You are on page 1of 16

Câu 1: Phân tích định nghĩa vật chất của Lênin

Định nghĩa vật chất của Lênin


"Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta
chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác".
Trả lời: Đối lập với coi ý thức chủ nghĩa duy tâm là cái có trước quyết định vật chất, chủ nghĩa duy vật khẳng định vật chất có trước quyết định
ý thức, vật chất là vốn có không do ai sinh ra và tồn tại vĩnh viễn. Nhưng khi trả lời câu hỏi vật chất là gì thì các nhà triết học duy vật trả lời
theo nhiều cách khác nhau.
- Triết học Mác ra đời vào giữa thế kỷ thứ XIX đã theo một đường lối khác trong quan nhiệm về phạm trù vật chất. Là chủ nghĩa duy vật biện
chứng, triết học mác một mặt thừa nhận vật chất có trước quyết định ý thức, vật chất tự nó tồn tại không do ai sinh ra không bị tiêu diệt, mặt
khác triết học Mác cho rằng thế giới vật chất là vô cùng lên cả trong không gian và trong thời gian, thế giới không có khởi đầu và không có kết
thúc, tất cả đều vận động biến đổi không ngừng và không gian, thời gian cũng như vận động là những thuộc tính, những hình thức tồn tại của
vật chất không thể quy vật chất về một dạng cụ thể nào đó của nó như nguyên tử, hay nước, lửa mà phải coi vật chất là một phạm trù khái quát
tất cả các sự vật hiện tượng cụ thể. Trong tác phẩm "Biện chứng tự nhiên" Ănghen viết "thực thể, vật chất không phải là cái gì khác hơn là tổng
số những vật thể, tự do người ta rút ra khái niệm ấy bằng con đường hiện tượng hóa. Nhưng Mác và Ănghen phải đưa ra có điều kiện một định
nghĩa hoàn chỉnh về vật chất.
* Định nghĩa của Lênin về vật chất: Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con nwời trong cảm
giác, được cảm giác của chúng ta chụp lại, phản ánh và tồn tại không là thuộc vào cảm giác.
Định nghĩa của Lênin về vật chất trước hết là sự kế thừa quan điểm của Mác và Ănghen coi vật chất là một phạm trù triết học khái quát thuộc
tính của tất cả các sự vật hiện tượng chứ không quy vật chất vào một dạng cụ thể nào như các nhà triết học trước Mác đã làm Lênin đòi hỏi
phải phân biệt vật chất với tư cách là một phạm trù triết học với vật chất trong quan niệm của khoa học tự nhiên. Khoa học tự nhiên nghiên cứu
các tính chất, các kết cấu của các đối tượng vật chất cụ thể, có hạn. Còn triết học khái quát những thuộc tính chung nhất, phổ biến của mọi sự
vật hiện tượng và phản ánh chúng trong hệ thống phạm trù của mình như vật chất, vận động, không gian, thời gian...
Vậy phạm trù vật chất phản ánh thuộc tính nào của các đối tượng vật chất? Đó là thuộc tính "thực tại khách quan tồn tại độc lập với ý thức con
người và được ý thức con người phản ánh" chính thuộc tính đó cho phép con người phân biệt cái gì là vật chất, cái gì không phải là vật chất.
Như vậy định nghĩa vật chất của Lênin đã giải đáp được cả hai mặt của vấn đề cơ bản của triết học trên lập trường của chủ nghĩa duy vật biện
chứng, phân biệt về nguyên tắc với chủ nghĩa duy tâm bất khả tri luận, đồn thời cũng khắc phục được những hạn chế của chủ nghĩa duy vật
siêu hình trong quan niệm coi nguyên tử là giới hạn cuối cùng của vật chất,
củng cố niềm tin cho các nhà khoa học tin tưởng vào giá trị khách quan của các thành tựu khoa học hiện đại, tin tưởng vào khả năng của con
người có thể nhận thức đúng về thế giới vật chất.
- Theo Lênin, phạm trù vật chất là một phạm trù “rộng đến cùng cực, rộng nhất mà cho đến nay, thực ra nhận thức luận vẫn chưa vượt
qua được” nên không thể định nghĩa vật chất bằng phương pháp thông thường, đem quy nó về một vật thể, một thuộc tính hoặc vào một phạm
trù rộng lớn hơn được. Vì vậy, Lênin đã sử dụng phương pháp mới để định nghĩa vật chất là đem đối lập vật chất với ý thức và xác định nó “ là
cái mà khi tác động lên giác quan của chúng ta thì gây nên cảm giác”.
Trước tiên, cần phải phân biệt vật chất với tư cách là một phạm trù triết học với các quan niệm của khoa học tự nhiên về cấu tạo và những
thuộc tính cụ thể của các dạng vật chất. Vật chất với tư cách là một phạm trù triết học chỉ vật chất nói chung, vô hạn, vô tận, không sinh ra,
không mất đi.
- Trong định nghĩa, Lênin đã chỉ rõ khi vật chất đối lập với ý thức trong nhận thức luận thì cái quan trọng nhất để nhận biết nó chính là
thuộc tính khách quan. "Vật chất là thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác.. .và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác".
Như vậy, định nghĩa vật chất của Lênin bao gồm những nội dung cơ bản sau:
1. Vật chất có trước, ý thức có sau; vật chất là cái tồn tại khách quan bên ngoài ý thức và không phụ thuộc vào ý thức.
2. Vật chất là nguồn gốc khách quan của cảm giác, ý thức; cái gây nên cảm giác ở con người khi trực tiếp hoặc gián tiếp tác động lên giác quan
con người.
3. Cảm giác, ý thức chẳng qua chỉ là sự phản ánh của vật chất. Ý thức con người là sự phản ánh thực tại khách quan, nghĩa là con người có khả
năng nhận thức được thế giới.
- Định nghĩa vật chất của Lênin đã bao quát cả hai mặt vấn đề cơ bản của triết học trên lập trường duy vật biện chứng, thừa nhận trong
nhận thức luận thì vật chất là tính thứ nhất, và con người có thể nhận thức được thế giới vật chất. Như vậy, định nghĩa vật chất của Lênin đã
bác bỏ thuyết không thể biết, khắc phục được tính chất siêu hình, trực quan trong các quan niệm về vật chất.
- Định nghĩa vật chất của Lênin còn chống lại các quan điểm duy tâm về vật chất, tạo cơ sở lý luận để khắc phục quan điểm duy tâm về
đời sống xã hội
- Định nghĩa vật chất của Lênin còn có vai trò định hướng cho sự phát triển của nhận thức khoa học.
Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
+) Vật chất: Trong tác phẩm chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán LêNin đã định nghĩa: vật chất là 1 phạm trù triết học dùng
để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác,được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại ko lệ
thuộc vào cảm giác.
+) Ý thức: là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc con người, là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.Tuy nhiên ko phải cứ
thế giới khách quan tác động vào bộ óc con người là tự nhiên trở thành ý thức.Ngược lại ý thức là sự phản ánh năng động sáng tạo về thế giới
do nhu cầu của việc con người cải biến giới tự nhiên quyết định và được thực hiện thông qua hoạt động lao động.Vì vậy ý thức là cái vật chất
được đem chuyển vào trong đầu óc con người và được cải biến đi ở trong đó.
Giữa vật chất và ý thức có mối quan hệ biện chứng, thể hiện qua vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức và tính độc lập tương đối, sự tác
động trở lại của ý thức đối với vật chất.
- Vật chất (xét đến cùng) là cái có trước, nó sinh ra và quyết định đối với ý thức.

1
Vật chất tồn tại khách quan, độc lập với ý thức và là nguồn gốc sinh ra ý thức (não người là dạng vật chất có tổ chức cao, là cơ quan phản ánh
hình thành ý thức, ý thức tồn tại phụ thuộc vào hoạt động thần kinh của bộ não). Trong quá trình phản ánh thế giới khách quan, ý thức là sự
phản ánh thế giới vật chất đó vào con người. Thế giới khách quan là nguồn gốc của ý thức, quyết định nội dung của ý thức. Ý thức bắt nguồn từ
một thuộc tính của vật chất, đó là một thuộc tính phản ánh phát triển thành, ý thức ra đời là kết quả phát triển lâu dài của thuộc tính phản ánh
của vật chất.
Điều kiện quyết định cho sự ra đời của ý thức là những tiền đề nguồn gốc xã hội, ý thức ra đời cùng với quá trình hình thành bộ óc con nguời
nhờ lao động, ngôn ngữ và những quan hệ xã hội, ý thức là sản phẩm của sự phát triển xã hội. Do vậy, vật chất quyết định sự phát triển của ý
thức, quyết định tính phong phú, đa dạng, nhiều vẻ của ý thức.
- Ý thức do vật chất sinh ra và quyết định nhưng sau khi ra đời ý thức có tính độc lập tương đối nên nó có sự tác động trở lại to lớn đối với vật
chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người.
Nói tới vai trò của ý thức tức là nói đến vai trò của con người vì ý thức là ý thức của con người, bản thân của ý thức tự nó không làm
thay đổi gì hiện thực.Mác nói :“..lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh bại bởi lực lượng vật chất..”
Ý thức tác động trở lại vật chất theo hai hướng:
Ý thức, tư tưởng có thể quyết định làm sao con người hoạt động đúng và thành công khi nó phản ánh đúng và sâu sắc thế giới khách quan,
nó sẽ thúc đẩy thế giới vật chất phát triển nhanh vì đó là cơ sở quan trọng cho việc xác định mục tiêu, phương hướng và biện pháp chính xác.
Ngược lại ý thức, tư tưởng có thể làm cho con người hoạt động sai và thất bại khi con người phản ánh sai thế giới khách quan, nó sẽ kìm
hãm sự phát triển của thế giới vật chất.
Vì vậy con người phải phát huy vai trò sáng tạo của thế giới khách quan. Tuy nhiên cơ sở để phát huy tính năng động chủ quan của ý
thức là việc thừa nhận tính khách quan của vật chất, thừa nhận quy luật tự nhiên của xã hội. Nếu như thế giới vật chất với những thuộc tính,
quy luật của nó tồn tại khách quan không phụ thuộc vào ý thức con người thì trong hoạt động thực tiễn phải xuất phát từ thực tế khách quan,
lấy thực tế khách quan làm căn cứ cho hoạt động của mình.
- Biểu hiện của mới quan hệ giữa vật chất và ý thức trong đời sống xã hội là quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, trong đó tồn tại xã
hội quyết định ý thức xã hội và ý thức xã hội có tính độc lập tương đối tác động trở lại xã hội. ngoài ra, mối quan hệ giữa vật chất và ý thức còn
là cơ sở để xem xét các mối quan hệ khác như củ thể và khách thể, lý luận và tực tiễn, điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan.
Ý nghĩa phương pháp luận:
Vì vật chất quyết định ý thức nên trong hoạt động thực tiễn chúng ta phải xuất phát từ hiện thực khách quan, tôn trọng và tuân theo
quy luật khách quan.
Vì ý thức tác động trở lại vật chất nên trong hoạt động thực tiễn chúng ta phải chú ý giáo dục và nâng cao nhận thức cho con người.
Mác nói: “Cố nhiên vũ khí phê phán không thể thay thế sự phê phán bằng vũ khí, lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh bại bởi lực lượng vật
chất, nhưng lý luận một khi thâm nhập được vào quần chúng thì sẽ trở thành lực lượng vật chất”.
Chống quan điểm duy ý chí: V.I.Lênin đã nhiều lần nhấn mạnh không được lấy ý muốn chủ quan của mình làm chính sách, không được lấy
tình cảm làm điểm xuất phát cho chiến lược cách mạng. Nếu chỉ xuất phát từ ý muốn chủ quan, nếu lấy ý chí áp đặt cho thực tế, lấy ảo tưởng
thay cho hiện thực thì sẽ mắc phải bệnh duy ý chí. Bệnh chủ quan duy ý chí là do sự yếu kém về trình độ nhận thức nói chung và sự hạn chế
trong quá trình áp dụng lý luận vào thực tiễn nói riêng. Do đó, Lênin đã gọi căn bệnh này "là sự mù quáng chủ quan", là sai lầm tự phát dẫn đến
rơi vào chủ nghĩa duy tâm một cách không tự giác. Về lý luận, bệnh chủ quan duy ý chí có nhiều biến thể phức tạp và trở thành mầm mống cho
nhiều căn bệnh mới trong nhận thức. Song vẫn có khả năng được ngăn ngừa và loại bỏ.
Câu 2: Nguồn gốc của ý thức
-Nguồn gốc tự nhiên của ý thức:
Bộ óc con người là kết quả của quá trình phát triển hết sức lâu dài của thế giới vật chất. Đó là quá trình đi từ vô cơ đến hữu cơ đến chất sống
và trực tiếp là quá trình phát triển từ động vật bậc thấp đến động vật bậc cao và cuối cùng là hình thành con người với bộ óc. Bộ óc là một sản
phẩm đặc biệt của thế giới tự nhiên. Bộ óc là một thực thể vật chất có tổ chức cao nhất và có cấu trúc tinh vi nhất. Tất cả các dạng vật chất đều
có thuộc tính phản ánh. Các thuộc tính phản ánh này phát triển từ thấp đến cao tùy thuộc vào sự phát triển của thế giới vật chất. Nếu không có
thuộc tính phản ánh này thì không thể có ý thức. Đối với chất vô, phản ánh là sự ghi lại dấu vết của vật tác động trên vật bị tác động. Đối với
thực vật, phản ánh là sự phản ứng lại những tác động của môi trường như hiện tượng lá cây hướng về nơi có ánh nắng. Đối với động vật, phản
ánh tồn tại dưới dạng phản xạ không điều kiện và phản xạ có điều kiện. Thế giới khách quan là cơ sở để tạo nên sự phản ánh, hình thành nội
dung phản ánh.
-Nguồn gốc xã hội của ý thức:
Nguồn gốc xã hội là nguồn gốc trực tiếp để sản sinh ra ý thức. Theo quan niệm của Mác, phải có xã hội mới sản sinh ra ý thức. Con người,
nhờ có lao động mới làm nảy sinh ra những quan hệ xã hội, mà trước hết là quan hệ trong sản xuất. Từ những quan hệ này làm nảy sinh ra ngôn
ngữ. Ngôn ngữ được xem là vỏ vật chất của tư duy, hay là công cụ để tư duy, nó được xem là tín hiệu thứ hai mà nhờ có nó ý thức con người

2
được hình thành và phát triển. Tóm lại, yếu tố tự nhiên là cơ sở để hình thành ý thức, còn yếu tố xã hội là nhân tố tác động trực tiếp đến việc
làm nảy sinh và phát triển ý thức. Hai yếu tố này có quan hệ biện chứng với nhau. Đó là cơ sở lý luận khoa học để chúng ta đấu tranh vạch rõ
quan điểm sai lầm của chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật siêu hình về ý thức.
-Bản chất của ý thức:
Ý thức là sự phản ánh thế giới khách quan của bộ óc con người. Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Ý thức có bản tính
linh hoạt, sáng tạo. Ý thức phản ánh thế giới quan nhưng đó là sự phản ánh có chọn lọc, tùy thuộc vào mục đích của chủ thể. Vì vậy khi nhận
xét, đánh giá những vấn đề của cuộc sống, mỗi người có cách nhìn nhận, đánh giá khác nhau. Phản ánh của ý thức là cái phản ánh có thể vượt
trước, không chỉ phản ánh cái đang có mà còn có thể phản ánh cái sẽ có. Phản ánh của bộ óc là phản ánh có cải tạo lại và phản ánh dưới dạng
mô hình hóa. (ví dụ về nhà ở). Ý thức còn là bản chất xã hội vì ý thức bao giờ cũng là ý thức của con người. Nhưng mỗi con người đều sống
trong một xã hội, bị quy định bởi điều kiện vật chất và tinh thần vì vậy ý thức bao giờ cũng mang tính xã hội. Ví dụ con người sống ở những
thời đại khác nhau, ý thức xã hội cũng sẽ khác nhau. Trong cùng một thời đại, con người có hoàn cảnh sống khác nhau thì ý thức cũng khác
nhau.
Kết cấu của ý thức
Ý thức là một hiện tượng tâm lý - xã hội có kết cấu rất phức tạp bao gồm nhiều thành tố khác nhau có quan hệ với nhau. Có thể chia cấu
trúc của ý thức theo hai chiều:
a. Theo chiều ngang: Bao gồm các yếu tố như tri thức, tình cảm, niềm tin, lý trí, ý chí ..., trong đó tri thức là yếu tố cơ bản, cốt lõi.
b. Theo chiều dọc: Bao gồm các yếu tố như tự ý thức, tiềm thức, vô thức.
Câu 3: Nguyên lý về mối quan hệ phổ biến và nguyên lý vè sự phát triển Từ nghiên cứu quan điểm duy vật biện chứng về mối liên hệ phổ
biến và về sự phát triển có thể rút ra phương pháp luận khoa học để nhận thức và cải tạo hiện thực.
Vì bất cứ sự vật hiện tượng nào trong thế giới đều tồn tại trong mối liên hệ với các sự vật khác và mối liên hệ rất đa dạng phong phú, do đó khi
nhận thức về sự vật, hiện tượng chúng ta phải có quan điểm toàn diện, tránh quan điểm phiến diện chỉ xét sự vật, hiện tượng ở một mối liên hệ
đã vội vàng kết luận về bản chất hay về tính quy luật của chúng.
Quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta nhận thức về sự vật trong mối liên hệ qua lại giữa các bộ phận, giữa các yếu tố, giữa các mặt của chính
sự vật và trong sự tác động qua lại giữa sự vật đó với các sự vật khác, kể cả mối liên hệ trực tiếp và mối liên hệ gián tiếp. Chỉ trên cơ sở đó mới
có thể nhận thức đúng về sự vật. Chẳng hạn, muốn nhận thức đúng và đầy đủ tri thức của khoa học triết học, chúng ta còn phải tìm ra mối liên
hệ của tri thức triết học với tri thức khoa học khác, với tri thức cuộc sống và ngược lại, vì tri thức triết học được khái quát từ tri thức của các
khoa học khác và hoạt động của con người, nhất là tri thức chuyên môn được chúng ta lĩnh hội.
Đồng thời, quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta phải biết phân biệt các mối liên hệ, phải biết chú ý đến các mối liên hệ bên trong, mối liên hệ
bản chất, mối liên hệ chủ yếu, mối liên hệ tất nhiên ... để hiểu rõ bản chất của sự vật và có phương pháp tác động phù hợp nhằm đem lại hiệu
quả cao nhất trong sự phát triển của bản thân. Đương nhiên, trong nhận thức và hành động, chúng ta cần lưu ý tới sự chuyển hoá lẫn nhau giữa
các mối liên hệ ở những điều kiện xác định. Trong quan hệ giữa con người với con người, chúng ta phải biết ứng xử sao cho phù hợp với từng
con người. Ngay cả quan hệ với một con người nhất định ở những không gian khác nhau hoặc thời gian khác nhau, chúng ta cũng phải có cách
giao tiếp, cách quan hệ phù hợp như ông cha đã kết luận: “đối nhân xử thế”.
Trong hoạt động thực tế, theo quan điểm toàn diện, khi tác động vào sự vật, chúng ta không những phải chú ý tới những mối liên hệ nội tại của
nó mà còn phải chú ý tới những mối liên hệ của sự vật ấy với các sự vật khác. Đồng thời chúng ta phải biết sử dụng đồng bộ các biện pháp, các
phương tiện khác nhau để tác động nhằm đem lại hiệu quả cao nhất. Để thực hiện mục tiêu : “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh”, một mặt chúng ta phải phát huy nội lực của đất nước ta; mặt khác phải biết tranh thủ thời cơ, vượt qua thử thách do xu hướng quốc
tế hoá mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và toàn cầu hoá kinh tế đưa lại.
Mọi sự vật hiện tượng đều nằm trong quá trình vận động và phát triển, nên trong nhận thức và hoạt động của bản thân chúng ta phải có quan
điểm phát triển. Điều đó có nghĩa là khi xem xét bất kì sự vật, hiện tượng nào cũng phải đặt chúng trong sự vận động, sự phát triển, vạch ra xu
hướng biến đổi, chuyển hoá của chúng.
Quan điểm phát triển đòi hỏi không chỉ nắm bắt những cái hiện đang tồn tại ở sự vật, mà còn phải thấy rõ khuynh hướng phát triển trong tương
lai của chúng, phải thấy được những biến đổi đi lên cũng như những biến đổi có tính chất thụt lùi. Song điều cơ bản là phải khái quát những
biến đổi để vạch ra khuynh hướng biến đổi chính của sự vật.
Xem xét sự vật theo quan điểm phát triển còn phải biết phân chia quá trình phát triển của sự vật ấy thành những giai đoạn. Trên cơ sở ấy để tìm
ra phương pháp nhận thức và cách tác động phù hợp nhằm thúc đẩy sự vật tiến triển nhanh hơn hoặc kìm hãm sự phát triển của nó, tuỳ theo sự
phát triển đó có lợi hay có hại đối với đời sống của con người. Sinh viên là những người đang trong quá trình phát triển về mọi mặt cả về thể
lực và trí lực, tri thức và trí tuệ nhân cách... cho nên thời kì này phải tranh thủ điều kiện để hoàn thiện bản thân, làm nền tảng cho sự phát triển
tiếp tục trong tương lai.
Quan điểm phát triển góp phần khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ, định kiến trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của chúng ta.
Nếu chúng ta tuyệt đối hoá nhận thức, nhất là nhận thức khoa học về sự vật hay hiện tượng nào đó thì các khoa học tự nhiên, khoa học xã hội
và nhân văn sẽ không thể phát triển và thực tiễn sẽ dậm chân tại chỗ. Chính vì thế, chúng ta cần phải tăng cường phát huy nỗ lực của bản thân
trong việc hiện thực hoá quan điểm phát triển vào nhận thức và cải tạo sự vật nhằm phục vụ nhu cầu, lợi ích của chúng ta và của toàn xã hội .
Quan điểm lịch sử cụ thể đòi hỏi chúng ta khi nhận thức về sự vật và tác động vào sự vật phải chú ý điều kiện, hoàn cảnh lịch sử - cụ thể, môi
trường cụ thể trong đó sự vật sinh ra tồn tại và phát triển. Một luận điểm nào đó là luận điểm khoa học trong điều kiện này nhưng sẽ không phải
là luận điểm khoa học trong điều kiện khác. Chẳng hạn, thường thường trong các định luật của hoá học bao giờ cũng có hai điều kiện: nhiệt độ
và áp suất xác định. Nếu vượt khỏi những điều kiện đó định luật sẽ không còn đúng nữa. Trong lịch sử triết học khi xem xét các hệ thống triết
học bao giờ chúng ta cũng xem xét hoàn cảnh ra đời và phát triển của các hệ thống đó .
Với tư cách là những nguyên tắc phương pháp luận, quan điểm toàn diện, quan điểm lịch sử - cụ thể, quan điểm phát triển góp phần định
hướng, chỉ đạo hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn cải tạo hiện thực, cải tạo chính bản thân chúng ta. Song để thực hiện được chúng,
3
mỗi chúng ta cần nắm chắc cơ sở lý luận của chúng - nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển, biết vận dụng chúng một
cách sáng tạo trong hoạt động của mình. Đối với sinh viên, ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường, vẫn có thể sử dụng các nguyên tắc
phương pháp luận đó vào việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của mình góp phần xây dựng đất nước ngày càng phồn vinh, xã hội ta ngày càng
tươi đẹp.
Câu 4: Mối quan hệ giữa nôi dung và hình thức
1. Trước tiên cần phải hiểu khái niệm nội dung và hình thức là gì?
- Nội dung là tổng hợp tất cả các mặt, những yếu tố, những quá trình tạo nên sự vật.
- Hình thức là phương thức tồn tại và phát triển của sự vật, là hệ thống các mối liên hệ tương đối bần vững giữa các yếu tố của sự vật đó.
2. Mối liên hệ biện chứng giữa nội dung và hình thức.
- Sự thống nhất giữa nội dung và hình thức. Vì nội dung là những mặt, những yếu tố, những quá trình tạo nên sự vật, còn hình thức là hệ thống
các mối liên hệ tương đối bền vững giữa các yếu tố của nội dung. Nên nội dung và hình thức luôn gắn bó chặt chẽ với nhau trong một thể thống
nhất. Không có hình thức nào tồn tại thuần túy không chứa đựng nội dung, ngược lại không có nội dung nào lại không tồn tại trong một hình
thức xác định. Nội dung nào có hình thức đó.
Nội dung và hình thức không tồn tại tác rời nhau, nhưng không phải vì thế mà lúc nào nội dung và hình thức cũng phù hợp với nhau. Không
phải một nội dung bao giờ cũng chỉ được thể hiện ra trong một hình thức nhất định và một hình thức luôn chỉ chứa một nội dung nhất định, mà
một nội dung trong quá trình phát triển có nhiều hình thức thể hiện, ngược lại, một hình thức có thể thể hiện nhiều nội dung khác nhau. Ví dụ,
quá trình sản xuất ra một sản phẩm có thể bao gồm những yếu tố nội dung giống nhau như: con người, công cụ, vật liệu... nhưng cách tổ chức,
phân công quá trình sản xuất có thể khác nhau. Như vậy nội dung quá trình sản xuất được diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau. Hoặc cùng
một hình thức tổ chức sản xuất như nhau nhưng được thực hiện trong những ngành, những khu vực, với những yếu tố vật chất khác nhau, sản
xuất ra những sản phẩm khác nhau. Vậy là một hình thức có thể chứa đựng nhiều
nội dung khác nhau.
- Nội dung giữ vai trò quyết định đối với hình thức trong quá trình vận động và phát triển của sự vật. Vì khuynh hướng chủ đạo của nội dung là
biến đổi, còn khuynh hướng chủ đạo của hình thức là tương đối bền vững, chậm biến đổi hơn so với nội dung. Dưới sự tác động lẫn nhau của
những mặt trong sự vật, hoặc giữa các sự vật với nhau trước hết làm cho yếu tố của nội dung biến đổi trước; còn những mối liên kết giữa các
yếu tố nội dung, tức hình thức thì chưa biến đổi ngay, vì vậy hình thức sẽ trở lên lạc hậu hơn so với nội dung và sẽ trở thành nhân tố kìm hãm
nội dung phát triển. Do xu hướng chung của sự phát triển của sự vật, hình thức không thể kìm hãm mãi sự phát triển của nội dung và sẽ phải
thay đổi cho phù hợp với nội dung mới . Ví dụ: quan hệ giữa lực lượng sản xuất (nội dung của phương thức sản xuất) với quan hệ sản xuất
(hình thức của quá trình sản xuất).
- Sự tác động trở lại của hình thức với nội dung. Hình thức do nội dung quyết định, nhưng hình thức có tính độc lập tương đối và tác động trở
lại nội dung. Sự tác động của hình thức đến nội dung thể hiện ở chỗ: nếu phù hợp với nội dung thì hình thức sẽ tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy
nội dung phát triển; nếu không phù hợp với nội dung thì hình thức sẽ ngăn cản, kìm hãm sự phát triển của nội dung.
Ý nghĩa phương pháp luận .
Do vật chất là nguồn gốc và là cái quyết định đối với ý thức, cho nên để nhận thức cái đúng đắn sự vật, hiện tượng, trước hết phải xem xét
nguyên nhân vật chất, tồn tại xã hội_ để giải quyết tận gốc vấn đề chứ không phải tìm nguồn gốc, nguyên nhân từ những nguyên nhân tinh thần
nào.“tính khách quan của sự xem xét” chính là ở chỗ đó .
Mặt khác, ý thức có tính độc lập tương đối, tác động trở lại đối với vật chất, cho nên trong nhận thức phải có tính toàn diện, phải xem xét đến
vai trò của nhân tố tinh thần.
Trong hoạt động thực tiễn, phải xuất phát từ những điều kiện khách quan và giải quyết những nhiệm vụ của thực tiễn đặt ra trên cơ sở tôn trọng
sự thật. Đồng thời cũng phải nâng cao nhận thức, sử dụng và phát huy vai trò năng động của các nhân tố tinh thần,tạo thành sức mạnh tổng hợp
giúp cho hoạt động của con người đạt hiệu quả cao.
Không chỉ có vậy, việc giải quyết đúng đắn mối quan hệ trên khắc phục thái độ tiêu cực thụ động, chờ đợi, bó tay trước hoàn cảnh hoặc chủ
quan, duy ý chí do tách rời và thổi từng vai trò của từng yếu tố vật chất hoặc ý thức.
Câu 5: Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập
*Vị trí qui luật: -Đây là 1 trong những qui luật cơ bản của phép biện chứng duy vật,nó p/ánh giải thích về nguồn gốc động lực của sự vận
động phát triển là do đấu tranh giải quyết mâu thuẫn bên trong của chính bản thân các sự vật hiện tượng quyết định.
*Các khái niệm: -Mặt đối lập:là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt,những đặc điểm,những thuộc tính có khuynh hướng vận động biến
đổi trái ngược nhau,tồn tại khách wan trong tự nhiên,XH và tư duy.
VD:Điện tử và hạt nhân là 2 mặt đối lập trong 1 nguyên tử của 1 chất,đồng hóa và dị hóa,hấp thụ và bài tiết,di truyền và biến dị là các
mặt đối lập tồn tại trong các cơ thể duy vật.
VD:Giai cấp công nhân và giai cấp tư sản là 2 mặt đối lập trong kết cấu mâu thuẫn giai cấp của Xh tư bản.
-Tư tưởng tích cực và tiêu cực là 2 mặt đối lập luôn tồn tại song hành với nhau.
-Sự thống nhất của các mặt đối lập là sự nương tựa lẫn nhau sự tồn tại không tách rời nhau,sự tồn tại của mặt này phải lấy sự tồn tại của mặt kia
làm tiền đề.
-Sự thống nhất của các mặt đối lập đc thể hiện dưới những hình thức cơ bản đó là sự đồng nhất của các mặt đối lập.
-Sự tác động ngang nhau của các mặt đối lập tồn tại dưới 2 trạng thái.
+Sự đồng nhất của các mặt đối lập đc hiểu giữa 2 mặt đối lập bao giờ cũng có điểm chung trong quá trình triển khai,từ điểm chung đó
mà các mặt đối lập chuyển hóa lẫn nhau.
+Trạng thái khác nhau của các mặt đối lập đc hiểu là nói tới trạng thái cân bằng giữa các mặt đối lập nghĩa là giữa các mặt đối lập nó
đc phân lập 1 cách rõ ràng tạo nên trạng thái đứng im tương đối của các đối tượng.
-Sự đấu tranh của các mặt đối lập:đó là sự tác động wa lại lẫn nhau theo xu hướng bài trừ phủ định chuyển hóa lẫn nhau giữa các mặt
đối lập,sự đấu tranh giữa các mặt đối lập trong thực tế của hiện tượng khách quan diễn ra rất phức tạp,nó phụ thuộc vào tính chất của từng loại
mặt đối lập,nó phụ thuộc vào lĩnh vực tồn tại của các mặt đối lập,nó phụ thuộc vào đk cụ thể diễn ra của cuộc đấu tranh giữa các mặt đối lập.

4
-Mâu thuẫn biện chứng:là sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập.
*Khái quát nd qui luật mâu thuẫn.
-Mâu thuẫn là khách wan và phổ biến của mọi sự vật hiện tượng nghĩa là sự vật hiện tượng nào cũng có mâu thuẫn,mâu thuẫn tồn tại suốt quá
trình phát triển của sự vật,sự vật cũ mất đi,sự vật mới ra đời thay thế nó lại là 1 kết cấu mâu thuẫn mới.
-Mâu thuẫn biện chứng là nguồn gốc động lực của sự vận động phát triển.
+Vì nếu không có sự thống nhất của các mặt đối lập thì sẽ không tạo thành các sự vật hiện tượng nhất định trong hiện thực và sẽ
không có sự đấu tranh giữa các mặt đối lập đó.
+Nếu không wa sự đấu tranh giữa các mặt đối lập sẽ làm cho các sự vật hiện tượng thay đổi về chất nghĩa là nó trở thành động lực để
thúc đẩy sự vật phát triển.
-Qui luật mâu thuẫn là qui luật phổ biến của TG vật chất,nó tác động trong cả 3 lĩnh vực:tự nhiên,XH và tư duy.
=>Kết luận:Bản chất của qui luật mâu thuẫn:mọi sự vật hiện tượng đều chứa đựng những mặt,những khuynh hướng đối lập tạo thành những
mâu thuẫn bên trong bản thân nó,sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là nguồn gốc của sự vận động phát triển,làm cho cái cũ mất đi
cái mới ra đời thay thế.

*Ý nghĩa phương pháp luận: -Qui luật mâu thuẫn k/định mâu thuẫn là khách wan vốn có của bản thân các sự vật hiện tượng vì thế trong hoạt
động thực tiễn của con người ta muốn nhận thức đc bản chất của sự vật hiện tượng thì phải biết đi vào phân tích mâu thuẫn của nó để hiểu đúng
về nó.
-Qui luật mâu thuẫn k/định đấu tranh giải quyết mâu thuẫn là nguồn gốc,động lực của sự phát triển vì vậy trong h/đ thực tiễn của con người
chúng ta muốn thúc đẩy các sự vật hiện tượng phát triển để nhằm đạt đc mục đích của mình thì phải thực hiện "đấu tranh" giữa các mặt đối
lập,không đc che dấu mâu thuẫn,thủ tiêu đấu tranh.Đây là phương pháp
giải quyết mâu thuẫn.
VD:Muốn thúc đẩy chất lượng học tập của tập thể lớp lên cao thì phải nêu cao tinh thần đấu tranh tự phê bình và phê bình.
Câu 6: Thức tiễn là gì ? Vai trò của nó đối với nhận thức ?
*Thực tiễn:Toàn bộ hoạt động vật chất có tính chất lịch sử xã hội của con người làm biến đổi tự nhiên và xã hội.Nó nằm trong phạm trù vật
chất. :P
=>Biện chứng của hoạt động thực tiễn là sự tác động qua lại giữa con người và hiện thực khách quan,trong dó con người là chủ thể,hiện thực
khách quan là khách thể.Chủ thể với tính tích cực,sáng tạo đã tách động vào khách thể làm biến đổi khác thể và biến đổi cả chủ thể.Hoạt động
thực tiễn được biểu hiện rất đa dạng nhưng có thể khái quát ở 3 hình thức cơ bản sau, nhìn nè :D :
-Hoạt động sản xuất vật chất trong xã hội(vai trò quyết định)
-Họat động cải biến xã hội
-Nghiên cứu,thực nghiệm khoa học:hoạt động thực tiễn đặc biệt của con người
*Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức:
-Theo quan điểm của duy vật biện chứng:thực tiễn có vai trò đặc biệt to lớn đối với nhận thức,nó chính là cơ sở mục đích,động lực của nhận
thức,là tiêu chuẩn kiểm tra chân lý.
+Thực tiễn là cơ sở động lực của nhận thức vì xét đến cùng mọi tri thức của con người đều có nguồn gốc từ thực tiễn do đó mà nói rằng thực
tiễn là cơ sở của nhận thức.
+Chính thông qua hoạt động thực tiễn nó luôn luôn nảy sinh nhu cầu mới thúc đẩy nhận thực phát triển vì thế mà nói thực tiễn là động lực của
nhận thức,chẳng hạn:từ nhu cầu chữa trị các căn bệnh hiểm nghèo mà thúc đẩy nhận thức của con người khám phá ra bản đồ gen người...,từ
nhu cầu thực tiễn quan sát các vật bé nhỏ mà thúc đẩy nhận thức con người sáng tạo ra các kính hiển vi.
+Thực tiễn là mục đích của nhận thức vì xét đến cùng nhận thức là nhằm phục vụ hoạt động thực tiễn và nâng cao hiệu quả thực tiễn. -Thực
tiễn là tiêu chuẩn kiểm tra chân lý vì các tri thức của con người đc khái quát,tổng kết chưa chắc đã đúng do vậy các tri thức ấy phải đc kiểm tra
đối chứng
trong thực tiễn nếu đó là đúng thì đó là chân lý.
Câu 7: Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Lực lượng sản xuất:là sự biểu hiện mối quan hệ giữa con người với giới tự nhiên trong quá trình sản xuất tạo ra của cải vật chất, biểu hiện trình
độ chinh phục tự nhiên của con người .
- Lực lượng sản xuất là thước đo quan trọng nhất của sự tiến bộ xã hội
- LLSX là sự thống nhất của hai yếu tố là người lao động và tư liệu sản xuất.
+ Người lao động (sức lao động): toàn bộ năng lực và trí tuệ của con người thông qua tư liệu lao động được kết tinh vào sản phẩm phụ thuộc
vào trình độ, kinh nghiệm, kỹ năng, kỹ xảo, thói quen, kết hợp với các yếu tố đạo đức, tâm lý, khoa học ... biết sử dụng TLSX để tạo ra của cải
vật chất.
+ Tư liệu sản xuất: là toàn bộ điều kiện vật chất cần thiết để tiến hành sản xuất. Nó bao gồm đối tượng lao động và tư liệu lao động
Quan hệ sản xuất:
Khái niệm: là sự biểu hiện mối quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất.
Quan hệ sản xuất về lĩnh vực đời sống vật chất xã hội do đó nó mang tính khách quan
Mỗi loại QHSX đặc trưng cho một hình thái kinh tế - xã hội
Kết cấu quan hệ sản xuất:
Quan hệ giữa người với người đối với việc sở hữu về tư liệu sản xuất.
Quan hệ giữa người với người đối với việc tổ chức quản lý.
Quan hệ giữa người với người đối với việc phân phối sản phẩm lao động.
Quy luật về sự phù hợp của QHSX với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất:

5
Tính chất của LLSX: là tính chất của TLSX và của người lao động. Nền SX đó bằng thủ công cá thể hoặc bằng máy móc tập thể, thể hiện là sự
đòi hỏi phân công lao động trong nên sản xuất.
Trình độ của LLSX: được biểu hiện ở trình độ công cụ lao động cộng với trình độ tổ chức lao động xã hội + trình độ ứng dụng khoa học và sản
xuất + kinh nghiệm, kỹ năng lao động của con người + trình độ phân công lao động.
Tính chất và trình độ của LLSX là quyết định nhất đối với sự phát triển của QHSX. Trong lực lượng SX còn nhiều yếu tố khác nhưng quyết
định nhất đối với việc hình thành và phát triển của quan hệ sản xuất là do tính chất và trình độ của LLSX quyết định quan hệ chặt chẽ như thế
nào giữa người lao động với người lao động chứ không phải do phương pháp của đối tượng lao động hoặc tư liệu lao động. Điều này được Mác
chứng minh, Mác nói "Trong PTSX kiếm sống của mình mà con người làm thay đổi các quan hệ xã hội của mình, các cối xay quay bằng tay
đem lại xã hội có lãnh chúa phong kiếm, cái cối xay chạy bằng hơi nước đẹm lại xã hội có nhà TBCN".
Quy luật về sự phù hợp của QHSX và tính chất, trình độ của LLSX là quy luật chung cho toàn xã hội loài người, chính sự tác động của quy luật
này làm cho xã hội loài người phát triển từ hình thái kinh tế XH này sang hình thái kinh tế XH khác cao hơn.
Vận dụng quy luật:
Ở Việt Nam, sau hoà bình lập lại ở miền Bắc (1954) và thống nhất đất nước (1975) chúng ta đã tiến lên CNXH, bỏ qua chế độ TBCN. Vào
buổi đầu, do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, chúng ta đã xây dựng CNXH theo mô hình kế hoạch hoá tập trung. Trong điều kiện
chiến tranh, mô hình đó đã đóng vai trò tích cực nhưng trong điều kiện hoà bình, mô hình đó dần dần bộc lộ những hạn chế và dẫn đến khủng
hoảng nghiêm trọng về kinh tế - xã hội.
Đứng trước tình hình đó, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (1986) của ĐCSVN đã đưa ra đường lối đổi mới đất nước. Đổi mới không phải
là thay đổi mục tiêu XHCN mà là nhận thức cho đúng mục tiêu, và con đường tiến lên CNXH ở nước ta. ĐCSVN đã định ra đường lối chuyển
từ mô hình kế hoạch hoá tập trung sang xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước theo định hướng XHCN. Xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần là phù hợp với đặc điểm phát triển của LLSX của nước ta trong
điều kiện hiện nay. Nó cho phép khai thác tốt nhất các năng lực sản xuất trong nước, thúc đẩy quá trình phân công lao động trong nước, và gắn
phân công lao động trong nước với quốc tế và khu vực, thúc đẩy LLSX phát triển nhanh chóng. Những thành tựu đạt được về mặt kinh tế trong
20 năm đổi mới đã chính minh tính đúng đắn của đường lối đó.
Trong giai đoạn hiện nay, Đảng chủ trương giải phóng mạnh mẽ hơn nữa LLSX, phát huy nguồn lực toàn XH, mọi công dân, mọi vùng, mọi
ngành kinh tế, phát triển, phát triển khoa học công nghệ, giáo dục và đào tạo, phát
triển con người, nâng cao chất lượng nguồn lực, phát triển nền kinh tế thị trường, định hướng XH CN, đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại
hóa, phát triển và ứng dụng kinh tế trí thức, định hướng tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế khác phát triển.
Với sự phát triển của LLSX, loài người đã trải qua 5 hình thái kinh tế - xã hội. Xu hướng tất yếu là không dừng ở CNTB mà tiến lên CNCS.
Việt Nam đang trong quá trình quá độ lên CNXH, vì thế chúng ta cần hoàn thiện, hoàn chỉnh hệ thống chính trị và cơ cấu chính trị.
Câu 8: Điều kiện ra đời và vai trò của sản xuất hàng hóa
Để sản xuất hàng hoá ra đời và tồn tại cần có hai điều kiện:
Thứ nhất là phải có sự phân công lao động XH, tức là có sự chuyên môn hoá sản xuất, phân chia lao động XH vào các ngành, các lĩnh vực sản
xuất khác. Sự phân chia lao động XH sẽ làm cho việc trao đổi sản phẩm trở nên tất yếu vì khi đó mỗi người khi đó sẽ chỉ sản xuất một hay một
vài sản phẩm trong khi họ có nhu cầu sử dụng nhiều loại sản phẩm khác nhau. Do đó, tất yếu dẫn đến trao đổi mua bán. Sự phân công lao động
cũng làm cho năng suất lao động tăng lên, sản phẩm thặng dư ngày càng nhiều và trao đổi sản phẩm ngày càng phổ biến.. Đây là tiền đề, cơ sở
cho sản xuất hàng hoá.
Thứ hai là phải có sự tách biệt tương đối giữa những người sản xuất về mặt kinh tế, tức là những người sản xuất trở thành những chủ thể sản
xuất, độc lập nhất định. Do đó, sản phẩm làm ra thuộc quyền sở hữu hoặc do họ chi phối. Trong lịch sử, sự tách biệt này là do chế độ tư hữu về
tư liệu sản xuất quy định còn trong nền sản xuất hiện đại, sự tách biệt này còn do các hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất và sự tách
rời giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng đối với tư liệu sản xuất quy định.
Đây là hai điều kiện cần và đủ của sản xuất hàng hoá. Thiếu một trong hai điều kiện trên sẽ không có sản xuất hàng hoá.
Do sản xuất hàng hoá dựa trên sự phân công lao động XH, chuyên môn hoá sản xuất nên nó khai thác được những lợi thế tự nhiên, xã hội, kỹ
thuật của từng người, từng cơ sở cũng như từng vùng, từng địa phương. Đồng thời, sản xuất hàng hoá cũng tác động trở lại làm cho phân công
lao động XH, chuyên môn hoá sản xuất ngày càng tăng, mối quan hệ giữa các ngành, các vùng ngày càng trở nên mở rộng, sâu sắc. Từ đó, làm
cho năng suất lao động tăng lên nhanh chóng, nhu cầu của XH được đáp ứng đầy đủ hơn.
Trong nền sản xuất hàng hoá, quy mô sản xuất không còn bị giới hạn bởi nguồn lực và nhu cầu của mỗi cá nhân, gia đình, mỗi cơ sở, mỗi vùng
mà nó được mở rộng, dựa trên cơ sở nhu cầu và nguồn lực XH. Từ đó, tạo điều kiện cho việc ứng dụng những thành tựu KH – KT vào sản
xuất, thúc đẩy sản xuất phát triển, chuyển từ sản xuất nhỏ sang sản xuất lớn.
Trong nền sản xuất hàng hóa, để tồn tại và sản xuất có lãi, người sản xuất phải luôn luôn năng động, cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, nâng
cao năng suất lao động, giảm chi phí sản xuất, đáp ứng nhu cầu và thị hiếu của người tiêu dùng. Nhờ đó, lực lượng sản xuất ngày càng phát
triển, năng suất lao động tăng, hiệu quả kinh tế ngày càng cao.
Sự phát triển sản xuất, mở rộng và giao lưu kinh tế giữa các cá nhân, các vùng, các nước... không chỉ làm cho đời sống vật chất mà cả đời sống
văn hoá, tinh thần cũng được nâng cao hơn, phong phú và đa dạng hơn.
Tóm lại, trong khi sản xuất tự cung tự cấp bị giới hạn bởi như cầu và nguồn lực cá nhân, gia đình, quy mô sản xuất nhỏ, không tạo được động
lực thúc đẩy sản xuất phát triển thì sản xuất hàng hoá lại tạo được động lực sản xuất phát triển, làm cho sản xuất phù hợp với nhu cầu, góp phần
nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của mỗi cá nhân và toàn XH.
Câu 9: Thế nào là hàng hóa ? Phân tích các thuộc tính của hàng hóa ? Ý nghĩa thực tiễn của vấn đề này đối với Việt Nam.
ĐN hàng hóa: Hàng hoá là sản phẩm của lao động có thể thoả mãn nhu cầu nào đó của con người và đem trao đổi, đem bán.
Hàng hoá có hai thuộc tính là giá trị sử dụng và giá trị (hay giá trị trao đổi). Sở dĩ hàng hóa có hai thuộc tính là do lao động sản xuất hàng hóa
có hai mặt: Lao động cụ thể tạo ra giá trị sử dụng của hàng hóa, lao động trừu tượng tạo ra giá trị của hàng hóa.
Hàng hóa có hai thuộc tính: giá trị sử dụng và giá trị.

6
2. Giá trị sử dụng là công dụng của hàng hoá để thoả mãn nhu cầu nào đó của con người.
Hàng hoá nào cũng có một hay một vài công dụng và cộng dụng đó làm nó có giá trị sử dụng. Ví dụ như gạo là dùng để ăn, giá trị sử dụng của
gạo là để ăn...
Giá trị sử dụng của hàng hoá là do thuộc tín tự nhiên (Lý, hoá, sinh) của thực thể hàng hoá đó quy định nhưng việc phát hiện ra những thuộc
tính có ích đó lại phụ thuộc vào sự phát triển của XH, của con người. XH càng tiến bộ, lực lượng sản xuất ngày càng phát triển thì số lượng giá
trị sử dụng ngày càng nhiều, chủng loại giá trị sử dụng ngày càng phong phú và chất lượng giá trị sử dụng ngày càng cao.
Giá trị sử dụng là giá trị sử dung XH. Nó không phải là giá trị sử dụng cho người trực tiếp sản xuất mà là cho XH thông qua trao đổi mua bán.
Do đó, người sản xuất phải luôn quan tâm đến như cầu của XH, làm cho sản phẩm của họ phù hợp với nhu cầu XH.
Giá trị sử dụng mang trên mình giá trị trao đổi.
3. Để hiểu giá trị của hàng hoá, trước hết, ta phải hiểu giá trị trao đổi. Giá trị trao đổi là một quan hệ về số lượng, là tỷ lệ theo đó một giá trị sử
dụng loại này được trao đổi với những giá trị sử dụng loại khác. Ví dụ như: 1m vải có giá trị trao đổi bằng 5 kg thóc.
Hai hàng hoá khác nhau như vậy có thể trao đổi với nhau thì giữa chúng phải có một cơ sở chung. Lao động hao phí tạo ra hàng hoá chính là cơ
sở chung cho việc trao đổi đó và tạo ra giá trị của hàng hoá. Vậy giá trị của hàng hoá là lao động XH của người sản xuất hàng hoá kết tinh
trong sản phẩm. Giá trị trao đổi là biểu hiện bên ngoài của giá trị, giá trị là nội dung bên trong, là cơ sở của giá trị trao đổi.
Giá trị biểu hiện mối quan hệ giữa những người sản xuất hàng hoá. Vì vậy, giá trị là một phạm trù lịch sử, chỉ tồn tại trong nền kinh tế hàng
hoá.
4. Hai thuộc tính đó của hàng hoá vừa mâu thuẫn, vừa thống nhất. Chúng thống nhất ở chỗ: chúng cùng tồn tại trong hàng hoá, một hàng hoá
phải có hai thuộc tính này, thiếu một trong hai thuộc tính thì không phải là hàng hoá. Tuy nhiên, chúng mâu thuẫn ở hai điểm: thứ nhất, về một
giá trị sử dụng thì hàng hoá khác nhau về chất còn về mặt giá trị thì hàng hoá lại giống nhau về chất; Thứ hai, giá trị được sử dụng trong quá
trình lưu thông còn giá trị sử dụng được thực hiện trong quá trình tiêu dùng.
5.Hai thuộc tính của hàng hoá này không phải là do có hai thứ lao động khác nhau kết tinh trong hàng hoá mà là do lao động sản xuất hàng hoá
có tính chất hai mặt, vừa có tính trừu tượng (lao động trừu tượng), vừa có tính cụ thể (lao động cụ thể).
Lao động cụ thể là lao động có ích dưới một hình thức cụ thể của những nghề nghiệp chuyên môn nhất định. Mỗi một lao động cụ thể có mục
đích, phương pháp, công cụ lao động, đối tượng lao động và kết quả lao động riêng. Do đó, lao động cụ thể tạo ra giá trị sử dụng của hàng
hoá.Nếu phân công lao động XH càng phát triển thì càng có nhiều giá trị sử dụng khác nhau để đáp ứng nhu cầu của XH.
Lao động trừu tượng chính là sự tiêu hao sức lao động (tiêu hao sức bắp thịt, thần kinh) của người sản xuất hàng hoá nói chung. Chính lao động
trừu tượng của người sản xuất hàng hoá tạo ra giá trị của hàng hoá. Ta có thể nói, giá trị của hàng hoá là lao động trừu tượng kết tinh trong
hàng hoá. Đây chính là mặt chất của giá trị hàng hoá.
Câu 10: Trình bày nội dung, yêu cầu, tác động của quy luật giá trị trong nên sản xuất hàng hóa ? Ý nghĩa của việc nghiên cứu vến đề
này đối với nước ta ?
Quy luật giá trị là quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất hàng hóa vì nó quy định bản chất của sản xuất hàng hóa, là cơ sở của tất cả các quy luật
khác của sản xuất hàng hóa.
Nội dung của quy luật giá trị là:
Sản xuất và trao đổi hàng hóa dựa trên cơ sở giá trị của nó, tức là dựa trên hao phí lao động xã hội cần thiết.
Trong sản xuất, tác động của quy luật giá trị buộc người sản xuất phải làm sao cho mức hao phí lao động cá biệt của mình phù hợp với mức hao
phí lao động xã hội cần thiết có như vậy họ mới có thể tồn tại được; còn trong trao đổi, hay lưu thông, phải thực hiện theo nguyên tắc ngang
giá: Hai hàng hóa được trao đổi với nhau khi cùng kết tinh một lượng lao động như nhau hoặc trao đổi, mua bán hàng hoá phải thực hiện với
giá cả bằng giá trị.
Cơ chế tác động của quy luật giá trị thể hiện cả trong trường hợp giá cả bằng giá trị, cả trong trường hợp giá cả lên xuống xung quanh giá trị. ở
đây, giá trị như cái trục của giá cả.
b) Tác động của quy luật giá trị
Trong nền sản xuất hàng hóa, quy luật giá trị có ba tác động sau:
- Điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa.
Quy luật giá trị điều tiết sản xuất hàng hóa được thể hiện trong hai trường hợp sau:
+ Thứ nhất, nếu như một mặt hàng nào đó có giá cả cao hơn giá trị, hàng hóa bán chạy và lãi cao, những người sản xuất sẽ mở rộng quy mô sản
xuất, đầu tư thêm tư liệu sản xuất và sức lao động. Mặt khác, những người sản xuất hàng hóa khác cũng có thể chuyển sang sản xuất mặt hàng
này, do đó, tư liệu sản xuất và sức lao động ở ngành này tăng lên, quy mô sản xuất càng được mở rộng.
+ Thứ hai, nếu như một mặt hàng nào đó có giá cả thấp hơn giá trị, sẽ bị lỗ vốn. Tình hình đó buộc người sản xuất phải thu hẹp việc sản xuất
mặt hàng này hoặc chuyển sang sản xuất mặt hàng khác, làm cho tư liệu sản xuất và sức lao động ở ngành này giảm đi, ở ngành khác lại có thể
tăng lên.
Còn nếu như mặt hàng nào đó giá cả bằng giá trị thì người sản xuất có thể tiếp tục sản xuất mặt hàng này.
Như vậy, quy luật giá trị đã tự động điều tiết tỷ lệ phân chia tư liệu sản xuất và sức lao động vào các ngành sản xuất khác nhau, đáp ứng nhu
cầu của xã hội.
Tác động điều tiết lưu thông hàng hóa của quy luật giá trị thể hiện ở chỗ nó thu hút hàng hóa từ nơi có giá cả thấp hơn đến nơi có giá cả cao
hơn, và do đó, góp phần làm cho hàng hóa giữa các vùng có sự cân bằng nhất định.
- Kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, tăng năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm.
Các hàng hóa được sản xuất ra trong những điều kiện khác nhau, do đó, có mức hao phí lao động cá biệt khác nhau, nhưng trên thị trường thì
các hàng hóa đều phải được trao đổitheo mức hao phí lao động xã hội cần thiết.
- Phân hóa những người sản xuất hàng hóa thành giàu, nghèo.
Những người sản xuất hàng hóa nào có mức hao phí lao động cá biệt thấp hơn mức hao phí lao động xã hội cần thiết, khi bán hàng hóatheo
mức hao phí lao động xã hội cần thiết (theo giá trị) sẽ thu được nhiều lãi, giàu lên, có thể mua sắm thêm tư liệu sản xuất, mở rộng sản xuất kinh
doanh, thậm chí thuê lao động trở thành ông chủ.

7
Ngược lại, những người sản xuất hàng hóa nào có mức hao phí lao động cá biệt lớn hơn mức hao phí lao động xã hội cần thiết, khi bán hàng
hóa sẽ rơi vào tình trạng thua lỗ, nghèo đi, thậm chí có thể phá sản, trở thành lao động làm thuê.
Đây cũng chính là một trong những nguyên nhân làm xuất hiện quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, cơ sở ra đời của chủ nghĩa tư bản.
Như vậy, quy luật giá trị vừa có tác động tích cực, vừa có tác động tiêu cực. Do đó, đồng thời với việc thúc đẩy sản xuất hàng hóa phát triển,
nhà nước cần có những biện pháp để phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của nó, đặc biệt trong điều kiện phát triển nền kinh tế hàng
hóa nhiều thành phầntheo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.

Đối với mỗi quốc gia thì sản xuất hàng hoá luôn luôn giữ vị trí quan trọng, đây là một trong những hoạt động có ý nghĩa quyết định đến sự phát
triển của quốc gia. Sản xuất hàng hoá thúc đẩy sự phát triển của phân công lao động, phát triển chuyên môn hoá, tạo điều kiện phát huy lợi thế
so sánh của mỗi vùng, mỗi đơn vị sản xuất, tạo điều kiện cải tiến kỹ thuật, nâng cao trình độ sản suất, mở rộng phạm vi sản xuất, thúc đẩy sản
xuất phát triển. Ngoài ra, sản xuất hàng hoá còn làm cho quá trình giao lưu kinh tế văn hoá giữa các địa phương, các vùng, các nước ngày càng
phát triển, đời sống tinh thần được nâng cao, phong phú và đa dạng, tạo điều kiện cho sự phát triển tự do độc lập của cá nhân. Trong sản xuất
hàng hoá, có một quy luật rất quan trọng đó là quy luật giá trị. Đây là quy luật cơ bản của sản xuất hàng hoá. Theo quy luật này, sản xuất và
trao đổi hàng hoá được thực hiện theo hao phí lao động xã hội cần thiết. Thông qua sự vận động của giá cả thị trường sẽ thấy được sự hoạt
động của quy luật giá trị giá cả thị trường lên xuống xoay quanh giá trị hàng hoá và trở thành cơ chế tác động của quy luật giá trị. Cơ chế này
phát sinh tác dụng trên thị trường thông qua cạnh tranh, cung - cầu, sức mua của đồng tiền. Điều này cắt nghĩa vì sao khi trình bày quy luật
kinh tế chi phối hoạt động của sản xuất và lưu thông hàng hoá người ta chỉ trình bày quy luật giá trị, một quy luật bao quát cả bản chất và các
nhân tố cấu thành cơ chế tác động của nó.
Đất nước ta đang trong quá trình đổi mới, phải đối mặt với rất nhiều thách thức và khó khăn nhất là trong phát triển kinh tế, do đó đòi hỏi
chúng ta phải áp dụng những biện pháp phát triển kinh tế thật thận trọng, khẩn trương và có hiệu quả. Chính vì vậy, việc vận dụng quy luật giá
trị vào phát triển kinh tế ở nước ta hiện nay là rất quan trọng.
Ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề này đối với nước ta hiện nay
a) Cần nhận thức sự tồn tại khách quan và phạm vi hoạt động rộng lớn, lâu dài của quy luật giá trị trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần
ở nước ta hiện nay.
b) Cần vận dụng tốt cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước để phát huy vai trũ tớch cực của cơ chế thị trường và hạn chế mặt tiêu cực
của nó để thúc đẩy sản xuất phát triển, đảm bảo sự công bằng xã hội.
Câu 11: Phân tích nguồn gốc, bản chất, chức năng của tiền ?
1. Nguồn gốc của tiền tệ.
Để tìm hiểu nguồn gốc của tiền tệ, ta hãy xem xét quá trình phát triển của các hình thái biểu hiện của giá trị:
Đầu tiên là hình thái giản đơn, ngẫu nhiên của giá trị. Hình thái này xuất hiện khi xã hội nguyên thủy tan rã và chỉ thường gặp ở những mầm
mống đầu tiên của trao đổi. Ở đây, giá trị của hàng hoá này chỉ biểu hiện đơn nhất ở một hàng hoá khác và quan hệ trao đổi mang tính chất
ngẫu nhiên, trực tiếp hàng lấy hàng, tỷ lệ trao đổi được hình thành ngẫu nhiên. Ví dụ như 20 vuông vải = 1 cái áo. Cái áo ở đây đóng vai trò vật
ngang giá - hình thái phôi thai của tiền tệ.
Khi quan hệ trao đổi trở thành quá trình đều đặn, thường xuyên, thúc đẩy sản xuất hàng hoá ra đời và phát triển thì hình thái thứ hai là hình thái
đầy đủ hay mở rộng của hàng hoá ra đời. Hình thái này xuất hiện trong thực tế khi một hàng hoá nào đó được trao đổi với nhiều hàng hoá khác
một cách thông thường phổ biến. Ở đây, giá trị của hàng hoá được
biểu hiện ở nhiều hàng hoá khác nhau đóng vai trò làm vật ngang giá. Đồng thời tỷ lệ trao đổi không còn mang tính chất ngẫu nhiên nữa mà
dần dần do lao động quy định. Tuy nhiên, ở hình thái này, giá trị của hàng hoá được biểu hiện còn chưa hoàn tất, thống nhất và vẫn trao đổi
trực tiếp hàng - hàng. Ví dụ như 20 vuông vải = 1 cái áo, = 10 đấu chè, = 40đấu cà phê, = 0,2 gam vàng...
Do đó, khi sản xuất và trao đổi hàng hoá phát triển hơn, đòi hỏi phải có vật ngang giá chung, hình thái thứ ba xuất hiện: Hình thái chung của
giá trị. Ở hình thái này, giá trị của mọi hàng hoá được biểu hiện ở một hàng hoá đóng vai trò làm vật ngang giá chung - "vật ngang giá phổ
biến". Các hàng hoá đều đổi thành vật ngang giá chung, sau đó mới mang đổi lấy hàng hoá cần dùng. Vật ngang giá chung trở thành môi giới.
Tuy nhiên, ở hình thái này, bất kỳ hàng hoá nào cũng có thể trở thành vật ngang giá chung, miễn là nó được tách ra làm vật ngang giá chung.
Ví dụ như 1 cái áo hoặc
10 đấu chè hoặc 40 đấu cà phê hoặc 0,2 gam vàng = 20 vuông vải.
Khi sản xuất và trao đổi hàng hoá phát triển hơn nữa, đặc biệt là khi mở rộng giữa các vùng đòi hỏi phải có một vật ngang giá chung thông nhất
thì hình thái thứ tư ra đời: hình thái tiền. Giá trị của tất cả các hàng hoá ở đây đều được biểu hiện ở một hàng hoá đóng vai trò tiền tệ. Lúc đầu
có nhiều hàng hoá đóng vai trò tiền tệ nhưng dần dần được chuyển sang các kim loại quý như đồng, bạc và cuối cùng là vàng. Ví dụ như: 10
mét vuông vải hoặc 1 cái áo hoặc 10 đấu chè = 0.02 gam vàng.
Như vậy, tiền ra đời là kết quả phát triển lâu dài của sản xuất và trao đổi hàng hoá.
2. Bản chất của tiền:
Tiền là một loại hàng hoá đặc biệt được tách ra làm vật ngang giá chung cho tất cả các loại hàng hoá. Nó là sự thể hiện chung của giá trị, đồng
thời nó biểu hiện quan hệ sản xuất giữa những người sản xuất hàng hoá.
3. Tiền có 5 chức năng. Nó là thước đo giá trị, là phương tiện lưu thông, phương tiện cất trữ, phương tiện thanh toán và tiền tệ thế giới.
Trước hết, tiền là thước đo giá trị, tức là nó dùng để đo lường và biểu hiện giá trị của các hàng hoá khác. Khi đó, giá trị của hàng hoá được biểu
hiện bằng một lượng tiền nhất định gọi là giá cả hàng hoá. Giá cả hàng hoá là hình thức biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá. Giá cả hàng
hoá có thể lên xuống xung quanh giá trị nhưng tổng số giá cả luôn
bằng giá trị.
Tiền làm môi giới trong trao đổi hàng hoá, tức là tiền đóng vai trò là một phương tiện lưu thông. Khi ấy, trao đổi hàng hoá vận động theo công
thức H - T - H'. Đây là công thức lưu thông hàng hoá giản đơn. Với chức năng này, tiền xuất hiện dưới các hình thức vàng thoi, bạc nén, tiền
đúc và cuối cùng là tiền giấy. Tiền giấy là ký hiệu giá trị do nhà nước phát hành buộc XH công nhận. Tiền giấy không có giá trị thực (không kể

8
đến giá trị của vật liệu giấy dùng làm tiền). Khi thực hiện chức năng này, tiền giúp quá trình mua bán diễn ra dễ dàng hơn nhưng nó cũng làm
việc mua bán tách rời nhau cả về không gian lẫn thời gian nên nó bao hàm khả năng khủng hoảng.
Tiền đôi khi được rút khỏi lưu thông và cất giữ lại để khi cần thì đem ra mua hàng. Chỉ có tiền vàng, tiền bạc, các của cải bằng vàng có giá trị
thực mới thực hiện được chức năng lưu trữ. Ngoài ra, tiền làm phương tiện cất trữ còn có tác dụng đặc biệt là dự trữ tiền cho lưu thông.
Khi kinh tế hàng hoá phát triển đến một mức độ nào đó tất yếu sẽ sinh ra mua bán chịu và tiền có thêm chức năng phương tiện thanh toán như
trả nợ, đóng thuế... Tiền làm phương tiện thanh toán có tác dụng đáp ứng kịp thời như cầu của người sản xuất hoặc tiêu dùng ngay cả khi họ
chưa có tiền hoặc không đủ tiền. Nhưng nó cũng làm cho khả năng khủng hoảng tăng lên. Trong quá trình thực hiện chức năng thanh toán, loại
tiền mới - tiền tín dụng - xuất hiện, có nghĩa là hình thức tiền đã phát triển hơn.
Chức năng cuối cùng của tiền là tiền tệ thế giới. Chức năng này xuất hiện khi buôn bán vượt ra ngoài biên giới quốc gia, hình thành quan hệ
buôn bán giữa các nước. Khi thực hiện chức năng này, tiền thực hiện các chức năng: thước đo giá trị, phương tiện lưu thông, phương tiện thanh
toán, tín dụng, di chuyển của cải từ nước này sang nước khác. Thực hiện chức năng này phải là tiền vàng hoặc tiền tín dụng được công nhận là
phương tiện thanh toán quốc tế. Việc trao đổi tiền của nước này sang tiền của nước khác tuân theo tỷ giá hổi đoái, tức là giá cả của một đồng
tiền nước này được tính bằng đồng tiền của nước khác.
Tóm lại, cùng với sự phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hoá, tiền có 5 chức năng. Những chức năng này có quan hệ mật thiết và thông
thường tiền làm nhiều chức năng một lúc.
Câu 12: Tại sao nói công thức T – H – T’ là công thức chung của tư bản ? Phân tích mâu thuẫn của công thức đó và chủ nghĩa tư bản
đã giải quyết mâu thuẫn đó ntn ?
+ Lưu thông hàng hóa giản đơn ( H- T - H): bắt đầu bằng hành vi bán (H- T)và kết thúc bằng hàng vi mua(T - H). Điểm bắt đầu và điểm kết
thúc đều là hàng hóa, tiền chỉ đóng vai trò trung gian, mục đích là giá trị sử dụng.
Nhưng ngược lại trong lưu thông tư bản chủ nghĩa thì:
+ Bắt đầu bằng hành vi mua (T - H) và kết thúc bằng hành vi bán (H - T')
+ Tiền vừa là điểm xuất phát vừa là điểm kết thúc, còn hàng hóa đóng vai trò trung gian... mục đích của lưu thông tư bản là giá trị và giá trị lớn
hơn.
- Tư bản vận động theo công thức: T - H - T'. Trong đó: T' = T + \Delta t ( \Delta t là số tiền trội hơn so với số tiền ban đầu được gọi là giá trị
thặng dư - ký hiệu là m ). T ban đầu ứng ra với mục đích thu được giá trị thặng dư trở thành tư bản.
Công thức: T - H - T' với T' = T + m
- T - H - T' được gọi là công thức chung của tư bản vì mọi tư bản đều vận động như vậy nhằm mục đích mang lại giá trị thặng dư.
Như vậy, tư bản là tiền tự lớn lên hay giá trị sinh ra giá trị thặng dư
Mâu thuẫn trong công thức chung của tư bản
- Trong công thức này ta thấy điểm đầu và điểm cuối không giống nhau ( T# T '). Đó là T< T ' hay T ' > T vì T' = T + \Delta t. Lượng \Delta t
phải chăng được thực hiện (sinh ra) trong lưu thông. Nếu như vậy thì lưu thông sẽ làm tăng thêm giá trị. Nhưng nếu lưu thông làm tăng thêm
giá trị sẽ trái với yêu cầu của quy luật giá trị là mua bán, trao đổi phải trên cơ sở ngang giá. Ở đây sẽ xảy ra một số trường hợp sau (xét trong
phạm vị lưu thông):
+ Nếu mua bán ngang giá: Thì chỉ có sự thay đổi hình thái từ tiền thành hàng hoặc từ hàng hoá thành tiền còn tổng giá trị thì không hề thay đổi.
+ Nếu trao đổi không ngang giá: Tức là hàng hoá có thể bán thấp hoặc cao hơn giá trị. Nhưng trong nền kinh tế hàng hoá thì người bán cũng có
thể là người mua (Và ngược lại ). Vì vậy, cái lợi mà họ thu được khi bán, sẽ bù lại cái thiệt khi mua và ngược lại.
+ Còn nếu chuyên mua rẻ bán đắt thì tổng giá trị không tăng lên bởi vì tổng giá trị mà người này thu được chẳng qua chỉ là sự ''ăn chặn'',''đánh
cắp '' số giá trị của người khác mà thôi.
+ Nếu xét ngoài lưu thông tức là tiền để trong két, hàng hoá để trong kho thì không sinh ra được giá thặng dư mà chỉ giữ nguyên giá trị.
Như vậy: Lưu thông và bản thân tiền tệ trong lưu thông không hề tạo ra giá trị
Vậy tư bản không thể xuất hiện từ lưu thông và cũng không thể xuất hiện ở bên ngoài lưu thông. Nó phải xuất hiện trong lưu thông và đồng
thời không phải trong lưu thông. Thực chất các doanh nghiệp có đang vận dụng như thế vào trong hoạt động của mình ở nền kinh tế việt nam.
với công thức T - H - T`. với T`= T +m. trong một nên kinh tế đang phát triển nhất là nước việt nam ta đang trong thời kỳ wa độ chủ nghĩa xã
hội việc T tạo ra T` với T` > T thì không còn gì tuyệt vời hơn. chúng ta bỏ wa chế độ tư bản để bước lên xã hội chủ nghĩa vì vậy ngay từ lúc
đâu chúng ta có là 1 nền kinh tế lạc hậu, thấp kém. chúng ta đã bị bỏ wa xa so với kinh tế thế giới vì vậy điều cần thiết cho việc đi lên chủ
nghĩa cộng sản đó là tạo ra 1 lượng khối lượng vật chất lớn thì với công thức chuyển hóa tiền thành tư bản T - H -T` tạo ra một lượng tiền lớn
hơn thì đó là một điều tuyệt vời. nhưng như vậy chúng ta có được xem là tư bản. các bạn nên nhớ rằng chúng ta đang ở việt nam với chế độ xã
hội chủ nghĩa. nền kinh tế tuy là thị trường nhưng được định hướng theo xã hội chủ nghĩa và việc chuyển hóa tiền thành tư bản trong quá trình
sản xuất của doanh nghiệp ngoài tư bản cũng không phải ngoại lệ. Nó được định hướng như thế nào? trong một nền kinh tế mở hiện nay việc
bóc lột của tư bản đã thay đổi công nhân được hưởng những lợi ích đầy đủ hơn môi trường làm việc tốt hơn. không những thế họ còn có thể
giàu có lên như công nhân cổ cồn trắng vậy. tuy nhiên tư bản vẫn là sự bốc lột ,việc từ T tạo ra được T` > T thì đây không phải là quá trình
chuyển đổi ngang giá mà phải có một giá trị được ẩn tàng trong quá trình lưu thông của tư bản. đó chính xác là giá trị thặng dư. bằng bất cứ giá
nào bất cứ hình thức nào thì tư bản vẫn giàu lên nhờ giá trị thặng dư. vây tại sao nhà nước ta chấp nhận sự bốc lột này. vid chúng ta đã bỏ đi
chế độ tư bản chúng ta không có nền tản vật chất mà tư bản để lại, mà như chúng ta thấy việc xuất hiện chế độ tư bản chỉ một vài năm đã tạo ra
khối lượng vật chất lớn gấp nhiều lần mà lịch sử đã tạo ra trước đó. điều đó dủ để cho thấy muốn tiến lên chủ nghĩa cộng sản chúng ta phải có
được một khối lượng vật chất đủ tầm như chế độ tư bản làm ra để làm nền tảng. vì vậy chúng ta buộc phải chấp nhận bị bốc lột để tạo ra khối
lượng vật chất lớn hơn, áp dụng công thức tư bản. tuy nhiên chúng ta không chỉ áp dụng công thức không chúng ta còn có sự định hướng nhầm
giảm thiểu tối đa sự bốc lột, và sự biến đổi của các doanh nghiệp ngoài tư bản thành doanh nghiệp tư bản, đó chính là sự can thiệp của chính
phủ thông qua pháp luật và quy định như quy định về giờ làm mức lương tối thiểu, bảo hiểm, trợ cấp, giờ làm thêm ................. đó chính là cách
làm giảm đi giá trị thặng dư của tư bản tạo nên.
Câu 14: Nêu và phân tích các đặc điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản độc quyền ? Theo em, đặc điểm nào cơ bản, vì sao ?

9
Nền kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản độc quyền có những đặc điểm sau:
1. Sự tập trung sản xuất và các tổ chức độc quyền
a. Sự tập trung sản xuất: là quá trình thay thế các xí nghiệp nhỏ, bố trí phân tán bằng cách xí nghiệp lớn có đông công nhân và làm ra một khốI
lượng sản phẩm lớn. Chính sự tích tụ và tập trung tư bản đã dẫn tớI sự tích tụ và tập trung sản xuất.
Nguyên nhân cụ thể:
+ Đầu thế kỉ 20 trong các nước tư bản sự cạnh tranh diễn ra hết sức gay gắt dẫn đến:
- 1 số nhà tư bản có ưu thế về vốn và kĩ thuật chiến thắng và thôn tính các xí nghiệp nhỏ
- Xuất hiện xu thế thành lập các công ty cổ phần
+ Đầu thế kỉ 20 do KHKT phát triển nên đòi hỏI vốn lớn để ứng dụng được vào sản xuất
+ Trong khủng hoảng kinh tế chỉ những xí nghiệp lớn đủ khả năng tồn tạI
+ Sự phát triển hệ thống tín dụng tạo điều kiện cho tập trung sản xuất

Sự tập trung sản xuất phát triển đến một mức độ nhất định sẽ làm hình thành các tổ chức độc quyền – liên minh giữa các nhà tư bản để nắm
phần lớn việc sản xuất và tiêu thụ 1 số loạI hàng hóa nào đó nhằm thu lợI nhuận cao.
Các hình thức tập trung sản xuất: công ti cổ phần và xí nghiệp liên hiệp
b. Các tổ chức độc quyền
Các hình thức tổ chức độc quyền cơ bản: cartel, syndicate, trust, consortium
Độc quyền và cạnh tranh là 2 mặt trái ngược nhau song ở các nước đế quốc khi xuất hiện các tổ chức độc quyền thì không thủ tiêu được cạnh
tranh mà lạI làm cạnh tranh gay gắt hơn
- Sự tồn tạI của các tổ chức độc quyền vẫn dựa trên cơ sở của chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất
- Ở các nước đế quốc vẫn còn tồn tạI các xí nghiệp nhỏ chưa bị thôn tính vào các tổ chức độc quyền
- Trong các nước đế quốc vẫn còn sản xuất hàng hóa của nông dân và thợ thủ công
Ba loạI cạnh tranh trong chủ nghĩa đế quốc: giữa các tổ chức độc quyền vớI nhau, giữa các tổ chức độc quyền vớI các xí nghiệp ngoài độc
quyền, và ngay trong nộI bộ từng tổ chức độc quyền

2. Tư bản tài chính và đầu sỏ tài chính


a. Vai trò mớI của tư bản ngân hàng
Trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền, khi trong công nghiệp diễn ra tích tụ và tập trung sản xuất thì trong ngân hàng cũng có tích tụ và
tập trung tư bản, làm hình thành nên các ngân hàng lớn cạnh tranh vớI nhau – các tổ chức độc quyền trong ngân hàng. Do nắm được lượng tư
bản tiền tệ lớn, các ngân hàng có khả năng chi phốI nhiều họat động kinh tế-xã hội.
b. Tư bản tài chính
Tư bản tài chính là một loại tư bản được hình thành trên cơ sở sự xâm nhập lẫn nhau giữa tư bản công nghiệp và tư bản ngân hàng. Tư bản
ngân hàng với vai trò và địa vị mớI của mình, đã cử ngườI tham gia vào các tổ chức độc quyền công nghiệp để theo dõi việc sử dụng vốn vay.
Để hạn chế sự chi phốI của ngân hàng, các nhà tư bản công nghiệp cũng can thiệp vào họat động của tư bản ngân hàng bằng cách mua cổ phiếu
hoặc thành lập ngân hàng cho riêng mình. 2 quá trình thâm nhập ấy gắn kết vớI nhau, làm cho tư bản công nghiệp và tư bản ngân hàng dần trở
nên đồng nhất vớI nhau, hình thành nên tư bản tài chính. Các nhóm tư bản tài chính có tiềm lực đủ mạnh trở thành các đầu sỏ tài chính ( hay
còn gọI là tài phiệt ), thực hiện thao túng đờI sống kinh tê- chính trị ở các nước tư bản.

3. Xuất khẩu tư bản


a. Xuất khẩu hàng hóa
Xuất khẩu hàng hóa là thủ đoạn để các nước tư bản tiến hành bóc lột các nước chậm phát triển thông qua trao đổI không ngang giá
b. Xuất khẩu tư bản
Xuất khẩu tư bản cũng là xuất khẩu giá trị ra nước ngoài nhưng được tiến hành dướI hình thức đầu tư tư bản ra nước ngoài để bóc lột giá trị
thặng dư và một số nguồn lợI khác ở các nước nhập khẩu tư bản. Đây thực chất là công cụ để các tập đoàn tư bản bóc lột các nước chậm phát
triển.
Xuất khẩu tư bản là một tất yếu trong thờI kì chủ nghĩa tư bản độc quyền vì:
Đầu thế kỉ 20 một số nước tư bản đã tích lũy được một lượng vốn khổng lồ mà nếu đầu tư trong nước thì sẽ thu được lợI nhuận ít hơn so vớI
nếu đầu tư ở nước ngoài
Các nước lạc hậu về kinh tế thì thiếu vốn nhưng giá nhân công thấp và nguyên liệu lạI dồI dào
Các nước tương đốI phát triển có nhu cầu về vốn để đổI mớI trang thiết bị kĩ thuật
Những hình thức xuất khẩu tư bản:
- Xuất khẩu tư bản sản xuất: nước xuất khẩu tư bản đầu tư vốn để xây mớI hoặc mua lạI xí nghiệp, đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng
- Xuất khẩu tư bản cho vay: nước xuất khẩu tư bản cho chính phủ hoặc tư nhân vay tiền hoặc hàng hóa, vật tư

4. Sự phân chia thế giớI về kinh tế


Trong thờI kì tư bản tự do cạnh tranh, lượng hàng hóa sản xuất ra chưa lớn. Song đến thờI chủ nghĩa tư bản độc quyền, lượng hàng hóa được
sản xuất đã tăng chóng mặt, làm nảy sinh nhu cầu về thị trường và nguyên liệu ngoài nước. Mặt khác, hàng hóa đem bán ở nước ngoài thu được
lợI nhuận lớn hơn so vớI hàng hóa đem bán trong nước. Do tầm quan trọng của thị trường bên ngoài, giữa các nước đế quốc diễn ra cuộc cạnh
tranh gay gắt để giành giật thị trường thế giớI, hình thành nên những thỏa thuận có tính chất lũng đoạn giữa các tổ chức độc quyền trong việc
sản xuất và tiêu thụ một số loạI hàng hóa, tạo nên những tổ chức độc quyền quốc tế - liên minh giữa các tổ chức độc quyền lớn của các nước để
phân chia thị trường thế giớI, độc chiếm nguồn nguyên liệu, quy định quy mô sản xuất của từng tổ chức, định ra giá cả độc quyền nhằm thu lợI

10
nhuận độc quyền cao.

5. Sự phân chia thế giớI về lãnh thổ


Sự phân chia thế giớI về mặt lãnh thổ là hệ quả tất yếu của sự phân chia thế giớI về kinh tế, biểu hiện ở việc các nước đế quốc xâm chiếm và
thuộc địa hóa những nước chậm phát triển hòng độc chiếm nguồn nguyên liệu, thị trường tiêu thụ hàng hóa và địa điểm lập căn cứ quân sự.
Quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản ở các nước nói chung diễn ra không đều; có những nước tư bản ra đờI sau nhưng kinh tế lạI phát triển
vượt bậc, muốn đấu tranh để phân chia lạI thế giới. Phương pháp phổ biến là chiến tranh.
Phần đặc điểm nào là cơ bản nhất thì tùy cách lý giải của mỗi người.^&^
Câu 15: Phân tích vai trò và hạn chế của chủ nghĩa tư bản ?
1.Vai trò của chủ nghĩa tư bản đối với sự phát triển của nền sản xuất xã hội.
Chủ nghĩa tư bản phát triển qua hai giai đoạn: chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh và chủ nghĩa tư bản độc quyền mà nấc thang tột cùng của nó là
chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước.
Trong suốt quá trình phát triển, nếu chưa xét đến hậu quả nghiêm trọng đã gây ra đối với loài người thì chủ nghĩa tư bản cũng có những đóng
góp tích cực đối với sản xuất, đó là:
- Sự ra đời của chủ nghĩa tư bản đã giải phóng loài người khỏi đêm trường trung cổ của xã hội phong kiến, đoạn tuyệt với nền kinh tế tự nhiên,
tự túc, tự cấp chuyển sang phát triển kinh tế hàng hóa tư bản chủ nghĩa, chuyển sản xuất nhỏ thành sản xuất lớn, hiện đại. Dưới tác động của
qui luật giá trị thặng dư và các kinh tế của sản xuất hàng hóa, chủ nghĩa tư bản đã làm tăng năng suất lao động, tạo ra khối lượng sản phẩm vật
chất khổng lồ. Điều này đã được khẳng định trong Tuyên ngôn của Đảng cộng sản năm 1848.
- Phát triển lực lượng sản xuất: Quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản đã làm cho lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ với trình độ kỹ
thuật và công nghệ ngày càng cao: từ kỹ thuật thủ công lên kỹ thuật cơ khí và ngày nay các nước tư bản chủ nghĩa cũng đang là những quốc gia
đi đầu trong việc chuyển nền sản xuất của nhân loại từ giai đoạn cơ khí hóa
sang giai đoạn tự động hóa, tin học hóa và công nghệ hiện đại. Cùng với sự phát triển của kỹ thuật và công nghệ là quá trình giải phóng sức lao
động, nâng cao hiệu quả, khám phá và chinh phục thiên nhiên của con người.
- Thực hiện xã hội hóa sản xuất: Chủ nghĩa tư bản đã thúc đẩy nền sản xuất hàng hóa phát triển mạnh và đạt tới mức điển hình nhất trong lịch
sử, cùng với nó là quá trình xã hội hóa sản xuất cả chiều rộng và chiều sâu. Đó là sự phát triển của phân công lao động xã hội, sản xuất tập
trung với qui mô hợp lý, chuyên môn hóa sản xuất và hợp tác lao động sâu
sắc, mối quan hệ kinh tế giữa các đơn vị , các ngành, các lĩnh vực ngày càng chặt chẽ...làm cho các quá trình sản xuất phân tán được liên kết lại
và phụ thuộc lẫn nhau thành một hệ thống, thành một quá trình sản xuất xã hội.
- Chủ nghĩa tư bản thông qua cuộc cách mạng công nghiệp đã lần đầu tiên biết tổ chức lao động theo kiểu công xưởng và do đó đã xây dựng
được tác phong công nghiệp cho người lao động, làm thay đổi nề nếp, thói quen của người lao động sản xuất nhỏ trong xã hội phong kiến.
- Chủ nghĩa tư bản lần đầu tiên trong lịch sử đã thiết lập nên nền dân chủ tư sản, nền dân chủ này tuy chưa phải là hoàn hảo song so với thể chế
chính trị trong các xã hội phong kiến, nô lệ...vẫn tiến bộ hơn rất nhiều bởi vì nó được xây dựng trên cơ sở thừa nhận quyền tự do thân thể của
cá nhân.
Tóm lại, chủ nghĩa tư bản ngày nay - với những thành tựu và đóng góp của nó đối với sự phát triển của nền sản xuất xã hội, là sự chuẩn bị tốt
nhất những điều kiện, tiền đề cho sự ra đời của chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Nhưng bước chuyển từ chủ nghĩa tư bản lên chủ
nghĩa xã hội vẫn phải thông qua các cuộc cách mạng xã hội. Dĩ nhiên,
cuộc cách mạng xã hội sẽ diễn ra bằng phương pháp nào - hòa bình hay bạo lực, điều đó hoàn toàn tùy thuộc vào những hoàn cảnh lịch sử - cụ
thể của từng nước và bối cảnh quốc tế chung từng thời điểm, vào sự lựa chọn của các lực lượng cách mạng.
2. Hạn chế của chủ nghĩa tư bản
Bên cạnh đóng góp tích cực nói trên, chủ nghĩa tư bản cũng có những hạn chế về mặt lịch sử. Những hạn chế này được Mác và Lênin đề cập
ngay từ trong lịch sử ra đời, tồn tại và phát triển của chủ nghĩa tư bản.
- Trước hết, về lịch sử ra đời của chủ nghĩa tư bản: như Mác đã phân tích chủ nghĩa tư bản ra đời gắn liền với quá trình tích lũy nguyên thủy
của chủ nghĩa tư bản. Thực chất, đó là quá trình tích lũy tiền tệ nhờ vào những biện pháp ăn cướp, tước đoạt đối với những người sản xuất hàng
hóa nhỏ và nông dân tự do; nhờ vào hoạt động buôn bán, trao đổi không
ngang giá qua đó mà thực hiện bóc lột, nô dịch đối với những nước lạc hậu. Về quá trình tích lũy nguyên thủy của chủ nghĩa tư bản, Mác cho
rằng, đó là lịch sử đầy máu và bùn nhơ, không giống như một bản tình ca, nó được sử sách ghi chép lại bằng những trang đẫm máu và lửa
không bao giờ phai.
- Cơ sở cho sự tồn tại và phát triển của chủ nghĩa tư bản là quan hệ bóc lột của các nhà tư bản đối với công nhân làm thuê, Mặc dù so với các
hình thức bóc lột đã từng tồn tại trong lịch sử, bóc lột tư bản chủ nghĩa cũng đã là một sự tiến bộ, song theo sự phân tích của Mác và Lênin thì
chừng nào chủ nghĩa tư bản còn tồn tại thì chừng đó quan hệ bóc lột
còn tồn tại và sự bất bình đẳng, phân hóa xã hội vẫn là điều không tránh khỏi.
- Các cuộc chiến tranh thế giới với mục đích tranh giành thị trường, thuộc địa và khu vực ảnh hưởng đã để lại cho loài người những hậu quả
nặng nề: hàng triệu người vô tội đã bị giết hại, sức sản xuất của xã hội bị phá hủy, tốc độ phát triển kinh tế của thế giới bị kéo lùi lại hàng chục
năm.
Câu 16: Định nghĩa giai cấp công nhân ? Những điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân ?
Giai cấp công nhân là một tập đoàn xã hội ổn định, hình thành và phát triển cùng với quá trình phát triển của nền công nghiệp hiện đại, với
nhịp độ phát triển của lực lượng sản xuất có tính chất xã hội hóa ngày càng cao; là lực lượng lao động cơ bản tiên tiến trong các quy trình công
nghệ, dịch vụ công nghiệp, trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia vào quá trình sản xuất, tái sản xuất ra của cải vật chất và cải tạo các quan hệ xã
hội; đại biểu cho lực lượng sản xuất và phương thức sản xuất tiên tiến trong thời đại hiện nay.
Phân tích những điều kiện khách quan quy định sư mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.

11
Do địa vị kinh tế xã hội của giai cấp công nhân trong Xh TBCN giai cấp công nhân là một bộ phận và là bộ phận quan trọng nhất,cách mạng
nhất.trong các bộ phận cấu thành SX,họ đại diện cho LLSX phát triển mang tính chất xã hội hóa cao. Với tư cách vậy họ là lực lượng quyết
định phá vỡ QHSX TBCN. Vì vậy khi đánh dược chính quyền họ là lực lượng có khả năng lãnh đạo XH,xây dựng XH cao hơn CNTB
- Giai cấp công nhân ra đời và phát triển gắn liền với sự phát triển của nền công nghiệp hiện đại và bị giai cấp tư sản áp bức bóc lột họ là g/c
trực tiếp đối kháng với g/c tư sản. Giai cấp CN có những lợi ích cơ bản thống nhất với lợi ích của đa số nhân dân lao động cho nên họ có khả
năng tập hợp đoàn kết với gc các tầng lớp khác trong XH trong cuộc đấu
tranh chống lại g/c tư sản.
* Những đặc điểm chính trị - XH của g/c công nhân
+ G/c công nhân là g/ tiên tiến nhất
+ G/c công nhân có tổ chức kỉ luật cao nhất: giai câp công nhân lao động trong nền SX đại công nghiêp với hệ thống sx mang tính chất dây
chuyền và nhịp đọ làm việc khẩn trương buộc g/c này phải tuân thủ nghiêm ngặt
kỉ luật lao động.
Tinh tổ chức và kỉ luật cao của g/c này được tăng cường khi nó phát triển thành 1 lực lượng chính trị lớn mạnh, có tổ chức .được sự giác ngộ
bởi một lí luận khoa học ,cách mạng và tổ chức ra chính đảng của nó Đảng CS . giai cấp công nhân ko có tổ chức kỉ luật cao thì ko thể dành
được thắng lợi trong cuộc đấu tranh chống lại g/c tư sản và xây dụng chế độ mới.
- Là g/c có tinh thần triệt để: trong cuộc cách mạng tư sản ,g/c tư sản chỉ có tinh thần cách mạng trong thời kì đấu tranh chống lại chế độ phong
kiến còn khi gc này dành được chính quyền thì họ quay lại bóc lột g/c công nhân ,g/c nhân dân,và những g/c đi cùng với g/c này trong cuộc các
mạng dân chủ tư sản.khác vơi g/c tư sản, g/c công nhân bị g/c tư sản bóc lột ,lợi ích cơ bản bị đối lập với lợi ích của g/c tư sản, điều kiện
sống ,Đk lao động trong chế độ TBCN đã chỉ cho họ thấy :họ chỉ có thể được giâỉ phóng bằng cách giải phóng toàn xã hội khỏi chế độ TBCN.
- Là g/c mang bản chất quốc tế
Câu 17: Cách mạng xã hội chủ nghĩa là gì ? Nguyên nhân, mục tiêu, động lực của cách mạng xã hội chủ nghĩa ?
1. Quan niệm về cách mạng xã hội chủ nghĩa
Cách mạng xã hội chủ nghĩa là một cuộc cách mạng nhằm thay thế chế độ cũ, nhất là chế độ tư bản chủ nghĩa, bằng chế độ xã hội chủ nghĩa,
trong cuộc cách mạng đó, giai cấp công nhân là người lãnh đạo và cùng với quần chúng nhân dân lao động khác xây dựng một xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh.
Theo nghĩa hẹp: cách mạng xã hội chủ nghĩa được hiểu là một cuộc cách mạng chính trị được kết thúc bằng việc giai cấp công nhân cùng với
nhân dân lao động giành được chính quyền, thiết lập nên nhà nước chuyên chính vô sản- nhà nước của giai cấp công nhân và quần chúng nhân
dân lao động.
Theo nghĩa rộng: cách mạng xã hội chủ nghĩa là quá trình cải biến một cách toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội từ kinh tế,
chính trị, văn hóa, tư tưởng, v.v. để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản. Như vậy, theo nghĩa rộng, cuộc
cách mạng xã hội chủ nghĩa bao gồm cả việc giành chính quyền về tay giai cấp công nhân, nhân dân lao động và cả quá trình giai cấp công
nhân cùng với quần chúng nhân dân lao động tiến hành cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội, tới khi
xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội thì cuộc cách mạng này mới kết thúc.
2. Nguyên nhân của cách mạng xã hội chủ nghĩa
Chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng, nguyên nhân sâu xa của những cuộc cách mạng xã hội là do sự phát triển của lực lượng sản xuất. Theo quy
luật chung của sự phát triển xã hội, khi lực lượng sản xuất không ngừng phát triển mâu thuẫn với quan hệ sản xuất đã lỗi thời, kìm hãm nó, tất
yếu phải thay thế quan hệ sản xuất lỗi thời bằng một quan hệ sản xuất mới tiên tiến hơn. C. Mác và Ph. ăngghen đã chỉ rõ: "Từ chỗ là những
hình thức phát triển của các lực lượng sản xuất, những quan hệ ấy trở thành những xiềng xích của các lực lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu thời
đại một cuộc cách mạng xã hội"
Dưới chủ nghĩa tư bản, nhất là từ khi máy hơi nước ra đời, lực lượng sản xuất ngày càng phát triển, ngày càng mang tính chất xã hội hoá cao,
mâu thuẫn với quan hệ sản xuất mang tính chất tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. C. Mác đã viết: "Sự tập trung tư liệu sản xuất và
xã hội hoá lao động đạt đến cái điểm mà chúng không còn thích hợp với cái vỏ tư bản chủ nghĩa của chúng nữa... nền sản xuất tư bản chủ nghĩa
lại đẻ ra sự phủ định bản thân nó, với tính tất yếu của một quá trình tự nhiên"
Biểu hiện mâu thuẫn trong lĩnh vực kinh tế là tính tổ chức, tính kế hoạch trong từng doanh nghiệp ngày càng tăng với tính vô tổ chức của sản
xuất toàn xã hội do tính cạnh tranh của nền sản xuất hàng hoá tư bản chủ nghĩa gây ra.
Quy luật cạnh tranh, tính chất vô chính phủ trong sản xuất dẫn tới khủng hoảng thừa, buộc một số doanh nghiệp phải ngừng sản xuất. Dưới chủ
nghĩa tư bản, giai cấp công nhân sống bằng việc bán sức lao động, do vậy, một khi sản xuất đình trệ làm cho công nhân không có việc làm, họ
đã đứng lên đấu tranh chống lại các nhà tư sản và giai cấp tư sản.
Để khắc phục tình trạng trên, giai cấp tư sản đã tổ chức ra các xanhđica, tờrớt, côngxôxiom và nhà nước tư bản ngày càng can thiệp sâu vào
kinh tế, bằng việc quốc hữu hoá một số ngành khi khó khăn, tư hữu hoá khi thuận lợi.
Tuy rằng, mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong chế độ tư bản ngày càng gay gắt, nhưng quy luật xã hội không tự nó
xảy ra mà phải thông qua hoạt động của con người. Cách mạng xã hội chủ nghĩa muốn nổ ra, giai cấp công nhân phải nhận thức được sứ mệnh
lịch sử của mình, thực hiện việc tuyên truyền vận động nhân dân lật đổ chính quyền nhà nước của giai cấp tư sản để giành lấy chính quyền,
giành lấy dân chủ.
3. Động lực của cách mạng xã hội chủ nghĩa
"Tất cả những phong trào lịch sử, từ trước đến nay, đều là do thiểu số thực hiện, hoặc đều mưu lợi ích cho thiểu số. Phong trào vô sản là phong
trào độc lập của khối đại đa số, mưu lợi ích cho khối đại đa số".
Cách mạng xã hội chủ nghĩa với mục đích giải phóng giai cấp công nhân, nhân dân lao động ra khỏi tình trạng áp bức bóc lột, do vậy, thu hút
được sự tham gia của giai cấp công nhân và các tầng lớp nhân dân lao động khác.
Giai cấp công nhân ngày càng tăng về số lượng, nâng cao về chất lượng, ngày càng giác ngộ về lợi ích giai cấp của mình thông qua sự lãnh đạo
của đảng cộng sản, cho nên là động lực cơ bản, chủ yếu của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Vai trò động lực và vai trò lãnh đạo của giai cấp
công nhân là yếu tố hàng đầu bảo đảm cho sự thắng lợi của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Thực tế lịch sử đã chỉ ra rằng, khi nào và ở đâu

12
phong trào công nhân vững mạnh, sự lãnh đạo của giai cấp công nhân sáng suốt thì cách mạng thắng lợi, những lực lượng phản động quốc tế bị
đẩy lùi. ở
đâu và khi nào phong trào công nhân suy yếu, sự lãnh đạo của giai cấp công nhân giảm sút thì phong trào cách mạng sẽ gặp khó khăn.
Giai cấp nông dân có nhiều lợi ích cơ bản thống nhất với lợi ích của giai cấp công nhân, do vậy, giai cấp này trở thành động lực cách mạng to
lớn trong cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Trong quá trình đấu tranh giành chính quyền, giai cấp công nhân chỉ giành thắng lợi khi giai cấp
nông dân đi theo giai cấp công nhân, làm cho sức mạnh của cách mạng tăng lên. Trước đây, C. Mác đã chỉ ra, nếu giai cấp công nhân không
thực hiện được bài đồng ca cách mạng với giai cấp nông dân thì bài đơn ca của giai cấp công nhân sẽ trở thành bài ai điếu.
Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội cũng vậy, giai cấp công nhân chỉ có thể hoàn thành được sứ mệnh lịch sử khi đại đa số giai cấp
nông dân đi theo giai cấp công nhân, cùng giai cấp công nhân xây dựng xã hội mới ngày càng tốt đẹp trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội.
Sự tham gia đông đảo của giai cấp nông dân vào cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa là điều kiện đảm bảo sự lãnh đạo của đảng, là cơ sở xây
dựng chính quyền nhà nước vững mạnh, xây dựng một xã hội quyền lực thuộc về nhân dân. Giai cấp nông dân là lực lượng quan trọng trong sự
phát triển kinh tế của đất nước, cùng với giai cấp công nhân xây dựng nền kinh tế ngày càng phát triển - điều kiện đảm bảo cho sự thắng lợi của
chủ nghĩa xã hội đối với chủ nghĩa tư bản.
Trí thức là những người có vị trí quan trọng trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, trong quá trình đấu tranh giành chính quyền và xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Trước đây V.I. Lênin đã khẳng định, không có tri thức không thể có chủ nghĩa xã hội. Trí thức là những người có đóng góp to lớn
trong chăm sóc sức khoẻ nhân dân, phát triển dân trí, đào tạo nguồn nhân lực cho đất nước, tham gia xây dựng đường lối của đảng, chính sách,
pháp luật của nhà nước, đưa chúng vào trong quần chúng nhân dân và tổ chức quần chúng thực hiện cho được đường lối, chính sách đó.
Trong thời đại khoa học công nghệ, lượng giá trị lao động chất xám ngày càng chiếm tỉ lệ cao trong sản phẩm hàng hoá, thì vai trò động lực
phát triển xã hội của trí thức lại càng cao. Ngày nay, không một sản phẩm nào trong công nghiệp, trong nông nghiệp lại không gắn với khoa
học công nghệ.
Câu 18: Nêu đặc điểm nổi bật của các giai đoạn phát triển của hình thức kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa. Việt Nam đang ở trong giai
đoạn nào ? Vị sao VN phải thực hiện giai đoạn đó ?
VN đang ở giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
TKQĐ lên CNXH: là thời kỳ cải tạo toàn diện và triệt để xã hội cũ ( tiền tư bản hoặc tư bản chủ nghĩa) thành xã hội xã hội chủ nghĩa thông qua
cách mạng xã hội chủ nghĩa
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga năm 1917 mở ra với nội dung căn bản là xóa bỏ giai
cấp tư sản và chế độ tư bản chủ nghĩa, thiết lập những cơ sở cho xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.
* Các đặc điểm cơ bản của thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam:
Đi lên CNXH bỏ qua TBCN là con đường lựa chọn duy nhất đúng đắn của Bác Hồ, Đảng ta và nhân dân cả nước. Con đường đó đi tới xh công
bằng, dân chủ, văn minh, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại, phù hợp với thực tiễn cách mạng nước ta, đó là sự kết hợp, thống nhất giữa
độc lập dân tộc và CNXH, giữa độc lập dân tộc với tự do hạnh phúc của nhân dân, giữa cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng XHCN.
Quá độ lên CNXH bỏ qua TBCN ở nước ta là một tất yếu khách quan, được quy định bởi nhân tố trong nước và bên ngoài hội tụ những điều
kiện cần cho quá trình đó
- Nước ta quá độ từ 1 xã hội vốn là thuộc địa, nửa phong kiến, trong đó kinh tế phổ biến là sản xuất nhỏ, có tính chất tự cấp, tự túc, bỏ qua chế
độ tư bản chủ nghĩa, tiến lên XHCN.
- Đất nước trải qua hàng chục năm chiến tranh ác liệt, hậu quả để lại còn nặng nề. Những tàn dư của chế độ cũ còn nhiều. Nền sản xuất nhỏ
cũng để lại 1 số cơ sở vật chất ban đầu của CNXH.
- Các thế lực thù địch thường xuyên tìm cách phá hoại công cuộc xây dựng CNXH và nền độc lập của dân tộc ta.
- Nhân dân ta có truyền thống lao động cần cù, sáng tạo và anh dũng trong đấu tranh, có ý thức tự lực, tự cường để thực hiện việc xây dựng
CNXH.

Quá độ lên CNXH ở nước ta không phải là cải biến xã hội TBCN thành xã hội XHCN. Đối tượng của sự cải biến CM là xã hội với trình độ lực
lượng sản xuất còn thấp, cơ cấu kinh tế - xã hội rất phức tạp, với những con người do lịch sử để lại vừa có truyền thống tốt đẹp, vừa có mặt hạn
chế và nhiều phong tục tập quán lạc hậu, chính những đặc điểm đó, quy định nội dung, nhiệm vụ, hình thức, biện pháp bước đi của quá trình
xây dựng CNXH ở nước ta.
Câu 19: Dân chủ là gì ? Những đặc trưng cơ bản của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ? Tại sao phải xây dựng nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa ?
Dân Chủ là một hình thái nhà nước, một chế độ xã hội, trong đó thừa nhận về mặt pháp luật những quyền tự do, quyền dân chủ, quyền bình
đẳng của nhân dân ( tự do báo chí, tự do ngôn luận, tự do bầu cử…). Dân Chủ được qui định thành nghĩa vụ của công dân với nhà nước và
trách nhiệm của nhà nước với công dân.
Dân Chủ còn được hiểu là một nguyên tắc sinh hoạt của các tổ chức chính trị-xã hội, cộng đồng dân cư, theo nguyên tắc số ít phục tùng số
đông, thiểu số phục tùng đa số.
Dân Chủ là một phạm trù chính trị, bởi vì nó gắn liền với bản chất giai cấp thống trị XH, bảo vệ cho lợi ích của giai cấp thống trị ( dân chủ chủ
nô, dân chủ tư sản, dân chủ vô sản hay còn gọi là dân chủ XHCN). Theo nghĩa này, dân chủ sẽ mất đi khi nào trong XH không còn giai cấp.
Mặt khác, Dân Chủ là một phạm trù lịch sử khi gắn với chế độ nhà nước. Dân Chủ còn là thành quả đấu tranh của nhân dân lao động chống áp
bức, bóc lột, đòi quyền tự do, quyền làm chủ của mình. Quyền lực thuộc về nhân dân là giá trị cao nhất của dân chủ và theo nghĩa này thì dân
chủ sẽ tồn tại lâu dài khi XH còn giai cấp và nhà nước.
Những đặc trưng cơ bản của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
1) Với tư cách là một chế độ nhà nước được sáng tạo bởi quần chúng nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, dân chủ xã hội
chủ nghĩa đảm bảo mọi quyền lực thuộc về giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Vì vậy, dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa mang bản chất giai
cấp công nhân, vừa có tính nhân dân rộng rãi và tính dân tộc sâu sắc.
2) Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa có cơ sở kinh tế là chế độ công hữu về những tư liệu sản xuất chủ yếu của toàn xã hội. Chế độ sở hữu đó phù

13
hợp với quá trình xã hội hoá ngày càng cao của sản xuất nhằm thoả mãn nhu cầu không ngừng tăng lên về vật chất và tinh thần của quần chúng
nhân dân lao động. Đây chính là đặc trưng kinh tế của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đặc trưng này được hình thành và bộc lộ ngày càng đầy
đủ cùng với quá trình hình thành và hoàn thiện nền kinh tế xã hội chủ nghĩa.
3) Trên cơ sở sự kết hợp hài hoà lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và lợi ích của toàn xã hội (do nhà nước của giai cấp công nhân đại diện), nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa có sức động viên, thu hút mọi tiềm năng sáng tạo, tính tích cực xã hội của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng xã hội
mới. Trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, tất cả các tổ chức chính trị-xã hội, các đoàn thể và mọi công dân đều được tham gia vào các công
việc của nhà nước (bằng thảo luận, góp ý kiến xây dựng chính sách, hiến pháp, pháp luật v.v). Mọi công dân đều được bầu cử, ứng cử và đề cử
vào cơ quan các cấp.
4) Dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ rộng rãi nhất trong lịch sử nhưng vẫn là nền dân chủ mang tính giai cấp của giai cấp công nhân -
dân chủ đi đôi với kỷ cương, kỷ luật, với trách nhiệm của công dân trước pháp luật. Trong nền dân chủ đó, chuyên chính và dân chủ là hai mặt,
hai yếu tố quy định lẫn nhau, tác động, bổ sung cho nhau. Dân chủ cho nhân dân và chuyên chính với kẻ thù của nhân dân là hai mặt thống nhất
trong khái niệm nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Khác
Từ những tư tưởng lớn của Bác Hồ, trải qua nhiều năm nghiên cứu, tìm tòi với trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân, Cương lĩnh của Đảng ta chỉ rõ
xã hội xã hội chủ nghĩa mà chúng ta xây dựng là một xã hội:
- Do nhân dân lao động làm chủ.
- Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu.
- Có một nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
- Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có
điều kiện phát triển toàn diện cá nhân.
- Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ.
- Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới.
Sáu đặc trưng nêu trên thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta sẽ xây dựng, một xã hội tiến bộ nhất so với các chế
độ xã hội đã xuất hiện trước đây. Trong xã hội đó, nhân dân lao động là người chủ chân chính và thực sự của xã hội. Nó chi phối và thể hiện
trong toàn bộ thể chế của xã hội, đều hướng vào việc đảm bảo và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Đó là sự khác nhau về chất giữa chủ
nghĩa xã hội với các chế độ xã hội trước đó. Chủ nghĩa xã hội mà chúng ta xây dựng phải có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên chế độ
công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu và lực lượng sản xuất hiện đại, là cơ sở kinh tế để xóa bỏ nguồn gốc của chế độ người bóc lột người, con
người được giải phóng có điều kiện phát triển toàn diện, tạo ra sự bình đẳng trong xã hội và đoàn kết giữa các dân tộc, có quan hệ hữu nghị hợp
tác với nhân dân các nước trên thế giới. Chủ nghĩa xã hội mà chúng ta xây dựng không chỉ có nền kinh tế phát triển cao mà còn phải xây dựng
một nền văn hóa tương ứng, nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Điều đó đảm bảo sự phát triển hài hòa, lành mạnh của chủ nghĩa xã
hội.
Những đặc trưng trên gắn bó mật thiết với nhau trong một chỉnh thể thống nhất, vừa làm tiền đề, điều kiện, vừa tác động lẫn nhau trong quá
trình phát triển. Cùng với quan niệm đúng đắn về chủ nghĩa xã hội, vấn đề có ý nghĩa quan trọng là phải xác định được con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta.
Câu 20: Thế nào là nhà nước xã hội chủ nghĩa ? Tại sao phải xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa ? Đặc trưng, chức năng và nhiệm vụ
của nhà nước xã hội chủ nghĩa ?
Nhà nước XHCN là kiểu nhà nước tương ứng với giai đoạn đầu của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Theo chủ nghĩa
Mac - Lênin, hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa là hình thái kinh tế - xã hội cao nhất, nhà nước sẽ tiêu vong. Tuy nhiên, trong quá
trình phát triển, xã hội loài người sẽ trải qua giai đoạn phát triển quá độ lên chủ nghĩa cộng sản, đó tức là giai đoạn phát triển xã hội chủ nghĩa.
Tương ứng với giai đoạn phát triển này có kiểu nhà nước mà giai cấp lãnh đạo là giai cấp công nhân, đứng đầu là Đảng tiên phong của giai cấp
công nhân. Đây là nhà nước của dân, do dân và vì dân, một nhà nước kiểu mới, tiến bộ trong quá trình phát triển của xã hội loài người.
- Chức năng:
+ Nhà nước nói chung: bất kì nhà nước nào cũng là công cụ của g/c thống trị nhằm duy trì quyền lực của mình đối với toàn XH, nhà nước có 2
chức năng: chức năng giai cấp và chức năng và XH
* Chức năng g/c nói lên rằng bất kì g/c nào cũng là công cụ chuyên chính của 1 g/c, nó sẵn sàng sử dụng mọi công cụ, mọi biện pháp có thể
tổ chức và trấn áp g/c đó
* Chức năng XH nói lên rằng bất kì nhà nước nào cũng phải thực hiện những lao động chung vì sự tồn tại của XH phải lo tới công việc
chung của toàn XH và trong giới hạn có thể được nó phải thỏa mãn 1 số nhu cầu chung của cộng đồng dân cư của sự quản lí của mình
- Nhà nước XHCN: Cũng phải thực hiện 2 chức năng trên tuy nhiên Mac-Lenin đặc biệt nhấn mạnh chức năng g/c của nhà nước XHCN. Chức
năng g/c của nhà nước XHCN được thực hiện thông qua 2 nội dung sau:
* Bạo lực chấn áp đối với mọi hành vi chống phá lại sự nghiệp xây dựng CNXH
* Tổ chức xây dựng XHCN mới : chức năng tổ chức xây dựng của nhà nước XHCN được hiểu theo nghĩa rộng và đầy đủ gồm tổ chức xây
dựng lực lượng, tổ chức xây dựng kinh tế, VH, XH, trong đó tổ chức xây dựng kinh tế là cơ bản nhất.
+) Hai nội dung trên có mối quan hệ và bổ sung cho nhau: bạo lực chấn áp tạo ĐK cho tổ chức xây dựng tốt và ngược lại, tổ chức tốt sẽ giảm
tính quyết liệt của bạo lực chán áp tuy nhiên tổ chức xây dựng XH mới có quyết định đến thắng lợi cuối cùng của CNXH.
+Cả 2 chức năng này: Chức năng g/c và chức năng XH đều nhằm đến 2 mục tiêu là xóa bỏ CNTB, xây dựng thành công CNXH một XH không
có áp bức bốc lột, mọi người no ấm bình đẳng có quyền làm chủ trên mọi lĩnh vực của đời sống XH. Vì vậy có thể nói chức năng của nhà nước
XHCN biểu hiện tập trung ở việc quản lí XH trên tất cả các lĩnh vực bằng pháp luật.
- Nhiệm vụ của nhà nước XHCN
+ Quản lí kinh tế, xây dựng và phát triển kinh tế, cải thiện không ngừng đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
+ Quản lí văn hóa, xây dựng nền văn hóa XHCN, thực hiện giáo dục đào tạo con người, phát triển hoàn thiện chăm sóc sức khỏe của nhân dân.
+ Mở rộng quan hệ hợp tác hữu nghị bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau vì sự phát triển và tiến bộ XH đối với nhân dân các nước trên thế giới.

14
Câu 20: Nêu triển vọng của chủ nghĩa xã hội ? Ví dụ chứng minh cho sức sống của chủ nghĩa xã hội ?
TRIỂN VỌNG CỦA CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
1. Chủ nghĩa tư bản không phải là tương lai của xã hội loài người
a. Bản chất của chủ nghĩa tư bản không thay đổi
C.Mác và Ph.Ăngghen đã từng đánh giá rất cao vai trò lịch sử của giai cấp tư sản và chủ nghĩa tư bản. Trong tác phẩm Tuyên ngôn của đảng
cộng sản, các ông viết “giai cấp tư sản đã đóng vai trò hết sức cách mạng trong lịch sử”; song các ông cũng dự báo và chứng minh những dự
báo của mình “sự sụp đổ của giai cấp tư sản và sự thắng lợi của giai cấp vô sản đều là tất yếu như nhau”.
Vận dụng quan điểm, phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin trong tác phẩm “Chủ nghĩa đế quốc giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản”
chỉ ra những mâu thuẫn, xu hướng vận động của chủ nghĩa tư bản đến chủ nghĩa đế quốc là giai đoạn “tột cùng”, ăn bám và giãy chết và là
phòng chờ của chủ nghĩa xã hội. Nhưng tình hình thực tế trong mấy thập niên vừa qua, chủ nghĩa tư bản ngày nay phát triển rất mạnh do biết tự
điều chỉnh và thích ứng, biết tìm bí quyết để sống lại từ con đường cùng. Chủ nghĩa tư bản còn khả năng để phát triển nhưng bản chất của chủ
nghĩa tư bản thì không thay đổi, những mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản, bản thân nó không thể khắc phục nổi, đó là tình trạng khủng hoảng
kinh tế, ngoài khủng hoảng mang tính chu kỳ ra còn có khủng hoảng cơ cấu, khủng hoảng thể chế, khủng hoảng tài chính tiền tệ v.v. Các loại
khủng hoảng và những khó khăn của chủ nghĩa tư bản đã dẫn tới hàng loạt vấn đề xã hội nảy sinh như tình trạng thất nghiệp, nghèo khó và
chênh lệch giàu nghèo xã hội, mâu thuẫn dân tộc tăng lên, trật tự xã hội hỗn loạn, hoạt động tội phạm gia tăng v.v. Chủ nghĩa tư bản ngày nay
dù đã có những điều chỉnh nhưng vẫn là “một thế giới không thể chấp nhận” như Renê Duynông khẳng định trong cuốn sách của mình.
b. Các yếu tố xã hội chủ nghĩa đang nảy sinh trong lòng chủ nghĩa tư bản
Theo quan điểm của C.Mác “sự thay thế của các hình thái kinh tế-xã hội là một quá trình lịch sử-tự nhiên”. Chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã
hội với tư cách là hai hình thái kinh tế xã hội khác nhau, kế tiếp nhau, xã hội trước tất yếu bị xã hội sau thay thế, xã hội sau vừa phủ nhận xã
hội trước vừa kế thừa và phát triển những thành tựu mà xã hội trước tạo ra. Chủ nghĩa tư bản ngày nay đã phát triển đến giai đoạn cao nhất của
nó- chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước- đã gần với chủ nghĩa xã hội hơn. Theo V.I. Lênin chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là sự chuẩn
bị đầy đủ nhất cho chủ nghĩa xã hội, là giai đoạn trước của chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa tư bản ngày nay đã tạo ra nền sản xuất lớn với khoa học
công nghệ ngày càng hiện đại, sự phát triển xã hội hoá sản xuất đang “nẩy mầm” những nhân tố của chủ nghĩa xã hội. Sự xuất hiện những công
ty cổ phần trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, sự tăng lên của nó và những nhân tố xã hội chủ nghĩa khác có nghĩa là sự phát triển
của quá trình lịch sử tự nhiên trong đó chủ nghĩa tư bản bắt đầu quá độ sang phương thức sản xuất mới. Trong xã hội tư bản hiện đại, về mặt sở
hữu, sự xuất hiện quốc hữu hoá, chế độ hợp tác, công ty cổ phần, nhà nước đóng vai trò điều tiết quản lý về vốn, nguồn lao động tham gia quản
lý xí nghiệp ở mức độ khác nhau, sự rút ngắn khoảng cách giữa thành thị và nông thôn, lao động trí óc với lao động chân tay, tính dân chủ và
xã hội của nhà nước tăng lên v.v tất cả những cái đó nếu không nói đó là những nhân tố của chủ nghĩa xã hội ở mức độ nhất định, thì đó cũng
là sự chuẩn bị điều kiện vật chất cho chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên điều đó vẫn chưa vượt ra khỏi cái khung tư bản chủ nghĩa, sự biến đổi về
lượng chưa chuyển thành sự biến đổi về chất, vẫn là chủ nghĩa tư bản.
c.Tính đa dạng các xu hướng phát triển của thế giới đương đại
Sau cách mạng Tháng Mười nhất là từ sau chiến tranh thế giới thứ hai, với sự tồn tại hai hệ thống kinh tế xã hội đối lập nhau đã tác động đến
sự lựa chọn con đường phát triển của các dân tộc.
Ở các nước vốn trước đây là thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc sau khi giành độc lập đã, đang lựa chọn con đường phát triển của dân tộc mình.
Con đường tư bản tư nghĩa trong những điều kiện nhất định đã đem lại những thành công cho một số nước còn phần lớn cách nước khác không
thoát khỏi đói nghèo, nợ nần chồng chất.
Ngay ở các nước tư bản phát triển cũng nảy sinh xu hướng phát triển “phi tư bản”, “hậu tư bản”, xu hướng xã hội dân chủ v.v điều này chứng
tỏ chủ nghĩa tư bản không phải là “xã hội tốt đẹp cuối cùng”, không phải là tương lai của loài người mà nó sẽ phải bị thay thế.
2. Chủ nghĩa xã hội- tương lai của xã hội loài người
a. Sự sụp đổ của Liênxô và các nước Đông Âu không có nghĩa là sự cáo chung của chủ nghĩa xã hội
Cuối những năm 80 đầu những năm 90 của thế kỷ XX, sự kiện Liênxô, Đông Âu sụp đổ, phong trào xã hội chủ nghĩa thế giới bị tổn thất
nghiêm trọng. Kẻ thù thì vội vã vui mừng cho đó là sự cáo chung của chủ nghĩa xã hội, sự cáo chung của chủ nghĩa Mác, còn người dân cũng
không khỏi hoang mang bối rối. Sự thật, sự tan rã của Liên xô, Đông Âu không phải là sự thất bại của chế độ và nguyên tắc cơ bản của chủ
nghĩa xã hội mà chỉ là sự thất bại của một mô hình thực tiễn nhất định. Mô hình chủ nghĩa xã hội kiểu Liênxô, mô hình chủ nghĩa xã hội cứng
nhắc, nó không đồng nghĩa với sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội với tính cách là một hình thái kinh tế-xã hội mà loài người đang vươn tới. Sự
sụp đổ của Liênxô và Đông Âu cũng không vì thế mà thay đổi nội dung, tính chất của thời đại. Thời đại ngày nay vẫn là thời đại quá độ từ chủ
nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, sự tan rã của chủ nghĩa xã hội ở Liênxô và Đông Âu chỉ chứng tỏ tính quanh co, phức tạp của sự phát triển
xã hội mà thôi.
b. Các nước xã hội chủ nghĩa còn lại tiến hành cải cách mở cửa, đổi mới và ngày càng thu được những thành tựu to lớn
Trong bối cảnh Liênxô và các nước xẫ hội chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ, thì ở một số nước xã hội chủ nghĩa khác điển hình là Trung Quốc và
Việt Nam đã tiến hành đổi mới, cải cách mở cửa thành công, đã đưa đất nước vượt qua khó khăn khủng hoảng và đạt được những thành tựu to
lớn. Trên cơ sở kiên trì, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước mình, trong qua trình đổi mới, cải cách, mở
cửa đã giữ vững nguyên tắc, đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với nhà nước và xã hội. Để giữ vững vai trò lãnh đạo, Đảng phải tự
đổi mới theo hướng dân chủ, khoa học phù hợp với điều kiện cụ thể của nước mình.
Đã từ bỏ mô hình kinh tế kế hoạch tập trung chuyển sang kinh tế thị trường, thừa nhận sự tồn tại của các thành phần kinh tế, đa dạng hoá các
hình thức sở hữu, lấy hình thức phân phối theo lao động là nguyên tắc chủ yếu. Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa phù hợp với
điều kiện hội nhập quốc tế. Nhà nước quản lí vĩ mô, giảm dần sự can thiệp vi mô, thực hiện chế độ dân chủ, công khai minh bạch. Xác định con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội là con đường khó khăn lâu dài, trải qua nhiều giai đoạn.
Sau hơn 30 năm (1978) cải cách, mở cửa của Trung Quốc, hơn 20 năm (1986) đổi mới ở Việt Nam, Trung Quốc và Việt Nam đã đạt được
những thành tựu to lớn, được cộng đồng quốc tế thừa nhận và đánh giá cao, vị thế của Trung Quốc và Việt Nam ngày càng được thế giới tôn
trọng. Thành công của cải cách, mở cửa của Trung Quốc, đổi mới ở Việt Nam cũng là thắng lợi của chủ nghĩa Mác-Lênin, của CNXH

15
c. Sự xuất hiện xu hướng đi lên chủ nghĩa xã hội ở các nước Mỹ Latinh
Cùng với những thành công của công cuộc cải cách, đổi mới của Trung Quốc và Việt Nam, sự hồi phục của các Đảng Cộng sản ở các nước xã
hội chủ nghĩa trước đây, ở Mỹ Latinh đã xuất hiện xu hướng thiên tả từ những năm 90 của thế kỷ XX và hiện nay không ngừng lớn mạnh.
Thông qua bầu cử các lực lượng dân chủ, tiến bộ đã thành lập được chính phủ lên cầm quyền ở các nước Mỹ Latinh như Vênêzuala, Nicaragoa,
Bôlivia, Braxin, Acgentina v.v nhiều nước đã tuyên bố lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa. Mô hình chủ nghĩa xã hội nhiều nước Mỹ Latinh
lựa chọn tạo thành mô hình “chủ nghĩa xã hội Mỹ Latinh thế kỷ XXI”, mô hình này về đại thể có những nội dung cơ bản là Về tư tưởng, lấy
chủ nghĩa Mác, tư tưởng tiến bộ của Ximôn Bôlivia, tư tưởng nhân đạo thiên chúa giáo làm nền tảng. Về chính trị, nhấn mạnh tư tưởng “dân
chủ cách mạng” và chính quyền nhân dân, xây dựng mô hình xã hội theo đó nhân dân tham gia vào công việc của nhà nước, thực hiện công
bằng xã hội. Về kinh tế, chủ trương thực hiện kinh tế nhiều thành phần trong đó kinh tế nhà nước và hợp tác giữ vai trò chủ đạo, giành lại chủ
quyền dân tộc đối với tài nguyên thiên nhiên đặc biệt là dầu mỏ, nước sạch v.v thực hiện công bằng, giải quyết vấn đề bất bình đẳng và phân
hoá xã hội. Về đối ngoại, thúc đẩy khối đại đoàn kết Mỹ Latinh và quan hệ hữu nghị với tất cả các nước, lấy hợp tác thay thế cạnh tranh, đấu
tranh cho một thế giới đa cực dân chủ, chú trọng kinh nghiệm quốc tế của các nước xã hội chủ nghĩa như Cu Ba, Việt Nam, Trung Quốc. Mô
hình chủ nghĩa xã hội Mỹ Latinh tuy còn điểm này điểm khác, còn tiếp tục được nghiên cứu, theo dõi, nhưng với sự xuất hiện mô hình đó
chứng tỏ sức sống và khả năng phát triển của chủ nghĩa xã hội và lòng tin vào lý tưởng cộng sản chủ nghĩa của nhân dân lao động.
Tóm lại, tình hình thế giới đang vận động rất phức tạp, những diễn biến từ sau cách mạng Tháng Mười Nga đến nay cũng chứng tỏ dù phải trải
qua những bước quanh co phức tạp nhưng loài người nhất định tiến tới chủ nghĩa xã hội, đó cũng chính là quy luật vận động khách quan của
lịch sử.

16

You might also like