổ chức giáo dục sao cho bảo đảm được sự phù hợp giữa điều kiện, hoàn cảnh giáo dục

17
với đối tượng giáo dục. Người viết: “công nhân, nông dân bận làm ăn, nếu dạy không hợp với
người học, với làm ăn, bắt phải đến lớp có bàn có ghế là không ăn thua. Phải tuý theo hoàn
cảnh làm ăn mà tổ chức học mới duy trì được lâu dài, mới có kết quả tốt". Hồ Chí Minh đặc
biệt coi trọng việc kết hợp các hình thức giáo dục, không tuyệt đối hoá bất cứ một hình thức
giáo dục nào. Người viết: "Giáo dục dù trong nhà trường có tốt mấy nhưng thiếu giáo dục
trong gia đình và ngoài xã hội thì kết quả cũng không hoàn toàn". Cuộc đời và sự nghiệp của
Hồ Chí Minh luôn là tấm gương sáng cho mọi người noi theo. Trong cuộc sống, trong việc
làm... Hồ Chí Minh luôn là người đi đầu. Phương pháp làm gương là một biện pháp hữu hiệu
nhất trong việc thống nhất giữa lời nói và việc làm. Người dạy: "Mình phải làm gương, gắng
làm gương trong anh em, và khi đi công tác, gắng làm gương cho dân. Làm gương về cả ba
mặt: tinh thần, vật chất và văn hoá".

Kế tục và quyết tâm thực hiện thắng lợi sự nghiệp to lớn và cao cả của Người, Văn kiện Hội
nghị lần thứ hai BCH Trung ương khoá VIII đã xác định nhiệm vụ và mục đích cơ bản của
giáo dục Việt Nam là "nhằm xây dựng những con người và thế hệ thiết tha gắn bó với lý
tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong sáng, có ý chí kiên cường xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, gìn giữ và phát huy các giá
trị văn hoá của dân tộc, có năng lực tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại phát huy tiềm năng
của dân tộc và con người Việt Nam, có ý thức cộng đồng và phát huy tính tích cực của cá
nhân, làm chủ tri thức khoa học và công nghệ hiện đại, có tư duy sáng tạo, có kỹ năng thực
hành giỏi, có tác phong công nghiệp, có tính tổ chức và kỷ luật, có sức khoẻ, là những người
kế thừa xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa "hồng" vừa "chuyên" như lời căn dặn của Bác Hồ. Và
mới đây, tại Đại hội Đảng lần thứ IX, một lần nữa Đảng ta khẳng đinh: "Phát triển giáo dục
và đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hoá, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người, yếu tố cơ bản để phát triển xã hội,
tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững" "Tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện,
đổi mới nội dung, phương pháp dạy và học, hệ thống trường lớp và hệ thống quản lý giáo
dục, thực hiện chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá. Phát huy tinh thần độc lập suy nghĩ và
sáng tạo của học sinh, sinh viên, đề cao năng lực tự học, tự hoàn thiện học vấn và tay nghề,
đẩy mạnh phong trào học tập trong nhân dân bằng những hình thức giáo dục chính quy và
không chính quy, thực hiện "giáo dục cho mọi người", "cả nước trở thành một xã hội học
tập”, thực hiện phương châm "học đi đôi với hành", giáo dục kết hợp với lao động sản xuất,
nhà trường gắn với xã hội.

Hơn 50 năm qua, tư tưởng Hồ Chí Minh về phương châm, chiến lược, mục đích, nội dung,
phương pháp giáo dục - đào tạo con người luôn soi sáng sự nghiệp trồng người ở Việt Nam.
Tư tưởng đó không chỉ là cơ sở lý luận cho việc xác định chiến lược đào tạo con người, chủ
trương, đường lối chỉ đạo phát triển nền giáo dục Việt Nam của Đảng ta qua các thời kỳ cách
mạng, mà còn là những bài học, những kinh nghiệm thực tiễn giáo dục hết sức sinh động,
thiết thực và hiệu quả đối với người làm công tác giáo dục nói riêng, ngành giáo dục nói
chung hiện nay.

4.2.2 Văn hoá văn nghệ:

- Văn nghệ là một mặt trận, văn nghệ sĩ là chiến sĩ, tác phẩm văn nghệ là vũ khí sắc bén trong
đấu tranh cách mạng, trong xây dựng xã hội mới, con người mới.

• Văn nghệ là mặt trận “ngòi bút của các bạn cũng là những vũ khí sắc bén trong sự
nghiệp phò chính, trừ tà”.

18
• Văn nghệ sĩ là chiến sĩ “Cũng như các chiến sĩ khác, chiến sĩ nghệ thuật có nhiệm vụ
nhất định, tức là phụng sự tổ quốc, phụng sự kháng chiến, phụng sự nhân dân, trước
hết là công, nông, binh. Để làm tròn nhiệm vụ, chiến sĩ nghệ thuật cần có lập trường
vững vàng, tư tưởng đúng... đặt lợi ích của kháng chiến, của Tổ quốc, của nhân dân
lên trên hết”. Họ phải nâng cao trình độ chính trị, văn hoá, nghiệp vụ, đặc biệt phải có
phẩm chất, bản lĩnh, tài năng để sáng tạo ra những sản phẩm tinh thần phục vụ cuộc
sống, phục vụ nhân dân ngày càng tốt hơn.

- Văn nghệ phải gắn với thực tiễn của đời sống nhân dân. Thực tiễn không chỉ là nguồn nuôi
dưỡng những sáng tác, mà còn là những tinh hoa trong sáng tác dân gian đã được chắt lọc từ
thế hệ này qua thế hệ khác. Nhân dân cũng sáng tác văn hoá văn nghệ và hưởng thụ văn
nghệ, chúng ta thường gọi là sáng tác dân gian. Những sáng tác ấy là “những hòn ngọc quý”.

- Phải có những tác phẩm văn nghệ xứng đáng với thời đại mới của đất nước và của dân tộc.
Phải phán ánh cho hay, cho chân thật sự nghiệp cách mạng của nhân dân. “Quần chúng mong
muốn những tác phẩm có nội dung chân thật và phong phú, có hình thức trong sáng và vui
tươi. Khi chưa xem thì muốn xem, xem rồi thì bổ ích”. “Cần làm cho món ăn tinh thần được
phong phú, không nên bắt mọi người chỉ được ăn một món thôi”.

4.2.3 Văn hoá đạo đức

4.2.3.1 Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức

Đạo đức mới theo Hồ Chí Minh là thực hành đời sống mới, trước hết là thực hành đạo đức
cách mạng cần, kiệm, liêm chính.

Với Hồ Chí Minh, đạo đức là một yếu tố có vai trò đặc biệt quan trọng trong đời sống của
con người và xã hội. Người thường nhấn mạnh, trong các trước tác cũng như trong bản thân
cuộc sống mẫu mực của mình, rằng: đạo đức là cái gốc, là nền tảng của mọi quan hệ, hoạt
động, hành vi... của con người với tự nhiên, xã hội, con người, công việc và với bản thân
mình. Thiếu cái gốc, cái nền tảng này, mọi hoạt động của cộng đồng, của con người khó phát
triển một cách chuẩn mực, đúng quy luật của tự nhiên và xã hội... Hồ Chí Minh khởi đầu sự
nghiệp hoạt động cách mạng của mình bằng cách thực hiện, đồng thời giáo dục cho mọi
người, lòng yêu nước, lý tưởng và đạo đức cách mạng. Đó là một nền đạo đức mới trong
sáng, chuẩn mực, tận trung với nước, tận hiếu với dân; cần kiệm liêm chính, chí công vô tư...,
biết đặt lợi ích của Đảng, của dân tộc, của nhân dân lên trên lợi ích của riêng mình. Tuy
nhiên, cần chú ý tới một đặc điểm quan trọng trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh: đó là sự
kết hợp nhuần nhuyễn chuẩn mực đạo đức truyền thống của dân tộc với tinh hoa đạo đức của
nhân loại, cả phương Đông và phương Tây; đó là sự thống nhất, hòa quyện giữa đạo đức với
chính trị, văn hóa, lối sống...; đó là việc xem xét vấn đề đạo đức một cách toàn diện trên cơ
sở chú trọng đến những phẩm chất đạo đức cơ bản nhất của con người với những nguyên tắc
phù hợp với việc xây dựng đạo đức mới. Vận dụng, khai thác những thành tựu đạo đức
truyền thống của dân tộc, của Khổng giáo, Đạo giáo, Phật giáo..., của chủ nghĩa Mác-Lênin,
Hồ Chí Minh đã nâng tầm những vấn đề đạo đức thành triết lý, thành tư tưởng, phù hợp với
con người mới, thời đại mới, một đạo đức cách mạng với những chuẩn mực hết sức rõ ràng.

4.2.3.2. Một số quan điểm trong văn hóa đạo đức của HCM

4.2.3.3.1 Tình yêu quê hương, yêu thương con người

19
Hồ Chí Minh bắt đầu sự nghiệp giải phóng dân tộc bằng chính tình yêu quê hương, đất nước,
con người nồng đậm và suốt cuộc đời mình, Người luôn dành muôn vàn tình thương yêu cho
quê hương, đất nước, nhân dân. Vì thế, với Hồ Chí Minh, tình yêu quê hương, con người là
một phẩm chất đạo đức cao đẹp. Đó là một tình cảm rộng lớn, bao la dành cho những người
cùng khổ, bị áp bức bóc lột; những người nghèo đói, thất học với mong muốn, “ham muốn tột
bậc là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai
cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành"(6). Mỗi người không có tình yêu thương quê
hương, con người rộng lớn, nhân đạo như vậy thì khó có thể coi là có được đạo đức cộng sản.
Tình yêu ấy không chung chung, trừu tượng mà toàn diện, cụ thể, độc đáo, thể hiện trong mối
quan hệ với nhiều đối tượng khác nhau. Đó là đất nước, quê hương nơi mỗi người sinh ra, lớn
lên; đó là những người lao động cùng khổ; đó là gia đình, là bạn bè, đồng chí; đó còn là
những người có sai lầm khuyết điểm, lầm đường lạc lối nhưng biết sửa chữa để vươn lên...
Người luôn cho rằng tình yêu thương con người sẽ "làm cho phần tốt trong mỗi con người
nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi"(7), tình yêu ấy sẽ đánh thức lương tâm
con người, giúp họ đứng dậy, biết sống tốt vì đồng loại.

Trong yêu thương, quý trọng con người thì thái độ tích cực nhất là dấn thân vào sự nghiệp
đấu tranh giải phóng con người chứ không phải kiểu thương người từ trên ban xuống. Bản
thân Người cũng là một người chịu quá nhiều khổ đau mà Người ít khi nói ra.

Đối với Hồ Chí Minh, cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội kết hợp chặt chẽ
với nhau để đi tới giải phóng con người. Là Chủ tịch nước, Chủ tịch Đảng, Hồ Chí Minh
nhấn mạnh tới việc phấn đấu cho cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc của nhân dân. Người
nhiều lần nêu lên quan niệm: nếu nước đã được độc lập mà dân cứ chết đói, chết rét thì độc
lập chẳng để làm gì; dân chỉ biết giá trị của tự do, độc lập khi được ăn no, mặc ấm. Nói như
thế tức là Người đã đề cập những vấn đề tối thiểu và về cơ bản nhất của con người: sống có
chất lượng tốt, cả về vật chất và tinh thần, con người phát triển toàn diện vươn tới vương
quốc của tự do.

Đó cũng là từ quyền của con người, mà Hồ Chí Minh có tiếp thu quan điểm của Tuyên ngôn
cách mạng Mỹ và Tuyên ngôn của cách mạng Pháp: quyền được sống, quyền tự do và quyền
mưu cầu hạnh phúc, rồi Hồ Chí Minh “chuyển” quyền của con người sang nằm trong quyền
của dân tộc: quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do. Quyền con người được quyện
chặt vào quyền của dân tộc, quyền của con người đặt dưới quyền dân tộc.

4.2.3.3.2 Trung với nước, hiếu với dân

Đối với người Việt Nam nhiều thế hệ, trung, hiếu không phải là một khái niệm xa lạ, mà nó
gắn bó, sâu rễ bền gốc trong tâm hồn và đời sống mỗi người, giáo dục con người ý thức trách
nhiệm, làm tròn bổn phận với quốc gia, cộng đồng, xã hội, gia đình..., mà trung quân, ái
quốc, hiếu đễ là những đức tính được nhấn mạnh.

Tiếp thu nội hàm ngữ nghĩa của trung, hiếu cũ, Hồ Chí Minh chuyển tải vào cái vỏ khái niệm
ấy những nội dung mới, hiện đại, mang tính cách mạng, không còn là trung với vua, hiếu vơi
cha mẹ ở phạm vi hẹp mà đổi mới rộng hơn tới trung với nước, hiếu với dân. Có thể nói đó
thực sự là một cuộc cách mạng, một sự đảo lộn lớn trong quan niệm đạo đức cũ, trong đó,
trung quân, ái quốc (đồng nghĩa trung thành với nước của vua) đã được chuyển hóa thành
trung với nước (của dân), hiếu với dân. Theo đó, những mệnh đề ngôn ngữ của Nho giáo về
“tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ” vốn là sự đúc kết lý luận - thực tiễn của Nho giáo,
mang đặc trưng “chữ ít ý nhiều” của các mệnh đề Nho giáo được Người dùng lại nhưng với

20
nội dung mới. Điều này ngay cả ở Trung Quốc sau này – quê hương của Nho giáo – chưa ai
có thể dùng được các mệnh đề của Nho giáo vào cuộc sống mới như Hồ Chí Minh.

Do đó, nhân dân, từ chỗ là tầng lớp nghèo hèn, bị sai khiến, bị áp bức trở thành lực lượng làm
chủ, lực lượng sáng tạo nên lịch sử. Trung với nước, hiếu với dân, theo Hồ Chí Minh, nghĩa
là phải suốt cuộc đời đấu tranh cho sự nghiệp cách mạng của Đảng, của nhân dân; làm "nô
bộc của dân", "người đầy tớ trung thành của nhân dân". Hiếu với dân ở Hồ Chí Minh là ông
coi cán bộ, đảng viên là người lãnh đạo đồng thời là người đày tớ, là trâu ngựa của nhân dân.

Gần dân, hiểu dân, vì dân, đó là phong cách Hồ Chí Minh, đó là sự hiếu với dân của Hồ Chí
Minh. Trong giai đoạn Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền, càng đứng ở vị trí cao của
quyền lực (tuy quyền lực đó là do dân trao cho), càng dễ bị xa dân, nhất là bị “cơ chế” trói
buộc. Nguy cơ Đảng xa dân, dân xa Đảng vẫn hiện hữu, nó đang cảnh báo cho Đảng Cộng
sản Việt Nam rằng, nếu không tiếp tục đẩy mạnh, củng cố mối quan hệ bền chặt giữa Đảng
với nhân dân thì Đảng sẽ bị suy yếu, thậm chí đi đến tan rã.

4.2.3.3.3 Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư

Việc quán triệt và thực hiện các phạm trù đạo đức của người cộng sản được Hồ Chí Minh rút
gọn trong 8 chữ: đức tính cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư - nội dung của cái gốc đạo
đức, cái gốc của sự phát triển trong triết lý hành động của Hồ Chí Minh.

Có thể nhận thấy đây là những phẩm chất, mang tính đạo lý cơ bản, của dân tộc và nhân dân
Việt Nam: cần cù chịu khó; căn cơ tiết kiệm; trong sạch, không tham lam; ngay thẳng, không
tà gian; vì cái chung, ít nghĩ đến việc riêng, lợi ích riêng... Có thể thấy đây là những phẩm
chất nền tảng của con người và xã hội mới; là thước đo văn minh, phát triển của một dân tộc,
một cá nhân. Hồ Chí Minh từng nhấn mạnh phẩm chất cần, kiệm, liêm, chính của một dân
tộc, một con người: "Một dân tộc biết cần, kiệm, biết liêm, là một dân tộc giàu về vật chất,
mạnh về tinh thần, là một dân tộc văn minh tiến bộ"(2); "Những người trong các công sở đều
có nhiều hoặc ít quyền hành. Nếu không giữ đúng cần kiệm liêm chính thì dễ trở nên hủ bại,
biến thành sâu mọt của dân"(3). Nêu cao đạo đức chí công vô tư, Hồ Chí Minh khẳng định
quan niệm, phẩm chất của Đảng, của người cán bộ biết "lo trước cái lo của thiên hạ, vui sau
cái vui của thiên hạ", đồng thời biết bài trừ, quét sạch chủ nghĩa cá nhân. Người cho rằng
"chủ nghĩa cá nhân đẻ ra hàng trăm thứ bệnh nguy hiểm: quan liêu, mệnh lệnh, bè phái, chủ
quan, tham ô, lãng phí..."(4), "Chủ nghĩa cá nhân là một trở ngại lớn cho việc xây dựng chủ
nghĩa xã hội..."(5). Tuy nhiên, Người cũng phân biệt rất rõ chủ nghĩa cá nhân và lợi ích cá
nhân, coi lợi ích cá nhân không trái với lợi ích tập thể là vấn đề chính đáng. Bên cạnh đó, Hồ
Chí Minh còn chỉ ra nhiều phẩm chất quan trọng khác của cộng đồng người, của cá nhân, đó
là nhân, nghĩa, trí, tín, dũng, liêm..., những khái niệm quen thuộc trong truyền thống đạo đức
Việt, với những nội dung mới phù hợp bối cảnh mới.

CẦN

Theo Hồ Chí Minh, cần là cần cù, siêng năng, chăm chỉ trong mọi công việc. Ông đòi hỏi bản
thân mình và mọi người đều cần và cho rằng, từ chủ tịch nước đến người cấp dưỡng, quét rác,
ai mà hoàn thành nhiệm vụ đều là người cao thượng.

Cần còn là kiên trì, bền bỉ, dẻo dai trong mọi công việc. Đó là đức tính kiên tâm, quyết tâm
làm bằng được những việc mà mình coi là đúng

21
Cần còn là tăng năng suất lao động, là làm việc có hiệu quả, có kết quả tốt. Không phải cứ
làm hùng hục là siêng năng, tích cực, là Cần. Làm hùng hục cả tuần, cả tháng mà không có
kết quả, không có hiệu quả, không có năng suất lao động cao thì không bằng làm chỉ có một
ngày mà có kết quả tốt.

Mấy năm qua, trừ năm 2008 trở đi đang gặp khó khăn về tài chính, Việt Nam tự hào có tốc
độ phát triển tương đối cao với chỉ số tăng trưởng GDP cao hằng năm, nhưng vẫn phải dè
chừng khắc phục được tính chưa bền vững của sự tăng trưởng, trong đó có năng suất lao động
xã hội thấp, thấp không những so với nhiều nước trên thế giới mà còn so với các nước trong
khu vực. Việt Nam đang nằm ở tốp cuối trong bảng xếp hạng năng suất lao động xã hội.
Muốn tăng năng suất lao động xã hội thì cần có nhiều yếu tố, trong đó có yếu tố con người,
yếu tố nguồn lực, là ở chất lượng dân số, chất lượng lao động.

KIỆM

Kiệm trước hết là tiết kiệm, không xa xỉ, không hoang phí.

Cần và kiệm phải gắn chặt với nhau và nó liên quan chặt chẽ với việc chống tham ô, lãng phí,
quan liêu. Trong đối ngoại, Hồ Chí Minh cho rằng, nếu chúng ta “thi” với nhiều nước về cái
giàu sang qua những việc đãi khách, qua xe cộ, qua trang phục của những cán bộ tiếp khách
thì chúng ta thua. Chúng ta không nên thi về những cái đó, mà nên thi về tiết kiệm; về khoản
thi này nếu chúng ta làm tốt thì chúng ta vẫn thắng.

LIÊM

Liêm là không tham lam, là liêm khiết, trong sạch. Hồ Chí Minh dẫn cả Nho giáo để nói về
điều này. Ông bảo rằng, người mà không liêm thì không bằng con vật, do đó, liêm chính là
thước đo tính người. Ông lại nói: một dân tộc biết cần, kiệm, liêm sỉ là một dân tộc giàu về
vật chất, mạnh về tinh thần, là một dân tộc văn minh, tiến bộ”.

CHÍNH

Chính có nghĩa là thẳng thắn, là không tà, là việc gì mà tốt thì dù nhỏ cũng cố làm, việc gì mà
xấu thì dù nhỏ cũng cố tránh. Muốn chính thì, như Hồ Chí Minh viết: “phải có công tâm, có
công đức. Chớ đem của công dùng vào việc tư. Chớ đem người tư làm việc công. Việc gì
cũng phải công bình, chính trực, không nên vì tư ân, tư huệ, hoặc tư thù, tư oán. Mình có
quyền dùng người thì phải dùng những người có tài năng, làm được việc. Chớ vì bà con bầu
bạn, mà kéo vào chức nọ, chức kia. Chớ vì sự mất địa vị mà dìm những kẻ có tài năng hơn
mình. Phải trung thành với Chính phủ, với đồng bào. Chớ lên mặt làm quan cách mệnh”.

Hồ Chí Minh còn cho rằng, tự mình phải chính trước mới giúp được người khác chính; mình
không chính mà muốn người khác chính là vô lý.

CHÍ CÔNG VÔ TƯ

Hồ Chí Minh cho rằng, có chí công vô tư thì lòng dạ mới trong sáng, đầu óc mới sáng suốt để
chăm làm những việc ích quốc lợi dân. Ông giải tích: lòng mình chỉ biết vì Tổ quốc, vì đồng
bào thì sẽ tiến đến chỗ chí công vô tư; có chí công vô tư thì mới có năm đức tính tốt là nhân,
nghĩa, trí, dũng, liêm – là những phẩm chất đạo đức của người cách mạng.

22
Trong các cám dỗ đối với con người, thì người có quyền cao chức trọng trước hết bị hai điều
lớn nhất, rõ nhất: một là cám dỗ về quyền lực; hai là cám dỗ về vật chất. Đó là chưa kể các
cám dỗ khác vốn là hệ lụy của hai cái cám dỗ kia, tỷ như về tình ái, về ăn chơi (cả vật chất
lẫn tinh thần sa đọa, v.v.). Quyền lực có nhiều khi như ma túy, nó có sức hút ghê gớm lắm,
nếu không tự làm chủ bản thân mình thì rất dễ bị sa đọa.

4.3 Thực trạng hiện nay của văn hóa xã hội nước ta

4.3.1. Thực trạng của giáo dục hiện nay


– Bệnh thành tích.
– Đạo đức học sinh
– Việc trọng dụng nhân tài
– Chương trình lạc hậu, cách dạy nhồi nhét, thiếu kết hợp học với hành.
Bệnh thành tích đã từ lâu là vấn đề nhức nhối trong nền giáo dục với tình trạng học sinh ngồi
nhầm lớp, các thầy cô giáo nâng điểm, ban giám hiệu trường báo cáo khống về các kết quả
học tập để chạy đua theo thành tích quá cao đã đặt sẵn. Thêm vào đó, đạo đức học sinh hiện
nay cũng là một dấu hỏi lớn. Trách nhiệm giáo dục đạo đức học sinh thuộc vê cả gia đình và
nhà trường nhưng gia đình và nhà trường vẫn không phối hộp tốt để thực hiện việc dạy dỗ
đạo đức, hướng học sinh đi theo con đường chân-thiện-mỹ, giáo dục học sinh nhữnglối sống
lành mạnh và những suy nghĩ tích cực. Gần đây, chúng ta đã chứng kiến quá nhiếu các sự
việc học sinh đánh nhau gây thương tích tram trọng, học sinh đả thương thầy cô giáo. Đó là
một sự xấu hổ của nền giáo dục khi để những tình trạng này tiếp diễn và ngày càng trầm
trọng thêm.

Việc sử dụng nhân tài hiện nay cũng là một vấn đề lớn khi báo chí ồ ạt đưa tin rằng các sinh
viên ra trường với tấm bằng tốt nghiệp loại giỏi, có chí hướng muốn cống hiến cho quê
hương lại không được trọng dụng bởi nhửng thủ tục quan lieu và rắc rối. Thiết nghĩ, Bác đã
nói về việc trọng dụng người tài như thế nào mà khi nhìn lại, nhân tài của Việt Nam càng
ngày càng bị hút sang các nước phát triển khác dù luôn mong muốn cống hiến công sức cho
nước nhà.

Một vấn đề khác là chương trình học ở hầu hết tất cả các bậc phổ thong và đại học đều lạc
hậu và thiếu sang tạo. Giáo trình học không đủ để cung cấp các thong tin cập nhật theo sự
phát triển của thế giới. Thêm vào đó, các dạy học nặng nề, mang nặng tính d0ọc-chép vẫn
thường thấy ở các trưòng và giảng đường hầu như cũng chưa giảm đước bao nhiêu.

4.3.2. Thực trạng của văn hóa văn nghệ


– Thiếu kiểm soát về mặt chất lượng chuyên môn các sản phẩm tinh thần
– Khan hiếm các tác phẩm văn học hay phù hợp với thời kì phát triển của đất
nước.
– Tràn ngập, ko quản kí được các sản phẩm tinh thần méo mó, độc hại
Xã hội ngày càng phái triển, con người càng dễ tiếp cận đến các yếu tố tinh thần của đời sống
hơn. Vì vậy, văn hóa văn nghệ phải là một món ăn tinh thần bổ ích và phù hợp với thời đại
cũng như nguyện vọng của nhân dân. Đáng lo thay, hiện nay, các món ăn tinh thần đó là một
mớ tạp nham lẫn lộn. Trong đó, không thiếu những tác phẩm hay, bổ ích nhưng nhiều hơn đó
là những sản phẩm méo mó, độc hại, ảnh hướng đến dân trí của nhân dân. Đáng lo hơn, sự
phát triển của những sản phẩm đầu độc dân trí này còn nhanh hơn, lớn hơn và rộng hơn sự
phát triển của những sản phẩm lành mạnh. Giới trẻ là tầng lớp công dân tiếp cận nhiều với
các sản phẩm văn hóa nhất, cũng thường rất dễ bị sa lầy trong các văn hóa phẩm đồi trụy.

23
4.4 Vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá trong thực tế thời đại:

Xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là xây dựng
con người Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới như sau:

- Có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

- Có ý thức tập thể, đoàn kết phấn đấu vì lợi ích chung.

- Có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần kiệm, trung thực, nhân nghĩa, tôn trọng kỷ
cương, qui ước của cộng đồng.

- Lao động chăm chỉ có kỹ thuật, sáng tạo, năng suất cao.

Trong sự nghiệp đổi mới hiện nay, trước những ảnh hưởng ngày càng to lớn của nền kinh tế
thị trường và xu hướng khu vực hoá, quốc tế hoá, bên cạnh những tác động tích cực thì cũng
có không ít những tác động tiêu cực đến một bộ phận không nhỏ thanh niên như: Biểu hiện
suy thoái về đạo đức lối sống, nhạt phai lý tưởng, thiếu chí tiến thủ, không quan tâm đến tình
hình đất nước... Vì vậy, hiện nay những tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đạo đức và
giáo dục đạo đức cách mạng cho thanh niên ngày càng trở nên có ý nghĩa hơn bao giờ hết.
Việc phấn đấu tu dưỡng bản thân là một quá trình lâu dài, nhận thức và thực hiện tốt trách
nhiệm của bản thân đối với tập thể, với cộng đồng, với đất nước và với chính bản thân mình
còn là một quá trình rèn luyện và phấn đấu lâu dài hơn, đòi hỏi ở mỗi người phải có một ý
chí, nghị lực, quyết tâm cao để chiến thắng chính bản thân mình, chiến thắng mọi cám dỗ của
đồng tiền, của tâm lý hưởng thụ, của chủ nghĩa cá nhân... Trong quá trình ấy, việc đẩy mạnh
giáo dục đạo đức theo tư tưởng Hồ Chí Minh, học tập và làm theo tấm gương đạo đức trong
sáng của Người trong những công việc hằng ngày của bản thân mỗi người sẽ giúp mỗi chúng
ta biết vươn lên với tinh thần, tình cảm và trách nhiệm của mình. Trước sự nghiệp đổi mới
hiện nay của Đảng và Nhà nước ta, việc đào tạo thế hệ trẻ cũng đang trở thành một vấn đề
trọng tâm trong toàn bộ chiến lược phát huy nhân tố con người. Điều này đã được khẳng định
trong Nghị quyết Trung ương sáu (khoá VII) và Nghị quyết Trung ương bảy (khoá X) của
Đảng về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên thời kỳ công nghiệp
hoá, hiện đại hoá. Đồng thời, tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện tốt Cuộc vận động “Học tập và
làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” do Đảng ta phát động nhằm kích thích vai trò
xung kích của thanh niên, quyết tâm đào tạo họ thành những người kế thừa xây dựng chủ
nghĩa xã hội vừa “hồng”, vừa “chuyên” như mong mỏi của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

5. Tổng kết

Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ thiên tài của dân tộc Việt Nam, Người sáng lập, rèn luyện và
lãnh đạo Đảng ta, danh nhân văn hoá thế giới. Tư tưởng và đạo đức của Hồ Chí Minh là kết
tinh những truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta và tinh hoa văn hoá của nhân loại, là tài sản
tinh thần vô giá của Đảng và của nhân dân ta. Với tấm lòng kính yêu và biết ơn vô hạn đối
với Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tin tưởng rằng toàn thể cán bộ, đảng viên, chiến sĩ lực lượng vũ
trang và nhân dân các dân tộc trong tỉnh tích cực thực hiện chủ trương, đường lối, chính sách
của Đảng với trách nhiệm và quyết tâm cao, đẩy mạnh Cuộc vận động “Học tập và làm theo
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”.

5.1 Thành quả

24
Kết quả học tập trong 3 năm, 100% các huyện, thành phố, đảng uỷ trực thuộc đều tổ chức học
tập xong các chuyên đề của Cuộc vận động theo chủ đề từng năm, tỷ lệ cán bộ, đảng viên
tham gia học tập đạt 98%. Toàn tỉnh đã tổ chức được 855 lớp nghiên cứu học tập các chuyên
đề, 107 buổi toạ đàm, nói chuyện về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Các cấp, các ngành đã
thực hiện Cuộc vận động theo phương châm hướng mạnh về cơ sở, lấy việc làm theo tấm
gương đạo đức Bác Hồ làm trọng tâm.

Trong các năm 2008 - 2009, Cuộc vận động sáng tác, quảng bá tác phẩm văn học, nghệ thuật,
báo chí về chủ đề “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” đã thu hút nhiều
tác giả viết bài đăng tải trên Báo Hòa Bình, Đài PT-TH tỉnh. Qua tuyển chọn hơn 300 tác
phẩm, BCĐ đã trao thưởng cho 24 tác phẩm của 30 tác giả, nhóm tác giả có tác phẩm tiêu
biểu.

Theo đánh giá của BCĐ, Cuộc vận động đã được cán bộ, đảng viên và nhân dân các dân tộc
trong tỉnh nhiệt tình hưởng ứng với tinh thần phấn khởi và thái độ đồng tình, nhất trí cao,
khẳng định đây là một Cuộc vận động đúng và trúng, cần được triển khai mạnh mẽ, sâu rộng
hơn nữa. Cuộc vận động đã đi vào đời sống, được xã hội đón nhận, trở thành đợt sinh hoạt
chính trị, văn hoá khá sâu rộng, đã tạo được ấn tượng và hiệu quả cao. Qua đợt học tập này sẽ
khơi dậy và trang bị cho thế hệ trẻ những truyền thống quý báu, lòng tự hào dân tộc thông
qua tấm gương đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Sau 3 năm triển khai Cuộc vận động,
xuất hiện ngày càng nhiều tấm gương làm theo, có sức lan tỏa trong cộng đồng dân cư và xã
hội; tính tự giác tu dưỡng, rèn luyện đạo đức trong cán bộ, đảng viên cũng đã được tăng lên.
Các địa phương đã đưa việc kiểm tra Cuộc vận động vào chương trình kiểm tra, giám sát của
các cấp ủy. Kết quả triển khai Cuộc vận động của các cấp, các ngành đã tác động rất tích cực
tới các lĩnh vực kinh tế - xã hội của các địa phương trong tỉnh.

5.2 Hạn chế của việc thực hiện cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh”

Bên cạnh những kết quả đã đạt được, chúng ta cũng cần thẳng thắn nhìn nhận, vẫn còn một
số hạn chế, đó là : một số cấp uỷ, cơ quan, đơn vị còn chậm đổi mới việc tổ chức quán triệt,
học tập các chuyên đề, chất lượng học tập các chuyên đề trong thực hiện Cuộc vận động chưa
cao, chưa xây dựng được chương trình hành động cụ thể, việc đưa nội dung Cuộc vận động
vào kiểm điểm, đánh giá trong sinh hoạt chi bộ, chi đoàn, chi hội chưa trở thành nền nếp;
công tác tuyên truyền gương người tốt, việc tốt, những tập thể, cá nhân điển hình trong “làm
theo” tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh chưa được thường xuyên. Do đó đã hạn chế kết quả
thực hiện các nhiệm vụ chính trị trên địa bàn. Tăng trưởng kinh tế chưa bền vững, chuyển
dịch cơ cấu của từng ngành, lĩnh vực còn chậm so với yêu cầu, quy mô sản xuất còn nhỏ bé,
năng lực, hiệu quả và sức cạnh tranh còn thấp. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội chưa đáp ứng
nhu cầu phát triển. Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) ở vị trí thấp so với cả nước. Kết
quả cải cách hành chính chưa đáp ứng yêu cầu. Môi trường đầu tư tuy đã được cải thiện,
nhưng còn ách tắc bởi thủ tục hành chính, lề lối phong cách làm việc chậm được đổi mới,
chất lượng công tác quy hoạch còn nhiều hạn chế nên đã ảnh hưởng đến khả năng thu hút đầu
tư. Chất lượng nguồn nhân lực còn ở mức thấp. Kết quả xoá đói giảm nghèo chưa thật vững
chắc, nguy cơ tái nghèo còn cao. Tệ nạn xã hội, tình trạng buôn lậu, tệ quan liêu, tham nhũng,
lãng phí, tai nạn giao thông vẫn là những vấn đề bức xúc, cần tập trung giải quyết... Những
hạn chế yếu kém trên có các nguyên nhân chủ quan, đó là một số cấp uỷ, thủ trưởng cơ quan,
đơn vị chưa quyết liệt trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành tổ chức thực hiện nhiệm vụ, thiếu
kiểm tra, đôn đốc, buông lỏng quản lý để cấp dưới làm việc tuỳ tiện, tiêu cực, thiếu trách
nhiệm, sách nhiễu, nhất là trong các lĩnh vực, công việc có liên quan trực tiếp đến người dân,

25
doanh nghiệp; công tác giáo dục chính trị tư tưởng để nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng
viên và nhân dân về chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước chưa đáp ứng
yêu cầu. Một số cán bộ, đảng viên yếu kém về phẩm chất và năng lực, ngại học tập, rèn
luyện, thiếu ý thức chấp hành kỷ luật, kỷ cương; một số chi bộ, đảng viên có biểu hiện giảm
sút ý chí chiến đấu, ngại khó khăn. Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của một số tổ chức cơ
sở đảng còn bất cập, vai trò của các tổ chức cơ sở đảng trong một số đơn vị, nhất là ở các
doanh nghiệp và khu vực nông nghiệp, nông thôn còn hạn chế, chưa thực sự trở thành hạt
nhân chính trị trong việc lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện các nhiệm vụ.

5.3 Phương hướng phát triển

Để tiếp tục thực hiện có hiệu quả Cuộc vận động trong thời gian tới và thực hiện thắng lợi
Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV, góp phần cùng cả nước thực hiện thắng lợi
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, ta cần phải tập trung sức phấn đấu hoàn thành
các chỉ tiêu Đại hội đề ra trên cơ sở khắc phục có hiệu quả những khó khăn, yếu kém, kết hợp
với việc phát huy, khai thác những nhân tố thuận lợi mới để hoàn thành và hoàn thành vượt
mức các chỉ tiêu đã đề ra, chuẩn bị tiền đề cần thiết cho sự phát triển nhanh, hiệu quả và bền
vững cho năm 2010 và những năm tiếp theo. Các cấp, ngành, đơn vị cần phải gắn việc tổ
chức và thực hiện Cuộc vận động với tổ chức thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ X và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV; thực hiện Nghị quyết Trung ương
3 (khoá X) về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng,
lãng phí; tự liên hệ, tự phê bình kiểm điểm cá nhân, tổ chức để quần chúng ở nơi công tác và
nơi cư trú góp ý cho cán bộ, đảng viên. Các cơ quan, đơn vị, các tổ chức chính trị xã hội xây
dựng tiêu chuẩn đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức phấn đấu thực
hiện phù hợp tình hình từng cơ quan, đơn vị; xây dựng chương trình hành động cụ thể để
triển khai học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, phấn đấu xây dựng tổ chức
đảng, cơ quan đơn vị trong sạch vững mạnh, đội ngũ cán bộ, đảng viên, công nhân viên chức
kỷ cương, liêm chính, chí công, vô tư. Đảm bảo sự lãnh đạo, chỉ đạo thường xuyên của cấp
uỷ đảng; vận dụng sáng tạo, đúng đắn trong việc cụ thể hoá các văn bản chỉ đạo của cấp trên,
xây dựng chương trình hành động cũng như việc chọn đơn vị chỉ đạo điểm để rút kinh
nghiệm và đề ra chủ đề thực hiện làm khâu đột phá cụ thể, thiết thực, phù hợp với điều kiện
thực tế của cơ quan, đơn vị. Chú trọng công tác tuyên truyền giáo dục cả chiều rộng lẫn chiều
sâu để tạo ra sự thống nhất cao trong nhận thức và hành động. Nêu cao vai trò tiên phong
gương mẫu của cán bộ chủ chốt, người đứng đầu cơ quan, đơn vị trong việc tự giác tu dưỡng,
rèn luyện, phấn đấu học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là điều kiện tiên
quyết để thực hiện có hiệu quả Cuộc vận động. Trong quá trình thực hiện làm cho mọi tổ
chức, cá nhân thấy rõ mục đích, ý nghĩa của Cuộc vận động, không chỉ là nhằm tạo chuyển
biến về nhận thức, mà quan trọng hơn là “làm theo” tấm gương đạo đức của Bác. Tạo ra sức
mạnh tổng hợp để đưa phong trào rèn luyện, học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh ở từng tổ chức cơ sở đảng và đảng viên một cách thường xuyên, tự giác; gắn kết nội
dung của Cuộc vận động với các phong trào thi đua và các Cuộc vận động lớn của Đảng, Nhà
nước, của tỉnh và các cơ quan, đơn vị. Tuỳ theo loại hình tổ chức cơ sở đảng mà cấp uỷ và
ban chỉ đạo chủ động, sáng tạo trong việc chọn lựa các chương trình, phần việc làm khâu đột
phá để mang lại hiệu quả thiết thực. Kết hợp chặt chẽ công tác kiểm tra với giám sát của quần
chúng, động viên, khuyến khích quần chúng góp ý kiến phê bình, chỉ rõ những hạn chế, yếu
kém của cấp uỷ, cán bộ, đảng viên với phương châm: Xây đi đôi với chống, chống để xây;
lấy cái tốt nêu gương, đẩy lùi khuyết điểm và tiêu cực. Kịp thời sơ kết rút kinh nghiệm biểu
dương, khen thưởng, nhân rộng những điển hình tiên tiến, gương người tốt, việc tốt trong tu
dưỡng, rèn luyện học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.

26
Trong lĩnh vực phát triển kinh tế - xã hội, tập trung huy động, khai thác và sử dụng có hiệu
quả các nguồn lực để đầu tư cho phát triển; đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế; phát triển
mạnh thương mại, dịch vụ, du lịch và kinh tế cửa khẩu để thực sự trở thành lĩnh vực kinh tế
mũi nhọn, là khâu đột phá thúc đẩy tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế; hoàn thành
các mục tiêu của Đại hội về hạ tầng giao thông, điện, nước sạch, thuỷ lợi, giáo dục, văn hoá,
y tế. Nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực, đáp ứng
yêu cầu phát triển trong những năm tới. Tăng cường công tác quản lý và bảo vệ tài nguyên
môi trường. Tiếp tục thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội. Đẩy mạnh cải cách hành
chính, nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về kinh tế - xã hội. Tiếp tục thực hiện tốt các
nhiệm vụ an ninh quốc phòng, đảm bảo trật tự an toàn xã hội, công tác quản lý, bảo vệ biên
giới; nâng cao hiệu quả các hoạt động đối ngoại; lãnh đạo, chỉ đạo các cơ quan tư pháp trên
địa bàn tiếp tục thực hiện các mục tiêu của lộ trình cải cách tư pháp theo yêu cầu của Trung
ương. Xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Tiếp tục triển khai thực hiện có
hiệu quả Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, với nội
dung trọng tâm là tổ chức thực hiện Chuyên đề “Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng ta
thật sự trong sạch, vững mạnh, “là đạo đức, là văn minh” gắn với việc chuẩn bị tốt đại hội
Đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XV và Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI của Đảng.

27
PHỤ LỤC
CÂU CHUYỆN VỀ TẤM GƯƠNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH

Câu chuyện nhỏ và bài học lớn

Trong một bài hồi tưởng về cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng, đồng chí Việt Phương kể lại một
câu chuyện sau đây:

Vào một buổi sáng của năm 196... nào đó, Bác Hồ đi từ ngôi nhà sàn của Người sang Phủ
Thủ tướng tìm đồng chí Phạm Văn Đồng để trao đổi về một vấn đề quan trọng. Lúc đó, đồng
chí Phạm Văn Đồng đang làm việc tại Văn phòng, tuy cũng nằm trong khu Phủ Chủ tịch
nhưng cách xa Phủ Thủ tướng tới vài trăm mét. Một đồng chí bảo vệ vội vã đạp xe ra báo với
Thủ tướng. Vội quá, Thủ tướng dùng ngay chiếc xe đạp của đồng chí bảo vệ phóng về gặp
Bác. Đồng chí bảo vệ không thể để Thủ tướng rời xa mình, mà lại không có thời gian tìm
chiếc xe đạp khác, nên anh đành lập tức chạy bộ theo sau Thủ tướng. Bác Hồ đứng sẵn ở sân
chờ đồng chí Phạm Văn Đồng. Khi Thủ tướng vừa xuống xe, chưa kịp chào hỏi gì, Bác đã
nói ngay:

- Sao chú không đèo chú bảo vệ đằng sau xe để cùng về, lại để chú ấy chạy bộ?

Thủ tướng Phạm Văn Đồng lúc đó như chợt nhận ra, vội đáp:

- Xin lỗi Bác.

Đáp vậy, nhưng sau đó đồng chí Phạm Văn Đồng đã suy nghĩ rất kỹ về lời nhắc nhở nhẹ
nhàng mà nghiêm khắc của Bác Hồ. Sáng hôm sau, trong lúc làm việc với một số đồng chí
cấp dưới, ông kể lại câu chuyện trên cho mọi người cùng nghe, rồi nói:

- Tôi đã nghĩ về lời của Bác. Lòng nhân ái, thương yêu và kính trọng con người, phải chân
thực từ trong tâm của ta, rồi tự nhiên bật ra thành thái độ và hành động, chẳng phải suy nghĩ
gì, như là từ bản năng.

Câu chuyện trên đây gợi cho chúng ta một số bài học lớn, có ý nghĩa sâu sắc.

Thứ nhất, ngay cả những nhà lãnh đạo cao cấp nhất cũng luôn luôn cần trau dồi đạo đức, bồi
bổ nhân cách và rèn luyện phong cách ứng xử sao cho thực sự nhân ái, xứng tầm. Ai cũng
biết Thủ tướng Phạm Văn đồng là một trong những nhà lãnh đạo lỗi lạc của Đảng, Nhà nước
và dân tộc ta. Ông không những được nhân dân ta rất kính trọng, yêu mến mà còn được cộng
đồng thế giới thừa nhận như một nhà lãnh đạo thông tuệ, hào hoa, lịch thiệp, giỏi giang bậc
nhất. Thế mà, tuy ông đã làm tới chức Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn
không ngần ngại nhắc nhở, phê bình để giúp đồng chí Phạm Văn Đồng ứng xử cho đúng, tu
tâm, dưỡng tính cho thuần hậu, nhân ái, sao cho trở thành “bản năng” của nhà lãnh đạo.
Ở đây ta thấy nét rất đẹp của Bác Hồ trong vai trò của người Thầy, và Thủ tướng Phạm Văn
Đồng với tư cách người học trò. Thầy không ngần ngại chỉnh sửa, chỉ bảo học trò theo một
cách vừa nhân hậu, nhẹ nhàng, nhưng cũng đủ nghiêm khắc để trò nhận thức được điều Thầy

28
cần chỉ bảo. Về phía mình, học trò là người thực sự cầu thị, thành thực, nghiêm túc tiếp thu
sự chỉ bảo của Thầy, suy ngẫm kỹ càng, không hời hợt qua loa mà ghi tâm, khắc cốt, qua đó
mà hoàn thiện nhân cách của mình.

Ngày xửa, ngày xưa, Đức Phật Tổ và Đức Khổng Tử cũng dùng phương pháp này để rèn dạy,
trao truyền tâm ấn cho học trò. Ngày nay thiết tưởng vẫn cần, rất cần những sự chỉ dẫn - học
hỏi như vậy, nhất là đối với các bậc, các cấp lãnh đạo, nếu như họ không muốn trở thành
những người “vác mặt quan cách mạng” - như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng cảnh báo.

Thứ hai, là bài học về lòng nhân ái. Bài học này Thủ tướng Phạm Văn Đồng suy ngẫm và rút
ra từ câu chuyện nói trên. Theo Thủ tướng thì lòng nhân ái, thương yêu và kính trọng con
người không phải là cái gì có thể nguỵ tạo theo kiểu “giả nhân giả nghĩa” để mị dân, mà phải
chân thực từ trong tâm của ta, rồi tự nhiên bật ra thành thái độ và hành động, chẳng phải suy
nghĩ gì, như là từ bản năng. Đây là một nhận thức rất sâu sắc về đạo đức cách mạng. Lòng
nhân ái phải thực sự trở thành cái cốt lõi, thành điểm tựa cho nhân cách của một nhà lãnh đạo
chân chính. Chỉ khi đó tình thương yêu và kính trọng con người mới phát từ trong tâm mà ra,
hoà quyện vào trong ứng xử hàng ngày của nhà lãnh đạo một cách hết sức tự nhiên, như một
bản năng vậy. Như vậy thì lòng nhân ái không thể là cái gì có thể “chế tác”, ngụy tạo một
cách giản đơn và chỉ có lòng nhân ái chân thực mới tạo nên uy tín, tạo nên sức thu hút quần
chúng và nâng cao tầm của nhà lãnh đạo. Ngược lại, nhà lãnh đạo phải đạt tới tầm nào đó rồi
mới hiểu thấu đáo được cội rễ của lòng nhân ái, mới biết yêu thương và kính trọng con người
như một bản năng.

Thứ ba, là bài học về mối quan hệ giữa lãnh tụ với nhân dân. Đây chính là điều mà Bác Hồ đã
quán triệt cho các học trò của Người ngay từ những ngày đầu của sự nghiệp Dựng Đảng -
Cứu Quốc, rằng “công nông là gốc kách mệnh”. Đặc biệt là từ sau khi Đảng ta trở thành một
“đảng cầm quyền” thì Người càng đặc biệt chú trọng đến việc giáo dục cho cán bộ, đảng
viên, trí thức ý thức gần dân, thực sự thương yêu và kính trọng nhân dân. Ngay trong tháng
đầu tiên của chính quyền cách mạng Hồ Chí Minh đã nhận thấy cán bộ các cấp phạm vào một
loạt các sai phạm như: trái phép, cậy thế, hủ hoá, tư túng, chia rẽ, kiêu ngạo. Vì vậy, ngày 17
tháng 10 năm 1945 Người đã viết Thư gửi Ủy ban nhân dân các kỳ, huyện và làng yêu cầu
cán bộ ta khẩn trương, nghiêm túc rút kinh nghiệm, gột rửa những sai phạm nói trên. Hai năm
sau, giữa lúc cuộc kháng chiến chống Pháp đang trải qua giai đoạn rất khốc liệt, Chủ tịch Hồ
Chí Minh vẫn dành thời gian biên soạn cuốn sách “Sửa đổi lối làm việc” để nghiêm khắc
vạch ra những sai phạm trong đạo đức và phong cách lãnh đạo, làm việc của cán bộ các cấp,
đồng thời chỉ ra những phương hướng và biện pháp cụ thể để khắc phục. Người cho rằng đạo
đức của một người cán bộ, đảng viên phải gồm đủ cả Nhân, Nghĩa, Trí, Dũng, Liêm; rằng “sự
lãnh đạo trong mọi công tác thiết thực của Đảng, ắt phải từ trong quần chúng ra, trở lại nơi
quần chúng”, nhưng “tuyệt đối không theo đuôi quần chúng”.

Có thể nói tác phẩm trên đây là những chỉ dẫn sâu sắc và mẫu mực của Hồ Chí Minh về đạo
đức và phong cách lãnh đạo, ngày nay vẫn còn nguyên giá trị.

Việt Đức
(Bản tin ĐHQG Hà Nội - số 178, tháng 12/2005)

29
Tài liệu tham khảo

1. “Đẩy mạnh học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. NXB chính trị quốc
gia.

2. Ths. Nguyễn Thị Giang. Một nguyên tắc cơ bản của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh “Nói
đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo đức.

3.http://www.haugiang.gov.vn/Portal/DATA/sites/10/chuyende/HOCTAPGUONGDAODUC
HOCHIMINH/index.htm

30

You might also like